Chương 1: Khái quát chung về luật kinh tế | Trường đại học Lao động - Xã hội
Chương 1: Khái quát chung về luật kinh tế | Trường đại học Lao động - Xã hội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT KINH TẾ
1. Khái niệm Luật kinh tế
Hiện nay, Nhà nước Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo1. Như vậy, chủ thể kinh doanh không chỉ là
các tổ chức kinh tế mà chủ sở hữu là Nhà nước mà còn có nhiều chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế khác cùng tham gia kinh doanh bình đẳng. Các chủ thể kinh
doanh được tự do chọn lựa ngành nghề mà pháp luật không cấm để tiến hành kinh
doanh nhằm mục đích sinh lời.
Do đó, vai trò điều chỉnh của pháp luật nói chung và lĩnh vực pháp luật kinh
tế nói riêng đối với các hoạt động kinh tế hiện nay bao gồm nhiều nội dung nhấn
mạnh đến các quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh khác nhau trong
nền kinh tế thị trường. Nếu nhấn mạnh vào khía cạnh điều chỉnh này, trong hoạt
động nghiên cứu xuất hiện quan điểm gọi Luật kinh tế là Luật kinh doanh và cho
rằng Luật kinh doanh là ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm
tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh
giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trong quá trình tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, còn có nhiều cách
tiếp cận đối với vấn đề pháp luật kinh tế. Ngoài khái niệm về Luật kinh doanh ở
trên, có một số chuyên gia còn gọi là Luật thương mại. Khái niệm này xuất phát từ
một khía cạnh nhất định của nền kinh tế thị trường, đó là tập trung vào tiếp cận đến
các hành vi thương mại cụ thể như mua bán, trao đổi hàng hóa, đại lý, ký gửi... Với
cách tiếp cận này, ưu điểm quan trọng nhất là liệt kê chi tiết các hoạt động thương
mại để các chủ thể kinh doanh lựa chọn khi tiến hành kinh doanh. Nhưng cùng với
đó, cách tiếp cận này sẽ làm hạn chế những ý tưởng kinh doanh mới, đặc biệt là
hạn chế sự hình thành những hoạt động kinh doanh vừa không trái pháp luật vừa
đem lại lợi ích cho cá nhân và toàn xã hội hoặc không bao quát hết các hoạt động
kinh doanh mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Quy luật khách quan và tất
yếu là khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định sẽ kéo theo các hoạt động
kinh doanh mới, khi đó pháp luật sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời hoặc không theo
kịp để điều chỉnh phù hợp với ý chí của Nhà nước.
1 Khoản 1 Điều 51 Hiến Pháp 2013
Tóm lại, dù có thể hiện với các tên gọi khác nhau thì ngành luật này cũng
đều hướng đến điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình kinh doanh
của các chủ thể kinh doanh và quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể kinh
doanh đó với các cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, với cách tiếp cận từ đối tượng
điều chỉnh các quan hệ xã hội của ngành luật này nên đặt tên gọi là ngành Luật
kinh tế được coi là đầy đủ và phù hợp. Phương pháp tiếp cận này vừa đảm bảo bao
quát hết các hoạt động của các chủ thể kinh doanh với nhau trong toàn bộ quá trình
kinh doanh, vừa chỉ ra các quyền và nghĩa vụ mà các chủ thể này trong mối quan
hệ với chủ thể đặc biệt là nhà nước. Trên cơ sở khung lý luận đó, giáo trình này
đưa ra khái niệm: Luật kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức, quản lý và chấm dứt
các hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Theo đó, nội dung
của Luật kinh tế trong giáo trình này tập trung nghiên cứu các chế định pháp lý về kinh doanh như sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan
đến việc hình thành và xác lập địa vị pháp lý nói chung của các chủ thể kinh doanh đó là:
- Doanh nghiệp gồm: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH), công ty TNHH 1 thành viên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
- Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã - Hộ kinh doanh
Thứ hai, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh như:
Quy định về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh tại trọng tài thương mại hay quy
định về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh tại tòa án nhân dân.
Thứ ba, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra trong
quá trình phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
2. Chủ thể của Luật Kinh tế 2.1. Chủ thể kinh doanh
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chủ thể kinh doanh
Để hiểu rõ thế nào là chủ thể kinh doanh, chúng ta cần tìm hiểu kinh doanh
là gì? Theo từ điển tiếng Việt thì “kinh doanh” được hiểu là “tổ chức việc sản xuất,
buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lời”2. Dưới góc độ pháp lý thì “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ
2 http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Kinh_doanh
đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích tìm kiếm lợi nhuận.”3. Tuy nhiên, thực tế còn có những chủ thể chỉ thực
hiện các hoạt đông kinh doanh đơn lẻ, không thường xuyên như môi giới bất động
sản, chứng khoán, tư vấn... nên dưới góc độ pháp lý cần được tham chiếu đến pháp luật chuyên ngành khác.
Với khái niệm “kinh doanh” rộng như vậy ta có thể hiểu chủ thể kinh doanh
là bất kỳ cá nhân, tổ chức, đơn vị nào theo quy định của pháp luật thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Chủ thể kinh doanh được phân biệt với các tổ chức, cá nhân khác bởi các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh phải được thành lập hợp pháp hoặc được công nhận.
Điều đó có nghĩa là chủ thể kinh doanh phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ra quyết định thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. Với đặc điểm
này, chúng ta khẳng định đây là những chủ thể kinh doanh hợp pháp, chủ thể này
được kinh doanh tất cả những ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì có những chủ thể kinh doanh phải
đăng ký thành lập như: Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh
doanh nhưng cũng có những chủ thể kinh doanh có thể đăng ký hoặc không phải
đăng ký kinh doanh như hộ kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh những ngành
nghề mà pháp luật quy định không phải đăng ký. Các chủ thể không phải đăng ký
kinh doanh chủ yếu thực hiện hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, thủy
sản và làm muối theo quy định của pháp luật đối với các hộ kinh doanh “tự sản tự
tiêu” và hộ kinh doanh có thu nhập thấp, căn cứ quy định tại từng địa phương. Đối
với cá nhân hoạt động thương mại mà không phải đăng ký kinh doanh được quy
định tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 16/3/2007 về cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh
doanh. Theo đó, cá nhân hoạt động thương mại phải tuân thủ pháp luật về thuế,
giá, phí và lệ phí liên quan đến hàng hóa, dịch vụ kinh doanh. Trường hợp kinh
doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống, cá nhân hoạt động thương mại phải bảo đảm
đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với
việc kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ này. Nghiêm cấm cá nhân hoạt động
thương mại gian lận trong cân, đong, đo đếm và cung cấp các thông tin sai lệch,
3 Khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020
dối trá hoặc thông tin dễ gây hiểu lầm về chất lượng của hàng hóa, dịch vụ hoặc
bản chất của hoạt động thương mại mà mình thực hiện...
Những chủ thể là cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng
ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” theo quy định của
Luật Thương mại. Cụ thể bao gồm những cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây:
a) Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa
điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả
việc nhận sách báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh
doanh các sản phẩm này theo quy định của pháp luật để bán rong;
b) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không
có địa điểm cố định;
c) Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có
hoặc không có địa điểm cố định;
d) Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến
để bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ;
đ) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe,
trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không
có địa điểm cố định;
e) Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác.4
Thứ hai, chủ thể kinh doanh phải có tài sản đưa vào kinh doanh.
Đây là cơ sở vật chất không thể thiếu để chủ thể này tiến hành hoạt động
kinh doanh theo quan điểm truyền thống. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản5 được ghi nhận bởi pháp luật dân sự, luật kế toán và các luật khác có liên quan.
Nhà nước bảo vệ quyền của chủ thể kinh doanh về tài sản của mình. Nhà
nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, quyền và lợi
ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp6.
4 Điều 3, Nghị định số 39/2007/NĐ-CP của Chính Phủ
5 Điều 105, Bộ luật Dân sự năm 2015
6 Khoản 2, Điều 5, Luật Doanh nghiệp năm 2020
Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh
nghiệp không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.
Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của doanh
nghiệp thì được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua,
trưng dụng tài sản. Việc thanh toán, bồi thường phải bảo đảm lợi ích của doanh
nghiệp và không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp.7
Thứ ba, chủ thể kinh doanh phải có thẩm quyền kinh tế.
Thẩm quyền kinh tế là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của một chủ thể được
nhà nước xác nhận trên cơ sở pháp luật và trên thực tế. Thẩm quyền kinh tế của
một chủ thể luật kinh tế luôn phải tương ứng với chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của nó.
Như vậy, có thể thấy thẩm quyền kinh tế là giới hạn pháp lý mà trong đó các
chủ thể của Luật kinh tế được hành động hoặc phải hành động hoặc không được
phép hành động. Thẩm quyền kinh tế trở thành cơ sở pháp lý để các chủ thể này
thực hiện các hành vi pháp lý nhằm tạo ra các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho mình.
Mỗi chủ thể kinh doanh có thẩm quyền rộng, hẹp khác nhau tương ứng với những
chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của mỗi chủ thể kinh doanh. Hiến pháp
và pháp luật Việt Nam quy định mọi cá nhân có quyền tự do kinh doanh những
ngành nghề mà pháp luật không cấm8 là điều kiện cần, tuy nhiên để thực hiện các
quyền này trên thực tế, các chủ thể kinh doanh có đủ năng lực chủ thể còn phải
thực hiện những hành vi nhất định như đăng ký kinh doanh để tiến hành một hoạt
động kinh doanh cụ thể nào đó để xác lập thẩm quyền về kinh tế. Một khi đã có
thẩm quyền về kinh tế, các chủ thể đều có quyền bình đẳng với nhau trong hoạt
động kinh doanh, tố tụng, hành chính và được pháp luật bảo hộ.
Như vậy, đặc điểm chính của thẩm quyền kinh tế là mang tính pháp lý. Để
từ đó các chủ thể kinh doanh thực hiện các hành vi pháp lý nhằm tạo ra cho mình
các quyền và nghĩa vụ, đồng thời nó định rõ giới hạn mà trong đó các chủ thể kinh
doanh được thực hiện. Thẩm quyền kinh tế của các chủ thể kinh doanh được quy
định trong văn bản pháp luật hiện hành và phát sinh trong khi tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh thông qua quyết định cá nhân trên cơ sở các quy phạm pháp luật.
Thứ tư, chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh.
7 Khoản 3, Điều 5, Luật Doanh nghiệp năm 2020
8 Điều 33 Hiến Pháp năm 2013
Hành vi kinh doanh dưới góc độ pháp lý là các hành vi do chủ thể kinh
doanh thực hiện không trái với pháp luật hiện hành, hay nói cách khác là các hành
vi kinh doanh mà pháp luật không cấm hoặc bị hạn chế (kinh doanh có điều kiện).
Pháp luật hiện hành không liệt kê những hàng vi kinh doanh nào là được phép mà
chỉ quy định những hành vi kinh doanh nào bị cấm hoặc kinh doanh có điều kiện
theo quy định của pháp luật.
Để đủ điều kiện thực hiện các hành vi kinh doanh được liệt kê trong danh
mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện, các chủ thể buộc phải đáp ứng các điều
kiện đã được công bố trước trong các quy định của pháp luật đầu tư. Khi thực hiện
hành vi kinh doanh, các chủ thể kinh doanh thực hiện một cách độc lập, nhân danh
mình, vì lợi ích của chính mình và tự chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh đó.
Khi thực hiện hành vi kinh doanh, chủ thể kinh doanh không bị chi phối bởi ý chí
của các chủ thể khác mà được quyết định bởi ý chí của chính chủ thể kinh doanh.
Đặc điểm quan trọng khi các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh
doanh là mang tính chuyên nghiệp, liên tục và nhằm tạo ra thu nhập. Ngoài ra,
hành vi kinh doanh của chủ thể này phổ biến được diễn ra trên thị trường nhất
định. Một số hành vi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ sẽ không được coi là
hành vi kinh doanh nếu chúng không diễn ra trên thị trường hợp pháp.
Mục tiêu trực tiếp và chủ yếu của chủ thể kinh doanh khi thực hiện các hoạt
động kinh doanh là để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, ở
một giai đoạn hay thời điểm nhất định, một số chủ thể có thể thực hiện các hoạt
động nhằm các mục tiêu xã hội, xây dựng thương hiệu... chưa vì mục đích lợi
nhuận nhưng nếu hành vi đó không phải là mục tiêu cơ bản thì các chủ thể này vẫn
được coi là chủ thể của hoạt động kinh doanh.
Với các đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy kinh doanh hiểu theo nghĩa
chung nhất là hoạt động mang tính nghề nghiệp, chủ thể kinh doanh đã tham gia
vào sự phân công lao động xã hội; các chủ thể này tiến hành hoạt động kinh doanh
mang tính liên tục và mang lại thu nhập cho chính chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh.
2.1.2. Phân loại chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, chủ thể kinh doanh rất phong phú và đa dạng.
Việc phân loại chúng là cần thiết để xác lập cơ chế điều chỉnh pháp luật phù hợp.
Các tiêu chí phân loại chủ thể kinh doanh được nhìn nhận ở nhiều phương diện và
góc độ khác nhau. Các tiêu chí khác nhau có thể được tiếp cận từ mỗi ngành
nghiên cứu khoa học khác nhau. Dưới góc độ khoa học pháp lý, các tiêu chí để phân loại gồm:
Thứ nhất, dựa vào nhóm nguồn luật điều chỉnh và hình thức pháp lý của chủ
thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh được phân loại thành:
Các chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp bao gồm các
loại hình sau đây9: Công ty cổ phần; công ty TNHH (Công ty TNHH hai thành
viên trở lên và Công ty TNHH 1 thành viên); công ty hợp danh và doanh nghiệp tư
nhân; nhóm công ty. Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng có những quy
định cụ thể về Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ
công ích, doanh nghiệp xã hội.
Chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Hợp tác xã bao gồm: HTX và liên hiệp hợp tác xã.
Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh và Hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động
kinh doanh một cách độc lập, liên tục, không phải đăng ký kinh doanh (gọi chung là Hộ kinh doanh).
Thứ hai, dựa vào tư cách pháp nhân của chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh
doanh được chia thành pháp nhân và không có tư cách pháp nhân
Cơ sở quan trọng để xác định một tổ chức có được coi là pháp nhân hay
không hiện nay theo khái niệm được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 201510. Theo
đó, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: (1)
Được thành lập hợp pháp; (2) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (3) Có tài sản độc lập
với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (4) Nhân danh
mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2020, các chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân gồm: Công ty cổ
phần, Công ty TNHH hai thành viên trở lên, Công ty TNHH 1 thành viên, Công ty
hợp danh. Theo quy định của Luật HTX 2012 thì cả Hợp tác xã và liên hiệp Hợp
tác xã đều có tư cách pháp nhân.
Các chủ thể không có tư cách pháp nhân như: Hộ kinh doanh, doanh nghiệp
tư nhân. Ngoài việc không thỏa mãn bốn điều kiện trên và được pháp luật chuyên
ngành quy định không có tư cách pháp nhân, các chủ thể thuộc nhóm này có đặc
điểm tương đối giống nhau là tổ chức đơn giản, quy mô nhỏ và chịu trách nhiệm
vô hạn về các hoạt động kinh doanh. Các chủ thể hộ kinh doanh và doanh nghiệp
tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ
9 Điều 1 Luật Doanh nghiệp 2020
10 Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015
tài sản của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, kể cả tài sản không đưa vào kinh doanh.
Thứ ba, dựa vào phạm vi trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, chủ thể kinh
doanh được chia thành chủ thể kinh doanh có trách nhiệm vô hạn và chủ thể kinh doanh có TNHH.
Trách nhiệm vô hạn hay TNHH là tính chất của chế độ bảo đảm tài sản của
các chủ thể kinh doanh khi các chủ thể này tham gia các quan hệ kinh tế. Tuy
nhiên, trách nhiệm này chỉ đặt ra khi các chủ thể kinh doanh khi làm thủ tục phá
sản hoặc trong một số trường hợp nhất định đối với thành viên tham gia với tư
cách là chủ thể độc lập.
Trách nhiệm vô hạn được hiểu là sự chịu trách nhiệm đến cùng về tài sản
của chủ thể kinh doanh khi chủ thể này phá sản. Điều đó có nghĩa là, khi tài sản
đưa vào kinh doanh của chủ thể kinh doanh không đủ để thanh toán hết các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản của chủ thể kinh doanh thì tài sản không đưa vào kinh doanh
của riêng họ cũng được đưa ra thanh toán cho các chủ nợ. TNHH được hiểu là sự
giới hạn trả nợ của một số chủ thể kinh doanh (cũng như giới hạn sự trả nợ của nhà
đầu tư). Điều đó có thể hiểu rằng, chủ thể kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm đối với
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của mình tương ứng với số tài sản được đưa
vào kinh doanh mà chủ thể còn lại trong trường hợp bị tuyên bố phá sản. Điều này
cũng đồng nghĩa với quan điểm trong quá trình kinh doanh các chủ thể phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
Nội dung này còn liên quan đến mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với
thành viên của nó. Theo đó, nếu chủ thể kinh doanh là pháp nhân, thì pháp nhân sẽ
không chịu trách nhiệm thay cho thành viên đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên
xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, còn thành viên thì không chịu trách
nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập,
thực hiện11. Mối quan hệ về chế độ trách nhiệm còn được thể hiện rõ ở các quy
định đối với các loại hình doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh ở Luật Doanh
nghiệp năm 2020. Cụ thể, thành viên công ty TNHH hay cổ đông công ty cổ phần
chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong vi số vốn cam kết góp hoặc đã góp vào doanh nghiệp. Như vậy, thành
viên của hai chủ thể kinh doanh trên (gọi chung là doanh nghiệp) đương nhiên
được giải phóng khỏi trách nhiệm tài sản vô hạn khi hoàn thành nghĩa vụ góp vốn.
TNHH hay trách nhiệm vô hạn một khi được đề cập phải xem xét đến không chỉ là
11 Khoản 2 và 3 Điều 87 BLDS 2015
phạm vi trách nhiệm của chủ thể kinh doanh mà còn chỉ rõ phạm vi trách nhiệm
của các thành viên hình thành nên chủ thể kinh doanh đó.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối với HTX, công ty cổ phần và
công ty TNHH, thành viên chịu TNHH trong phạm vi phần vốn góp của mình,
doanh nghiệp chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản đang sở hữu trong quá trình
kinh doanh hoặc còn lại của mình khi phá sản. Ví dụ, công ty TNHH một thành
viên thì chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Các chủ thể kinh doanh
còn lại là công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của doanh nghiệp và cá nhân là thành viên hợp danh hoặc chủ doanh nghiệp
tư nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, cả tài sản đưa vào kinh
doanh và tài sản không đưa vào kinh doanh; Thành viên hợp danh của công ty hợp
danh và chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ kinh doanh cũng có chế độ trách nhiệm
vô hạn chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của hộ kinh
doanh mà nó tham gia hoặc thành lập.
2.2. Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là một trong các hoạt động quản lý nhà nước.
Do đó, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cũng chính là hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước. Theo quy định tại Điều 215 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; Bộ, cơ quan ngang
Bộ chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ được phân
công trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực
hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong phạm vi địa phương.12
Căn cứ vào đó việc phân loại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế chủ
yếu dựa trên các tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thẩm quyền hành chính - kinh tế, có thể chia thành: Cơ
quan quản lý nhà nước về kinh tế có thẩm quyền chung (Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các cấp); cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền riêng đối với các ngành
kinh tế (Các Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý chuyên ngành,...) và cơ quan quản lý
nhà nước tổng hợp theo từng lĩnh vực (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,...).
Thứ hai, căn cứ vào vị trí trong bộ máy quản lý nhà nước, có thể chia thành:
Cơ quan hành chính - kinh tế ở Trung ương và cơ quan hành chính - kinh tế ở địa phương.
12 Điều 215 Luật Doanh nghiệp năm 2020
Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý về kinh tế, có cơ quan chuyên trách quản lý
về đăng ký kinh doanh gọi là cơ quan đăng ký kinh doanh. Nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan đăng ký kinh doanh được quy định tại Khoản 1, Điều 216, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bao gồm:
- Giải quyết việc đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
- Phối hợp xây dựng, quản lý Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp; công khai, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có
yêu cầu theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ quy định của Luật này khi
xét thấy cần thiết; đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp;
- Trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, giám sát
doanh nghiệp theo nội dung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp;
- Chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, không
chịu trách nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước và sau khi đăng ký doanh nghiệp;
- Xử lý vi phạm quy định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp; thu hồi
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải
thể theo quy định của Luật này;
- Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và quy định khác
của pháp luật có liên quan.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính Phủ thì cơ
quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh) và ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), bao gồm: Ở cấp tỉnh: Phòng Đăng ký kinh doanh
thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư (sau đây gọi chung là Phòng Đăng ký kinh doanh);
Phòng Đăng ký kinh doanh có thể tổ chức các điểm để tiếp nhận hồ sơ và trả kết
quả thuộc Phòng Đăng ký kinh doanh tại các địa điểm khác nhau trên địa bàn cấp
tỉnh; Ở cấp huyện: Phòng Tài chính - Kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện
(sau đây gọi chung là Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện).
Cũng theo quy định tài Điều này, Cơ quan đăng ký kinh doanh có tài khoản và con dấu riêng.13
13 Điều 14 Nghị định 01/2021/NĐ-CP
Bên cạnh đó, Chương II, Nghị định này cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan đăng ký kinh doanh và quản lý nhà nước về đăng ký doanh
nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh.
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
3.1. Luật kinh tế cụ thể hoá đường lối của Đảng
Kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ
đổi mới, tuy nhiên, ở thời điểm này Đảng chưa đề cập tới phát triển nền kinh tế thị
trường. Về cơ cấu kinh tế, đã bắt đầu chú ý tới việc phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích phát triển thành phần kinh tế tư nhân,
cá thể đối với những ngành nghề, lĩnh vực nhất định. Về cơ chế quản lý kinh tế,
Đảng chỉ rõ, việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế theo hướng kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp14. Để cụ
thể hóa đường lối chính sách của của Đảng, đến năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư
nhân được ban hành. Ngay phần đầu của đạo luật này đã tuyên bố một các rõ ràng
rằng “Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
khuyến khích việc đầu tư kinh doanh, bảo hộ lợi ích hợp pháp của chủ doanh
nghiệp tư nhân; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh
doanh”15. Luật này quy định công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành lập
doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của
doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư
nhân với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh.
Như vậy, trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do
kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh.
Đến Đại hội Đảng IX năm 2001, Đảng xác định nền KTTTĐXHCN là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội16.
Theo đó, KTTTĐXHCN là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm nền KTTTĐXHCN còn được hiểu có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Các thành phần
14 Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam; Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã
hội trong 5 năm 1986 - 1990 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt
Nam (ngày 18 tháng 12 năm 1986)
15 Luật Doanh nghiệp Tư nhân 1990, ngày 21 tháng 12 năm 1990
16 Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, http://dangcongsan.vn.
kinh tế nói trên thực hiện kinh doanh theo pháp luật đều được khuyến khích phát
triển trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Đồng
thời, Nhà nước quản lý nền KTTTĐXHCN bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Để cụ thể
đường lối đổi mới trên, ở thời kỳ này đã có những đạo luật quan trọng tác động và
làm cơ sở cho các chủ thể kinh doanh tạo lập, xác định hàng lang pháp lý cho mình
phải kể đến như: Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh
nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2005, Luật Đầu tư 2014, Luật Thương mại 2005; Luật
Cạnh tranh 2004, Luật Phá sản 2004, Luật Phá sản 2014, Luật Hợp tác xã năm
2012…. Các đạo luật trên đã góp phần quan trọng trong quản lý nhà nước và đóng
vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh.
Đại hội Đảng XII năm 2016 của Đảng tiếp tục thống nhất nhận thức rõ hơn
về nội hàm nền KTTTĐXHCN. Theo đó, nền KTTTĐXHCN Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng
thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản
lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"17. Luật
kinh tế tiếp tục là công cụ quản lý kinh tế quan trọng của Nhà nước, thực hiện
chính sách, chủ trương cải cách và chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng. Pháp luật
về kinh tế đã ghi nhận và thể chế hóa các chính sách, chủ trương của Đảng thành
các quy định pháp luật, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các thành phần
kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường như mong
muốn của Đảng và Nhà nước.
3.2. Luật kinh tế tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để các chủ
thể yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh lâu dài, một yêu cầu cơ bản là các hoạt
động kinh doanh đó phải được đảm bảo về mặt pháp lý. Xuất phát từ chức năng
quản lý kinh tế của nhà nước, pháp luật kinh tế đã tạo ra hành lang pháp lý bằng
17 Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, http://dangcongsan.vn.
các quy định trong các văn bản pháp luật đã xác lập tính hợp pháp của các hoạt
động kinh doanh ở Việt Nam, điều này đã khuyến khích các chủ thể mạnh dạn
tham gia đầu tư kinh doanh. Cụ thể:
Một là, Luật kinh tế là môi trường pháp lý thuận lợi và ổn định cho sự phát
triển kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự chủ quyết
định hoạt động, nhưng quyền tự chủ được thể chế hoá thành pháp luật và mọi hành
vi đều phải tuân theo pháp luật. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, có hiệu lực cao và
sự ổn định chính trị, xã hội là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, Luật kinh tế góp phần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho phát
triển kinh tế. Nhà nước ban hành các quy định pháp lý khuyến khích đầu tư vào
một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế - xã hội phát triển theo mục tiêu xác định.
Nhà nước thông qua những quy định ưu đãi, hỗ trợ này và sử dụng như những đòn
bẩy kinh tế để hướng các doanh nghiệp vào các ngành, các lĩnh vực mà nhà nước
muốn ưu tiên phát triển. Ngoài ra, pháp luật về tài chính, tín dụng, thuế… cũng
phối hợp tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế yên tâm hoạt động.
Ba là, Luật kinh tế đảm bảo các chủ thể kinh doanh hoạt động có hiệu quả và
lành mạnh thông qua việc quy định và thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn
những tác động từ bên ngoài có ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong Luật Cạnh tranh. Vì vậy, những quy định trong Luật kinh tế về điều kiện sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh, giá
cả thị trường phản ánh đúng chi phí sản xuất, làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả.
Bốn là, Luật kinh tế góp phần thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi thực tế cơ chế
thị trường có nhiều tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế năng động và
hiệu quả, nhưng cũng có những hạn chế như: Phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng
xã hội, tệ nạn xã hội... Vì vậy, Luật kinh tế sẽ quy định những ưu đãi đặc biệt hoặc
hạn chế các chủ thể kinh doanh thông qua các biện pháp kỹ thuật nhằm khắc phục
những mặt tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, thực hiện công bằng xã hội, tạo
động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế. Như vậy, ngành Luật kinh tế là công cụ
quan trọng để Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị trường nói chung
và các chủ thể kinh doanh nói riêng là nhằm làm cho mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
3.3. Luật kinh tế xác định địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh
Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do kinh doanh trong
những ngành nghề mà pháp luật không cấm18. Căn cứ vào đó Luật kinh tế xác lập
và bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh nhằm đảm bảo
tính chủ động trong kinh doanh của các chủ thể kinh doanh phù hợp với quy định
pháp luật, ghi nhận vai trò, nhiệm vụ của từng loại chủ thể trong hệ thống cơ quan,
tổ chức kinh tế, đồng thời cũng giúp các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động của
các chủ thể kinh doanh hiệu quả hơn. Sự ghi nhận quyền tự do kinh doanh cũng
như việc quy định và bảo đảm trên thực tế hoạt động đầu tư, kinh doanh của các tổ
chức, cá nhân là động lực cơ bản cho sự ổn định và phát triển nền kinh tế. Quyền
tự do kinh doanh về cơ bản được cụ thể hóa thông qua các đạo luật chuyên ngành
và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 2014 ở một số quyền như quyền tự do thành
lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quyền tiếp cận thị trường,
quyền bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh, quyền được đảm bảo sở hữu tài sản
của doanh nghiệp. Thông qua các quy định pháp luật hiện hành có thể khái quát về
quyền tự do kinh doanh trên mấy nội dung chính như sau:
Ghi nhận quyền tự do và sự bình đẳng của mọi chủ thể trong các hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Bảo đảm an toàn tài sản cho các nhà đầu tư, kinh doanh như quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của mình.
Bảo đảm sự vận động nhanh chóng của các nguồn vốn đầu tư bằng việc quy
định chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân
bổ và sử dụng vốn của mình.
Ngoài ra, chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức tổ chức kinh
doanh, lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh và chủ động điều
chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh theo nhu cầu và năng lực của mình.
Ngược lại, các chủ thể kinh doanh cũng có quyền từ chối yêu cầu cung cấp nguồn
lực không theo quy định của pháp luật hoặc tiến hành khiếu nại, tố cáo theo quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và tham gia tố tụng bình đẳng theo quy định của pháp luật19.
3.4. Luật kinh tế điều chỉnh và giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh
Hoạt động kinh doanh trên thực tế rất đa dạng, phong phú và thường có
nhiều quan hệ đan xen với nhau. Luật kinh tế ghi nhận quá trình xác lập, thực hiện,
18 Điều 33, Hiến pháp 2013
19 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2014
chấm dứt cùng những hệ quả phải giải quyết đối với các hành vi kinh doanh. Tranh
chấp phát sinh trong kinh doanh là vấn đề tất yếu trong quá trình hoạt động kinh
doanh, do đó Luật kinh tế đã dự liệu các hình thức giải quyết tranh chấp để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quá trình kinh doanh bằng các
chế định về cách thức tổ chức, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các cơ quan tài phán kinh tế.
Việc sử dụng pháp luật kinh tế để giải quyết các tranh chấp giữa các bên
trước hết đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh doanh muốn giải quyết vụ việc của
mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả. Từ khi đàm phán ký kết hợp
đồng hoặc các giao kết kinh tế khác, các chủ thể có quyền lựa chọn hình thức giải
quyết tranh chấp phù hợp nhất. Ngay cả trong trường hợp không có thỏa thuận này
pháp luật kinh tế cũng thừa nhận một số hình thức cơ bản như hòa giải hoặc tố
tụng tại tòa án có thẩm quyền và quyết định của tòa án có giá trị buộc các bên tham
gia phải thực hiện. Không chỉ có cơ quan tòa án, pháp luật kinh tế cũng thừa nhận
và quy định chặt chẽ hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên trong hoạt động
kinh doanh thông qua hình thức tố tụng tại các trung tâm trọng tài thương mại và
quyết định hợp pháp của trọng tài thương mại cũng có giá trị chung thẩm và đảm
bảo thi hành như các quyết định của tòa án. Kể cả trong trường hợp không có thỏa
thuận trọng tài từ trước, các bên tranh chấp có thể thiết lập thỏa thuận trọng tài
thương mại sau khi xảy ra tranh chấp kinh doanh. Bên cạnh đó, luật kinh tế chỉ ra
thẩm quyền giữa các cơ quan tố tụng hoặc giải quyết tranh chấp một cách rõ ràng
để đảm bảo quyền tự quyết, bình đẳng giữa các bên trong hoạt động kinh doanh.
3.5. Luật kinh tế quy định về các biện pháp giải quyết việc giải thể, phá sản chủ thể kinh doanh
Khi chủ thể kinh doanh mong muốn hoặc không đủ điều kiện, khả năng hoạt
động kinh doanh có thể lựa chọn các hình thức hoặc trình tự nhất định để chấm
dứt. Đối với mỗi trình tự nhất định, các chủ thể kinh doanh đều phải tuân theo các
quy định của pháp luật chuyên ngành để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của các bên liên quan và được pháp luật bảo về những quyền lợi của chính mình.
Ví dụ, khi chủ thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh hoặc hết thời
hạn đã đăng ký thì có quyền thực hiện các thủ tục để giải thể hoặc tuyên bố chấm
dứt hoạt động kinh doanh theo trình tự, thủ tục hành chính và xóa tên trên cơ sở dữ
liệu quốc gia về đăng ký kinh doanh (Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp Quốc
gia). Tuy nhiên, khi một chủ thể kinh doanh không có khả năng thực hiện các
nghĩa vụ tài chính trong một thời hạn nhất định thì có thể phải áp dụng thủ tục phá
sản để tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản.
Luật Phá sản năm 2014 ra đời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế đất
nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo đảm cụ thể hoá và không có
sự xung đột giữa các quy định của Luật Phá sản với các quy định của các điều ước
quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên. Luật Phá sản bảo đảm trình tự
và thủ tục giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản dân chủ, công khai, nhanh gọn,
công bằng, thuận lợi; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản nhưng quan trọng hơn cả là
Luật kinh tế nói chung và Luật Phá sản nói riêng đã tạo ra cơ chế đảm bảo cho chủ
thể kinh doanh bị lâm vào tình trạng phá sản có cơ hội phục hồi theo chủ trương tái
cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đặc biệt, đối với doanh
nghiệp, HTX mất khả năng thanh toán có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất
kinh doanh, thoát khỏi tình trạng thua lỗ, phá sản; bảo đảm tối đa quyền lợi của người lao động.
Việc Luật kinh tế quy định các trình tự, thủ tục về phá sản là góp phần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp, HTX, liên hiệp HTX được thành lập và hoạt động
theo quy định của pháp luật và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Không
những thế, với các quy định liên quan, pháp luật kinh tế về phá sản và giải thể các
chủ thể kinh doanh đã đề cao vai trò, trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, các
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động giải quyết yêu cầu giải thể và tuyên bố
phá sản. Pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh không
muốn tiếp tục kinh doanh vì lý do nào đó hoặc trong tình trạng sản xuất kinh doanh
khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT KINH TẾ
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế
Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của
các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế hoàn chỉnh đối với nước ta là một
quá trình lâu dài và liên tục vì thị trường luôn biến động nên hệ thống pháp luật
cũng phải được bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Mỗi
ngành luật có đối tượng điều chỉnh riêng, theo giáo trình này, Luật kinh tế điều
chỉnh ba nhóm quan hệ xã hội sau:
1.1. Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quản lý về kinh tế với các chủ thể kinh doanh
Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh
xác lập địa vị pháp lý và đáp ứng các nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Các
quan hệ này phát sinh chủ yếu trong quá trình thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ về
đăng ký kinh doanh (nếu có), đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, công
khai thông tin về thành lập và hoạt động, báo cáo và các nghĩa vụ khác theo quy
định của pháp luật kinh tế có liên quan.
Thứ hai, chủ thể kinh doanh thực hiện các công việc nhằm đáp ứng đủ điều
kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo
quy định của pháp luật có liên quan.
Thứ ba, chủ thể kinh doanh tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài
chính, thống kê, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đặc điểm của nhóm quan hệ xã hội này là các quan hệ quản lý kinh tế phát
sinh và tồn tại giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể kinh doanh khi
các cơ quan quản lý thực hiện chức năng quản lý của mình. Các chủ thể tham gia
quan hệ này ở vào vị trí bất bình đẳng, vì quan hệ này hình thành và được thực
hiện dựa trên nguyên tắc quyền uy, phục tùng với một bên luôn là cơ quan Nhà
nước. Các chủ thể kinh doanh phải thực hiện theo quy định của pháp luật về hồ sơ
báo cáo, đăng ký kinh doanh, thủ tục tổ chức lại, khiếu nại, tố cáo… theo đúng
trình tự pháp luật, đồng thời phải tuân thủ các quyết định, xử lý vi phạm của cơ
quan có thẩm quyền. Cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan tố
tụng thực hiện chức năng của mình thông qua các văn bản pháp lý do các cơ quan
quản lý có thẩm quyền ban hành.
Tóm lại, nhóm quan hệ này thể hiện sự quản lý kinh tế của Nhà nước và diễn
ra khi các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình. Các
chủ thể trong mối quan hệ này không bình đẳng về mặt pháp lý, các chủ thể bị
quản lý phải phục tùng mệnh lệnh, ý chí của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
1.2. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ
thể kinh doanh với nhau
Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chủ thể của
nhóm quan hệ này chủ yếu là các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau tham gia trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tự nguyên không bị áp
đặt. Đây là nhóm quan hệ chủ yếu và phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này là chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình
kinh doanh nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, trên
cơ sở thống nhất ý chí của các bên thông qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp
đồng kinh tế hoặc những thoả thuận hợp tác kinh doanh. Chủ thể của nhóm quan
hệ này chủ yếu là các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế tham gia
vào quan hệ này trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Đặc
trưng đặc biệt của nhóm quan hệ này là nhóm quan hệ tài sản và quan hệ hàng hoá- tiền tệ.
1.3. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ các chủ thể kinh doanh
Các chủ thể kinh doanh khi tham gia kinh doanh hình thành nên các đơn vị
kinh doanh độc lập tương đối với nhau. Các hình thức kinh doanh mà các chủ thể
có thể chọn như các loại hình doanh nghiệp, HTX và hộ kinh doanh. Nhóm quan
hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ của các chủ thể kinh doanh bao gồm các quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh giữa tổng công ty, tập đoàn
kinh tế và các đơn vị thành viên cũng như giữa các cá nhân là thành viên của của
chủ thể kinh doanh đó với nhau. Ví dụ, trong quá trình hoạt động kinh doanh các
cá nhân, tổ chức tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp, bản thân các thành viên
trong doanh nghiệp có thể mâu thuẫn quyền lợi, nghĩa vụ với nhau hoặc mâu thuẩn
giữa thành viên với doanh nghiệp dẫn đến tranh chấp cần sự điều chỉnh của luật.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này là trực tiếp phát sinh trong nội bộ nên cơ sở
pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ trên gồm các quyết định thành lập, nội quy,
quy chế, điều lệ, cam kết. Đây không phải là nguồn luật và không phải là căn cứ
pháp lý áp dụng chung cho tất các các chủ thể kinh doanh, mà chúng chỉ có hiệu
lực, giá trị pháp lý ràng buộc giữa các thành viên, đơn vị trong tổ chức kinh doanh nhất định.
Điều lệ của doanh nghiệp, HTX: Là bản cam kết giữa các chủ sở hữu doanh
nghiệp nhằm xác lập các nội dung về danh tính công ty, cách thức thành lập, góp
vốn, bộ máy tổ chức, quản lý, hoạt động của công ty, cách thức công ty chấm dứt
tồn tại v.v…. để hoạt động suôn sẻ và tránh những rắc rối, tranh chấp trong nội bộ
công ty. Như vậy, điều lệ doanh nghiệp không phải là văn bản quy phạm pháp luật
mà có thể hiểu đây là một cam kết được đồng ý bởi các chủ sở hữu doanh nghiệp,
giữa những người sáng lập với nhau cũng như giữa những người sáng lập với
những người góp vốn (thành viên hợp danh, thành viên góp vốn vào công ty hợp
danh, thành viên công ty TNHH, cổ đông) nhằm xác lập các nội dung về danh tính
doanh nghiệp, cách thức thành lập, góp vốn, bộ máy tổ chức, quản lý, hoạt động
của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại và những nội dung khác. Điều lệ
doanh nghiệp trước hết có thể xem là một bản hợp đồng được đồng ý bởi các bên
trong công ty mang tính chất quy định. Nó được xây dựng dựa trên các khuôn khổ,
hành lang pháp lý mà pháp luật đề ra mặt khác, doanh nghiệp lại được phép tự do
chỉnh sửa, miễn là không trái pháp luật. Xét về mặt điều hành, điều lệ doanh
nghiệp được hiểu như là “luật của doanh nghiệp” trong đó doanh nghiệp có thể tự
điều chỉnh hoạt động của mình một cách có ý chí riêng mà lại không trái pháp luật.
Xét về mặt kinh doanh, điều lệ đóng một vai trò quan trọng không kém vì nó cho
biết cơ cấu, nội dung doanh nghiệp, cách thức kinh doanh, hoạt động mà doanh
nghiệp đề ra cho người mong muốn góp vốn hay giao dịch với công ty. Cũng bởi lẽ
đó mà những đối tác đầu tư, những khách hàng luôn quan tâm, tìm hiểu kỹ về điều
lệ trước khi cam kết điều gì. Bên cạnh đó, khách hàng cũng cần biết ai sẽ là người
ký kết hợp đồng với họ, bởi thông qua điều lệ công ty, pháp luật có quy định ai là
người đại diện. Để hoạt động suôn sẻ, tránh được những tranh chấp phát sinh và
rắc rối với pháp luật, doanh nghiệp cần quan tâm một số điểm cơ bản trong cách
soạn thảo thành lập điều lệ công ty như sau: Điều lệ không được trái với các quy
định của pháp luật và không xâm phạm quyền lợi của bên thứ ba; điều lệ công ty là
một hợp đồng nhiều bên dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận để quy định
quyền và nghĩa vụ của các bên, tổ chức quản lý, hoạt động của công ty; điều lệ
phải có đủ các nội dung chủ yếu quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020. Theo quy
định của pháp luật về kinh tế, điều lệ doanh nghiệp, HTX đều phải được lưu giữ tại
doanh nghiệp, đồng thời nộp một bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi thành
lập hoặc khi có sửa đổi các nội dung trong điều lệ doanh nghiệp.
Nghị quyết, quyết định... trong nội bộ doanh nghiệp. Đây là các văn bản
trong quản lý và điều hành doanh nghiệp. Nó không phải là văn bản quy phạm
pháp luật, nhưng lại là nguồn luật quan trọng để tham chiếu hoặc căn cứ vào đó các
thành viên, chủ sở hữu doanh nghiệp tiến hành các thủ tục hành chính, tư pháp hợp
pháp. Cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan tố tụng cũng có thể căn cứ vào loại
văn bản này để giám sát, quản lý hoặc đưa ra những phán quyết hoặc quyết định
theo thẩm quyền của mình.
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế
Luật kinh tế sử dụng hai phương pháp điều chỉnh cơ bản là phương pháp
bình đẳng, thỏa thuận và phương pháp mệnh lệnh, quyền uy. Đây là những phương
pháp mà nhà nước tác động lên các quan hệ kinh tế làm cho các quan hệ này phát
sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước.
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận thể hiện quyền tự do lựa chọn cũng như
thể hiện sự ưng thuận của các chủ thể kinh doanh trong quá trình tổ chức hoạt động
kinh doanh của mình như tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, ngành nghề kinh
doanh, mô hình kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác kinh doanh...
Phương pháp mệnh lệnh thể hiện quyền của chủ thể quản lý nhà nước đối
với các chủ thể kinh doanh. Theo đó, các chủ thể kinh doanh phải tuân thủ các quy
định về điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức quản lý... do luật định.
Tuy nhiên do Luật kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ quản lý kinh tế giữa chủ
thể không bình đẳng (khi có sự tham gia của Nhà nước) vừa điều chỉnh quan hệ
bình đẳng về tài sản giữa các chủ thể với nhau phát sinh trong quá trình kinh doanh
cho nên ngành luật này sử dụng và phối hợp cả hai phương pháp tác động trên
nhưng ở mức độ linh hoạt tuỳ theo từng quan hệ kinh tế cụ thể. Đặc biệt, với sự hội
nhập kinh tế quốc tế và các quy định mới rất tiến bộ trong Hiến Pháp năm 2013,
phương pháp điều chỉnh của ngành luật này cũng được bổ sung và thay đổi phù
hợp. Theo đó, phương pháp mệnh lệnh trong điều chỉnh pháp lý các hoạt động kinh
doanh hầu như không còn được áp dụng rộng rãi. Các quan hệ tài sản với mục đích
kinh doanh được trả lại cho chúng nguyên tắc tự do ý chí, tự do giao kết của tất cả
các bên. Các mệnh lệnh hành chính trái với quy luật thị trường được dần bãi bỏ,
thay vào đó các chủ thể kinh doanh được tự do kinh doanh tất cả các ngành nghề,
lĩnh vực mà pháp luật không cấm20. Hay nói một cách khác, cơ quan Nhà nước
muốn cấm hoặc hạn chế các chủ thể kinh doanh bất kỳ ngành nghề nào phải được
ghi nhận hoặc tuyên bố trước trong các đạo luật do Quốc hội ban hành.
Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh mối quan hệ
giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể kinh doanh. Trong mối
quan hệ này cơ quan Nhà nước có quyền đưa ra các quy định buộc các chủ thể kinh
doanh phải tuân theo. Với cách thức tác động đó cho thấy vị trí bất bình đẳng giữa
bên quản lý và bên bị quản lý, bên bị quản lý buộc phải thực hiện ý chí của cơ quan
quản lý đã thể hiện tính chất phục tùng mệnh lệnh. là điều chỉnh các qua hệ kinh tế
20 Điều 33, Hiến pháp 2013. “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”
bằng cách quy định cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế trong phạm vi
chức năng của mình có quyền ra quyết định chỉ thị bắt buộc đối với các chủ thể
kinh doanh (bên bị quản lý), còn bên bị quản lý có nghĩa vụ thực hiện quyết định đó
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận được sử dụng điều chỉnh các nhóm quan
hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh hoặc nhóm quan hệ phát sinh
trong nội bộ đơn vị kinh doanh. Trong các quan hệ này, các chủ thể khi tham gia
vào quá trình kinh doanh có quyền bình đẳng, thỏa thuận với đối tác những vấn đề
mà các chủ thể hướng tới để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Pháp luật đồng thời
cũng phải thể hiện sự tôn trọng quyền tự quyết của các chủ thể kinh doanh trong
các hoạt động kinh doanh.
Như vậy, phương pháp bình đẳng, thỏa thuận được sử dụng chủ yếu điều
chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh để đảm bảo giữa
các chủ thể có sự bình đẳng về địa vị pháp lý với nhau và đảm bảo quyền tài sản
của các bên. Bản chất của phương pháp này thể hiện ở chỗ Luật kinh tế quy định
cho các bên tham quan hệ kinh tế có quyền bình đẳng với nhau, thoả thuận những
vấn đề mà các bên quan tâm khi thiết lập hoặc chấm dứt quan hệ kinh tế mà không
bị phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Điều này còn có nghĩa rằng
pháp luật chỉ điều chỉnh khi và chỉ khi các quan hệ kinh tế được hình thành trên cơ
sở sự thống nhất ý chí của các bên và không trái với các quy định của nhà nước.
III. NGUỒN CỦA LUẬT KINH TẾ
Nguồn của Luật kinh tế là tổng hợp tất cả các văn bản pháp luật và các hình
thức khác chứa đựng những quy phạm liên quan đến kinh doanh.
1. Các văn bản quy pháp luật
Hiến pháp: Hiến pháp 2013 thể hiện là đạo luật cơ bản, còn các vấn đề cụ
thể sẽ được xác định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước.
Các văn bản luật như: Luật Doanh nghiệp 2020 và các văn bản hướng dẫn
thi hành; tác động tích cực để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng;
thúc đẩy huy động vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp;
góp phần duy trì tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội. Luật Hợp tác xã 2012
và các văn bản hướng dẫn thi hành ra đời nhằm tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức
kinh tế tập thể phát triển, góp phần vào việc hoàn thiện quan hệ sản xuất và vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Luật Cạnh tranh 2018 và các văn
bản hướng dẫn thi hành bao gồm cả các chế tài nghiêm khắc đối với các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh làm ảnh hưởng xấu đến
môi trường kinh doanh bình đẳng. Luật Trọng tài Thương mại 2010 và các văn bản
hướng dẫn thi hành quy định về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở
thành Trọng tài viên, quy định về trọng tài vụ việc, thẩm quyền chọn trọng tài viên,
ghi nhận mối quan hệ giữa Trọng tài và Toà án bằng một loạt các quy định cụ thể
như hỗ trợ thi hành thỏa thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, giải quyết khiếu
nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
giải quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, lưu trữ hồ sơ trọng tài v.v… Bộ luật
Tố tụng Dân sự 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm trình
tự và thủ tục tố tụng dân chủ, công khai, đơn giản, thuận lợi cho người tham gia tố
tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá
nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng dân sự. Luật Phá sản 2014 và các
văn bản hướng dẫn thi hành nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp, HTX, liên hiệp HTX, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp, HTX đang trong tình trạng sản xuất kinh doanh khó khăn,
thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự.
Nghị quyết của Quốc hội về kinh tế như: Nghị quyết về kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội hàng năm.
Nghị quyết, nghị định của Chính phủ về kinh tế.
Nghị quyết của Chính phủ dùng để ban hành các chủ trương, chính sách lớn
quy định nhiệm vụ, kế hoạch, ngân sách nhà nước và các công tác khác trong quá
trình thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân.
Nghị định là chính phủ ban hành dùng để hướng dẫn luật hoặc quy định
những việc phát sinh mà chưa có luật hoặc pháp lệnh nào điều chỉnh. Mặt khác,
nghị định do Chính phủ ban hành để quy định những quyền lợi và nghĩa vụ của
người dân theo Hiến pháp và Luật do Quốc hội ban hành.
Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư, chỉ thị của Bộ
trưởng về kinh tế nhằm hướng dẫn các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp
luật như; Luật, Nghị quyết, Nghị định…. 2. Các nguồn khác
2.1. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà
nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết
nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên
gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi
nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác21.
Nói chung, các điều ước quốc tế do Việt Nam ký kết, phê chuẩn hoặc gia
nhập thực tế vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật nước ta.
Khi các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác với văn bản
pháp luật trong nước thì ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế đó.
Hiện nay, các điều ước quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, thương mại mà Việt
Nam tham gia khá phong phú và đa dạng như các hiệp định song phương, đa
phương: Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (gọi tắt là Hiệp định GATT - General Agreement on Tariffs and
Trade), Hiệp định chung về thương mại, dịch vụ (gọi tắt là Hiệp định GATS -
General Agreement on Trade in Services) trong khuôn khổ WTO; Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA - Vietnam-EU Free Trade Agreement) … 2.2. Các tập quán
Trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại các bên có thể áp dụng tập quán
để giải quyết quan hệ xã hội khi không có quy phạm pháp luật điều chỉnh và các
tập quán đó không trái với các quy định của pháp luật dân sự và thương mại của Việt Nam.
Bộ luật Dân sự quy định: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để
xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể,
được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận
và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong
một lĩnh vực dân sự. Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không
quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự”22.
Luật Thương mại xác định: “Tập quán thương mại là thói quen được thừa
nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực
thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại”23. Trường hợp pháp luật không
có quy định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen đã được thiết lập
21 Khoản 1 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế 2016
22 Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015
23 Khoản 4 Điều 3 Luật Thương mại 2005
giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những
nguyên tắc quy định trong Luật thương mại và trong Bộ luật Dân sự24.
Điều 5 Luật Thương mại năm 2005 nêu những trường hợp áp dụng tập quán
thương mại, như sau: Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán
thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật thương mại thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đó. Các bên trong giao dịch thương mại có yếu
tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại
quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ, cách làm lặp đi, lặp lại nhiều lần
trong buôn bán quốc tế và được các tổ chức quốc tế có liên quan thừa nhận; chỉ
chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với những vấn đề mà
đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì
Toà án phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà
không áp dụng tập quán25.
Các bên được lựa chọn tập quán quốc tế trong trường hợp điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoă Œc luật Việt Nam có quy
định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên. Nếu hậu quả của việc
áp dụng tập quán quốc tế đó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
thì pháp luật Việt Nam được áp dụng26.
2.3. Áp dụng án lệ
Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để
các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử27.
Trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao đã công bố một số án lệ như: Án lệ số Án lệ số 08/2016/AL được xây
24 Điều 13 Luât Thương mại 2005
25 Điểm g, khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao ngày 03/12/2012 Hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật
Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
26 Điều 666 Bộ luật Dân sự 2015
27 Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày
28/10/2015 về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.
dựng trên cơ sở Quyết định giám đốc thẩm số 12/2013/KDTM-GĐT ngày 16-5-
2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh
thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” (Án Lệ 08); Án lệ số 09/2016/AL
được xây dựng trên cơ sở Quyết định giám đốc thẩm số 07/2013/KDTM-GĐT
ngày 15-3-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh
doanh thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa”(Án Lệ 09); CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích khái niệm kinh doanh theo pháp luật kinh tế? từ đó làm rõ khái niệm chủ thể kinh tế?
2. Phân loại chủ thể của pháp luật kinh tế theo các tiêu chí khác nhau?
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
4. Nêu và phân tích đặc điểm cơ bản đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế?
5. Nêu và phân tích hai phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế?