Chương 1: Khái luận về triết học - Triết học Mac - lenin | Đại học Hoa Sen
Chương 1: Khái luận về triết học - Triết học Mac - lenin | Đại học Hoa Sen được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem
Môn: Triết học Mác Lênin (DC140DV01)
Trường: Đại học Hoa Sen
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHƯƠNG 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC
1. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1.1. Triết học và đối tượng của triết học
a. Định nghĩa triết học
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VI trước Công Nguyên.
Phương Đông: Trung hoa cổ đại: Triết học được hiểu là “Trí” tức là trí thông
minh, sự hiểu biết nói chung.
Ấn Độ cổ đại: Triết học được hiểu là “chiêm ngưỡng”, con đường để dẫn dắt con người đến lẽ phải.
Phương Tây: thuật ngữ xuất hiện ở Hy lạp – “Philosophia”. Philo có nghĩa là yêu
mến, sophia có nghĩa là sự thông thái. “Philosophia” có nghĩa là yêu mến sự thông thái
* Định nghĩa Triết học: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Hệ thống tri thức lý luận chung nhất chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
+ Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định.
+ Đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên
cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan niệm rời rạc thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời.
Triết học ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu thực tiễn; triết học có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức: là lúc nhận thức của con người đạt đến trình độ trừu tượng
hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá những hiện tượng riêng lẻ thành những học thuyết, lý luận.
Nguồn gốc xã hội: khi xã hội có sự phân hoá giai cấp, đó là xã hội chiếm hữu nô lệ.
Xã hội phân chia thành lao động chân tay và lao động trí óc. Những người lao động trí óc
họ dùng của cải, và thời gian của mình để thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học.Vì
triết học ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ, khi xã hội có sự phân chia giai cấp nên từ
khi triết học ra đời đã thể hiện tính giai cấp. Tính giai cấp thể hiện ở chỗ, nó phục vụ cho
lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
1.2. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM
a. Vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề nền tảng và là điểm xuất phát của toàn bộ triết học để giải quyết những vấn
đề khác được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. 1
Vấn đề cơ bản lớn của triết học là giải quyết mối quan hệ giữa ý thức và vật chất
hay mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết
học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào ?
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Để trả lời cho câu hỏi này đã có rất nhiều trường phái đưa ra quan điểm của mình
chung quy lại có hai trường phái lớn đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân
định các trường phái triết học.
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức (tức là thừa nhận tính
thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức). Quan điểm này thuộc về chủ nghĩa duy vật (CNDV).
Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất (thừa nhận tính thứ
nhất của ý thức, tính thứ hai của vật chất). Quan điểm này thuộc về chủ nghĩa duy tâm (CNDT).
Vật chất và ý thức tồn tại độc lập, thừa nhận cả hai yếu tố vật chất và ý thức. Quan
điểm này thuộc về trường phái triết học nhị nguyên luận (Đêcáctơ, Kant).
2. Triết học Ấn Độ cổ - trung đại
Thứ nhất, hoàn cảnh ra đời triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ đại là một lục địa lớn ở phía Nam châu á, có những
yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao, lại vừa có biển rộng; vừa có sông ấn
chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu,
lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có nắng cháy, nóng bức...
Điều kiện kinh tế - xã hội: Xã hội Ấn Độ cổ đại ra đời sớm. Theo tài liệu khảo cổ
học, vào khoảng thế kỷ XXV trước Công nguyên (tr. CN) đã xuất hiện nền văn minh
sông ấn, sau đó bị tiêu vong, nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Từ thế kỷ XV tr. CN các bộ
lạc du mục Arya từ Trung Á xâm nhập vào ấn Độ. Họ định cư rồi đồng hóa với người
bản địa Dravida tạo thành cơ sở cho sự xuất hiện quốc gia, nhà nước lần thứ hai trên đất
ấn Độ. Từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên đến thế kỷ XVI sau Công nguyên, đất nước
ấn Độ phải trải qua hàng loạt biến cố lớn, đó là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau
giữa các vương triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài.
Đặc điểm nổi bật của điều kiện kinh tế - xã hội của xã hội ấn Độ cổ, trung đại là sự
tồn tại rất sớm và kéo dài kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”,
trong đó, theo Mác, chế độ quốc hữu về ruộng đất là cơ sở quan trọng nhất để tìm hiểu
toàn bộ lịch sử ấn Độ cổ đại. Trên cơ sở đó đã phân hóa và tồn tại bốn đẳng cấp lớn: tăng
lữ (Brahman), quý tộc (Ksatriya), bình dân tự do (Vaisya) và tiện nô (Ksudra). Ngoài ra
còn có sự phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo.
Điều kiện về văn hóa: Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên cơ sở điều
kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người ấn Độ cổ đại đã tích lũy được nhiều kiến thức về
thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực... ở
đây, toán học xuất hiện sớm: phát minh ra số thập phân, tính được trị số π, biết về đại số, 2
lượng giác, phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học đã xuất hiện những danh
y nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo mộc.
Thứ hai, sự phát triển và nội dung của triết học Ấn Độ cổ - trung đại
Triết học cổ đại Ấn Độ phân làm 2 thời kỳ chính:
Thời kỳ thứ nhất , thế kỷ XV- > VI TCN là thời kỳ Veda sử thi ( Anh hùng ca )
Thời kỳ thứ hai , thế kỷ VI TCN -> III CN , là thời kỳ Bà La Môn giáo và Phật giáo
Thời kỳ Veda - sử thi :
+ Veda: toàn bộ nền văn hóa Ấn Độ tập trung trong kinh Veda, đó là từ dân tộc,
ngôn ngữ, tập quán, tư tưởng, tôn giáo, ... Veda là tri thức tổng hợp, tuy nhiên nó không
riêng rẽ một phần nào cả, vì vậy mà người ta thường gọi là tri thức “hỗn độn”. Nó bắt
nguồn từ sự hiểu biết, trong bộ sách đó người ta giải thích với tư cách là thần thoại tôn
giáo, tạo dựng các vị thần để giải thích thế giới.
+ Sử thi: có hai cuốn anh hùng ca lớn, đó là Ramayana và Mahabrahat. Nó lớn đến
nỗi “ cái gì không thấy trong sử thi thì không thấy ở Ấn Độ bây giờ ”. Nó tập trung giải
thích một mẫu người lý tưởng, đó là bậc anh hùng, chiến sĩ nổi bật trong công cuộc đi chinh phục.
Kinh Veda, đặc biệt là Rig-Veda, được coi là đại biểu tối cổ của tư tưởng triết học
Ấn Độ cổ đại. Cho đến bây giờ người ta còn tranh luận nhiều đến niên đại của kinh
Veda. Có ý kiến cho rằng Veda bắt đầu từ thế kỷ thứ XV, bao hàm cả truyền miệng;
nhưng cũng có ý kiến cho rằng Veda bắt đầu từ thế kỷ thứ X. Veda bắt nguồn từ chữ Vid ( nghĩa là tri (
biết ) ), nhưng đây là một tri thức tổng hợp với dung lượng rất lớn, nội
dung phong phú. Một kinh Veda là một cuốn sách về tri thức. Người Ấn Độ dùng từ ngữ
Veda về số nhiều ( Vedas ) để chỉ tất cả các di sản thiêng liêng các tri thức truyền thống
về gốc gác của họ cũng như Thánh kinh của Thiên chúa giáo. Veda là cả một nền văn học
chứ không phải chỉ là một bộ sách. Kinh Veda rất phong phú, nó phong phú đến mức
“hỗn độn”, nó không phân minh một cái gì cả.
Upanishad là một trong những kinh quan trọng nhất của thánh kinh Veda. Có thể
nói sự xuất hiện của Upanishad đánh dấu bước chuyển từ thế giới quan thần thoại tôn
giáo sang tư duy triết học. Nó là tác phẩm triết lý và tâm lý cổ xưa và đặc sắc của nhân loại.
Upa nghĩa là gần, Ni là trang, Shad là ngồi. Nó điược ghép lại với nhau có nghĩa là
ngồi một cách kính cẩn, trang nghiêm gần người thầy để nghe truyền đạt. Upanishad
không những là sự tiếp tục phát triển của Veda về mặt triết lý , triết học mà còn là một
quá trình bình chú và chú giải . Cho nên sự xuất hiện của Upanishad đã đánh dấu bước
chuyển từ tư duy thần thoại sang tư duy triết học giải thích thế giới bằng một bản thể có
tính phạm trù, nguyên lý; từ thế giới biểu tuợng đa thần sang thế giới nhất thần hay là tư
duy đa nguyên sang tư duy nhất nguyên. Cái biểu tượng này nó đã thay cho cách giải
thích thế giới bằng một bản thể Brahman, chính vì thế về mặt thế giới và nguồn gốc
của Upanishad có những bộ kinh nó tương đương với kinh Veda bởi vì nó tiếp thu từ
đó nhưng cũng có bộ kinh nó phát sinh, bình chú và phát triển.
Thời kỳ cổ điển - Bàlamôn giáo, Phật giáo : 3
Thời kỳ này được gọi là thời kỳ cổ điển vì các trào lưu tôn giáo phát triển mang
tính hệ thống, kinh điển mà thế hệ sau chỉ kế thừa và phát triển nó mà thôi. Gọi là thời kỳ
Bà la môn vì văn hóa cổ truyền tiếp tục phát triển, nó trở thành triết lý tôn giáo thống trị
thời kỳ đó, nó là tôn giáo chính thống của thời đại. Trong điều kiện xã hội nhất định đã
nảy sinh trào lưu tư tưởng mới có hướng đối lập với xã hội truyền thống (Bàlamôn),
luồng tư tưởng mới đó là Phật giáo, nó là ngọn cờ về tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội.
Thời kỳ Balamon giáo – Phật giáo là thời kỳ hình thành các trường phái triết học
tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống.
+ Hệ thống chính thống bao gồm các trường phái thừa nhận uy thế tối cao của
Kinh Vêda. Hệ thống này gồm sáu trường phái triết học điển hình là Sàmkhya, Mimànsà,
Védanta, Yoga, Nyàya, Vai’sesika.
+ Hệ thống triết học không chính thống phủ nhận, bác bỏ uy thế của kinh Vêda và
đạo Bàlamôn. Hệ thống này gồm ba trường phái là Jaina, Lokàyata và Buddha (Phật giáo).
Thứ ba, đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
+ Triết học Ấn Độ là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn
giáo. Giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ
nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua bộ kinh Vêda, Upanisad. Tuy nhiên, tôn giáo của Ấn
Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội” chứ không phải “hướng ngoại” như tôn giáo phương
Tây. Vì vậy, xu hướng trội của các hệ thống triết học - tôn giáo Ấn Độ đều tập trung lý
giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt
tới sự “giải thoát” tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ (Atman và Brahman).
+ Các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học có trước.
+ Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số học phái xoay quanh vấn đề “tính
không”, đem đối lập “không” và “có”, quy cái “có” về cái “không” thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao.
* Nhận định về triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn đề của triết
học. Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh
quan, triết học ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và tầm khái quát khá sâu sắc; đã đưa lại
nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng di sản triết học của nhân loại.
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại là quan tâm giải
quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng “hướng nội”, đi tìm cái
Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói: sự phản tỉnh nhân sinh
là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học Ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường
phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô
thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên. 4
3. Triết học trung Hoa cổ - trung đại
Thứ nhất, điều kiện kinh tế - xã hội
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn có hai miền khác nhau. Miền Bắc có lưu
vực sông Hoàng Hà, xa biển, khí hậu lạnh, đất đai khô khan, cây cỏ thưa thớt, sản vật
hiếm hoi. Miền Nam có lưu vực sông Dương Tử khí hậu ấm áp, cây cối xanh tươi, sản vật phong phú.
Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận
thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền bạo
lực mở đầu thời kỳ phong kiến tập quyền. Trong khoảng 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử
Trung Hoa được phân chia làm hai thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN về trước và
thời kỳ từ thế kỷ VIII đến cuối thế kỷ III tr. CN.
+ Thời kỳ thứ nhất có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và Tây Chu. Theo các văn
bản cổ, nhà Hạ ra đời khoảng thế kỷ XXI tr. CN, là cái mốc đánh dấu sự mở đầu cho chế
độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII tr. CN, người đứng đầu
bộ tộc Thương là Thành Thang đã lật đổ Vua Kiệt nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt đô ở
đất Bạc, tỉnh Hà Nam bây giờ. Đến thế kỷ XIV tr. CN, Bàn Canh dời đô về đất Ân thuộc
huyện An Dương Hà Nam ngày nay. Vì vậy, nhà Thương còn gọi là nhà Ân. Vào khoảng
thế kỷ XI tr. CN, Chu Vũ Vương con Chu Văn Vương đã giết Vua Trụ nhà Thương lập ra
nhà Chu (giai đoạn đầu của nhà Chu là Tây Chu) đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao.
Trong thời kỳ thứ nhất này, những tư tưởng triết học đã xuất hiện, tuy chưa đạt tới
mức là một hệ thống. Thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí là
thế giới quan thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Trung Hoa bấy giờ. Tư tưởng triết
học thời kỳ này đã gắn chặt thần quyền và thế quyền và ngay từ đầu nó đã lý giải sự liên
hệ mật thiết giữa đời sống chính trị - xã hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Đồng thời, thời
kỳ này đã xuất hiện những quan niệm có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô
thần tiến bộ đối lập lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí thống trị đương thời.
+ Thời kỳ thứ hai là thời kỳ Đông Chu (thường gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến
Quốc) là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Dưới
thời Tây Chu, đất đai thuộc về nhà Vua thì dưới thời Đông Chu quyền sở hữu tối cao về
đất đai thuộc tầng lớp địa chủ và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Từ đó,
sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết
sức đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa
cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi
hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể
nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực
lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó của thời đại
đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về
trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi thời
kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia minh tranh” (trăm
nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh các nhà tư tưởng lớn và hình thành
nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. 5
Đặc điểm các trường phái này là luôn lấy con người và xã hội làm trung tâm của
sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo
đức của xã hội. Những mâu thuẫn về kinh tế - chính trị trong lòng Trung Hoa cổ đại
thời bấy giờ đã làm cho xã hội Trung hoa phân hoá. Một bộ phận tri thức tiếp tục phục
vụ nhà Chu còn bộ phận khác bất hợp tác với nhà Chu.Chính bối cảnh lịch sử này đã
đặt ra nhiều vấn đề về một xã hội lý tưởng là xã hội như thế nào, vấn đề đạo làm
người, vấn đề trị loạn v.v. Từ đó nền triết học Trung hoa cổ đại xuất hiện đồng loạt
nhiều trường phái khác nhau như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia…
Thứ hai, sự phát triển và nội dung cơ bản của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
- Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành: Vạn vật biến đổi do sự tương tác của 2 yếu tố
đối lập nhau: Âm và Dương.
+ Âm và Dương tồn tại trong Thái cực (Thái cực được hiểu là sự thống nhất giữa 2
mặt đối lập Âm và Dương). Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. (Hình tượng
của Thái Cực là vòng trò khép kín, trong đó chia thành hai nửa đối lập (đen, trắng), trong
nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia.). Trong quá trình biến dịch, Thái cực sinh lưỡng
nghi (Âm và Dương), lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái dương, thiếu âm, thiếu dương, thái
âm), Tứ tượng sinh Bát quái (Càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài), Bát quái sinh vạn vật.
+ Tư tưởng triết học về Ngũ hành: Trong mỗi yếu tố đó đều bao hàm sự đối lập
giữa âm và dương. Do chứa đựng sự đối lập mà chúng chuyển hoá nhau thể hiện ra là
tương sinh, tương khắc. Tương sinh là sinh hoá cho nhau theo vòng tuần hoàn: thổ - kim -
thuỷ - mộc - hoả.Tương khắc là quan hệ chế ước lẫn nhau. cũng theo vòng tuần hoàn:
Mộc - thổ - thuỷ - hoả - kim.
- Nho gia: Kinh điển của Nho gia gồm tứ thư và ngũ kinh. Ngũ kinh (thi, thư, lễ,
dịch, xuân thu). Tứ thư là bốn cuốn sách của Nho gia, gồm có: Luận ngữ (Khổng Tử) lấy
tác phẩm này làm nền của Nho gia, Đại học (Tăng sâm), Trung dung (Tử tư), Mạnh Tử
(Mạnh Tử) tên tác giả được đặt tên cho tác phẩm mà tác giả viết.
+ Về mặt vũ trụ quan Khổng Tử luôn dao động giữa hữu thần và vô thần, giữa duy tâm và duy vật.
+ Nhân sinh quan của Khổng Tử: Nhân sinh quan của Khổng Tử được thể hiện ở
các học thuyết sau đây: nhân, lễ, chính danh.
* Học thuyết chính danh của Khổng Tử hàm chứa những triết lý căn bản về mặt
chính trị xã hội và cả về mặt đạo đức xã hội. Tuy nhiên, học thuyết này về sau các thế lực
cầm quyền nhà nước phong kiến tuyệt đối hoá nó để bảo vệ địa vị của mình. Khổng Tử là
một triết gia lớn trong nền triết học Trung Hoa cổ đại, học thuyết của ông trở thành nền
tảng, tư tưởng cho toàn bộ xã hội phong kiến Trung Hoa và phương Đông. Nhiều nội
dung tư tưởng của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tư tưởng nhập thế của Nho gia và
Khổng Tử có giá trị lớn đối với việc hình thành nhân sinh quan của con người phương
đông xưa cũng như nay. Tuy nhiên Khổng Tử và Nho gia cũng có những mặt hạn chế là
giao động giữa duy vật và duy tâm.
+ Mạnh Tử (372 - 289 TCN) đã phát triển quan điểm của Khổng Tử theo chiều
hướng duy tâm. Về đạo đức: Mạnh Tử cho rằng “Nhân chi sơ tính bản thiện”, cho rằng 6
cứ 500 năm thì kết quả cuộc tuần hoàn chu kỳ của ngũ hành nhất định làm xuất hiện một
đấng Vương giả hiền đức.
+ Tuân Tử (298 - 238 TCN) đứng trên lập trường duy vật để thể hiện vũ trụ quan
của mình, ông cho rằng Trời không phải là một nhân cách chủ quan có ý thức, ý chí mà là
một thực thể khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người.
Nhân sinh quan của Tuân Tử: Trước hết, quan điểm của Tuân Tử về xã hội: Tuân
Tử cho rằng mọi sự biến động xã hội, mọi quá trình biến đổi của lịch sử đều bắt nguồn từ
nguyên nhân vật chất; Quan niệm về con người của Tuân Tử đối lập với Mạnh Tử. Mạnh
Tử cho rằng “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (con người vốn tính hiền lành) thì Tuân Tử lại
cho rằng “Nhân chi sơ, tính bản ác”. Luận điểm này của Tuân Tử cùng với mệnh đề của
Mạnh Tử đã giúp con người cách hiểu về chính mình, bản thân con người được toàn diện
hơn; Nhận thức luận của Tuân Tử: Trước hết Tuân Tử cho rằng mọi quá trình nhận thức
của con người đều do cái tâm của con người điều khiển. + Lão Tử và Đạo gia
Lão Tử là người sáng lập ra Đạo gia, ông là người nước Sở, họ Lý tên Nhĩ, tự là
Đam. Sống cùng thời với Khổng Tử (nguồn gốc và năm sinh, mất của ông chưa rõ).
* Vũ trụ quan của Lão Tử và Đạo gia: Lão Tử triết gia nỗ lực đi tìm bản nguyên
của vũ trụ. Theo ông ĐẠO là bản nguyên của vũ trụ. Đạo là cái sinh thành ra toàn bộ vũ trụ.
Tư tưởng này chứng tỏ rằng Lão Tử không dựa vào sức mạnh siêu nhiên của thần
thánh để luận giải về nguồn gốc của vũ trụ mà xem Đạo là bản nguyên, là một thực thể
tồn tại tự thân, chính nó sản sinh ra toàn bộ vũ trụ. Do vậy vũ trụ quan của Lão Tử thể
hiện rõ nét lập trường vô thần nghiêng về phía duy vật.
* Tư tưởng biện chứng của Lão Tử: Kế thừa tư tưởng của kinh dịch và thuyết âm
dương ngũ hành, Lão Tử đã phát triển tư tưởng biện chứng lên một bước mới. Ông cho
rằng vạn vật đều hàm chứa âm dương: “Vạn vật phụ âm nhi bảo dương, xung khí dĩ vi
hoà” (vạn vật đều hàm chứa âm dương, xung khắc mà hoà hợp).
* Nhân sinh quan của Lão Tử và Đạo gia: Tư tưởng bao trùm trong nhân sinh quan
của Lão Tử và Đạo gia là tư tưởng xuất thế. Từ tư tưởng này Lão Tử chủ trương chủ
thuyết “Vô vi”, “Bất tranh”.
+ Mặc gia (Khoảng 479 - 381 tr CN): Về nhận thức, Mặc Tử nêu thuyết “Tam Biểu
“cho rằng nhận thức đúng đắn phải dựa trên 3 yếu tố: kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm
cảm giác của quần chúng, thực tiễn. Về mặt này, Mặc Tử là người tiêu biểu cho tinh thần
khoa học ở Trung Hoa cổ đại. Nhưng có lẽ do chế độ phong kiến Trung Quốc đã thủ tiêu
triết học Mặc Tử nên khoa học tự nhiên không phát triển được ở Trung Quốc trong nhiều
thế kỷ. Tuy nhiên tư tưởng duy vật của Mặc Tử không triệt để vì ông còn thừa nhận có
thần. Thần là kẻ có lòng kiêm ái để phạt những kẻ vì “biệt “mà ghét nhau
+ Hàn Phi Tử và Pháp gia. (280-233 trCN): Phái này chú trọng vào những tư tưởng
chính trị xã hội và đề cao phép trị nước bằng pháp luật dựa vào những quan điểm triết học
sau đây: Xã hội nhất định sẽ biến đổi cho nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã
hội. Sự thay đổi là do sự thay đổi của dân số và của cải xã hội. * Bản tính con người là ác
nên phải lấy luật pháp để chế ngự, không thể dùng nhân trị.
Nhận xét về Triết học Trung Hoa 7
+ Nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư tưởng triết học cổ, trung đại Trung Hoa,
các loại tư tưởng liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết
học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
+ Chú trọng chính trị đạo đức, xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực
tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Có thể
nói, đây chính là nguyên nhân triết học dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự
lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa.
+ Nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Đa số các nhà triết học
thời Tiền Tần đều nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính
đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà mâu thuẫn là
mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. Tính tổng hợp và liên hệ của các phạm trù
“thiên nhân hợp nhất”, “tri hành hợp nhất”, “thể dụng như nhất”, “tâm vật dung hợp”...
đã thể hiện đặc điểm hài hòa thống nhất của triết học trung, cổ đại Trung Hoa.
+ Tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học cổ, trung
đại Trung Hoa là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Hầu
hết các nhà tư tưởng triết học Trung Hoa đều quen phương thức tư duy trực quan thể
nghiệm lâu dài, bỗng chốc giác ngộ. Các khái niệm và phạm trù chỉ là trực giác, thiếu suy
luận lôgíc, làm cho triết học Trung Hoa cổ đại thiếu đi những phương pháp cần thiết để
xây dựng một hệ thống lý luận khoa học.
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ
lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư
tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của
xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp
giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn, trong
việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập
quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa thời cổ
còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ
trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn có những hạn chế nhất định,
nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung
Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này không những của
người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
4. Triết học Mác –Lênin
- Triết học Marx-Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của Chủ
nghĩa Mác – Lênin; đầu tiên là Triết học Mác, do Mác và Enghen sáng lập ra, được Lênin
kế thừa, bổ sung và phát triển.Triết học Mác ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và
được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách
mạng công nhân. Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử
tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Nhưng cuộc cách mạng ấy bao hàm tính kế
thừa, tiếp thu tất cả những nhân tố tiên tiến và tiến bộ mà lịch sử tư tưởng loài người đã để lại.
Triết học Mác là triết học duy vật. Nhưng các nhà sáng lập của triết học đó không
dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy 8
móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. Các ông đã khắc phục
những thiếu sót ấy, đưa triết học tiến lên một bước phát triển mới bằng cách tiếp thu một
cách có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất là phép biện chứng
trong hệ thống triết học của Heghen. Tuy nhiên, phép biện chứng của Heghen là phép
biện chứng duy tâm, vì vậy, các nhà sáng lập Triết học Mác đã cải tạo nó, đặt nó trên lập
trường duy vật. Chính trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Heghen và
phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, trên cơ sở khái quát hoá những thành tựu của
khoa học tự nhiên và thực tiễn cho đến giữa thế kỉ 19, Mác và Ăngghen đã tạo ra triết học của mình.
Triết học ấy sau này đã được Lênin phát triển thêm và trở thành Triết học Mác -
Lênin. Triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Lênin hy vọng khắc
phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Trong Triết học Mác -
Lênin, các quan điểm duy vật về tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất.
Vai trò của triết học Mác –Lênin trong đời sống xã hội
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư
duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát
triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong việc xem xét giới tự
nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.
* Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý
luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lênin nhận xét: “Là một chủ nghĩa duy
vật triết học hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở
triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
+ Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với
nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép
biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho
chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó
triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã
hội và tư duy con người.
+ Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan
đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan
trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời
nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.
* Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin và
các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ thể là điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết học Mác- Lênin cung cấp
những công cụ phương pháp luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ
thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. 9
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học,
sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học
khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử phát triển của khoa học
và bản thân triết học.
Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng trở nên
đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu
hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không
được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên
ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư
duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương
hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm:
+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện
pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ
động và sáng tạo trong công tác;
+ Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một
cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không
tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và
chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là
mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng.
5. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
a) Nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một
trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật.
Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự vật, hiện tượng trong toàn bộ mối liên hệ của nó.
+ Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,
theo đó, các sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và
tách biệt nhau. Do vậy, để nhận thức được sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét nó
trong một chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính,
cùng các mối liên hệ của chúng trong chính sự vật, hiện tượng.
+ Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với
sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
+ Phải đặt sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu vào trong không gian và thời gian
nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá
khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. 10