Chương 1: khái quát về dư luận xã hội | Lý thuyết Môn Giáo dục quốc phòng an ninh II Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự có liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định và hành động thực tiễn của họ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Giáo dục quốc phòng HP II
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
1: Khái niệm về dư luận xã hội
1.1: Định nghĩa về dư luận xã hội:
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của
xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự có liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sự
quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định và hành động thực tiễn của họ.
1.2: Đối tượng của dư luận xã hội:
Đối tượng của dư luận xã hội không phải là mọi thực tế xã hội nói chung mà chỉ là những vấn đề được
cộng đồng xã hội quan tâm tới vì nó có liên quan tới các nhu cầu lợi ích về vật chất hay về tinh thần của
họ. Không phải bất cứ một sự kiện, hiện tượng nào cũng trở thành dư luận xã hội mà chỉ có các sự kiện
hiện tượng xã hội có tính thời sự, cập nhật trình độ hiểu biết của công chúng, được công chúng quan tâm
mới có khả năng trở thành đối tượng của dư luận xã hội.
Dư luận xã hội chỉ nảy sinh khi có những vấn đề có ý nghĩa xã hội đụng chạm đến lợi ích chung của cộng
đồng xã hội, có tầm quan trọng và có tính cấp bách, đòi hỏi phải có ý kiến phán xét, đánh giá và đưa ra
những phương hướng cụ thể. Đó có thể là vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, hay đạo đức.
1.3: Chủ thể của dư luận xã hội:
Chủ thể của dư luận xã hội là cộng đồng người hay nhóm người mang dư luận xã hội. Dư luận xã hội bao
gồm mọi luồng ý kiến của đa số cũng như ý kiến của thiểu số. Chủ thể của dư luận xã hội có thể là tập
hợp những người thuộc các giai cấp, tầng lớp khác nhau, thậm chí đối lập nhau về lợi ích mà nền tảng gắn
kết họ lại với nhau lại là những đặc điểm tâm lí, nhận thức chung giữa họ.
1.4. Phân biệt dư luận xã hội với tin đồn:
Tin đồn cũng là một hiện tượng tâm lý xã hội. Nhưng tin đồn khác với dư luận xã hội ở chỗ tin đồn không
phải là sản phẩm của tư duy phán xét của các nhân mang nó. Mà tin đồn “chỉ là tin tức về sự việc, sự
kiện, hay hiện tượng có thể có thật, có thể không có thật hoặc chỉ có một phần sự thật được lan truyền từ
người này sang người khác”.
Tin đồn là dạng thông tin không chính thức, chưa được kiểm chứng về sự trung thực và do đó chủ thể của
tin đồn không được rõ ràng. Ngược lại, dư luận xã hội là sản phẩm của tư duy phán xét của cá nhân mang
nó. Tin đồn có thể chuyển hóa thành dư luận xã hội khi trên cơ sở của tin đồn người ta đưa ra những phán
xét bày tỏ thái độ của mình; khi thông tin được kiểm chứng và các nhóm xã hội có thể được tiếp cận với
nguồn thông tin, trao đổi, bày tỏ ý kiến của mình thông qua con đường công khai.
Ví dụ từ tin đồn xã X chính quyềnnhận hối lộ phát triển lên thành dư luận xã hội. Nếu được giải quyết tốt
thì kẻ nhận hối lộ bị nghiêm trị, tình hình ổn định và ngược lại nếu giải quyết không tốt sẽ làm tình hình
lại càng trở nên phức tạp hơn.
2: Quá trình hình thành dư luận xã hội
Dư luận xã hội là sự phán xét đánh giá của các chủ thể xã hội đối với một vấn đề xã hội đang được quan
tâm. Nó không phải tự nhiên xuất hiện một cách hoàn chỉnh mà phải trải qua các bước hình thành và phát triển.
Thông thường, việc hình thành dư luận xã hội trải qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Xuất hiện những sự kiện, hiện tượng có nhiều người quan tâm thông qua kênh liên
cá nhân (truyền miệng) hoặc kênh truyền thông đại chúng, từ đó hình thành nên những suy nghĩ, ý kiến ban đầu.
Giai đoạn 2: Có sự trao đổi cảm nghĩ, ý kiến giữa người này với người khác về các sự kiện, hiện
tượng đó. Trong giai đoạn này có sự chuyển đổi từ ý thức cá nhân sang ý thức xã hội.
Giai đoạn 3: Qua quá trình trao đổi, bàn bạc diễn ra trực tiếp hoặc không trực tiếp, có tổ chức
hoặc không tổ chức v.v... có thể có xung đột mâu thuẫn nhưng qua sự phân tích từ nhiều hướng khác
nhau, các quan điểm cơ bản được hình thành và được đại đa số chấp nhận.
Giai đoạn 4: Từ sự phán xét đánh giá chung đi đến quan điểm nhận thức và hành động thống nhất
hình thành nên dư luận chung. Dư luận chung đó chính là dư luận xã hội.
Sự phân chia quá trình hình thành dư luận xã hội thành bốn giai đoạn nêu trên không có nghĩa là mọi dư
luận xã hội đều phải trải qua đủ bốn giai đoạn ấy. Sự tuân thủ của bốn giai đoạn trên chỉ diễn ra khi đối
tượng của dư luận xã hội là các sự kiện xã hội mới và phức tạp.
Dư luận xã hội là một sản phẩm của giao tiếp xã hội. Không có giao tiếp xã hội thì không có dư luận xã
hội. Muốn nắm được dư luận xã hội, sử dụng nó như một phương tiện giáo dục, thuyết phục quần chúng,
phải nắm được quá trình nảy sinh, hình thành của nó, biết điều chỉnh theo hướng lợi cho sự phát triển của xã hội.
Những yếu tố tác động đến dư luận o
Dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc biệt trong đời sống, thể hiện sự quan tâm của
mọi người đối với những vấn đề, sự kiện của cuộc sống và xã hội. Không phải vấn đề nào xuất hiện cũng
tạo thành sóng dư luận mà cũng có những sự kiện hiện tượng bắt đầu rồi chìm dần vào quên lãng và
không để lại một dấu vết nào trong nếp suy nghĩ của người dân. Muốn hình thành và phát triển được dư
luận xã hội phải trải qua nhiều “biến cố”. Chính vì vậy, dư luận xã hội chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi sự tác
động chủ quan và khách quan. o
Dư luận xã hội được hình thành phụ thuộc nhiều vào tính chất, quy mô của các sự kiện,
hiện tượng xã hội. Trong đó, vấn đề lợi ích và số lượng công chúng là quan trọng nhất. Dư luận xã hội
hình thành nhanh hay chậm, mạnh hay yếu, tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào tác động thực tế của nó
đối với nhu cầu, lợi ích của người mang dư luận. o
Dư luận xã hội cũng phụ thuộc mạnh vào trình độ văn hóa, hệ tư tưởng, trình độ hiểu biết
v.v... của chủ thể dư luận xã hội. Nó tác động trực tiếp đến khả năng tiếp nhận và xử lý các thông tin nhận
được theo chiều hướng nào, mức độ nông sâu ra sao... o
Dư luận xã hội còn phụ thuộc vào điều kiện chính trị và mức dân chủ hóa của cá nhân
hay là khả năng người dân được tham gia thực tế vào lĩnh vực của mỗi quốc gia. Dư luận xã hội khi xuất
hiện cần có chỗ đứng và vị thế riêng cho mình. Một quốc gia có đời sống chính trị rối reng, không dân
chủ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hình thành dư luận. Ngược lại, đời sống chính trị ổn định, người
dân được công khai lên tiếng đối với một sự kiện xảy ra thì dư luận xã hội sẽ được hình thành một cách
tích cực và kèm theo đó là những phán xét chân thật và khách quan. o
Trạng thái tâm thế xã hội cũng có tác động đến sự hình thành dư luận xã hội. Tâm thế xã
hội có thể biểu hiện tích cực hay tiêu cực, lạc quan hay chán nản, nồng nhiệt hay ức chế. Tâm thế xã hội
không phản ứng trước những sự kiện mà nó biểu đạt trạng thái tâm lý của người dân đối với vấn đề đang được hình thành. o
Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác có tác động đến sự hình thành dư luận xã hội như:
nhân tố tâm lý như truyền thống đạo đức, tinh thần lao động, thói quen; tâm lý xã hội của các cộng đồng
người; công tác tuyên truyền vận động của chính quyền v.v...
2.1: Những yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
– Tính chất của sự kiện gây nên dư luận ảnh hưởng đến tốc độ và cường độ dư luận:
+ Động chạm đến quyền lợi nhiều người: dư luận hình thành nhanh.
+ Động chạm đến những quyền lợi thiết thân, những chuẩn mực được tôn trọng thì dư luận hình thành nhanh, mạnh.
– Chất lượng và số lượng thông tin về sự kiện ảnh hưởng đến tốc độ hình thành và mức độ đúng đắn phù hợp của dư luận.
+ Thông tin đầy đủ thì dư luận hình thành nhanh.
+ Thông tin chính xác thì dư luận hình thành đúng với bản chất của sự kiện và chuẩn mực chung.
Nếu thông tin thiếu, không rõ ràng, không chính xác dẫn đến sự phán đoán mơ hồ, kéo dài thì dư luận
chưa chắc đã hình thành lúc đó người ta gọi là “tin đồn”.
– Mức độ chuẩn bị của tập thể đối với sự kiện xảy ra ảnh hưởng đến tốc độ hình thành dư luận. Nên tập
thể được chuẩn bị trước về thái độ, tư tưởng, được hướng dẫn thì những sự kiện xảy ra dư luận hình thành
nhanh chóng và đúng đắn. Nếu tập thể bị bất ngờ dư luận khó hình thành, ý kiến dễ bị phân tán. Do đó
nếu đoán trước được luồng tư tưởng trong tập thể sẽ điều khiển được quá trình hình thành dư luận.
– Mức độ phát triển của tập thể ảnh hưởng đến cường độ và tốc độ hình thành dư luận: Tập thể phát triển
cao, đoàn kết, dư luận hình thành nhanh mạnh và ngược lại tập thể mới hình thành, thiếu đoàn kết thì khó có dư luận đúng đắn.
– Nếp nghĩ của mọi người trong tập thể ảnh hưởng đến tính chất của dư luận.
– Nếp nghĩ chủ quan phiến diện, định kiến sẽ dẫn đến phán đoán sai lệch – dư luận không đúng. Nếp nghĩ
toàn diện, không định kiến dư luận sẽ đúng đắn hơn.
– Không khí đạo đức thói quen và tâm trạng chung của cộng đồng cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự
hình thành dư luận xã hội.
Tóm lại: dư luận xã hội là một hiện tượng tinh thần của xã hội, biểu hiện trạng thái ý thức xã hội, là sản
phẩm giao tiếp XH mang tính chất tổng hợp của ý thức xã hội. Dư luận XH không những có khả năng
phản hồi, giáo dục cao, nó còn có khả năng mạnh hơn cả pháp luật, tạo sức ép đối với cá nhân hay tổ chức XH.
3. Các tính chất của dư luận xã hội:
3.1. Tính khuynh hướng:
Hình thức thể hiện chính của dư luận xã hội là sự phán xét, đánh giá, thẩm bình, kiến nghị. Khuynh
hướng chung trong các ý kiến đánh giá và thái độ của công chúng đối với mỗi sự kiện, hiện tượng, quá
trình xã hội bao gồm tán thành, phản đối hay lưỡng lự. Cũng có thể phân chia dư luận xã hội theo các
khuynh hướng như tích cực, tiêu cực; tiến bộ hoặc lạc hậu… Ở mỗi khuynh hướng, thái độ tán thành hoặc
phản đối lại có thể phân chia theo các mức độ cụ thể như rất tán thành, tán thành, lưỡng lự, phản đối, rất phản đối.
Tính khuynh hướng cũng biểu thị sự thống nhất hay xung đột của dư luận xã hội. Xét theo các mức độ tán
thành hoặc phản đối được nêu ở trên, nếu đồ thị phân bố dư luận xã hội có dạng hình chữ U thì biểu thị sự
xung đột khi trong xã hội có hai loại quan điểm mâu thuẫn, đối lập nhau về cùng sự vật, hiện tượng. Nếu
đồ thị có dạng hình chữ J biểu thị sự thống nhất khi trong xã hội chỉ có một loại quan điểm có tỉ lệ số
người ủng hộ cao mà thôi.
Năm 2011, dư luận xã hội xôn xao về vụ án cướp tiệm vàng ở Bắc Giang của tội phạm Lê Văn Luyện và
mức án phạt về ba tội danh: giết người, cướp tài sản, chiếm đoạt tài sản nhưng chỉ bị phạt tù 18 năm do
Luyện chưa đến tuổi thành niên. Theo Điều 18 “Bộ luật dân sự năm 2015” qui định về Người thành niên,
người chưa thành niên thì: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười
tám tuổi là người chưa thành niên”. Và Điều 68 Bộ luật hình sự qui định về chịu trách nhiệm hình sự đối
với người chưa thành niên phạm tội thì: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Trong vụ án này, Lê Văn Luyện sinh ngày 16/10/1993 và ngày gây án là 24/8/2011. Vì vậy, Lê Văn Luyện
chưa đủ 18 tuổi, thuộc trường hợp người chưa thành niên phạm tội. Căn cứ vào điều 69 Bộ luật hình sự
thì: “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội…” Bản án không
mấy bất ngờ bởi nó phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam song cũng có rất nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này.
Nhiều ý kiến cho rằng bản án còn chưa thỏa đáng bởi giết người phải đền mạng. Lê Văn Luyện giết nhiều
người, tội ác man rợ của Luyện phải trả giá bằng mức án cao nhất đó là tử hình. Những người như Luyện
phải loại bỏ khỏi xã hội và nếu cứ đà xét xử tuổi vị thành niên phạm tôi đặc biệt nghiêm trọng mà không
xử được tử hình hoặc chung thân thì xã hội sẽ còn nhiều kẻ xấu tuổi vị thành niên lợi dụng sự chính sách
nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước để gây ra những vụ thảm án dã man hơn, có thể sẽ có nhiều cái chết đau thương hơn.
Nhưng bên cạnh đó, phần đông dư luận đồng tình với bản án này bởi nó tuân theo đúng các quy định,
nguyên tắc của pháp luật hiện hành. Dư luận xã hội cho rằng Luyện đã giết người, không bị tử hình
nhưng cái chết thảm thương của gia đình chủ tiệm vàng sẽ ám ảnh hắn đến cuối đời. Nhưng dù dư luận có
phản ứng như thế nào đi chăng nữa thì Tòa án vẫn buộc phải tuân thủ theo các quy định của Bộ luật hình
sự và điều quan trọng là Nhà nước đặt ra những giải pháp gì để không có những bản sao của Lê Văn Luyện trong tương lai.
Như vậy, ở vụ việc này, dư luận xã hội có hai khuynh hướng tán thành và phản đối. Đồ thị phân bố dư
luận xã hội có dạng chữ U. Sự không thống nhất trong quan điểm, thái độ của dư luận xã hội về vấn đề
nay là do tâm lý, hiểu biết xã hội, trình độ học vấn, hiểu biết, kiến thức pháp luật của mỗi người. 3.2. Tính lợi ích:
Để trở thành đối tượng của dư luận xã hội, các sự kiện, hiện tương xã hội đang diễn ra phải được xem xét
từ góc độ chúng có mối quan hệ mật thiết với lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội. Tính
lợi ích của dư luận xã hội được nhìn nhận trên hai phương diện là lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Lợi
ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra trong xã hội có liên quan chặt chẽ đến hoạt
động kinh tế và sự ổn định cuộc sống của đông đảo người dân.
Gần đây một vấn đề được đông đảo dư luận xã hội quan tâm là Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi Nghị
định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.Do không
thống nhất được việc rút quy định xử phạt xe không chính chủ, Bộ Giao thông vận tải vừa đưa cả 2 luồng
ý kiến khác nhau vào trong Dự thảo Nghị định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
trình Thủ tướng Chính phủ quyết địnhBan soạn thảo đã đưa ra 2 luồng ý kiến khác nhau.
Theo đó, ý kiến 1 cho rằng: Cần tiếp tục quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm nói trên trong Nghị
định lần này để buộc chủ phương tiện phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật về đăng ký
phương tiện. Tuy nhiên, cần mô tả lại hành vi vi phạm và điều chỉnh lại mức phạt cho phù hợp với quy
định của Luật Giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật có liên quan. Ý kiến 2:
Chưa quy định xử phạt đối với các hành vi vi phạm nói trên trong Nghị định lần này, vì qua thực tiễn triển
khai thực hiện Nghị định 71 cho thấy tính khả thi của quy định này chưa cao, chưa nhận được sự đồng
thuận của đại đa số quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, các quy định hiện hành liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu phương tiện (đăng ký lại
phương tiện sau khi được mua, cho, tặng, thừa kế) còn chưa thật sự thuận lợi dẫn đến còn tồn đọng một số
lượng lớn xe chưa chuyển quyền sở hữu.Qua đây có thể thấy, một vấn đề chính phủ đưa ra có nhiều luồng
ý kiến khác nhau. Các vấn đề khác có thể có những cách đánh giá tương tự do công chúng của dư luận xã
hội là những nhóm người khác nhau và họ khác nhau lợi ích vật chất.
Lợi ích tinh thần được đề cập khi các vấn đề, các sự kiện đang diễn ra đụng chạm đến hệ thống các giá trị,
chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán, khuôn mẫu hành vi ứng xử văn hóa của cộng đồng xã hội hoặc của
cả dân tộc. Lợi ích là điều kiện cần để thúc đẩy việc tạo ra dư luận xã hội nhưng quan trọng chính là sự
nhận thức của các nhóm xã hội về lợi ích của mình và mối quan hệ giữa chúng với các sự kiện, hiện
tượng, quá trình xã hội đang diễn ra.
Bản thân nhận thức về lợi ích là một tiến trình biến đổi và phát triển giữa tính cá nhân và tính xã hội, giữa
tính vật chất và tính tinh thần, giữa tính trước mắt và tính lâu dài. Đồng thời, quá trình trao đổi, thảo luận
ý kiến để dẫn đến dư luận xã hội là một quá trình giải quyết mâu thuẫn lợi ích. Khi các luồng thông tin
ảnh hưởng đến các hành động quan tâm của công chúng, dư luận xã hội sẽ hình thành mạnh mẽ và lan truyền nhanh chóng.
Chẳng hạn hiện nay, chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của một số cường quốc trên thế giới như
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đang gặp phải làn sóng phản đối mạnh mẽ của dư luận thế giới vì
nhân loại nhận thức được mối nguy hiểm tiềm tàng, nguy cơ chiến tranh tiêu diệt loài người.
3.3. Tính lan truyền:
Dư luận xã hội được coi như biểu hiện của hành vi tập thể do đó cơ sở của nó là hiệu ứng phản xạ quay
vòng, mà khởi điểm từ cá nhân hay nhóm xã hội nhỏ sẽ gây nên các chuỗi kích thích của các cá nhân
khác, nhóm xã hội khác. Để duy trì chuỗi kích thích này luôn cần các nhân tố tác động lên cơ chế hoạt
động tâm lý của các cá nhân hay nhóm xã hội. Đối với dư luận xã hội, các nhân tố tác động đó có thể
được coi là các thông tin bằng hình ảnh, âm thanh sống động, trực tiếp và có tính thời sự. Dưới tác động
của các luồng thông tin này, các nhóm công chúng khác nhau sẽ cùng được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ
quan tâm của mình thông qua hoạt động trao đổi bàn bạc, tìm kiếm thông tin, cùng chia sẻ trạng hái tâm
lý của mình với người xung quanh.
Đầu năm 2012, làn sóng dư luận trong nước không ngừng bàn luận về vụ án cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên
Lãng, Hải Phòng. Đây là vụ án tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vĩnh Quang và
UBND huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng, bộc lộ những hạn chế trong việc thực thi pháp luật ở các cấp địa
phương, thu hút đông đảo dư luận trong nước. Kết quả của vụ án này là 4 chiến sĩ công an huyện và 2
chiến sĩ thuộc ban chỉ huy quân sư huyện Tiên Lãng bị thương, 6 người dân bị bắt và bị khởi tố, việc thu
hồi đất bị hủy bỏ, một số cán bộ địa phương bị đình chỉ công tác và bị cách chức.
Vụ việc hàm chứa nhiều ý nghĩa chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam, kéo theo phản ứng tức thời và sâu sắc
của báo chí và người dân, người dân với báo chí. Vụ việc này đã khởi nguồn không chỉ từ những tờ báo in
và báo điện tử chuyên về chính trị – xã hội, mà còn lan rộng ra cả nhiều tờ báo chuyên ngành về kinh tế,
khoa học kỹ thuật, giáo dục và nông thôn. Có ý kiến cho rằng Đoàn Văn Vươn đã vi phạm pháp luật tội
chống người thi hành công vụ, nhưng huyện Tiên Lãng đã sai về mặt pháp luật khi tiến hành cưỡng chế ở
vụ án này. Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh nói, trong vụ cưỡng chế này, chính quyền huyện, xã đều
sai và đây là bài học mà chính quyền cả nước phải rút kinh nghiệm. Ông cũng cho rằng “Thành ủy Hải
Phòng và UBND TP Hải Phòng phải có trách nhiệm xử lý, làm sai chỗ nào thì phải nhận sai ở chỗ đó,
không được trả lời loanh quanh và không được che giấu sai phạm.
Trả lời tiền hậu bất nhất là không thể được và sử dụng bộ đội để cưỡng chế với dân là tuyệt đối sai”. Theo
ông Vươn cho biết do “không còn con đường nào khác nên buô Œc phải chống lại. Anh em chúng tôi không
muốn gây chết người tại mảnh đất của mình nên đã cảnh báo trước khi xảy ra vụ cưỡng chế”. Còn người
dân Tiên Lãng đã không giấu nổi niềm vui. Theo họ, kết luận của Thủ tướng đã “phục hồi” niềm tin của
dân vào chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và sự công bằng đã được trả lại cho những người
nông dân quanh năm chân lấm tay bùn.
3.4. Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi:
Dư luận có tính bền vững tương đối lại vừa có tính dễ biến đổi, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với
những sự kiện, hiện tượng hay quá trình quen thuộc, dư luận xã hội thường rất bền vững. Ví dụ cho tính
chất này là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đã có thời kì, có nhiều ý kiến tranh luận về
vấn đề này, nhưng đa số đều thống nhất con đường xã hội chủ nghĩa là duy nhất. Một số bộ phận phản
động Việt quốc, Việt cách đã tìm cách tuyên truyền, thêm thắt, bịa đặt không tốt để chống phá cách mạng
và con đường chủ nghĩa xã hội của ta.
Tuy nhiên, những thông tin không chính xác, phản động đã bị Nhà nước xóa bỏ, khắc phục. Thực tế gần
20 năm đổi mới, những thành tựu về kinh tế, chính trị, khoa học xã hội đã minh chứng một cách rõ nét
nhất về sự lựa chọn của nhân dân, của Đảng là đúng đắn và khẳng định đó là một tất yếu khách quan.
Tính biến đổi của dư luận xã hội thường được xem xét trên hai phương diện sau:
Thứ nhất, biến đổi theo không gian và môi trường văn hóa. Hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang
tồn tại trong nền văn hóa của cộng đồng người quyết định sự phán xét, đánh giá của dư luận xã hội về các
sự kiện, hiện tượng hay quá trình xã hội. Với cùng một sự việc, sự kiện xảy ra, dư luận xã hội ở các cộng
đồng người khác nhau lại thể hiện sự phán xét đánh giá khác nhau. Ví dụ ở Việt Nam, bò được xem là
một con vật nuôi, cung cấp sức kéo, lấy sữa, thịt bò là một món ăn được nhiều người ưa thích. Nhưng đối
với người Ấn Độ theo đạo Hin đu thì bò là một loài vật thiêng, những tín đồ ăn thịt bò sẽ bị dư luận lên án một cách gay gắt.
Thứ hai, biến đổi theo thời gian: Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều giá trị văn hóa, chuẩn mực xã
hội, phong tục tập quán có thể bị biến đổi ngay trong cùng một nền văn hóa-xã hội dẫn đến sự thay đổi
trong cách nhìn nhận, đánh giá của dư luận xã hội. Chẳng hạn như thời phong kiến, chế độ đa thê-người
đàn ông cùng lúc có thể có nhiều vợ được dư luận xã hội dễ dàng chấp nhận, nhưng thời đại ngày nay thì
không. Hôn nhân hiện đại là chế độ một vợ một chồng, người đàn ông nào cùng lúc có nhiều vợ là vi
phạm pháp luật và bị xã hội lên án.
Phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể, dư luận xã hội còn biến đổi theo đối tượng của phán xét, đánh giá khi công
chúng phát hiện thêm các mối liên quan giữa đối tượng ban đầu với các sự kiện, hiện tượng, quá trình
diễn ra kèm theo nó. Mặt khác, xuất phát từ các phán xét, đánh giá bằng lời, dư luận xã hội có thể chuyển
hóa thành các hành động mang tính tự phát hoặc có tổ chức để thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối
của mình. Chẳng hạn như dư luận cảm thông, đồng cảm với hoàn cảnh của những trẻ em mồ côi, khuyết
tật (thể hiện bằng ý kiến), đồng thời, chính người dân đã quyên góp từ thiện (thể hiện bằng hành động) để
giúp những trẻ em rơi vào hoàn cảnh này.
Dư luận xã hội về những vấn đề của đời sống xã hội có thể ở trạng thái tiềm ẩn, không bộc lộ bằng lời (dư
luận của đa số im lặng). Trong những xã hội thiếu dân chủ, dư luận xã hội đích thực thường tồn tại dưới
dạng tiềm ẩn. Trong xã hôi cũng có những dư luận xã hội tiềm ẩn về những sự việc, sự kiện sắp tới chưa
xảy ra. Ví dụ trong thời kì phong kiến, tầng nông dân luôn bị áp bức, bóc lột nhưng không ai dám lên
tiếng. Người dân đều oán giận, căm ghét giai cấp đại chủ, vua chúa phong kiến nhưng không thể hiện ra ngoài.
3.5. Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội:
Sự phản ánh của dư luận xã hội có thể đúng hoặc sai do đó không nên tuyệt đối hóa khả năng nhận thức
từ dư luận xã hội. Chân lý của dư luận xã hội không phụ thuộc vào tính chất phổ biến của nó. Không phải
lúc nào dư luận của đa số cũng đúng hơn của thiểu số. Cái mới lúc đầu thường chỉ có một số người nhận
thấy, do đó dễ bị đa số phản đối. Đối với những vấn đề trừu tượng, phức tạp, dư luận của giới trí thức, của
những người có trình độ học vấn cao thường chín chắn hơn so với những người có trình độ học vấn thấp.
Chẳng hạn khi nói về chế độ chính trị ở Việt Nam, một số bộ phận phản động đã tuyên truyền về việc ở
Việt Nam chỉ có một chính Đảng lãnh đạo, điều đó sẽ tạo ra sự độc quyền, chuyên chế, hạn chế tính dân
chủ. Những dư luận chúng tạo ra làm ảnh hưởng đến quốc gia, dân tộc và đi sai lệch định hướng của
Đảng và Nhà nước. Nhưng một số ít công dân thiếu hiểu biết đã tin vào dư luận do bọn phản cách mạng
tạo ra gây ảnh hưởng xấu đến xã hội, lan truyền những dư luận sai lệch. Như vậy, không phải thông tin
nào của dư luận xã hội đều đúng tuyệt đối. Trình độ học vấn, hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến dư luận
xã hội quyết định tính chất tốt xấu, lợi hại của dư luận xã hội.