








Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60701415         lOMoAR cPSD| 60701415 1  A. PHẦN MỞ ĐẦU 
Quản lý là một hoạt động thiết yếu nảy sinh khi có hoạt động của một tập thể nhằm đạt 
được mục tiêu chung. Quản lý xuất hiện khi có một hoạt động mang tính xã hội hoá 
nhằm đạt tới các mục tiêu chung. Ngay từ những ngày đầu xuất hiện xã hội loài người, 
cuộc sống thực thế đã buộc người ta phải cố kết với nhau để sống và đảm bảo cho xã 
hội tồn tại và phát triển đã phải quản lý, song đây là một sự quản lý mang tính bản năng 
hình thành dần qua kinh nghiệm của cuộc sống lúc đó con người chưa có chữ viết, chưa 
có khái niệm về kỹ thuật về khoa học và chưa có một ý thức hoàn chỉnh về hoạt động 
của mình. Nói chung trong đó có hoạt động quản lý chỉ tới khi loài người đã phát hiện 
tới một trình độ cho phép thực hiện việc phân công lao động xã hội, tách lao động trí 
óc khỏi lao động chân tay một số người chưa hoạt động về trí óc, nhằm tích lũy và lý 
giải những tri thức kinh nghiệm về quản lý thì mới mang ra đời các tư tưởng quản lý. 
Thời cổ đại các nhà hiền triết Trung hoa đã có những đóng góp đáng kể vào tư tưởng 
quản lí mà cho tới nay các tư tưởng đó vẫn đậm nét trong phong cách quản lý của nhiều 
nước Châu Á, được nhiều học giả phương Tây đánh giá cao.  - 
Khổng Tử (551 - 479 tr.CN): Ông là người nước Lỗ của Trung Hoa cổ đại, ông 
nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực: triết học, chính trị học, đạo đức học, giáo dục học, có ảnh 
hưởng lớn tới diện mạo và sự phát triển của nhiều quốc gia, nhiểu thời đại. Tư tưởng của 
ông thể hiện triết lí sâu sắc về quản lý, được xem như nền tảng văn hóa tinh thần, tạo điều 
kiện thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nhiều quốc gia theo mô 
hình “ổn định, kỉ cương và phát triển”.  - 
Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại do Hàn Phi Tử sáng lập đã không ngừng 
phát triển, bổ sung để trở thành học thuyết quản lý chủ yếu của nhà nước phong kiến Trung 
Hoa. Học thuyết này có ảnh hưởng sâu sắc trong lịch sử các quốc gia phong kiến phương 
Đông, trong đó có Việt Nam. Là học thuyết được xây dựng, hoàn thiện dựa trên những tiền 
đề lý luận – thực tiễn khoa học nên học thuyết này có ảnh hưởng to lớn trong lịch sử. 
Bài tiểu luận dưới đây sẽ nêu khái quát về tư tưởng quản lý của trường phái đức trị và 
pháp trị thời trung hoa cổ đại và việc vận dụng 2 tư tưởng này vào công tác quản lý nhà  trường.    lOMoAR cPSD| 60701415 2 
B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ CỦA TRƯỜNG PHÁI 
ĐỨC TRỊ THỜI TRUNG HOA CỔ ĐẠI 1. Khái niệm về thuyết Đức trị 
Thuyết đức trị là hệ tư tưởng của Khổng Tử (551-479 trước công nguyên) – Nhà tư tưởng 
cổ đại Trung Quốc người sang lập nên nho giáo – hệ tư tưởng giữ vị trí chủ đạo trong hơn 
hai ngàn năm trong đời sống tinh thần, ý thức hệ và nền văn hóa Trung Quốc. Đức trị là 
học thuyết chính trị có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần của người phương 
Đông, chiếm địa vị thống trị tư tưởng trong suốt thời kỳ lịch sử ở Trung Quốc và nhiều 
nước Đông Á, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Singapore…để từ đó hình thành nên 
không gian “Văn hóa Khổng giáo” của Đông phương. Đức trị là học thuyết của người quân 
tử – mẫu người mà các nhà đức trị đề cao, kỳ vọng vào khả năng gánh vác sứ mệnh thời 
đại của họ. Theo quan niệm của đức trị, quân tử phải hội đủ các điều kiện là: đạt Đức và 
đạt Đạo. Đạo của người quân tử là tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ; Đức của người 
quân tử là Nhân –Trí – Dũng. Nhân là lòng yêu thương con người, Trí là hiểu người và 
Dũng được hiểu là sức mạnh hay lòng can đảm. Trong đó, Nhân được xem là phạm trù xuất 
phát điểm, hạt nhân cốt lõi của học thuyết đức trị – cái “cốt” lý luận giúp các nhà cai trị lập 
lại trật tự và xây dựng một xã hội phong kiến có tôn ti, trật tự theo lý tưởng đại đồng. Đức 
trị cho rằng, đạo làm người, với nước phải thờ vua, trong nhà phải thờ cha. Kẻ làm tôi lấy 
chữ Trung làm đầu, con đối với cha lấy chứ Hiếu làm trọng. Trung – Hiếu đã trở thành 
nguyên tắc đạo đức cao nhất của con người trong xã hội, là cái “cương cường” của một 
quốc gia. Từ những quan điểm trên, các nhà đức trị cho rằng: chính trị là sự tiếp tục của 
đạo đức và chủ trương nâng đạo đức lên thành đường lối chính trị – gọi là đức trị. 
2. Quan điểm tư tưởng quản lý của trường phái Đức trị thời Trung Hoa cổ đại 
Đức trị là chủ trương lớn của Khổng Tử dùng “đức” để cai trị xã hội. Trước Khổng Tử 
cũng đã có nhiều người không chỉ trong ý thức mà trên thực tế đã dùng đức với ý trong 
việc cai trị dân phải dùng Đức để làm cho dân theo và cũng mới tạo được hạnh phúc cho 
dân, trong đó người cai trị phải dung đức để cảm hóa,giáo dục dân thành người tốt và nhờ 
thế đất nước mới thịnh trị, nhưng phải đến Khổng Tử thì Nho giáo nói chung và chủ trương 
dung đức trong cai trị dân mới được xây dựng thành học thuyết, thành giáo lí. Khổng Tử 
cho rằng trong đạo làm người chính trị là việc lớn và đối với con người cái mau thành đật 
nhất cũng là chính trị. Chính trị là nơi kì vọng nhất của nho gia và về chính trị Khổng Tử 
là người nói nhiều nhất đến tư cách người cầm quyền, đến bổn phận của họ phải sửa mình,    lOMoAR cPSD| 60701415 3 
phải làm gương cho dân, giáo hóa dân. Ông Nhân mạnh đến mối quan hệ gắn bó của đạo 
đức với chính trị và có thể nói ông đã đạo đức hóa chính trị. Ông phê phán xã hội Trung 
Quốc thời Xuân Thu là một xã hội “vô đạo” và ông muốn lập lại một xã hội “có đạo”. 
Đạo đức nói ở đây không hẳn theo nghĩa thông thường, trong ngôn ngữ hang ngày của 
mỗi người để đánh giá, nhận xét hành vi, xử sự của chính mình hoặc của người xung quanh: 
Tốt xấu, phải trái, đúng sai mà còn là thuộc tính không chỉ của riêng con người mà của 
chung trời đất. Nhà nho nhìn mọi thứ đều qua lăng kính đạo đức. Có thể nói thới một thế 
giới quan đạo đức của nhà no và đạo đức đồng thời còn là phương châm trị quốc. Khổng 
Tử nói: “làm chính trị bằng đức độ cũng ví như sao Bắc đẩu cứ tưởng đứng nguyên một 
chỗ mà các sao khác phải hướng về chầu hầu” (Luận ngữ - Vi chính). Ông còn nói, cai trị 
dân bằng chính lệnh, đưa dân vào khuân khổ phép bằng hình phạt, người dân sợ mà tránh 
điều tội lỗi nhưng trở nên vô sỉ. Dắt dân dân bằng đức đọ, đưa dân vào khuân phép bằng 
lễ, người dân sẽ biết xấy hổ mà không làm bậy, mà lại có chí hướng vươn lên đến chỗ hoàn 
thiện (Luận ngữ - vi chính). 
CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ CỦA TRƯỜNG PHÁI PHÁP TRỊ THỜI  TRUNG HOA CỔ ĐẠI 
1. Khái niệm về thuyết Pháp trị 
 Trong lịch sử, học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại do Hàn Phi Tử sáng lập đã không 
ngừng phát triển, bổ sung để trở thành học thuyết quản lý chủ yếu của nhà nước phong kiến 
Trung Hoa. Học thuyết này có ảnh hưởng sâu sắc trong lịch sử các quốc gia phong kiến 
phương Đông, trong đó có Việt Nam. Là học thuyết được xây dựng, hoàn thiện dựa trên 
những tiền đề lý luận – thực tiễn khoa học nên học thuyết này có ảnh hưởng to lớn trong 
lịch sử. Vì vậy, nếu gạt bỏ nội dung giai cấp và những nhiệm vụ lịch sử mà học thuyết pháp 
trị thực hiện, có thể tìm thấy ở học thuyết này những giá trị to lớn và kinh nghiệm về quản 
lý xã hội, quản lý con người trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay. 
Học thuyết chủ trương dùng pháp luật cai trị xã hội, trị quốc an dân.    lOMoAR cPSD| 60701415 4 
2. Quan điểm tư tưởng quản lý của trường phái Pháp trị thời Trung Hoa cổ đại 
Là học thuyết chính trị – pháp lý đồng thời là học thuyết quản lý xã hội tiêu biểu trong 
lịch sử, học thuyết pháp trị đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của Trung Hoa thời cổ đại và nền 
tảng tư tưởng chế độ phong kiến phương Đông. Học thuyết này có ảnh hưởng lớn đến ý 
thức hệ, các định chế chính trị và chính sách phát triển kinh tế của Trung Quốc và các nước 
láng giềng. Học thuyết pháp trị Trung Hoa đã cung cấp nội lực cho văn hóa Trung Quốc tự 
cường, nó cũng chi phối mạnh văn hóa chính trị qua suốt thời trung cổ, cận đại và hiện nay. 
Chủ trương dùng pháp luật làm công cụ trị nước của Hàn Phi Tử với những vấn đề chính 
yếu như: khẳng định tầm quan trọng của pháp luật, đề cao tinh thần bình đẳng trước pháp 
luật thực sự là tiến bộ lịch sử mà mãi sau này đến thời kỳ Khai sáng, phương Tây mới tiếp 
cận và vượt lên bởi các tên tuổi J. Locke, J,J. Rousseou, Montesquieu… Đặc biệt, tư tưởng 
kết hợp giữa quyền lực và luật pháp cùng với những nguyên tắc pháp lý cơ bản của học 
thuyết này đã đánh dấu bước phát triển quan trọng của tư duy pháp lý nhân loại và đóng 
góp đáng kể cho sự hình thành, phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Xét 
trong bối cảnh thời đại bấy giờ, học thuyết pháp trị đã đạt đến đỉnh cao tư tưởng về nhà 
nước và pháp luật, bởi đây là lần đầu tiên trong lịch sử, những vấn đề cơ bản về nhà nước 
và pháp luật được trình bày một cách tương đối toàn diện. Tư tưởng pháp trị có ý nghĩa hết 
sức lớn lao trong lịch sử nhà nước và pháp quyền phong kiến phương Đông và đối với lịch 
sử văn minh nhân loại, bước đầu tạo ra sự công khai hóa quyền lực và thực thi quyền lực, 
góp phần xóa đi sự thần bí của nhà vua và triều đình. 
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG 2 TƯ TƯỞNG NÀY VÀO CÔNG TÁC QUẢN LÝ 
NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY 
1. Vận dụng tư tưởng quản lý của trường phái Đức trị 
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh” có thể nói 
đây là một câu nói mà tất cả con người Việt Nam không giới hạn ở bất kì lĩnh vực nào 
dù là giáo dục, công an, quân đội, công nhân đều có thể noi gương, học tập. Nền chính 
trị mà Hồ Chí Minh xây dựng là một nền chính trị đạo đức. Đạo đức cao nhất mà Người 
đưa ra là “đạo đức cách mạng”. Người cho rằng, đạo đức là để phục vụ cho xã hội, cho 
nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng loài người. Tư tưởng đạo đức và tư tưởng về chính    lOMoAR cPSD| 60701415 5 
trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh không tách rời nhau mà thống nhất với nhau. Các phạm 
trù của học thuyết “đức trị” đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển, thấm đượm 
bản chất giai cấp, tính nhân dân và tính chiến đấu để trở thành những phạm trù “Đạo 
đức cách mạng”. Nội dung của “Đạo đức cách mạng” Hồ Chí Minh có sự khác biệt về 
chất so với đạo đức phong kiến. Người khẳng định: “...Đạo đức đó không phải là đạo 
đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá 
nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Cũng như sông thì có 
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì 
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng 
không lãnh đạo được nhân dân. 
Như vậy, các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ 
“đức trị”, song đã được Người vận dụng, sáng tạo, bổ sung phù hợp với điều kiện, hoàn 
cảnh thực tiễn của đất nước và con người Việt Nam. So với lý luận chủ nghĩa Mác - 
Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh về “đạo đức cách mạng”, về “đức trị” thể hiện tư 
duy độc lập, sáng tạo, có sự kế thừa và phát triển trên tinh thần khoa học nhưng thấm 
đẫm tinh thần nhân văn, dân tộc. Là một cán bộ công tác trong ngành giáo dục, để quản 
lý nhà trường cần coi trọng đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín của người cán bộ, là cơ sở 
để giáo dục, thuyết phục và lãnh đạo nhân sự, là tấm gương sáng cho tập thể CBNV noi  theo. 
2. Vận dụng tư tưởng quản lý của trường phái Pháp trị 
Với những giá trị khoa học và thực tế, học thuyết pháp trị chứa đựng nhiều yếu tố phù 
hợp đối với thực tiễn pháp lý đương đại với những tư tưởng dùng pháp luật để quản lý xã 
hội và chấn hưng đất nước, tinh thần thượng tôn pháp luật, đề cao giá trị công bằng và tính 
nghiêm minh trong thi hành pháp luật. Nghiên cứu, tham chiếu học thuyết pháp trị Trung 
Hoa cổ đại của Hàn Phi Tử không chỉ giúp chúng ta hiểu thêm lịch sử tư tưởng chính trị – 
pháp lý của các thời đại khác nhau, mà còn góp phần khẳng định yêu cầu khách quan của 
việc quản lý xã hội bằng pháp luật, tác dụng của pháp luật trong việc trị nước. 
Trên phương diện lý luận – lịch sử nhà nước và pháp luật, học thuyết pháp trị đưa ra những 
nhận thức đúng đắn về vai trò, chức năng của pháp luật với những quan điểm và nguyên 
tắc pháp lý khoa học, tiến bộ về xây dựng và thực hiện pháp luật. Tinh thần pháp luật thể 
hiện rõ trong chủ trương đề cao pháp trị, pháp luật phải được xây dựng phù hợp với hiện    lOMoAR cPSD| 60701415 6 
thực cuộc sống, công bằng, minh bạch và thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu và lợi ích tối cao 
của toàn xã hội, pháp luật phải thực hiện nghiêm minh, bình đẳng, không a dua phụ họa, 
nể vì quyền quý. Cùng với đề cao vai trò của pháp luật, pháp trị cũng đề cao chính sách 
dụng nhân (dùng người theo tài năng) và đặt ra những yêu cầu về khảo sát, điều tra, kiểm 
tra, đánh giá, xử lý trong quản lý. Các pháp gia cũng phê phán tệ lũng đoạn quyền lực, chủ 
trương kêu gọi củng cố quyền lực từ phía nhà cai trị theo tinh thần thượng tôn pháp luật. 
Ngoài ra, việc chú trọng đến nhu cầu thực tế, không chuộng nói suông là một đặc điểm 
quan trọng của tư tưởng pháp gia. Nhìn chung, địa vị chủ yếu và giá trị bao trùm của học 
thuyết pháp trị trước hết là đưa ra đường lối, quan điểm chính trị thực tế, thiết thực và thực 
dụng, đề cao giá trị của các quy phạm pháp luật trong quản lý xã hội. Đặc trưng nổi bật của 
pháp luật là những quy tắc xử sự chung, làm khuôn mẫu hành vi cho mọi người trong xã 
hội. Sức mạnh của pháp luật được bảo đảm bằng chính sức mạnh quyền lực chính trị để 
buộc mọi người phải tuân theo.  C. PHẦN KẾT LUẬN 
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật và đạo đức đều là những yếu tố do con người tạo 
ra để duy trì trật tự xã hội, và để phục vụ cho cuộc sống: “Vì lẽ sinh tồn, cũng như mục 
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, 
pháp luật, tôn giáo...”. Cái cốt lõi ở đây là tư tưởng kết hợp pháp trị với đức trị được thể 
hiện giản dị, ngắn gọn nhưng đầy tính biện chứng và thuyết phục. câu nói “xét xử đúng là 
tốt nhưng không phải xét xử thì càng tốt hơn” của Người cần được hiểu là: việc xét xử phải 
lấy sự đúng đắn (nghiêm minh, công bằng) làm mục tiêu lớn nhất và tạo tiền đề cho việc 
không phải xét xử ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, “không phải xét xử” thì không có nghĩa 
là không còn xét xử mà chính là phòng ngừa để không phải xét xử hoặc sử dụng những 
phương pháp, hình thức khác để giải quyết vấn đề có hiệu quả mà không cần tới xét xử. Để 
đạt được mục tiêu ấy, dĩ nhiên, sự tự ý thức của cá nhân, đạo đức và những quy phạm xã 
hội khác (phong tục, tập quán, luật tục...) sẽ có một vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là những 
công cụ hỗ trợ và thay thế pháp luật trong nhiều trường hợp. Tương tự như thế, khi nói về 
mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, Người cho rằng: đạo đức là gốc của pháp luật còn 
pháp luật chính là thứ đạo đức chuẩn mực trong xã hội. Chính vì vậy, cuộc đời Chủ tịch    lOMoAR cPSD| 60701415 7 
Hồ Chí Minh vừa là tấm gương sáng ngời về tinh thần đề cao, tôn trọng pháp luật song 
song với việc kiên trì và bền bỉ trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng. Đây chính là bài 
học lớn về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội mà Người đã để lại cho các 
thế hệ cán bộ và quần chúng nhân dân. Ngay từ khi Nhà nước mới ra đời, cũng như trong 
suốt quá trình lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước sau này, Hồ Chủ tịch vừa chăm 
lo xây dựng pháp luật, vừa chú trọng giáo dục, củng cố đạo đức cách mạng, nhất là đạo 
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ và thế hệ thanh niên. Bác từng gửi Thư khẩn cho ủy 
ban nhân dân các cấp (kỳ, tinh, huyện, xã) vào đầu tháng 121945 và cho đồng bào Bắc Kỳ 
vào đầu năm 1947 để răn bảo cán bộ “tu tỉnh, tẩy rửa mọi thói hư tật xấu”. Bài giảng mà 
Người giảng trên bục chỉnh huấn là bài khai tâm “Thiện và ác”. Có thể thấy, “điều cốt lõi 
trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về pháp luật đó chính là cơ sở đạo đức của pháp 
luật. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật phải phù hợp với đạo đức và là điều kiện đảm 
bảo thực hành đạo đức”. 
 Là một nhà quản lý giáo dục cần phải sử dụng một cách thông minh và linh hoạt vai 
trò của pháp luật, vai trò và mối quan hệ giữa pháp luật với các hiện tượng xã hội khác bảo 
đảm quyền con người, bảo đảm và phát huy dân chủ, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của 
hoạt động quản lý giáo dục, quản lý nhà nước, quản lý xã hội. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Giáo trình Quản Lý Giáo Dục-PGS.TS Nguyễn Như An(chủ biên) Nghệ An,2018 
2. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi: Hàn Phi Tử, NXB Văn Hoá. 
3. Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ thời-Nguyễn Ngọc  Huy, NXB Cấp Tiến.    lOMoAR cPSD| 60701415 8 
4. Thuật trị nước của người xưa, Lê Văn Được, NXB TP Hồ Chí Minh. 
5. Giáo trình Giáo dục học hiện đại-Nhiều tác giả- NXB Đại học Sư phạm Hà Nội