



















Preview text:
CHƯƠNG I
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a. Nguồn gốc của triết học
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ơ cả Phương
Đông và Phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng tư thế kỷ VIII đến thế kỷ
VI tr.CN) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại. Ý thức triết học
xuất hiện không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế tư tồn tại xã hội với một trình
độ nhất định của sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ
vọng được đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng
tạo ra những luận thuyết chung nhất, có tính hê thống phản ánh thế giới xung ̣ quanh
và thế giới của chính con người. Triết học là dạng tri thức lý luâṇ xuất hiện sớm nhất
trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về măt
lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là ̣ loại hình triết lý đầu tiên
mà con người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Người nguyên thủy kết
nối những hiểu biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgíc… của mình trong các quan niệm đầy
xúc cảm và hoang tương thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh
cao của tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện
thần thoại và những tôn giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo.
Thời kỳ triết học ra đời cũng là thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại
hình tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy
lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tương nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới, tưng bước con người có kinh nghiệm
và có tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính. Cùng
với sự tiến bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần đạt đến
trình độ cao hơn trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống, lôgíc và nhân quả...
Mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết là đối tượng đồng thời là động lực đòi
hỏi nhận thức ngày càng quan tâm sâu sắc hơn đến cái chung, những quy luật chung.
Sự phát triển của tư duy trưu tượng và năng lực khái quát trong quá trình nhận thức
sẽ đến lúc làm cho các quan điểm, quan niệm chung nhất về thế giới và về vai trò
của con người trong thế giới đó hình thành. Đó là lúc triết học xuất hiện với tư cách
là một loại hình tư duy lý luận đối lập với các giáo lý tôn giáo và triết lý huyền thoại.
Vào thời Cổ đại, khi các loại hình tri thức còn ơ trong tình trạng tản mạn, dung
hợp và sơ khai, các khoa học độc lập chưa hình thành, thì triết học đóng vai trò là
dạng nhân thức lý luậ n tổng hợp, giải quyết tất cả các ̣ vấn đề lý luân chung về tự
nhiên, xã hộ i và tư duy. Tư buổi đầu lịch sự̉ triết học và tới tận thời kỳ Trung Cổ,
triết học vẫn là tri thức bao trùm, là “khoa học của các khoa học”. Trong hàng nghìn
năm đó, triết học được coi là có sứ mệnh mang trong mình mọi trí tuệ của nhân loại.
Ngay cả I. Kant (Cantơ), nhà triết học sáng lập ra Triết học cổ điển Đức ơ thế kỷ
XVIII, vẫn đồng thời là nhà khoa học bách khoa. Sự dung hợp đó của triết học, một
mặt phản ánh tình trạng chưa chín muồi của các khoa học chuyên ngành, mặt khác
lại nói lên nguồn gốc nhận thức của chính triết học. Triết học không thể xuất hiện tư
mảnh đất trống, mà phải dựa vào các tri thức khác để khái quát và định hướng ứng
dụng. Các loại hình tri thức cụ thể ơ thế kỷ thứ VII tr.CN thực tế đã khá phong phú,
đa dạng. Nhiều thành tựu mà về sau người ta xếp vào tri thức cơ học, toán học, y
học, nghệ thuật, kiến trúc, quân sự và cả chính trị… ơ Châu Âu thời bấy giờ đã đạt
tới mức mà đến nay vẫn còn khiến con người ngạc nhiên. Giải phẫu học Cổ đại đã
phát hiện ra những tỷ lệ đặc biệt cân đối của cơ thể người và những tỷ lệ này đã trơ
thành những “chuẩn mực vàng” trong hội họa và kiến trúc Cổ đại góp phần tạo nên
một số kỳ quan của thế giới1. Dựa trên những tri thức như vậy, triết học ra đời và
khái quát các tri thức riêng lẻ thành luận thuyết, trong đó có những khái niệm, phạm
trù và quy luật… của mình.
Như vậy, nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành,
phát triển của tư duy trưu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con
người. Tri thức cụ thể, riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được
tổng hợp, trưu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan
điểm, quy luật, luận thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Triết học ra đời
đáp ứng nhu cầu đó của nhận thức. Do nhu cầu của sự tồn tại, con người không thỏa
mãn với các tri thức riêng lẻ, cục bộ về thế giới, càng không thỏa mãn với cách giải
thích của các tín điều và giáo lý tôn giáo. Tư duy triết học bắt đầu tư các triết lý, tư
sự khôn ngoan, tư tình yêu sự thông thái, dần hình thành các hệ thống những tri thức
chung nhất về thế giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi kho tàng tri thức của loài người đã hình thành được
một vốn hiểu biết nhất định và trên cơ sơ đó, tư duy con người cũng đã đạt đến trình
1 See: Tuplin C. J. & Rihll T. E. (2002). Science and Mathematics in Ancient Greek Culture (Khoa học và Toán học
trong văn hóa Hy Lạp cổ đại), Oxford University Press.
độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Nguồn gốc xã hội
Triết học không ra đời trong xã hội mông muội dã man. Như C.Mác nói: “Triết
học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới, cũng như bộ óc không tồn tại bên ngoài
con người”2. Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và
loài người đã xuất hiện giai cấp. Tức là khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, chế
độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành, phương thức sản xuất dựa trên sơ hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất đã được xác lập và ơ trình độ khá phát triển. Xã hội có giai cấp và
nạn áp bức giai cấp hà khắc đã được luật hóa. Nhà nước, công cụ trấn áp và điều hòa
lợi ích giai cấp đủ trương thành, “tư chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội”3.
Gắn liền với các hiện tượng xã hội vưa nêu là lao động trí óc đã tách khỏi lao
động chân tay. Trí thức xuất hiện với tính cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã
hội xác định. Vào thế kỷ VII - V tr.CN, tầng lớp quý tộc, tăng lữ, điền chủ, nhà buôn,
binh lính… đã chú ý đến việc học hành. Nhà trường và hoạt động giáo dục đã trơ
thành một nghề trong xã hội. Tri thức toán học, địa lý, thiên văn, cơ học, pháp luật,
y học… đã được giảng dạy4. Nghĩa là tầng lớp trí thức đã được xã hội ít nhiều trọng
vọng. Tầng lớp này có điều kiện và nhu cầu nghiên cứu, có năng lực hệ thống hóa
các quan niệm, quan điểm thành học thuyết, lý luận. Những người xuất sắc trong
tầng lớp này đã hệ thống hóa thành công tri thức thời đại dưới dạng các quan điểm,
các học thuyết lý luận… có tính hệ thống, giải thích được sự vận động, quy luật hay
các quan hệ nhân quả của một đối tượng nhất định, được xã hội công nhận là các
nhà thông thái, các triết gia (Wise man, Sage, Scholars, Philosopher), tức là các nhà
tư tương. Về mối quan hệ giữa các triết gia với cội nguồn của mình, C.Mác nhận xét:
“Các triết gia không mọc lên như nấm tư trái đất; họ là sản phẩm của thời đại của
mình, của dân tôc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hìnḥ được tập trung
lại trong những tư tương triết học”5.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen (2005), Toàn tập, t. 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 156.
3 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 288.
4 Xem: Michael Lahanas. Education in Ancient Greece (Giáo dục thời Hy Lạp Cổ đại).
http://www.hellenicaworld.com/Greece/Ancient/en/AncientGreeceEducation.html
5 C.Mác và Ph.Ăngghen (2005), Toàn tâp̣ , t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, tr. 156.̣
Triết học xuất hiện trong lịch sử loài người với những điều kiện như vậy và chỉ
trong những điều kiện như vậy - là nội dung của vấn đề nguồn gốc xã hội của triết
học. “Triết học” là thuật ngữ được sử dụng lần đầu tiên trong trường phái Socrates
(Xôcrát). Còn thuật ngữ “Triết gia” (Philosophos) đầu tiên xuất hiện ơ Heraclitus
(Hêraclit), dùng để chỉ người nghiên cứu về bản chất của sự vật6.
Như vậy, triết học chỉ ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ sản
xuất xã hội tương đối cao, phân công lao động xã hội hình thành, của cải tương đối
thưa dư, tư hữu hóa tư liệu sản xuất được luật định, giai cấp phân hóa rõ và mạnh,
nhà nước ra đời. Trong một xã hội như vậy, tầng lớp trí thức xuất hiện, giáo dục và
nhà trường hình thành và phát triển, các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy để trưu
tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa toàn bộ tri thức thời đại và các hiện tượng
của tồn tại xã hội để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận, các triết thuyết. Với
sự tồn tại mang tính pháp lý của chế độ sơ hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, của trật
tự giai cấp và của bộ máy nhà nước, triết học, tự nó đã mang trong mình tính giai
cấp sâu sắc, nó công khai tính đảng là phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những
lực lượng xã hội nhất định.
Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của sự ra đời của triết học chỉ là sự
phân chia có tính chất tương đối để hiểu triết học đã ra đời trong điều kiện nào và
với những tiền đề như thế nào. Trong thực tế của xã hội loài người khoảng hơn hai
nghìn năm trăm năm trước, triết học ơ Athens hay Trung Hoa và Ấn Độ Cổ đại đều
bắt đầu tư sự rao giảng của các triết gia. Không nhiều người trong số họ được xã hội
thưa nhận ngay. Sự tranh cãi và phê phán thường khá quyết liệt ơ cả phương Đông
lẫn phương Tây. Không ít quan điểm, học thuyết phải mãi đến nhiều thế hệ sau mới
được khẳng định. Cũng có những nhà triết học phải hy sinh mạng sống của mình để
bảo vệ học thuyết, quan điểm mà họ cho là chân lý.
Thực ra những bằng chứng thể hiện sự hình thành triết học hiện không còn
nhiều. Đa số tài liệu triết học thành văn thời Cổ đại Hy Lạp đã mất, hoặc ít ra cũng
không còn nguyên vẹn. Thời tiền Cổ đại (Pre Classical period) chỉ sót lại một ít các
câu trích, chú giải và bản ghi tóm lược do các tác giả đời sau viết lại. Tất cả tác phẩm
của Plato (Platôn), khoảng một phần ba tác phẩm của Aristotle (Arixtốt), và một số
ít tác phẩm của Theophrastus, người kế thưa Arixtốt, đã bị thất lạc. Một số tác phẩm
chữ La tinh và Hy Lạp của trường phái Epicurus (Êpiquya) (341 270 tr.CN), chủ
nghĩa Khắc kỷ (Stoicism) và Hoài nghi luận của thời hậu văn hóa Hy Lạp cũng vậy7.
6 Философия. Философский энциклопедический словарь (Triết học. Từ điển Bách khoa Triết học) (2010),
http://philosophy.niv.ru/doc/dictionary/philosophy/articles/62/filosofiya.htm.
7 See: David Wolfsdorf. Introduction to Ancient Western Philosophy (Khái luận về Triết học Phương
Tây Cổ đại) https://pdfs.semanticscholar.org/ad17/a4ae607f0ea4c46a5e49a3808d7ac26450c5.pdf
b. Khái niệm Triết học
Ở Trung Quốc, chữ triết (哲) đã có tư rất sớm, và ngày nay, chữ triết học (哲學
) được coi là tương đương với thuật ngữ philosophia của Hy Lạp, với ý nghĩa là sự
truy tìm bản chất của đối tượng nhận thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư
tương. Triết học là biểu hiện cao của trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người về
toàn bộ thế giới thiên - địa nhân và định hướng nhân sinh quan cho con người.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ Dar'sana (triết học) nghĩa gốc là chiêm ngưỡng, hàm ý là
tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ “triết học” như đang được sử dụng phổ biến hiên nay,
cũng như trong tất cả các hệ thống nhà trường, chính là ̣ φιλοσοφία (tiếng Hy Lạp;
được sử dụng nghĩa gốc sang các ngôn ngữ khác: Philosophy, philosophie,
философия). Triết học, Philo - sophia, xuất hiện ơ Hy Lạp Cổ đại, với nghĩa là yêu
mến sự thông thái. Người Hy Lạp Cổ đại quan niệm, philosophia vưa mang nghĩa là
giải thích vũ trụ, định hướng nhận thức và hành vi, vưa nhấn mạnh đến khát vọng
tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cả ơ phương Đông và phương Tây, ngay tư đầu, triết học đã là hoạt
động tinh thần bậc cao, là loại hình nhận thức có trình độ trưu tượng hóa và khái
quát hóa rất cao. Triết học nhìn nhận và đánh giá đối tượng xuyên qua thực tế, xuyên
qua hiện tượng quan sát được về con người và vũ trụ. Ngay cả khi triết học còn bao
gồm trong nó tất cả mọi thành tựu của nhận thức, loại hình tri thức đặc biệt này đã
tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội.
Là loại hình tri thức đặc biệt của con người, triết học nào cũng có tham vọng
xây dựng nên bức tranh tổng quát nhất về thế giới và về con người. Nhưng khác với
các loại hình tri thức xây dựng thế giới quan dựa trên niềm tin và quan niệm tương
tượng về thế giới, triết học sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn lôgíc và những
kinh nghiệm khám phá thực tại của con người, để diễn tả thế giới và khái quát thế
giới quan bằng lý luận. Tính đặc thù của nhận thức triết học thể hiện ơ đó8.
Bách khoa thư Britannica định nghĩa, “Triết học là sự xem xét lý tính, trưu
tượng và có phương pháp về thực tại với tính cách là một chỉnh thể hoặc những khía
cạnh nền tảng của kinh nghiệm và sự tồn tại người. Sự truy vấn triết học
(Philosophical Inquiry) là thành phần trung tâm của lịch sử trí tuệ của nhiều nền văn minh”9.
“Bách khoa thư triết học mới” của Viện Triết học Nga xuất bản năm
8 См:ИФ, РAH (2001). Новая философская энциклопедия (Bách khoa thư Triết học mới) .Там же. c. 195.
2001 viết: “Triết học là hình thức đặc biệt của nhận thức và ý thức xã hội về thế giới,
được thể hiện thành hệ thống tri thức về những nguyên tắc cơ bản và nền tảng của
tồn tại người, về những đặc trưng bản chất nhất của mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, với xã hội và với đời sống tinh thần”10.
Có nhiều định nghĩa về triết học, nhưng các định nghĩa thường bao hàm những nội dung chủ yếu sau:
- Triết học là một hình thái ý thức xã hội.
- Khách thể khám phá của triết học là thế giới (gồm cả thế giới bêntrong và bên
ngoài con người) trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn vốn có của nó.
- Triết học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình và quanhệ của thế
giới, với mục đích tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết
định sự vận động của thế giới, của con người và của tư duy.
- Với tính cách là loại hình nhận thức đặc thù, độc lập với khoa họcvà khác biệt
với tôn giáo, tri thức triết học mang tính hệ thống, lôgíc và trưu tượng về thế giới,
bao gồm những nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bản chất và những quan điểm
nền tảng về mọi tồn tại.
- Triết học là hạt nhân của thế giới quan.
Triết học là hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, được thể hiện thành hệ thống
các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới, về con người và về tư duy của con
người trong thế giới ấy.
Với sự ra đời của Triết học Mác - Lênin, triết học là hệ thống quan điểm lí luận
chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những
quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học khác với các khoa học khác ơ tính đặc thù của hệ thống tri thức khoa
học và phương pháp nghiên cứu. Tri thức khoa học triết học mang tính khái quát cao
dựa trên sự trưu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người.
Phương pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong
mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về
chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lí luận. Điều đó chỉ có thể
thực hiện được khi triết học dựa trên cơ sơ tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch
99. Philosophy in “Encyclopedia Britannica” (Triết học trong “Bách khoa thư Britanica”).
https://www.britannica.com/topic/philosophy. “Philosophy - the rational, abstract, and methodical consideration of
reality as a whole or of fundamental dimensions of human existence and experience”.
10Института философии, Российской Aкадемии Hayк (2001). Новая философская энциклопедия. (Bách khoa
thư Triết học mới) T.4. Москва “мысль”. c. 195.
sử của bản thân tư tương triết học.
Không phải mọi triết học đều là khoa học. Song các học thuyết triết học đều có
đóng góp ít nhiều, nhất định cho sự hình thành tri thức khoa học triết học trong lịch
sử; là những “vòng khâu”, những “mắt khâu” trên “đường xoáy ốc” vô tận của lịch
sử tư tương triết học nhân loại. Trình độ khoa học của một học thuyết triết học phụ
thuộc vào sự phát triển của đối tượng nghiên cứu, hệ thống tri thức và hệ thống phương pháp nghiên cứu.
c. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Cùng với quá trình phát triển của xã hội, của nhận thức và của bản thân triết
học, trên thực tế, nội dung của đối tượng của triết học cũng thay đổi trong các trường
phái triết học khác nhau.
Đối tượng của triết học là các quan hệ phổ biến và các quy luật chung nhất của
toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ngay tư khi ra đời, triết học đã được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao
hàm trong nó tri thức của tất cả các lĩnh vực mà mãi về sau, tư thế kỷ XV - XVII,
mới dần tách ra thành các ngành khoa học riêng. “Nền triết học tự nhiên” là khái
niệm chỉ triết học ơ phương Tây thời kỳ nó bao gồm trong mình tất cả những tri thức
mà con người có được, trước hết là các tri thức thuộc khoa học tự nhiên sau này như
toán học, vật lý học, thiên văn học... Theo S. Hawking (Hooc-king), Cantơ là người
đứng ơ đỉnh cao nhất trong số các nhà triết học vĩ đại của nhân loại - những người
coi “toàn bộ kiến thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh
vực của họ”9. Đây là nguyên nhân làm nảy sinh quan niệm vưa tích cực vưa tiêu cực
rằng, triết học là khoa học của mọi khoa học.
Ở thời kỳ Hy Lạp Cổ đại, nền triết học tự nhiên đã đạt được những thành tựu
vô cùng rực rỡ, mà “các hình thức muôn hình muôn vẻ của nó, - như đánh giá của
Ph.Ăngghen - đã có mầm mống và đang nảy nơ hầu hết tất cả các loại thế giới quan
sau này”10. Ảnh hương của triết học Hy Lạp Cổ đại còn in đậm dấu ấn đến sự phát
triển của tư tương triết học ơ Tây Âu mãi về sau. Ngày nay, văn hóa Hy - La còn là
tiêu chuẩn của việc gia nhập Cộng đồng châu Âu.
9 Xem:S.W. Hawking (2000). Lược sử thời gian. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 214 - 215.
10 C.Mác và Ph.Ăngghen (1994). Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. tr.491.
Ở Tây Âu thời Trung cổ, khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời
sống xã hội thì triết học trơ thành nữ tì của thần học11. Nền triết học tự nhiên bị thay
bằng nền triết học kinh viện. Triết học trong gần thiên niên kỷ đêm trường Trung cổ
chịu sự quy định và chi phối của hệ tư tương Kitô giáo. Đối tượng của triết học Kinh
viện chỉ tập trung vào các chủ đề như niềm tin tôn giáo, thiên đường, địa ngục, mặc
khải hoặc chú giải các tín điều phi thế tục … - những nội dung nặng về tư biện.
Phải đến sau “cuộc cách mạng” Copernicus (Cô-péc-ních), các khoa học Tây
Âu thế kỷ XV, XVI mới dần phục hưng, tạo cơ sơ tri thức cho sự phát triển mới của triết học.
Cùng với sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, để đáp
ứng các yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ
môn khoa học chuyên ngành, trước hết là các khoa học thực nghiệm đã ra đời. Những
phát hiện lớn về địa lý và thiên văn cùng những thành tựu khác của khoa học thực
nghiệm thế kỷ XV - XVI đã thúc đẩy cuộc đấu tranh giữa khoa học, triết học duy vật
với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Vấn đề đối tượng của triết học bắt đầu được đặt
ra. Những đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đã xuất hiện ơ
Anh, Pháp, Hà Lan với những đại biểu tiêu biểu như F.Bacon (Bây-cơn), T.Hobbes
(Hốpxơ) (Anh), D. Diderot (Đi-đơ-rô), C. Helvetius (Hen-vê-tiút) (Pháp), B.
Spinoza (Spi-nô-da) (Hà Lan)... V.I.Lênin đặc biệt đánh giá cao công lao của các nhà
duy vật Pháp thời kỳ này đối với sự phát triển chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết
học trước Mác. Ông viết: “Trong suốt cả lịch sử hiện đại của châu Âu và nhất là vào
cuối thế kỷ XVIII, ơ nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc quyết chiến chống tất cả
những rác rươi của thời Trung Cổ, chống chế độ phong kiến trong các thiết chế và
tư tương, chỉ có chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất triệt để, trung thành với tất
cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín, với thói đạo đức giả,
v.v.”12. Bên cạnh chủ nghĩa duy vật Anh và Pháp thế kỷ XVII - XVIII, tư duy triết
học cũng phát triển mạnh trong các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là Cantơ
và G.W.F Hegel (Hêghen), đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức.
Triết học tạo điều kiện cho sự ra đời của các khoa học, nhưng sự phát triển của
các khoa học chuyên ngành cũng tưng bước xóa bỏ vai trò của triết học tự nhiên cũ,
làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trò “khoa học của các khoa học”.
Triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng thể hiện tham vọng đó. Hêghen
tự coi triết học của mình là một hệ thống tri thức phổ biến, trong đó những ngành
11 Gracia, Jorge J. E.; Noone, Timothy B. (2003). A Companion to Philosophy in the Middle Ages. Oxford: Blackwell, tr. 35
12 V.I.Lênin (1980). Toàn tập, t. 23, Nxb Tiến bộ, Moscow, tr. 50.
khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học, là lôgíc học ứng dụng.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế
kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với quan niệm
triết học là “khoa học của các khoa học”, triết học Mác xác định đối tượng nghiên
cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất
và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Các nhà triết học mác xít về sau đã đánh giá, với Mác,
lần đầu tiên trong lịch sử, đối tượng của triết học được xác lập một cách hợp lý.
Vấn đề tư cách khoa học của triết học và đối tượng của nó đã gây ra những cuộc
tranh luận kéo dài cho đến hiện nay. Nhiều học thuyết triết học hiện đại ơ phương
Tây muốn tư bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu
riêng cho mình như mô tả những hiện tượng tinh thần, phân tích ngữ nghĩa, chú giải văn bản...
Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn
đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người,
của tư duy con người nói riêng với thế giới.
d. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan Thế giới quan
Nhu cầu tự nhiên của con người về mặt nhận thức là muốn hiểu biết đến tận
cùng, sâu sắc và toàn diện mọi hiện tượng, sự vật, quá trình. Nhưng tri thức mà con
người và cả loài người ơ thời nào cũng lại có hạn, là phần quá nhỏ bé so với thế giới
cần nhận thức vô tận bên trong và bên ngoài con người. Đó là tình huống có vấn đề
(Problematic Situation) của mọi tranh luận triết học và tôn giáo. Bằng trí tuệ duy lý,
kinh nghiệm và sự mẫn cảm của mình, con người buộc phải xác định những quan
điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sơ để định hướng cho nhận thức và hành động của
mình. Đó chính là thế giới quan. Tương tự như các tiên đề, với thế giới quan, sự
chứng minh nào cũng không đủ căn cứ, trong khi niềm tin lại mách bảo độ tin cậy.
“Thế giới quan” là khái niệm có gốc tiếng Đức “Weltanschauung” lần đầu tiên
được Cantơ sử dụng trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán (Kritik der
Urteilskraft, 1790) dùng để chỉ thế giới quan sát được với nghĩa là thế giới trong sự
cảm nhận của con người. Sau đó, F.Schelling đã bổ sung thêm cho khái niệm này
một nội dung quan trọng là, khái niệm thế giới quan luôn có sẵn trong nó một sơ đồ
xác định về thế giới, một sơ đồ mà không cần tới một sự giải thích lý thuyết nào cả.
Chính theo nghĩa này mà Hêghen đã nói đến “thế giới quan đạo đức”, J.Goethe (Gớt)
nói đến “thế giới quan thơ ca”, còn L.Ranke (Ranh-cơ) “thế giới quan tôn giáo”15.
Kể tư đó, khái niệm thế giới quan như cách hiểu ngày nay đã phổ biến trong tất cả
các trường phái triết học.
Khái niệm thế giới quan hiểu một cách ngắn gọn là hệ thống quan
15 Xem: Некрасова Н.А., Некрасов С.И.(2005) Мировоззрение как объект философской рефлексии
(Thế giới quan với tính cách là sự phản tư triết học). “Современные наукоемкие технологии” № 6. стр.
20 - 23. http://www.rae.ru/snt/?section=content&op=show_article&article_id=4116 , Шелер М. Философское
мировоззрение, Избранные произведения. - М., 1994.
điểm của con người về thế giới. Có thể định nghĩa: Thế giới quan là khái niệm triết
học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về
thế giới và về vị trí của con người (bao hàm cả cá nhân, xã hội và nhân loại) trong
thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Các khái niệm “Bức tranh chung về thế giới”, “Cảm nhận về thế giới”, “Nhận
thức chung về cuộc đời”… khá gần gũi với khái niệm thế giới quan. Thế giới quan
thường được coi là bao hàm trong nó nhân sinh quan - vì nhân sinh quan là quan
niệm của con người về đời sống với các nguyên tắc, thái độ và định hướng giá trị
của hoạt động người.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tương.
Trong đó tri thức là cơ sơ trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia
nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trơ thành
niềm tin. Lý tương là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan. Với tính cách là
hệ quan điểm chỉ dẫn tư duy và hành động, thế giới quan là phương thức để con
người chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế giới quan, con người không có phương hướng hành động.
Trong lịch sử phát triển của tư duy, thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức
đa dạng khác nhau, nên cũng được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn,
thế giới quan tôn giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Ngoài ba
hình thức chủ yếu này, còn có thể có thế giới quan huyền thoại (mà một trong những
hình thức thể hiện tiêu biểu của nó là thần thoại Hy Lạp); theo những căn cứ phân
chia khác, thế giới quan còn được phân loại theo các thời đại, các dân tộc, các tộc
người, hoặc thế giới quan kinh nghiệm, thế giới quan thông thường…13.
Thế giới quan chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng (một cách ý thức hoặc
không ý thức) trong mọi ngành khoa học và trong toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.
13 См: Мировоззрение. Философский энциклопедический словарь (Thế giới quan. Tư điển bách khoa triết học)
(2010).http://philosophy.niv.ru/doc/dictionary/philosophy/fc/slovar - 204 - 2.htm#zag 1683.
Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Nói triết học là hạt nhân của thế giới quan, bơi thứ nhất, bản thân triết học chính
là thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác như thế giới quan của các
khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, hay các thời đại… triết học bao giờ
cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. Thứ ba, với các loại
thế giới quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường…,
triết học bao giờ cũng có ảnh hương và chi phối, dù có thể không tự giác. Thứ tư, thế
giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.
Thế giới quan duy vật biện chứng được coi là đỉnh cao của các loại thế giới
quan đã tưng có trong lịch sử. Vì thế giới quan này đòi hỏi thế giới phải được xem
xét dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Tư đây,
thế giới và con người được nhận thức theo quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể và
phát triển. Thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm tri thức khoa học, niềm tin
khoa học và lý tương cách mạng.
Khi thực hiện chức năng của mình, những quan điểm thế giới quan luôn có xu
hướng được lý tương hóa, thành những khuôn mẫu văn hóa điều chỉnh hành vi. Ý
nghĩa to lớn của thế giới quan thể hiện trước hết là ơ điểm này.
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người
và xã hội loài người. Bơi lẽ, thứ nhất, những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời
giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc thế giới quan. Thứ hai, thế giới quan đúng
đắn là tiền đề quan trọng để xác lập phương thức tư duy hợp lý và nhân sinh quan
tích cực trong khám phá và chinh phục thế giới. Trình độ phát triển của thế giới quan
là tiêu chí quan trọng đánh giá sự trương thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi
cộng đồng xã hội nhất định.
Thế giới quan tôn giáo cũng là thế giới quan chung nhất, có ý nghĩa phổ biến
đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nhưng do bản chất là đặt
niềm tin vào các tín điều, coi tín ngưỡng cao hơn lý trí, phủ nhận tính khách quan
của tri thức khoa học, nên không được ứng dụng trong khoa học và thường dẫn đến
sai lầm, tiêu cực trong hoạt động thực tiễn. Thế giới quan tôn giáo phù hợp hơn với
những trường hợp con người giải thích thất bại của mình. Trên thực tế, cũng không
ít nhà khoa học sùng đạo mà vẫn có phát minh, nhưng với những trường hợp này,
mọi giải thích bằng nguyên nhân tôn giáo đều không thuyết phục; cần phải lý giải
kỹ lưỡng hơn và sâu sắc hơn bằng những nguyên nhân vượt ra ngoài giới hạn của những tín điều.
Không ít người, trong đó có các nhà khoa học chuyên ngành, thường định kiến
với triết học, không thưa nhận triết học có ảnh hương hay chi phối thế giới quan của
mình. Tuy thế, với tính cách là một loại tri thức vĩ mô, giải quyết các vấn đề chung
nhất của đời sống, ẩn giấu sâu trong mỗi suy nghĩ và hành vi của con người, nên tư
duy triết học lại là một thành tố hữu cơ trong tri thức khoa học cũng như trong tri
thức thông thường, là chỗ dựa tiềm thức của kinh nghiệm cá nhân, dù các cá nhân
cụ thể có hiểu biết ơ trình độ nào và thưa nhận đến đâu vai trò của triết học. Nhà
khoa học và cả những người ít học, không có cách nào tránh được việc phải giải
quyết các quan hệ ngẫu nhiên - tất yếu hay nhân quả trong hoạt động của họ, cả trong
hoạt động khoa học chuyên sâu cũng như trong đời sống thường ngày. Nghĩa là, dù
hiểu biết sâu hay nông cạn về triết học, dù yêu thích hay ghét bỏ triết học, con người
vẫn bị chi phối bơi triết học, triết học vẫn có mặt trong thế giới quan của mỗi người.
Vấn đề chỉ là thứ triết học nào sẽ chi phối con người trong hoạt động của họ, đặc
biệt trong những phát minh, sáng tạo hay trong xử lý những tình huống gay cấn của đời sống.
Với các nhà khoa học, Ph.Ăngghen trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên đã
viết: “Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những
tàn tích thông tục hóa, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất… Dù
những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối.
Vấn đề chỉ ơ chỗ họ muốn bị chi phối bơi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt hay họ
muốn được hướng dẫn bơi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch
sử tư tương và những thành tựu của nó”14.
Như vậy, triết học với tính cách là hạt nhân lý luận, trên thực tế, chi phối mọi
thế giới quan, dù người ta có chú ý và thưa nhận điều đó hay không.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các
vấn đề cụ thể của mình, nó buộc phải giải quyết một vấn đề có ý nghĩa nền tảng và
là điểm xuất phát để giải quyết tất cả những vấn đề còn lại - vấn đề về mối quan hệ
giữa vật chất với ý thức. Đây chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph.Ăngghen viết:
“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề
quan hệ giữa tư duy với tồn tại”15.
Bằng kinh nghiệm hay bằng lý trí, con người rốt cuộc đều phải thưa nhận rằng,
hóa ra tất cả các hiện tượng trong thế giới này chỉ có thể, hoặc là hiện tượng vật chất,
tồn tại bên ngoài và độc lập ý thức con người, hoặc là hiện tượng thuộc tinh thần, ý
thức của chính con người. Những đối tượng nhận thức lạ lùng, huyền bí, hay phức
tạp như linh hồn, đấng siêu nhiên, linh cảm, vô thức, vật thể, tia vũ trụ, ánh sáng, hạt
14 C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 692 - 693.
15 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 403.
Quark, hạt Strangelet, hay trường (Sphere)…, tất thảy cho đến nay vẫn không phải
là hiện tượng gì khác nằm ngoài vật chất và ý thức. Để giải quyết được các vấn đề
chuyên sâu của tưng học thuyết về thế giới, thì câu hỏi đặt ra đối với triết học trước
hết vẫn là: Thế giới tồn tại bên ngoài tư duy con người có quan hệ như thế nào với
thế giới tinh thần tồn tại trong ý thức con người? Con người có khả năng hiểu biết
đến đâu về sự tồn tại thực của thế giới? Bất kỳ trường phái triết học nào cũng không
thể lảng tránh giải quyết vấn đề này - mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
Khi giải quyết vấn đề cơ bản, mỗi triết học không chỉ xác định nền tảng và điểm
xuất phát của mình để giải quyết các vấn đề khác mà thông qua đó, lập trường, thế
giới quan của các học thuyết và của các triết gia cũng được xác định.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện
tượng, sự vật, hay sự vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất
hay nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định.
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói
cách khác, khi khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ
nhận thức được sự vật và hiện tượng hay không.
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường
phái triết học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là
cái có trước và quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật. Học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật, giải thích
mọi hiện tượng của thế giới này bằng các nguyên nhân vật chất - nguyên nhân tận
cùng của mọi vận động của thế giới này là nguyên nhân vật chất. Ngược lại, những
người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới tự nhiên, được
gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyết của họ hợp thành các phái khác nhau của chủ
nghĩa duy tâm, chủ trương giải thích toàn bộ thế giới này bằng các nguyên nhân tư
tương, tinh thần - nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế giới này là nguyên nhân tinh thần.
- Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba
hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thưa nhận tính thứ nhất của vật chất
nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra
những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất
phác. Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về vật chất và cấu trúc vật chất,
nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản
thân giới tự nhiên để giải thích thế giới, không viện đến Thần linh, Thượng đế hay
các lực lượng siêu nhiên.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của chủ
nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ơ các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và
điển hình là ơ thế kỷ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được
những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật
thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương
pháp tư duy siêu hình, cơ giới - phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng
lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản là ơ trong trạng thái biệt lập và tĩnh
tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong toàn cục nhưng chủ nghĩa duy vật siêu
hình đã góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo, đặc
biệt là ơ thời kỳ chuyển tiếp tư đêm trường Trung cổ sang thời Phục hưng.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy
vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó
được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thưa tinh hoa của các học thuyết triết học trước
đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật
biện chứng, ngay tư khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy
vật chất phác thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện
thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những
lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
- Chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm
chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thưa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thưa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng
coi đó là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực
thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như ý
niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v..
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản
sinh ra giới tự nhiên. Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thưa nhận sự sáng tạo của
một lực lượng siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử
dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sơ lý luận, luận chứng cho các quan điểm của
mình, tuy có sự khác nhau đáng kể giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa
duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sơ chủ yếu và đóng vai
trò chủ đạo đối với vận động. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của
tư duy lý tính dựa trên cơ sơ tri thức và năng lực mạnh mẽ của tư duy.
Về phương diện nhận thức luận, sai lầm cố ý của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn
tư cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào
đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.
Bên cạnh nguồn gốc nhận thức, chủ nghĩa duy tâm ra đời còn có nguồn gốc xã
hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động
trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội trước đây đã tạo ra quan niệm về
vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Trong lịch sử, giai cấp thống trị và nhiều
lực lượng xã hội đã tưng ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận
cho những quan điểm chính trị - xã hội của mình.
Học thuyết triết học nào thưa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc
tinh thần) là bản nguyên (nguồn gốc) của thế giới, quyết định sự vận động của thế
giới được gọi là nhất nguyên luận (nhất nguyên luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm).
Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả
hai bản nguyên vật chất và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có
thể cùng quyết định nguồn gốc và sự vận động của thế giới. Học thuyết triết học như
vậy được gọi là nhị nguyên luận, điển hình là Descartes (Đề-các). Những người nhị
nguyên luận thường là những người, trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó,
ơ vào một thời điểm nhất định, là người duy vật, nhưng ơ vào một thời điểm khác,
và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người duy tâm. Song, xét đến cùng nhị
nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.
Xưa nay, những quan điểm, học phái triết học thực ra là rất phong phú và đa
dạng. Nhưng dù đa dạng đến mấy, chúng cũng chỉ thuộc về hai lập trường cơ bản.
Triết học do vậy được chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Lịch sử triết học do vậy cũng chủ yếu là lịch sử đấu tranh của hai
trường phái duy vật và duy tâm.
c. Thuyết có thể biết (Thuyết Khả tri) và thuyết không thể biết (Thuyết Bất khả tri)
Đây là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của
triết học. Với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”, tuyệt
đại đa số các nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) trả lời một cách khẳng định: thưa
nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.
Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi là
thuyết Khả tri (Gnosticism, Thuyết có thể biết). Thuyết khả tri khẳng định con người
về nguyên tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật. Nói cách khác, cảm giác, biểu
tượng, quan niệm và nói chung ý thức mà con người có được về sự vật về nguyên
tắc, là phù hợp với bản thân sự vật.
Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi là
thuyết không thể biết (thuyết bất khả tri). Theo thuyết này, con người, về nguyên tắc,
không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Kết quả nhận thức mà loài người có
được, theo thuyết này, chỉ là hình thức bề ngoài, hạn hẹp và cắt xén về đối tượng.
Các hình ảnh, tính chất, đặc điểm… của đối tượng mà các giác quan của con người
thu nhận được trong quá trình nhận thức, cho dù có tính xác thực, cũng không cho
phép con người đồng nhất chúng với đối tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối tin cậy.
Bất khả tri không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực tại
được cảm giác của con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con người không thể
đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều
nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế giới. Thuyết Bất khả tri cũng không
đặt vấn đề về niềm tin, mà là chỉ phủ nhận khả năng vô hạn của nhận thức.
Thuật ngữ “thuyết bất khả tri” (Agnosticism) được đưa ra năm 1869 bơi T.H.
Huxley (Hắc-xli) (1825 - 1895), nhà triết học tự nhiên người Anh, người đã khái
quát thực chất của lập trường này tư các tư tương triết học của D. Hume (Hi-um) và
Cantơ. Đại biểu điển hình cho những nhà triết học bất khả tri cũng chính là Hium và Cantơ.
Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận
tư triết học Hy Lạp Cổ đại. Những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên
thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người
không thể đạt đến chân lý khách quan. Tuy cực đoan về mặt nhận thức, nhưng Hoài
nghi luận thời Phục hưng đã giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống hệ tư
tương và quyền uy của Giáo hội Trung cổ. Hoài nghi luận thưa nhận sự hoài nghi
đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.
Quan niệm bất khả tri đã có trong triết học ngay tư Êpiquya khi ông đưa ra
những luận thuyết chống lại quan niệm đương thời về chân lý tuyệt đối. Nhưng phải
đến Cantơ, bất khả tri mới trơ thành học thuyết triết học có ảnh hương sâu rộng đến
triết học, khoa học và thần học châu Âu. Trước Cantơ, Hium quan niệm tri thức con
người chỉ dưng ơ trình độ kinh nghiệm. Chân lý phải phù hợp với kinh nghiệm. Hium
phủ nhận những sự trưu tượng hóa vượt quá kinh nghiệm, dù là những khái quát có
giá trị. Nguyên tắc kinh nghiệm (Principle of Experience) của Hium thực ra có ý
nghĩa đáng kể cho sự xuất hiện của các khoa học thực nghiệm. Tuy nhiên, việc tuyệt
đối hóa kinh ngiệm đến mức phủ nhận các thực tại siêu nhiên, đã khiến Hium trơ
thành nhà bất khả tri luận.
Mặc dù quan điểm bất khả tri của Cantơ không phủ nhận các thực tại siêu nhiên
như Hium, nhưng với thuyết về Vật tự nó (Ding an sich), Cantơ đã tuyệt đối hóa sự
bí ẩn của đối tượng được nhận thức. Cantơ cho rằng con người không thể có được
những tri thức đúng đắn, chân thực, bản chất về những thực tại nằm ngoài kinh
nghiệm có thể cảm giác được. Việc khẳng định về sự bất lực của trí tuệ trước thế giới
thực tại đã làm nên quan điểm bất khả tri vô cùng độc đáo của Cantơ.
Trong lịch sử triết học, thuyết Bất khả tri và quan niệm Vật tự nó của Cantơ đã
bị Feuerbach (Phoiơbắc) và Hêghen phê phán gay gắt. Trên quan điểm duy vật biện
chứng, Ph.Ăngghen tiếp tục phê phán Cantơ, khi khẳng định khả năng nhận thức vô
tận của con người. Theo Ph.Ăngghen, con người có thể nhận thức được và nhận thức
được một cách đúng đắn bản chất của mọi sự vật và hiện tượng. Không có một ranh
giới nào của Vật tự nó mà nhận thức của con người không thể vượt qua được. Ông
viết: “Nếu chúng ta có thể minh chứng được tính chính xác của quan điểm của chúng
ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy,
bằng cách tạo ra nó tư những điều kiện của nó, và hơn nữa, còn bắt nó phải phục vụ
mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn có cái “vật tự nó” không thể nắm được của Cantơ nữa”16.
Những người theo Khả tri luận tin tương rằng, nhận thức là một quá trình không
ngưng đi sâu khám phá bản chất sự vật. Với quá trình đó, Vật tự nó sẽ buộc phải
biến thành “Vật cho ta”.
3. Biện chứng và siêu hình
a. Khái niệm biện chứng và siêu hình trong lịch sử
Các khái niệm “biện chứng” và “siêu hình” trong lịch sử triết học được dùng
theo một số nghĩa khác nhau. Nghĩa xuất phát của tư “biện chứng” là nghệ thuật
tranh luận để tìm chân lý bằng cách phát hiện mâu thuẫn trong cách lập luận (Do
Xôcrát dùng). Nghĩa xuất phát của tư “siêu hình” là dùng để chỉ triết học, với tính
cách là khoa học siêu cảm tính, phi thực nghiệm (Do Arixtốt dùng)
Trong triết học hiện đại, đặc biệt là triết học mácxít, chúng được dùng, trước hết để
chỉ hai phương pháp tư duy chung nhất đối lập nhau, đó là phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình.
16 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 406.
Sự đối lập giữa hai phương pháp tư duy
Phương pháp siêu hình
+ Nhận thức đối tượng ơ trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các quan
hệ được xem xét và coi các mặt đối lập với nhau có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ơ trạng thái tĩnh; đồng nhất đối tượng với trạng thái tĩnh
nhất thời đó. Thưa nhận sự biến đổi chỉ là sự biến đổi về số lượng, về các hiện tượng
bề ngoài. Nguyên nhân của sự biến đổi coi là nằm ơ bên ngoài đối tượng.
Phương pháp siêu hình có cội nguồn hợp lý của nó tư trong khoa học cổ điển.
Muốn nhận thức bất kỳ một đối tượng nào, trước hết con người phải tách đối tượng
ấy ra khỏi những liên hệ nhất định và nhận thức nó ơ trạng thái không biến đổi trong
một không gian và thời gian xác định. Đó là phương pháp được đưa tư toán học và
vật lý học cổ điển vào các khoa học thực nghiệm và vào triết học. Song phương pháp
siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bơi hiện thực khách quan,
trong bản chất của nó, không rời rạc và không ngưng đọng như phương pháp tư duy này quan niệm.
Phương pháp siêu hình có công lớn trong việc giải quyết các vấn đề có liên
quan đến cơ học cổ điển. Nhưng khi mơ rộng phạm vi khái quát sang giải quyết các
vấn đề về vận động, về liên hệ thì lại làm cho nhận thức rơi vào phương pháp luận
siêu hình. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, phương pháp siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật
riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy
sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự
vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rưng”17.
Phương pháp biện chứng
+ Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối tượng
và các thành phần của đối tượng luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hương nhau, ràng buộc, quy định lẫn nhau.
+ Nhận thức đối tượng ơ trạng thái luôn vận động biến đổi, nằm trong khuynh
hướng phổ quát là phát triển. Quá trình vận động này thay đổi cả về lượng và cả về
chất của các sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc của sự vận động, thay đổi đó là sự đấu
tranh của các mặt đối lập của mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật.
Quan điểm biện chứng cho phép chủ thể nhận thức không chỉ thấy những sự
vật riêng biệt mà còn thấy cả mối liên hệ giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại của
sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành, phát triển và sự tiêu vong của sự vật, không chỉ
17 C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 37.
thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà còn thấy cả trạng thái động của nó. Ph.Ăngghen
nhận xét, tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể
dung hòa nhau được, đối với họ một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một sự
vật không thể vưa là chính nó lại vưa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định
tuyệt đối bài trư lẫn nhau. Ngược lại, tư duy biện chứng là tư duy mềm dẻo, linh
hoạt, không tuyệt đối hóa những ranh giới nghiêm ngặt. “Trong những trường hợp
cần thiết, bên cạnh cái “hoặc là…hoặc là” thì còn có cả “cái này lẫn cái kia” nữa, và
thực hiện sự môi giới giũa các mặt đối lập”. Nó thưa nhận một chỉnh thể trong lúc
vưa là nó lại vưa không phải là nó; thưa nhận cái khẳng định và cái phủ định vưa
loại trư nhau lại vưa gắn bó với nhau18.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy,
phương pháp tư duy biện chứng trơ thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận
thức và cải tạo thế giới và là phương pháp luận tối ưu của mọi khoa học.
b. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã trải
qua ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của
nó: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
+ Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời Cổ đại. Các nhà biện
chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời Cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện
tượng của vũ trụ vận động trong sự sinh thành, biến hóa vô cùng vô tận. Tuy nhiên,
những gì các nhà biện chứng thời đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa có các kết quả
của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.
+ Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này
được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khơi đầu là Cantơ và người hoàn
thiện là Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân
loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan
trọng nhất của phương pháp biện chứng. Biện chứng theo họ, bắt đầu tư tinh thần và
kết thúc ơ tinh thần. Thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện chứng của ý niệm
nên phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
+ Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được
thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin
và các nhà triết học hậu thế phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính thần bí,
tư biện của triết học cổ điển Đức, kế thưa những hạt nhân hợp lý trong phép biện
chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về
mối liên hệ phô biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất. Công lao của
18 Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 39, 696.
Mác và Ph.Ăngghen còn ơ chỗ tạo được sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với
phép biện chứng trong lịch sử phát triển triết học nhân loại, làm cho phép biện chứng
trơ thành phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật trơ thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC –
LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
a. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
Sự xuất hiện triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học.
Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tương triết học và khoa học của
nhân loại, trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là
thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Đó cũng là kết
quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen.
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều
kiện cách mạng công nghiệp.
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển rất mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc là đặc điểm nổi bật
trong đời sống kinh tế - xã hội ơ những nước chủ yếu của châu Âu. Nước Anh đã
hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trơ thành cường quốc công nghiệp lớn
nhất. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành. Cuộc
cách mạng công nghiệp cũng làm cho nền sản xuất xã hội ơ Đức được phát triển
mạnh ngay trong lòng xã hội phong kiến. Nhận định về sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Giai cấp tư sản, trong quá
trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại"19.
Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa được củng cố, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ trên
cơ sơ vật chất - kỹ thuật của chính mình, do đó đã thể hiện rõ tính hơn hẳn của nó so
với phương thức sản xuất phong kiến.
19 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 603.