



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60701415  
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC 
1.1.Một số khái niệm cơ bản 
1.1.1. Quản lí giáo dục 
Hệ thống giáo dục, mạng lưới nhà trường là bộ phận kết cấu hạ tầng xã hội, do vậy, 
quản lí giáo dục là quản lí một quá trình kinh tế xã hội nhằm thực hiện đồng bộ, hài hòa 
sự phân hóa xã hội để tái sản xuất sức lao động có kĩ thuật phục vụ các yêu cầu của 
nhân dân, của đất nước. 
Khái niệm quản lí giáo dục hiện nay có thể hiểu theo 2 cấp độ: 
Ở cấp độ hệ thống có thể hiểu: Quản lí giáo dục là những tác động có mục đích, có kế 
hoạch của chủ thể quản lí giáo dục ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ 
thống giáo dục nhằm đảm bảo cho hệ thống giáo dục vận hành bình thường và liên tục 
phát triển, mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng. 
Ở cấp độ trường học có thể hiểu: Quản lí giáo dục là hệ thống các tác động có tổ chức, 
có hướng đích của chủ thể quản lí nhà trường đến tập thể giáo viên, nhân viên, học sinh, 
cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có 
chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục. 
1.1.2. Quản lí nhà trường 
- Quản lí nhà trường là quản lí vi mô, nó là một hệ thống con của quản lí vĩ mô: Quản 
lí giáo dục, quản lí nhà trường có thể hiểu là một chuỗi tác động hợp lí (có mục đích, tự 
giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức - sư phạm của chủ thể quản lí đến tập 
thể GV và HS, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động 
họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho 
quá trình này vận hành tối ưu để đạt được những mục tiêu dự kiến. 
Quản lí nhà trường bao gồm 2 loại: 
Tác động của những chủ thể quản lí bên trên và bên ngoài nhà trường: 
Quản lí nhà trường là những tác động quản lí của cơ quan QLGD cấp trên nhằm hướng 
dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập của nhà trường. Quản lí cũng 
gồm những chỉ dẫn, quy định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan 
trực tiếp đến nhà trường như cộng đồng được đại diện dới hình thức hội đồng GD nhằm      lOMoAR cPSD| 60701415
định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện 
phương hướng phát triển đó. 
Tác động của những chủ thể quản lí bên trong nhà trường: 
Quản lí nhà trường do chủ thể quản lí bên trong nhà trường, bao gồm các hoạt động:  + Quản lí giáo viên  + Quản lí học sinh 
+ Quản lí quá trình dạy học, giáo dục 
+ Quản lí cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường 
+ Quản lí tài chính trường học 
+ Quản lí mối quan hệ giữa nhà trường với cộng đồng. 
1.1.3. Quản lí giáo dục trên cơ sở quản lí nhà trường 
Quản lí giáo dục trên cơ sở quản lí nhà trường là một phương hướng cải tiến quản lí 
giáo dục theo hướng tăng cường phân cấp quản lí nhà trường cho các chủ thể quản lí 
bên trong nhà trường với các quyền hạn và trách nhiệm rộng hơn để thực hiện nguyên 
tắc giải quyết vấn đề tại chỗ. 
Các nội dung chủ yếu của quản lí giáo dục trên cơ sở quản lí nhà trường bao gồm: 
- Nhà trường là thực thể trung tâm của bất kỳ sự biến đổi nào trong hệ thống giáo dục. 
- Nhà trường tự chủ giải quyết những vấn đề sư phạm - kinh tế - xã hội của mình với sự 
tham gia tích cực và có trách nhiệm của những thực thể hữu quan ngoài nhà trường. - 
Nâng cao trách nhiệm và tính tự quản của mỗi giáo viên. 
- Hình thành các cơ cấu cần thiết và thiết thực để các thực thể hữu quan ngoài nhà 
trường có thể thực sự tham gia vào việc điều phối công việc của nhà trường. Đồng thời 
tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của giáo viên tham gia quá trình ra quy định QL  trong nhà trường. 
- Hình thành các thiết chế, hỗ trợ về tài chính và nguồn lực cần thiết khác để GV thực 
sự tham gia công việc QL nhà trường. Hình thành cơ chế phân cấp quản lý tài chính, 
nhân sự, thậm chí cả việc cải tiến nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp với đặc 
điểm cụ thể của nhà trường. 
- Hình thành và hoàn thiện hệ thống thông tin giữa các thực thể trong và ngoài nhà 
trường, tham gia trực tiếp vào các hoạt động QL nhà trường.    lOMoAR cPSD| 60701415
- Xây dựng môi trường GD trong nhà trường và xây dựng nhà trường thành một hệ 
thống mở, nhằm công khai hóa các hoạt động của nhà trường. 
- Hình thành thiết chế đánh giá kết quả hoạt động sư phạm của nhà trường dựa trên 
những thực thể trực tiếp tham gia quá trình sư phạm và quá trình quản lí nhà trường. 
1.2. Đặc điểm, bản chất và nội dung của quản lý giáo dục 
1.2.1. Đặc điểm của quản lí giáo dục 
a) Quản lí giáo dục bao giờ cũng có chủ thể quản lí giáo dục và đối tượng quản lí giáo  dục 
Đây là đặc điểm cơ bản, đầu tiên của quản lí nói chung và quản lí giáo dục nói riêng. 
Chủ thể quản lí giáo dục ở đây có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Quản lí giáo dục là quản 
lí việc đào tạo con người, việc hình thành và hoàn thiện nhân cách, việc tái sản xuất 
nguồn nhân lực. Đối tượng quản lí giáo dục là những ai thực hiện hoặc nhận sự giáo 
dục và đào tạo, các hoạt động giáo dục và đào tạo, các điều kiện thực hiện hoạt động 
giáo dục và đào tạo... Lưu ý rằng sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối. Khi 
xét đến chủ thể hay đối tượng quản lí giáo dục cần đặt trong các phạm vi và các mối 
quan hệ quản lí cụ thể để xác định. 
b) Quản lí giáo dục bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và có mối liên hệ  ngược 
Cũng như quản lí các lĩnh vực khác, quản lí giáo dục được diễn ra nhờ các tín hiệu của 
mình, đó là thông tin. Thông tin chính là các tín hiệu mới, được thu nhận, được hiểu và 
đánh giá là có ích cho các hoạt động quản lí giáo dục (cho cả chủ thể và đối tượng). Chủ 
thể muốn tác động lên đối tượng thì phải đưa ra các thông tin (mệnh lệnh, chỉ thị, nghị 
quyết, quyết định...) đó chính là thông tin điều khiển. Còn đối tượng muốn định hướng 
hoạt động của mình thì phải tiếp nhận các thông tin điều khiển của cấp trên (chủ thể) 
cùng các bảo đảm vật chất khác để tính toán và tự điều khiển lấy mình. Đối với chủ thể 
quản lí, sau khi đã đưa ra quyết định cùng các bảo đảm vật chất cho đối tượng thực hiện, 
thì họ phải thường xuyên theo dõi kết quả thực hiện các quyết định của đối tượng thông 
qua các thông tin phản hồi (được gọi là các mối quan hệ ngược) của quản lí. 
Quá trình trao đổi thông tin trong quản lí giáo dục đó chính là quá trình truyền đạt các 
văn bản, chỉ thị, quyết định... từ đó các cơ quan quản lí cấp trên đến các đối tượng quản 
lí để điều hành, điều chỉnh các hoạt động trong hệ thống; đó cũng là quá trình cung cấp      lOMoAR cPSD| 60701415
thông tin phản hồi từ các đối tượng quản lí giáo dục về tình hình thực hiện các kế hoạch, 
các chỉ thị, quyết định, về kết quả cụ thể các hoạt động giáo dục, các kiến nghị đề xuất 
với chủ thể quản lí giáo dục... để đảm bảo các điều kiện cho các hoạt động giáo dục  diễn ra có hiệu quả. 
c) Quản lí giáo dục bao giờ cũng có khả năng thích nghi 
Đặc điểm này chỉ rõ: Khi đối tượng quản lí mở rộng về quy mô, phức tạp về các mối 
quan hệ thì không phải chủ thể quản lí chịu bó tay, mà nó vẫn có thể tiếp tục quản lí có 
hiệu quả nếu được đổi mới quá trình điều hành thông qua việc cấu trúc lại hệ thống và 
việc ủy quyền quản lí cho các cấp trung gian. Việc thực hiện các cuộc cải cách giáo dục, 
thực hiện phân cấp trong quản lí giáo dục, việc ban hành, điều chỉnh Luật Giáo dục, 
Điều lệ các nhà trường cho phù hợp với tình hình mới... đó chính là quá trình quản lí 
biến đổi để thích nghi. 
Ngược lại, khi chủ thể quản lí giáo dục thay đổi những tác động quản lí thì các đối tượng 
quản lí giáo dục cũng biến đổi để thích nghi với những thay đổi đó. d) Quản lí giáo dục 
vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật và là một nghề Đây là một đặc điểm quan trọng của  quản lí giáo dục. 
Nói quản lí giáo dục là một khoa học vì quản lí giáo dục có đối tượng nghiên cứu riêng 
là các mối quan hệ quản lí giáo dục, các quy luật, các nguyên tắc quản lí giáo dục... 
Quản lí giáo dục còn có phương pháp luận nghiên cứu chung và riêng, đó là quan điểm 
triết học Mác - Lênin, quan điểm hệ thống... Phương pháp nghiên cứu của quản lí giáo 
dục là phương pháp phân tích, phương pháp toán kinh tế, phương pháp điều tra xã hội 
học, các phương pháp tâm lí... 
Ngày nay, người cán bộ quản lí giáo dục muốn quản li tốt phải được trang bị những tri 
thức cần thiết về Khoa học quản lí. Điều này đã được Nhà nước ta ghi rõ trong Luật 
Giáo dục tại Điều 54: “Hiệu trưởng các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân phải 
được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lí trường học”. Có nghĩa là muốn làm cán 
bộ quản lí thì phải học, không thể làm theo “kinh nghiệm chủ nghĩa”. Khi Khoa học 
quản lí xuất hiện và ngày càng hoàn thiện thì tất yếu nhà quản lí giáo dục phải vận dụng 
nó để phục vụ lợi ích của tổ chức mình. 
Quản lí giáo dục đồng thời là một nghề thuật vì sự thành công của quản lí giáo dục còn 
tùy thuộc vào một phần vào tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ của người quản lí. Nghệ    lOMoAR cPSD| 60701415
thuật quản lí giáo dục được hiểu là sự tích hợp của khoa học giáo dục, khoa học quản lí 
giáo dục, kinh nghiệm quản lí và sự sáng tạo của chủ thể quản lí. Nghệ thuật quản lí 
được thể hiện qua kĩ năng sử dụng phương pháp quản lí, kĩ năng giao tiếp, ứng xử, kĩ 
năng tập hợp quần chúng... nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục đề  ra. 
Quản lí giáo dục là hoạt động mang tính nghề nghiệp với nghĩa là các nhà quản lí giáo 
dục phải có tri thức với các kĩ năng nghề nghiệp phù hợp với lĩnh vực quản lí. Tri thức 
ấy có thể qua tự học, tự tích lũy và qua quá trình được đào tạo ở các cấp độ khác nhau, 
hoặc ít nhất họ phải có các chuyên gia về quản lí làm trợ lí. 
e) Quản lí giáo dục gắn với quyền lực, lợi ích và danh tiếng 
Người quản lí giáo dục có ưu thế quan trọng trong tổ chức, họ có khả năng điều khiển 
người khác và chi phối các nguồn lực của tổ chức. Người quản lí còn là người có điều 
kiện thuận lợi nhất để thực hiện các mong muốn của mình thông qua việc điều hành 
người khác bằng việc dẫn dắt, thu hút, lôi kéo họ nhằm thực hiện mục tiêu chung của 
tổ chức. Người quản lí đồng thời dễ để lại danh tiếng trong cộng đồng nếu họ dẫn dắt 
tổ chức của mình phát triển. Một nhà trường tốt, thành công ở một giai đoạn cụ thể gắn 
liền với tên tuổi của người đứng đầu nhà trường hay người đem đến thành công thời 
điểm đó và ngược lại. 
f) Quản lí giáo dục phải ngăn ngừa sự rập khuôn máy móc trong quá trình tạo ra sản 
phẩm cũng như không cho phép có sản phẩm hỏng 
Sản phẩm của quá trình giáo dục là con người. Quản lí giáo dục là quá trình hình thành 
và phát triển nhân cách con người. Mà con người luôn là thực thể đa dạng và biến đổi, 
nên quản lí giáo dục phải thực hiện quá trình tác động phù hợp với từng cá nhân, đảm 
bảo cá thể hóa hoạt động dạy học - giáo dục, phát triển tối đa tiềm năng của mỗi con 
người. Điều này hoàn toàn khác với việc quản lí quá trình tạo ra các sản phẩm khác. 
1.2.2. Bản chất và nội dung quản lí giáo dục 
a) Bản chất của quản lí giáo dục 
Từ các đặc điểm của quản lí giáo dục, có thể xác định bản chất của hoạt động này dưới 
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau:      lOMoAR cPSD| 60701415
- Theo tiếp cận hướng vào con người, quản lí giáo dục thực chất là quản lí con người. 
Đó là quản lí quá trình giáo dục và đào tạo con người theo mục tiêu phát triển đất nước,  phát triển xã hội. 
- Theo tiếp cận thông tin, thực chất quản lí giáo dục là quá trình thu thập, xử lí, truyền 
đạt và lưu trữ thông tin để đảm bảo cho các hoạt động giáo dục được diễn ra liên tục và  không ngừng phát triển. 
- Theo quan điểm tiếp cận hệ thống, quản lí giáo dục là quá trình tiếp nhận “đầu vào” 
của hệ thống/cơ sở giáo dục, thực hiện quá trình biến đổi để được “đầu ra” của hệ 
thống/cơ sở giáo dục là những nhân cách phát triển hài hòa theo yêu cầu phát triển đất  nước. 
b) Nội dung của quản lí giáo dục 
Quản lí giáo dục/quản lí nhà trường như một khoa học, không những phải xem xét chủ 
thể quản lí phải làm gì, mà còn phải xem xét những tác động từ các chủ thể quản lí giáo 
dục hướng vào đâu. Nói cách khác, cần phải xem xét tới các thành tố của một hệ thống 
chịu sự tác động của chủ thể quản lí giáo dục. Có thể xem xét hệ thống này trên 2 
phương diện: quản lí vĩ mô và quản lí vi mô. 
- Theo phương diện quản lí vĩ mô, quản lí giáo dục là quản lý hệ thống giáo dục quốc 
dân và các hoạt động nhiều mặt của các cơ quan giáo dục và những người đứng đầu 
cơ sở giáo dục. Ở cấp độ này có thể thấy quản lí giáo dục là quản lý 6 yếu tố: nhà 
trường/cơ sở giáo dục; người dạy, người học, cơ sở vật chất, tài chính và quá trình giáo  dục. 
- Theo phương diện quản lí vi mô: thực chất quản lí nhà trường là quản lí các thành tố 
của quá trình giáo dục: mục tiêu giáo dục, phương pháp giáo dục, người dạy, người 
học, cơ sở vật chất, hình thức giáo dục và kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục. Như 
vậy, dù tiếp cận ở phương diện nào thì hoạt động quản lí giáo dục đều hướng đến thực  hiện các mục tiêu sau: 
- Thứ nhất, đảm bảo thực hiện tốt các kế hoạch phát triển và hoàn chỉnh hệ thống giáo  dục; 
- Thứ hai, đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường/cơ sở giáo dục theo 
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện đầy    lOMoAR cPSD| 60701415
đủ kế hoạch, chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục trên cơ sở phát huy vai 
trò định hướng, dẫn dắt, cố vấn của người dạy, tính tích cực chủ động của người học; 
- Thứ ba, bảo đảm việc huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục; 
- Thứ tư, tạo nên và đảm bảo sự cân đối giữa nhiệm vụ giáo dục và các điều kiện vật 
chất cho việc thực hiện; 
Quản lí giáo dục phải thường xuyên giải quyết tính cân đối và kết hợp trong các mối 
quan hệ sau: Sự cân đối và kết hợp thống nhất giữa giáo dục và dạy học, giữa lí luận và 
thực hành, giữa phát triển trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ...; Sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực 
lượng giáo dục nhà trường - gia đình - xã hội; Sự kết hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa địa 
phương, cơ sở giáo dục để tạo ra môi trường sư phạm thuận lợi cho việc giáo dục; Sự 
kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động giáo dục trong nhà trường với các nhiệm vụ giáo dục 
và điều kiện cơ sở vật chất, tài chính, điều kiện tinh thần của người dạy, người học... 
1.3. Mục tiêu quản lý giáo dục 
1.3.1. Khái niệm 
- Mục tiêu quản lý giáo dục là trạng thái được xác định tại một thời điểm cụ thể trong 
tương lai của đối tượng quản lý giáo dục hoặc của một số yếu tố cấu thành nó. Từ định 
nghĩa về mục tiêu quản lý nêu trên, ta có thể xác định được hai đặc điểm về trạng thái 
của mục tiêu quản lý giáo dục như sau: một là, trạng thái của mục tiêu là trạng thái chưa 
có (trạng thái mong muốn) hoặc đang có mà ta muốn đạt tới hoặc muốn duy trì (trạng 
thái cần phải có). Từ đặc điểm này cho thấy mục tiêu của mỗi trường học hay của hệ 
thống giáo dục thường mang tính lý thuyết cao hoặc kỳ vọng của những người quản lý 
đối với các đối tượng được quản lý. Do đó khi lựa chọn mục tiêu, người quản lý phải 
xác định khoảng cách giữa “lí thuyết” hoặc “kì vọng” với thực trạng của đơn vị sao cho 
mục tiêu có tính khả thi. Hai là, trạng thái của mục tiêu quản lí là trạng thái chỉ có được 
thông qua tác động quản lí và sự vận động của các đối tượng quản lí, bởi lẽ, sự nghiệp 
của mỗi người hay của bất kỳ hệ thống nào đều phải do chính họ tự thân vận động và 
không có ai có thể làm thay cho họ được. 
1.3.2. Hệ thống mục tiêu quản lí giáo dục 
Hệ thống mục tiêu quản lí giáo dục bao gồm những vấn đề cơ bản sau:      lOMoAR cPSD| 60701415
+ Đảm bảo quyền học tập của học sinh các ngành học, cấp học, lớp học đúng chỉ tiêu, 
đúng tiêu chuẩn. Thực hiện phổ cập giáo dục. Đảm bảo yêu cầu chất lượng và hiệu quả  đào tạo. 
+ Phát triển tập thể sư phạm đủ, đồng bộ và nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp 
vụ và đời sống. Đảm bảo quyền lao động của các cán bộ công chức và chất lượng lao  động. 
+ Xây dựng, sử dụng và bảo quản tốt cơ sở vật chất, trang thiết bị kĩ thuật phục vụ việc  dạy và học. 
+ Xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lí và các tổ chức chính trị, đoàn thể trong mỗi 
cơ sở và hệ thống quản lí giáo dục. 
+ Phát triển và hoàn thiện các mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục và xã hội để làm tốt 
công tác giáo dục thế hệ trẻ. 
Như vậy, hệ thống mục tiêu quản lí giáo dục là một hệ mục tiêu rất phức tạp đề cập tới 
các hoạt động của trường học cũng như các điều kiện cần thiết cho quá trình sư phạm 
diễn ra ở cơ sở giáo dục cũng như các hệ thống giáo dục khác. Việc xây dựng hệ thống 
mục tiêu quản lí giáo dục phải dựa trên cơ sở phân loại mục tiêu và nắm vững các đặc 
điểm của hệ thống mục tiêu quản lí. 1.3.3. Đặc điểm của mục tiêu quản lí giáo dục 
1.3.3.1. Mục tiêu có tính phân cấp và tạo thành mạng lưới mục tiêu 
Quản lí một đối tượng phức tạp và có qui mô rộng lớn như hệ thống giáo dục thì bộ máy 
quản lí giáo dục cũng có cấu trúc phức tạp tương ứng. Bộ máy có cấu trúc phức tạp và 
chia thành nhiều cấp. Chẳng hạn trong quản lí giáo dục có 4 cấp: Bọ Giáo dục và Đào 
tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục - đào tạo và cấp cơ sở quản lí trường học, 
mỗi cấp lại có thể chia thành nhiều bộ phần. Mỗi cấp, mỗi bộ phận trong nhiệm vụ công 
tác của mình ở mỗi giai đoạn đều có những mục tiêu khác nhau. Mục tiêu của cấp trên 
định hướng cho các hoạt động của cấp dưới, song nhiều khi mục tiêu của cấp trên muốn 
thực hiện được nhiều khi phụ thuộc vào việc thực hiện mục tiêu của cấp dưới vì mục 
tiêu của cấp dưới chủ yếu phải phục vụ cho mục tiêu của cấp trên và là bộ phận của mục  tiêu cấp trên. 
Như vậy, mục tiêu của hệ thống giáo dục lập thành một hệ thống mục tiêu phân cấp, 
trong đó, mục tiêu của cơ quan quản lí giáo dục cấp trên là mục tiêu chung cho toàn bộ    lOMoAR cPSD| 60701415
hệ thống, cấp dưới và từng đơn vị có mục tiêu riêng của từng cấp, từng đơn vị. Các mục 
tiêu chung và mục tiêu riêng hợp thành một mạng lưới các kết quả và các trạng thái (sự 
kiện) mong muốn. Người quản lí cần quan tâm đến sự liên hệ giữa các mục tiêu trong 
mạng lưới sao cho kết quả của các mục tiêu bộ phận hợp thành mục tiêu chung, đồng 
thời khắc phục những mâu thuẫn có thể có giữa các mục tiêu hoặc giữa các biện pháp 
để thực hiện các mục tiêu giữa các cấp quản lí hoặc giữa các bộ phận chức năng của  từng cấp quản lí. 
Điều cần thiết và lí tưởng là làm sao để có được một mạng lưới mục tiêu phối hợp, hỗ  trợ nhau. 
Ở những đối tượng tuy phức tạp nhưng có qui mô nhỏ thường có cấu trúc bộ máy đơn 
giản. Trong trường hợp này, nhiều mục tiêu khác nhau của những mặt hoạt động khác 
nhau do một bộ phận của tổ chức hoặc thậm chí do một người xác định và triển khai 
thực hiện, do đó việc thống nhất và phối hợp giữa các mục tiêu quản lí thuận lợi hơn. 
1.3.3.2. Mục tiêu quản lí giáo dục là một hệ gồm nhiều mục tiêu (đa mục tiêu) Thoạt 
đầu nhiều nhà giáo dục và quản lí giáo dục cho rằng trường học và hệ thống giáo dục 
chỉ có một mục tiêu: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn 
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng 
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và 
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 2, Luật 
Giáo dục). Để thực hiện được mục tiêu giáo dục đó, mục tiêu quản lí giáo dục/ quản lí 
trường học phải bao gồm nhiều mục tiêu như mục tiêu về xây dựng đội ngũ sư phạm, 
về cơ sở vật chất, về tổ chức và quản lí,... do đó nảy sinh tính đa mục tiêu. 
Như ở phần trên đã đề cập đến, mỗi cấp, mỗi bộ phận, mỗi hệ thống quản lí đều có nhiều 
mục tiêu, đã có nhiều chuyên gia quản lí tìm cách xác định số lượng mục tiêu thích hợp. 
Tuy nhiên chưa có con số nào có tính thuyết phục. Do vậy, trong mọi trường hợp số 
lượng mục tiêu phải tùy thuộc vào khả năng của người quản lí có thể bao quát, tự làm 
được những mục tiêu nào và phân công, phân cấp cho cấp dưới thực hiện những mục 
tiêu nào trong sự giám sát, kiểm tra cần thiết. 
Trong công tác kế hoạch của từng cơ sở giáo dục, muốn xây dựng và thực hiện các kế 
hoạch một cách có hiệu quả thì cần phải xác định rõ mục tiêu trước mắt (mục tiêu ngắn      lOMoAR cPSD| 60701415
hạn), mục tiêu lâu dài (mục tiêu dài hạn), trong đó người quản lí cần xác định được mục 
tiêu ưu tiên để tập trung mọi khả năng thực hiện dứt điểm những mục tiêu quan trọng. 
Vì vậy, để đảm bảo thực hiện được các kế hoạch người ta thường phải bắt đầu bằng xây 
dựng các mục tiêu và kế hoạch dài hạn rồi lùi dần về hiện tại với các mục tiêu ngắn hạn. 
Như vậy, việc thực hiện các mục tiêu ngắn hạn sẽ đảm bảo đạt tới mục tiêu dài hạn bằng 
cách phối hợp những kế hoạch ngắn hạn thành một kế hoạch dài hạn một cách chặt chẽ,  loogic và khả thi. 
1.3.3.3. Mục tiêu quản lí giáo dục bao giờ cũng có cả các mục tiêu định tính và mục  tiêu định lượng 
Muốn có ý nghĩa và khả thi mục tiêu phải xác đáng. Cách dễ nhất để có được sự xác 
đáng là đề ra các mục tiêu dưới dạng định lượng. Tuy nhiên có nhiều mục tiêu không 
thể định lượng được một cách hợp lý. Đặc biệt là ở cấp quản lí càng cao thì mục tiêu 
càng khó định lượng. Trong những trường hợp đó phải xác định các mục tiêu định tính. 
Nhiều mục tiêu định tính cũng xác đáng tuy rằng nó không cụ thể và không chính xác 
bằng mục tiêu định lượng. Trong thực tiễn công tác, bước đầu tiên trong việc xác định 
mục tiêu của nhà quản lý ở các cấp quản lí giáo dục thường là việc đề xuất các mục tiêu 
định tính, sau đó mới cố gắng tìm cách định lượng hóa các mục tiêu có thể lượng hóa  được. 
1.3.3.4. Ngân sách được xem là một mục tiêu quản lý 
Thường mục tiêu được coi như các kết quả của các nhiệm vụ phải thực hiện. Nhưng 
nhiều chuyên gia quản lí giáo dục đã thấy rất rõ là mọi mục tiêu có đạt được hay không 
đều phụ thuộc vào một ngân quĩ đã được tính toán kĩ và được cung cấp đúng kế hoạch. 
Chính vì vậy, ngân quĩ lại trở thành mục tiêu số một của mọi nhà quản lí giáo dục các  cấp. 
Đây là mục tiêu mà các nhà quản lí giáo dục cần lưu ý và cần am hiểu. Mỗi kế hoạch 
công tác nhằm thực hiện một hệ thống mục tiêu cần đi liền với một ngân quĩ đủ đảm 
bảo để biến các mục tiêu thành hiện thực. Ngày nay, trong thực tế công tác có nhiều 
nhà quản lí giáo dục đã phải mất rất nhiều công sức để “tìm” tiền cho việc thực hiện 
các mục tiêu quản lí. Tiền vừa là mục tiêu lại vừa là phương tiện để thực hiện mục tiêu  quản lý khác.    lOMoAR cPSD| 60701415
1.3.4. Các phương pháp xác định mục tiêu quản lí giáo dục 
1.3.4.1. Những căn cứ để xác định mục tiêu quản lí giáo dục 
Có 4 căn cứ để xác định mục tiêu quản lí giáo dục: 
Thông thường, căn cứ để xác định mục tiêu quản lí của mỗi cơ sở giáo dục được bắt 
đầu từ việc xác định nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng vùng lãnh 
thổ hay của từng địa phương. Đây là tiêu chí quan trọng để xác định đơn đặt hàng của 
kinh tế - xã hội đối với giáo dục và cũng là cơ sở để xác định hướng đi lâu dài của giáo  dục. 
Căn cứ thứ hai là nhu cầu phát triển giáo dục của đất nước, cộng đồng, lãnh thổ hay của 
địa phương. Những nghị quyết của Đảng, Nhà nước và của ngành về phát triển giáo dục 
là cơ sở để xác định nhu cầu này. Từ những nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà 
nước và chỉ thị của ngành, người quản lí từng cấp và từng cơ sở hay từng bộ phận phải 
khẳng định được những mục tiêu mang tính tiên quyết trong định hướng các hoạt động 
và những mục tiêu phấn đấu của hệ thống và của từng đơn vị. 
Ngoài ra, nhu cầu giáo dục của địa phương, vùng lãnh thổ còn được xác định thông qua 
các điều tra xã hội học, xem xét vấn đề dân số, phân bổ nhân khẩu trong vùng để có 
những dự báo chính xác về nhu cầu phát triển giáo dục của địa phương và vùng lãnh  thổ. 
Sau khi tìm hiểu những căn cứ một và hai sẽ dự kiến được một hệ thống các mục tiêu 
quản lí giáo dục, người quản lý dân chủ thường cho phép cấp dưới hoặc từng đơn vị 
thảo luận, phân tích xem những mục tiêu đã dự kiến có xác đáng không, bộ phận của 
họ có thể tham gia thực hiện những mục tiêu nào hoặc cho phép họ kiến nghị điều chỉnh 
những mục tiêu cho thích hợp và xác đáng hơn. Quá trình thảo luận này sẽ nảy sinh 
nhiều sáng kiến, đôi khi tìm ra được những cơ hội chưa hề biết đến. Thật sai lầm nếu 
như người quản lý có trách nhiệm lại dùng mệnh lệnh áp đặt các mục tiêu cho hệ thống 
hoặc cho từng cấp hay cho từng cơ sở giáo dục. 
Căn cứ thứ ba là việc đánh giá hiện trạng của nhà trường hay hệ thống giáo dục trong 
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cũng như các điều kiện đặc trưng khác ở địa phương 
hay trong phạm vi từng vùng, hoặc toàn lãnh thổ quốc gia. Trên cơ sở đánh giá hiện 
trạng phát triển giáo dục mà tìm ra được những mặt mạnh cũng như những bức xúc của      lOMoAR cPSD| 60701415
nhà trường, của giáo dục, tìm nguyên nhân và hướng khắc phục. Căn cứ thứ tư là những 
điều kiện về nhân lực, vật lực, tài lực và quĩ thời gian để đảm bảo việc thực hiện các 
mục tiêu. Khi xem xét những điều kiện về nguồn lực và thời gian, cần lưu ý rằng, số 
đông các nhà quản lý ở cấp dưới bao giờ cũng đòi hỏi nhiều nguồn lực và thời gian lớn 
hơn mức cần thiết để thực hiện các mục tiêu. Để tính toán và cân đối được chính xác 
người ta phải lấy mục tiêu giáo dục làm nền tảng, rồi từ đó xem xét tới các mục tiêu  điều kiện khác. 
1.3.4.2. Phương pháp xác định mục tiêu quản lí giáo dục 
Để xác định và lựa chọn mục tiêu quản lí giáo dục có thể có nhiều nhóm phương pháp 
khoa học khác nhau, phương pháp thông dụng trong thực tiễn quản lí giáo dục là một 
số nhóm phương pháp sau đây: 
- Phương pháp tiếp cận ngoại suy: Bản chất của phương pháp này là phân tích, đánh giá 
tính hiện thực của mục tiêu. 
+ Người quản lý cần xác định hệ thống mục tiêu theo 3 tiêu chí: mục tiêu phải thực hiện, 
mục tiêu cần thực hiện (hay mục tiêu phấn đấu) và mục tiêu nên làm. Trên cơ sở hệ mục 
tiêu đã xác định và điều kiện về nguồn lực và thời gian cho phép mà quyết định những 
mục tiêu cho cơ sở hay từng cấp thực hiện. 
+ Để thực hiện phương pháp này có thể thực hiện một trình tự 4 bước như sau: 
B1: Lựa chọn những trạng thái tất yếu, có tính qui luật và mong đợi, coi đó là bộ phận 
cấu thành của mục tiêu quản lí. Chẳng hạn những mục tiêu về phát triển số lượng cũng 
như mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục... 
B2: Lựa chọn những trạng thái có thể có và mong đợi, tìm biện pháp nhập chúng vào 
mục tiêu quản lí. Tạo thêm điều kiện để biến cái có thể thành cái tất yếu. Chẳng hạn 
những mục tiêu mong muốn về xây dựng và phát triển đội ngũ sư phạm hoặc mục tiêu 
mong đợi về cơ sở vật chất thiết bị dạy học... 
B3: Xác định những trạng thái tất yếu hoặc có thể có nhưng không mong đợi, tìm cách 
hạn chế chúng trong mục tiêu quản lí bằng biện pháp, phương tiện nhất định. B4: Xác 
định những trạng thái mong muốn nhưng không thể có một cách khách quan và không 
đưa những trạng thái đó vào mục tiêu quản lí. 
+ Ma trận lựa chọn mục tiêu vào khả năng và trạng thái của đơn vị.    lOMoAR cPSD| 60701415
Việc xác định mục tiêu theo phương pháp này có thể tiến hành qua việc lập bảng ma  trận như sau:  Trạng thái  Không  Tất yếu  Mong muốn  Khả năng  mong   muốn  Nhiều  Ít  Không   
- Phương pháp tiếp cận tối ưu: Là phương pháp xác định mục tiêu trên cơ sở tính toán 
để chỉ sử dụng ít phương tiện, chi phí nhỏ nhất mà đạt hiệu quả lớn nhất. Phương pháp 
này thường được sử dụng để xác định các mục tiêu về đầu tư, nâng cấp CSVC... dựa 
vào các thuật toán kinh tế. 
- Phương pháp tiếp cận thích ứng: Bản chất của phương pháp này là hướng sự vận 
đông tới mục tiêu bằng hạn chế và loại trừ các yếu tố không xác định. Điều này có thể 
liên quan đến trình độ hiểu biết của người quản lí về tương lai. Tùy theo sự hiểu biết 
của người quản lí mà người ta xác định mục tiêu cần đạt tới. Phương pháp này thường 
dùng để xác định các mục tiêu có tính chất đón đầu của hệ thống/ cơ sở giáo dục để đáp 
ứng yêu cầu phát triển KT - XH của đất nước. 1.4. Các chức năng quản lý giáo dục 
1.4.1. Khái niệm chức năng quản lý giáo dục 
Chức năng quản lí giáo dục là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt, thông qua đó 
chủ thể quản lí giáo dục tác động vào đối tượng quản lí giáo dục nhằm thực hiện mục  tiêu quản lý giáo dục. 
1.4.2. Các chức năng quản lý giáo dục 
1.4.2.1. Chức năng kế hoạch  a) Khái niệm 
- Chức năng kế hoạch trong quản lí giáo dục là quá trình xác định các mục tiêu phát 
triển giáo dục và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện các mục tiêu đó. 
- Những căn cứ để thực hiện chức năng KH: 
+ Cơ sở pháp lí: các văn bản chỉ đạo của Đảng, quy định của Nhà nước về GD...      lOMoAR cPSD| 60701415
+ Cơ sở thực tiễn: bối cảnh KT - XH, điều kiện địa phương,...tác động đến giáo dục. 
+ Thực trạng của đơn vị hoặc hệ thống 
+ Khả năng đáp ứng về các nguồn lực 
b) Vị trí, vai trò của chức năng kế hoạch trong quá trình quản lí giáo dục 
Chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên của một quá trình quản lí. Thông thường, 
trong các hoạt động giáo dục, công việc đầu tiên phải làm là lập kế hoạch. Chức năng 
kế hoạch giúp cho toàn bộ hệ thống hình dung trước được kết quả cần đạt và con đường 
để đạt được kết quả đó. 
Chức năng kế hoạch có vai trò khởi đầu cho quá trình quản lí giáo dục. Do đó, nó có 
vai trò định hướng cho toàn bộ các hoạt động của tổ chức. Các chức năng quản lí khác 
căn cứ vào kế hoạch đã được xây dựng để triển khai thực hiện. 
Lập kế hoạch cho phép nhà quản lí giáo dục tập trung vào các mục tiêu đã xác định. Kế 
hoạch sẽ giúp nhà quản lí có cái nhìn tổng thể, toàn diện, qua đó thấy được sự tương tác 
giữa các cá nhân, bộ phận. Mặt khác, đó cũng là cơ sở để huy động tối đa các nguồn lực 
cho việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra. 
Lập kế hoạch không những có vai trò định hướng hoạt động cho toàn hệ thống mà còn 
là căn cứ cho việc kiểm tra, đánh giá. Người quản lí không thể đánh giá kết quả công 
việc nếu không có mục tiêu xác định để đo lường. Mục tiêu đã được xác định là một 
trong những tiêu chí để đánh giá mức độ thực hiện công việc của đối tượng quản lí, từ 
đó nhà quản lí có những biện pháp phát huy, điều chỉnh để đảm bảo thực hiện có hiệu 
quả các mục tiêu của tổ chức. 
c) Nội dung của chức năng kế hoạch trong quản lí giáo dục 
Nội dung của chức năng kế hoạch thể hiện ở bốn hoạt động cơ bản sau: 
- Xác định và phân tích các mục tiêu quản lí giáo dục: 
Từ những căn cứ để thực hiện kế hoạch, các nhà quản lí có đủ điều kiện để xác định hệ 
thống mục tiêu cần thiết của từng cấp hoặc từng cơ sở giáo dục. Hệ thống mục tiêu quản 
lí giáo dục cần thể hiện rõ hai nhóm mục tiêu cụ thể: nhóm mục tiêu phát triển giáo dục 
(về cả số lượng và chất lượng) và nhóm mục tiêu điều kiện để thực hiện mục tiêu giáo  dục. 
Việc phân tích mục tiêu sẽ giúp cho nhà quản lí lựa chọn được các mục tiêu khả thi và 
phù hợp với tổ chức của mình, từ đó xác định đúng chiến lược hành động theo từng mục    lOMoAR cPSD| 60701415
tiêu cụ thể. Kĩ thuật phân tích mục tiêu có nhiều phương pháp khác nhau, thông thường 
các nhà quản lí giáo dục có thể áp dụng phương pháp phân tích SWOT. Đây là phương 
pháp phân tích bốn yếu tố thuộc hai nhóm: nhóm yếu tố chủ quan của đơn vị là Mạnh - 
Yếu; nhóm yếu tố khách quan là Thuận lợi - Khó khăn. Qua bảng ma trận chứa hai 
nhóm yếu tố trên sẽ giúp nhà quản lí xác định được bốn tình huống: MT (Mạnh và 
Thuận lợi); MK (Mạnh nhưng Khó khăn); YT (Yếu nhưng Thuận lợi) và YK (Yếu và 
Khó khăn). Từ đó có đủ cơ sở để xác định hướng đi và biện pháp thực hiện tương ứng 
với các mục tiêu và điều kiện cụ thể. 
- Xây dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu: 
Khi đã lựa chọn được các mục tiêu và xác định chiến lược hành động tương ứng, nhà 
quản lí giáo dục cần tiến hành xây dựng kế hoạch cho các hoạt động. 
Xây dựng kế hoạch (hay lập kế hoạch) là thiết kế trước các bước đi, biện pháp thực hiện 
cho hoạt động tương lai để đạt được các mục tiêu thông qua việc sử dụng hợp lí (tối ưu) 
các nguồn lực của tổ chức. 
Có nhiều loại kế hoạch sẽ được xây dựng: 
+ Nếu dựa vào yếu tố thời gian, kế hoạch bao gồm: Kế hoạch dài hạn (5-10 năm) hay 
còn gọi là kế hoạch chiến lược; Kế hoạch trung hạn (3-5 năm); Kế hoạch ngắn hạn (1-  2 năm hoặc ngắn hơn) 
+ Dựa vào qui mô quản lí có: Kế hoạch tổng thể (Kế hoạch đổi mới giáo dục phổ thông); 
Kế hoạch bộ phận (Kế hoạch đổi mới giáo dục tiểu học, kế hoạch đổi mới giáo dục 
Trung học cơ sở, Kế hoạch đổi mới giáo dục Trung học phổ thông) 
+ Dựa vào hoạt động cụ thể có: Kế hoạch xây dựng và phát triển đổi ngũ, kế hoạch xây 
dựng cơ sở vật chất, kế hoạch quản lí tài chính, kế hoạch dạy học... 
Việc lập kế hoạch trong quản lí giáo dục về một khía cạnh nào đó có thể coi là một hoạt 
động mang tính chất dự báo. Tính chất dự báo đó được thể hiện rõ nét nhất trong kế 
hoạch chiến lược. Bởi vậy dù ở cấp quản lí nào cũng cần lập kế hoạch chiến lược. Nhà 
quản lí cần đặt trọng tâm vào tư duy và hành động mang tính chiến lược. Đối với giáo 
dục cả tương lai gần và tương lai xa đều quan trọng như nhau. Kế hoạch phải thể hiện 
sự tập trung sự quan tâm và nguồn lực vào các vấn đề bức xúc mà tổ chức đang quan 
tâm và cần thể hiện mối quan hệ hợp tác trong tổ chức.      lOMoAR cPSD| 60701415
Kế hoạch chiến lược trong quản lí giáo dục phải xác định rõ tầm nhìn, sứ mạng và các 
giá trị của hệ thống/tổ chức, từ đó lựa chọn cá mục tiêu chiến lược và giải pháp hợp lí. 
Từ kế hoạch chiến lược, hệ thống/tổ chức/bộ phận lập các kế hoạch hành động. Kế 
hoạch hành động phải làm rõ được các nội dung: 
- Xác định các hoạt động cơ bản và xác định thứ tự các hoạt động sẽ thực hiện; 
+ Xác định quỹ thời gian cho việc thực hiện các hoạt động 
+ Tính toán nguồn lực cần thiết cho từng hoạt động 
+ Phân công trách nhiệm cho các đơn vị, cá nhân phụ trách và thực hiện 
+ Quy định cơ chế phối hợp giữa các đơn vị hoặc cá nhân 
+ Xác định yêu cầu, chuẩn kiểm tra, đánh giá tương ứng với các công việc 
+ Quy định chế độ báo cáo kết quả thực hiện công việc 
Khi lập kế hoạch trong quản lí giáo dục phải đảm bảo tính tối ưu và cân đối; tính pháp 
lí và hiện thực; huy động được nhiều lực lượng tham gia vào quá trình lập kế hoạch. 
- Triển khai thực hiện các kế hoạch: 
Việc triển khai thực hiện các kế hoạch liên quan tới việc tổ chức thực hiện các kế hoạch,  bao gồm: 
+ Tổ chức cho các lực lượng trong và ngoài đơn vị giáo dục quán triệt được kế hoạch 
cần được triển khai về các vấn đề: mục tiêu cần đạt; bước đi, biện pháp cần thực hiện; 
các nguồn lực được sử dụng và các chính sách hỗ trợ... 
+ Xây dựng lực lượng cốt cán để triển khai các hoạt động, trong đó làm rõ mối quan hệ 
giữa từng bộ phận, cá nhân và cơ chế hoạt động. 
+ Triển khai, hướng dẫn và đôn đốc thực hiện các hoạt động cụ thể 
+ Giám sát việc thực hiện các hoạt động và thường xuyên động viên khen thưởng hoặc 
có thể điều chỉnh kế hoạch hoặc các điều kiện, biện pháp hay bước đi. 
- Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch: 
Việc kiểm tra, đánh giá cần được tiến hành đồng thời với việc lựa chọn các mục tiêu và 
xây dựng các loại kế hoạch. Theo đó việc kiểm tra, đánh giá phải xác định trước chuẩn 
mực được sử dụng để đo lường mức độ thực hiện các mục tiêu. Nếu tiêu chuẩn thiếu rõ 
ràng hoặc không thể đo đạc được các kết quả theo kế hoạch thì cần điều chỉnh lại mục 
tiêu hoặc các chỉ tiêu cụ thể trong bản kế hoạch.    lOMoAR cPSD| 60701415
Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch cần được sơ kết hoặc tổng kết. Kết quả này 
được báo cáo trước tập thể và cơ quan quản lí cấp trên. Khi cần thiết có thể điều chỉnh 
lại ở các khâu để đảm bảo đạt được các mục tiêu đã xác định. 1.4.2.2. Chức năng tổ  chức  a) Khái niệm 
Để giúp cho các thành viên trong tổ chức có thể cùng làm việc với nhau nhằm thực hiện 
có hiệu quả các mục tiêu đã xác định, cần duy trì một cơ cấu nhất định trong đó quy 
định rõ vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của từng cá nhân, bộ phận. Vai trò, nhiệm 
vụ của một cá nhân hay bộ phận có nghĩa là cá nhân hay bộ phận đó hiểu rõ công việc 
mình làm nằm trong phạm vi nào, nhằm mục tiêu gì, có quan hệ với các cá nhân hay bộ 
phận khác ra sao. Do đó, tổ chức có thể được hiểu là “cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật 
không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội 
dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”. 
Từ quan niệm trên, có thể hiểu, chức năng tổ chức là việc thiết kế cơ cấu các bộ phận 
sao cho phù hợp với mục tiêu của tổ chức. Đồng thời việc thực hiện chức năng này còn 
phải chú ý đến phương thức hoạt động, đến quyền hạn của từng bộ phận, tạo điều kiện 
cho sự liên kết ngang dọc và đặc biệt chú ý đến việc bố trí cán bộ - người vận hành các 
bộ phận của tổ chức. 
Hay chức năng tổ chức trong quản lí giáo dục là quá trình tiếp nhận và sắp xếp nguồn 
lực theo những cách thức nhất định nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra theo KH. 
b) Vị trí, vai trò của chức năng tổ chức trong quản lí giáo dục 
- Thông thường, chức năng tổ chức là chức năng thứ hai trong quá trình quản lý. Tuy 
nhiên, trong lĩnh vực quản lí nói chung và trong hoạt động của nhà trường/cơ sở giáo 
dục nói riêng có những việc, những vấn đề nảy sinh để bổ sung hoặc hỗ trợ cho các 
hoạt động của hệ thống hoặc nhà trường, những hoạt động này đôi khi có tính độc lập 
tương đối với tổ chức hoặc bộ máy quản lí đang hoạt động. Khi đó chức năng tổ chức 
(hay công tác tổ chức) lại là khâu đầu tiên của một quá trình quản lí. 
- Chức năng tổ chức có hai vai trò chủ yếu trong quá trình quản lí. Một là, vai trò 
hiện thực hóa các mục tiêu theo kế hoạch đã được xác định. Nếu chức năng kế hoạch 
cho phép người quản lí hình dung trước được kết quả hoặc đích cuối cùng cần đạt 
được như thế nào, thì chức năng tổ chức cho phép họ khẳng định rằng kết quả đó chắc      lOMoAR cPSD| 60701415
chắn sẽ thành công hay không; vai trò thứ hai là, chức năng tổ chức có khả năng tạo ra 
sức mạnh mới của tổ chức nếu việc tiếp nhận, phân phối và sắp xếp các nguồn lực tiến 
hành khoa học, hợp lí và tối ưu. Sức mạnh mới của tổ chức có thể mạnh hơn nhiều lần 
so với khả năng vốn có của nó, cho nên, người ta nhấn mạnh vai trò này của chức 
năng tổ chức bằng cụm từ “hiệu ứng tổ chức”. 
c) Nội dung của chức năng tổ chức trong quản lí giáo dục 
Trong khoa học quản lí, người ta cho rằng, chức năng tổ chức có bốn nội dung chủ yếu  sau: 
- Xây dựng tổ chức bộ máy quản lí của đơn vị: 
Luật Giáo dục đã khẳng định, một trong những nhiệm vụ quan trongj của Bộ Giáo dục 
và Đào tạo là tổ chức bộ máy quản lí giáo dục; Trong các điều lệ nhà trường, nhiệm vụ, 
quyền hạn đầu tiên của người Hiệu trưởng đã được chỉ rõ là tổ chức bộ máy của nhà  trường. 
Thực hiện nội dung này có nghĩa là phải chỉ ra cơ cấu tổ chức của chủ thể quản lí giáo 
dục cũng như đối tượng quản lí giáo dục, đồng thời phải xác định rõ kiểu cấu trúc tổ 
chức được áp dụng trong hoạt động của bộ máy quản lí. Như vậy, một tổ chức bộ máy 
quản lí giáo dục có hiệu lực, hiệu quả phải được xem xét hoàn chỉnh về cả hai phương 
diện: xác định cơ cấu tổ chức bộ máy và lựa chọn cấu trúc tổ chức bộ máy. 
+ Xác định cơ cấu tổ chức là quá trình xác định hệ thống bộ phận (số lượng các đơn vị, 
cá nhân) được xác lập trong tổ chức với những tên gọi, những quy định về chức năng, 
nhiệm vụ, về chức danh cho từng người. Quá trình này được cụ thể hóa thành hai loại 
quy định: một là, quy chế tổ chức, trong đó khẳng định rõ có những bộ phận nào, chức 
năng nhiệm vụ quyền hạn là gì, biên chế mỗi bộ phận là bao nhiêu người, từng bộ phận 
có những cơ sở vật chất và phương tiện kĩ thuật gì; hai là, tiêu chuẩn cho từng vị trí, 
chức danh (cơ cấu thành phần cán bộ) nhằm lựa chọn, đề bạt cán bộ vào chức danh, đào 
tạo bồi dưỡng, sử dụng và quản lí cán bộ. 
+ Lựa chọn kiểu cấu trúc tổ chức là việc chỉ rõ những mối quan hệ bên trong giữa các 
bộ phận của hệ thống nhằm quản lí có hiệu lực, hiệu quả trong quá trình hoạt động của 
bộ máy quản lí. Trong quản lí giáo dục nói chung hay trong quản lí nhà trường nói riêng 
có thể xác định cấu trúc tổ chức bộ máy quản lí theo các kiểu mô hình cấu trúc khác 
nhau. Trong khoa học tổ chức, thường có các kiểu cấu trúc như:    lOMoAR cPSD| 60701415
Kiểu cấu trúc trực tuyến (đường thẳng): đây là kiểu đơn giản nhất. Đặc điểm của kiểu 
cấu trúc này là mệnh lệnh của cấp trên được truyền trực tiếp đến cấp dưới, cấp dưới chỉ 
thực hiện mệnh lệnh của cấp trên trực tiếp. Cơ cấu này thuận lợi cho việc thực hiện chế 
độ một thủ trưởng, thông tin từ thủ trưởng đến cấp dưới không bị “tam sao thất bản”, 
người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm về công việc của người dưới quyền. Tuy nhiên 
kiểu cơ cấu này đòi hỏi người quản lí phải là người có kiến thức toàn diện, tổng hợp 
nhưng lại hạn chế việc sử dụng chuyên gia có trình độ cao, hạn chế sự phối hợp của các 
bộ phận ngang quyền và dễ dẫn đến tình trạng độc đoán trong quản lí. Kiểu cấu trúc 
chức năng: Phân chia hệ thống theo chức năng là việc hình thành một bộ phận trong đó 
các thành viên phải hoạt động theo một lĩnh vực nhất định mà họ thành thạo. Mối liên 
hệ giữa các thành viên trong hệ thống rất phức tạp. Người thừa hành chẳng những phải 
thi hành mệnh lệnh của người lãnh đạo cao nhất, mà còn của những người lãnh đạo thuộc 
các chức năng khác nhau. Ưu điểm của cơ cấu này là thu hút được nhiều chuyên gia vào 
công việc lãnh đạo, giải quyết các vấn đề chuyên môn một cách đúng đắn và thành thạo, 
đồng thời giảm bớt gánh nặng cho lãnh đạo cấp cao nhất. Nhược điểm của cơ cấu này là 
người lãnh đạo cấp cao nhất phải phối hợp hoạt động của những người lãnh đạo chức 
năng. Tình trạng cấp dưới cùng một lúc nhận được nhiều mệnh lệnh thậm chí trái ngược 
nhau rất dễ xảy ra dẫn đến hiệu lực quản lí bị giảm sút. 
Kiểu cấu trúc trực tuyến - chức năng: đây là kiểu cơ cấu có thể khắc phục được những 
hạn chế của hai kiểu cơ cấu trên. Trong cơ cấu này, người lãnh đạo cấp cao nhất được 
sự giúp sức của các bộ phận chức năng chuẩn bị các quyết định, hướng dẫn và kiểm 
tra việc thực hiện các quyết định. Việc truyền lệnh đi theo tuyến nhưng quyền lực vẫn 
tập trung ở người lãnh đạo cao nhất. 
Một trong những kiểu cấu trúc thường được áp dụng phổ biến hiện nay là cấu trúc trực 
tuyến - tham mưu - chức năng. Đây là một mô hình tổ chức phối hợp ba kiểu cấu trúc 
với nhau. Mô hình này hoạt động trên cơ sở kết hợp các bộ phận trực tuyến của thủ 
trưởng với bộ phận tham mưu của các cá nhân, bộ phận hoạt động theo chức năng, do 
đó, kiểu cấu trúc này phát huy được tối đa các ưu điểm và khắc phục được những mặt 
hạn chế của các kiểu cấu trúc. Với cách xác định kiểu cấu trúc này, bộ máy quản lí của 
đơn vị sẽ có khả năng đáp ứng được các nguyên tắc: tổ chức gọn, linh hoạt, dễ hoạt  động và có hiệu quả.      lOMoAR cPSD| 60701415
- Xây dựng và phát triển đội ngũ: 
Đây là quá trình tập hợp, tổ chức đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường 
và triển khai các hoạt động của các bộ phận của nhà trường đó. Thực hiện nội dung này 
có liên quan tới hai khâu cơ bản là quản lí nguồn nhân lực và điều hành, điều chỉnh hoạt 
động của các thành viên (quản lí nhân sự). 
Quản lí nguồn nhân lực liên quan chặt chẽ đến các khâu: quy hoạch đội ngũ (cán bộ 
quản lí, giáo viên, nhân viên); tuyển dụng; đào tạo, bồi dưỡng; sử dụng giáo viên, nhân 
viên; thẩm định lao động; thuyên chuyển, đề bạt và bãi nhiệm. Như vậy, khâu quản lí 
nguồn nhân lực liên quan tới công tác xây dựng quy hoạch đội ngũ và các kế hoạch triển 
khai cụ thể. Chất lượng của việc quản lí nguồn nhân lực quyết định rất nhiều tới sức 
mạnh của một tổ chức. Trong quản lí giáo dục nói chung và trong quản lí nhà trường 
nói riêng, yếu tố quyết định tới chất lượng giáo dục chính là chất lượng của nguồn nhân 
lực. Do đó, quản lí nguồn nhân lực là khâu đặc biệt quan trọng, khâu này có ý nghĩa 
chiến lược như việc “nuôi quân ba năm” để chuẩn bị cho các hoạt động cụ thể. 
Quản lí nhân sự (hay quản lí các hoạt động cụ thể của đội ngũ) là trách nhiệm của người 
lãnh đạo (hiệu trưởng) hoặc của phòng tổ chức nhân sự (đối với các hệ thống có quy 
mô lớn). Việc quản lí nhân sự liên quan chặt chẽ tới các hoạt động chủ yếu sau: 
+ Bố trí đúng người vào đúng việc; 
+ Giúp đỡ giáo viên, nhân viên làm quen với công việc; 
+ Phối hợp hoạt động và phát triển các mối quan hệ trong công việc; 
+ Phát triển khả năng tiềm tàng của các cán bộ, giáo viên, nhân viên 
+ Kiểm tra, đánh giá xếp loại cán bộ, giáo viên, nhân viên 
+ Thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên 
Quản lí nhân sự có ý nghĩa quan trọng trong đời sống hàng ngày, hàng giờ của đơn vị 
giáo dục. Phải có những quy định cụ thể đối với hoạt động của giáo viên, nhân viên và 
học sinh để đảm bảo mọi hoạt động diễn ra ổn định, hướng tới sự hình thành và phát 
triển nhân cách cho từng học sinh. - Xác định cơ chế quản lý giáo dục: 
Trong giáo dục nói chung và trong nhà trường nói riêng, cơ chế quản lí giáo dục tập 
trung vào việc hình thành và giải quyết tốt các mối quan hệ nhằm khai thác, huy động, 
sử dụng và quản lí có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho việc đảm bảo chất lượng các  hoạt động giáo dục.