lOMoARcPSD| 59540283
TÊN ĐỀ TÀI
NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI TONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC NHÂN LOẠI
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2023
lOMoARcPSD| 59540283
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại .......................................................... 3
1.1 Về tự nhiên .............................................................................................................................. 3
1.2 Về kinh tế .................................................................................................................................. 4
1.3 Về chính trị - xã hội .................................................................................................................. 5
1.4 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp ............................................................................... 7
CHƯƠNG II: Tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon ......................................................... 7
2.1 Tư tưởng triết học Đitmocrite................................................................................................ 7
a. Thuyết nguyên tử .................................................................................................................. 8
b. Lý luận về nhận thức ............................................................................................................ 9
c. Quan niệm về con người ..................................................................................................... 10
d. Quan điểm chính trị – xã hội ............................................................................................. 11
2.2 Tư tưởng triết học Platon ..................................................................................................... 11
a. Học thuyết về ý niệm .......................................................................................................... 12
b. Lý luận về nhận thức .......................................................................................................... 13
c. Học thuyết về chính trị – xã hội ......................................................................................... 14
CHƯƠNG III: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI LÀ SỰ ĐẤU TRANH GIỮA
TRƯỜNG PHÁI ĐEMOCRITE TRƯỜNG PHÁI
PLATON............................................15 ......................................................................................... 15
3.1 Đấu tranh về tư tưởng chính trị........................................................................................ 16
3.2 Đấu tranh về nhận thức luận và logic học ........................................................................ 18
3.3 Đấu tranh trong quan niệm về con người vàhội ......................................................... 20
KẾT
LUẬN........................................................................................................................................21
lOMoARcPSD| 59540283
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Trong lịch sử phát triển của triết học nhân loại triết học Hy Lạp là khúc
mở đầu cho giai đoạn phát triển của triết học phương tây, trong đó triết
học cổ đại Hy Lạp với những nhà triết học xuất chúng như Đemocrite và
Platon khởi nguồn cho mọi sphát triển của triết học. Tìm hiểu triết
học Hy Lạp cổ đại không hơn tìm hiểu tưởng triết học của
Đemocrite Platon, m hiểu sự đấu tranh giữa hai trường phái triết học
duy vật và duy tâm.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong giai đoạn triết học Hy lạp
cổ đại. Với phương pháp nghiên cứu phương pháp lịch sử đối chiếu.
Bài nghiên cứu quy như một bài thu hoạch nên các vấn đề được đề
cập mang tính khái quát.
CHƯƠNG I: Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1 Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại chính cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc
gia rộng lớn khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng
(Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu Á nhiều hòn đảo miền Egee. Hy
Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc , Nam và Trung bộ.
Trung bộ nhiều dãy núi ngang dọc những đồng bằng trù phú, thành
phố lớn nAthen. Nam bộ bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng
lớn pnhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bbiển phía Đông của bán
đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải
phát triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) nơi trung chuyển cho việc đi lại,
lOMoARcPSD| 59540283
buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu
Á đầu mối giao thương giữa Hy Lạp các nước phương Đông. Với điều
kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia
chiếm hữu lệ một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa
tinh thần phong phú đa dạng. Nơi nhiều triết gia triết của họ trở nên
bất hủ.
1.2 Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm một vtrí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển
cả lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực giá để cho
duy bay bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI BC, đâythời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp
cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc
bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm
dồi dào, chế độ sở hữu nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo
phân công lao động trong nông nghiệp, giữa ngành trồng trọt ngành chăn
nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ
nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ
VIII BC lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân
cận. Engels đã nhận xét: “Phải những khả năng của chế độ lệ mới xây
dựng được một quy phân công lao động lớn lao hơn trong công nghiệp
nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước Hy Lạp giàu có. Nếu không chế
độ lệ thì cũng không quốc gia Hy Lạp, không khoa học công nghiệp
Hy Lạp”
lOMoARcPSD| 59540283
1.3 Về chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị – xã hội, xã hội
phân hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị
phân hóa thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân
thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó,
Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy
Lạp cổ đại.
Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều
kiện địa thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy
Lạp cổ đại, cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sphát triển
kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát
triển nông nghiệp. Chủ nô qtộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính
thế Sparte đã xây dựng một thiết chế nnước quân chủ, thực hiện sáp bức
rất tàn khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất
bại của thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng
về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói
đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại họ xuất
phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không ngôn ngữ chung, không quyền hạn,
không được tham gia vào các hoạt động hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua
Philíp ở phía Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế
kỷ thứ II BC, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế
lOMoARcPSD| 59540283
quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn
hóa.
Engels đã nhận xét không có sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La thì
không Châu Âu hiện đại được”. điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao
đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên
thường xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành
tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả
các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận,
“Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh cùng
xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là
sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại.
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất
phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản
ánh cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại
những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.
Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá
trị.
Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá
nghiêm tại thành bang Athen.
Về khoa học tnhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được
các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra.
đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học cùng đồ sộ
sâu sắc.
lOMoARcPSD| 59540283
1.4 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính triết học Hy Lạp cổ đại,
cũng điểm xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp
những đặc trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ phương pháp luận của giai cấp chủ
thống trị.
Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy
vật – duy tâm, biện chứng – siêu hình, vô thần – hữu thần.
Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh
vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
CHƯƠNG II: Tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon
2.1 Tư tưởng triết học Đitmocrite
Đémocrite (460-370 tr.CN) sinh trưởng trong một gia đình chủ dân chủ
ở Ápđerơ (Hy Lạp). Ông đã đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc
với nền văn hoá phương Đông cổ đại. Ông am hiểu toán học, vật học, sinh
vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học âm nhạc v.v. Ông đến 70 tác
phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói trên. Ông được Mác và Ăng -
ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp.
Đémocrite đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết
nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật.
Ngoài ra, ông còn có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức.
lOMoARcPSD| 59540283
a. Thuyết nguyên tử
Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải
đến Đémocrite học thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Theo ông, trụ được cấu
thành từ hai thực thể đầu tiên: nguyên tử và chân không.
Nguyên tnhững hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không thể
phân chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn
vận động không ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị,
âm thanh và mầu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí
trình tự kết hợp của chúng. những nguyên thình cầu, hình tam giác,
hình móc câu, hình lõm v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính được với nhau.
Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì
vật thể bị tiêu diệt.
Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, nóng tạo
nên. Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như
những nguyên tử khác. Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với
Đémocrite, chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nguyên tử mới
vận động được. Nếu tất cả đặc sệt các nguyên tử thì sẽ không điều kiện
cho vận động. Khác với nguyên tử kích thước, hình dáng, chân không thì
hạn và không có hình dáng.
Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng,
khi thì tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau
tạo thành một cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những
nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi, còn những nguyên tto, nặng quy vào tâm,
nhờ đó các hành tinh, kcả trái đất được hình thành. Những hành tinh xuất hiện
và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra.
lOMoARcPSD| 59540283
Những phán đoán trên đây về nguyên ttuy còn nhiều điểm hạn chế (hạt vật
chất nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng đã khẳng định bản chất
của thế giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Đémocrite
chưa giải thích được nguyên nhân của vận động, nhưng ông đã gắn liền vận
động với nguyên tử, cũng cùng, tận như nguyên tử. Đó một đóng
góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết học
duy vật. Chính quan niệm duy vật vô thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị
coi là phủ nhận thần linh và trục xuất ông khỏi quê hương.
b. Lý luận về nhận thức
Đémocrite đã công đưa luận nhận thức lên một bước mới. Ông
tiếp theo ông là Arixtốt, kể cả Platon đã rất chú ý đến nhận thức tính, đến
lôgíc học. Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật
tác động vào các giác quan mà ta cảm giác về chúng. Những cảm giác này
nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, chlà sự phản
ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi
vì, nó chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà
không phản ánh được nguyên tử chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tđều
giống nhau về chất, bản thân chúng không mùi vị, mầu sắc, âm thanh
không trông thấy được.
Bởi vậy, những cảm giác này chlà chủ quan của con người. Theo ông,
muốn nhận thức được nguyên tử chân không, tức muốn nhận thức bản
chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy
nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ông chia
nhận thức làm hai dạng: dạng nhận thức “mờ tối”(nhận thức cảm tính) và dạng
nhận thức “trí tuệ”. Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy
hơn. Mặt tích cực trong quan điểm trên đây chỗ, ông coi đối tượng của
nhận thức là thế giới khách quan do nguyên tử và chân không tạo ra.
lOMoARcPSD| 59540283
Tuy chưa nhận thức được sự chuyển hoá giữa nhận thức cảm tính nhận
thức tính, nhưng ông đã thấy được vtrí của từng dạng nhận thức, đặc biệt
nhận thức lý tính. Song mặt hạn chế trong quan niệm này là ở chỗ, ông coi các
thuộc tính khách quan của svật như âm thanh, mùi vị, mầu sắc chnhững
quy ước chủ quan của con người. Hạn chế này đã mở đường cho những quan
niệm duy tâm cho rằng chất tách rời sự vật, chất có trước và chất có sau của sự
vật v.v.
Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đémocrite đã một công
lao to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm “Bàn về lôgíc học”
(Canon); tác phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp
qua lời của Arixtốt, Platon). Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc
học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v,
trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Arixtốt đã coi Đémocrite tiền
bối của mình về lôgíc học, người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm,
lôgíc quy nạp.
c. Quan niệm về con người
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên
bằng lửa trong thể; cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu giống
như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác.
Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của
quá trình biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt
dưới tác động của nhiệt độ. Theo ông, con người một loại động vật, nhưng
về khả năng thể học được bất kỳ cái nhờ tay chân, cảm giác năng
lực trí tuệ trợ giúp.
lOMoARcPSD| 59540283
Đémocrite đứng trên lập trường thần phủ nhận thượng đế thần linh;
thần chỉ là sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người.
d. Quan điểm chính trị – xã hội
Đémocrite đứng trên lập trường của chủ dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten
chống lại chế độ chuyên chính. Ông cho rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ
cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ y như tự do
quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến
dân chủ của chủ nô và công dân tự do; còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ.
Ông coi nhà nước trụ cột của hội, cần phải xử nghiêm khắc những
kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.
Tóm lại, triết học Đémocrite là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao
các quan điểm duy vật (của trường phái Milê) tưởng biện chứng (của
Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy
vật thời cổ đại.
2.2 Tư tưởng triết học Platon
Platon (427 347 TCN) xuất thân trong một gia đình chủ quý tộc Aten.
Tên thật của ông Aristôclơ. Theo Arixtốt, c đầu Platon học trò của Cratin
(người theo thuyết tương đối), sau đó là học trò của Xôcrát (nhà triết học duy
lý, duy tâm chủ nghĩa). Khi Xôcrát bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại
chế độ dân chủ chủ nô, Platon rời Aten đến sống miền nam nước Italia. Trong
thời gian này ông liên hvới phái Pitago Ơclít. Sau này ông trở lại Hy
Lạp, lập trường dạy học Aten, gọi Viện hàn lâm (Académie). Đây trường
Đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, học trò rất đông, trong đó nhà triết học
nổi tiếng Arixtốt.
lOMoARcPSD| 59540283
Ngót 40 năm giảng dạy trước tác, ông đã để lại 34 thiên đối thoại nhiều
bức thư triết học.
Tác phẩm “Nước cộng hoà” (République) vị trí đặc biệt trong triết học
của ông.
Platon nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa
duy vật đương thời. Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học,
Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường lối duy vật của Đémocrite và đường lối
duy tâm của Platon. Tư tưởng triết học của Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc các
yếu tố duy tâm trong triết học của Pitago và Xôcrát.
Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của
ý thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức nhân, triết học của
ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại.
a. Học thuyết về ý niệm
Như đã nói trên, Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy
trong triết học Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê,
luận về con số của trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì
vậy ông xem nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận
thức lý tính, của khái niệm. Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của
những ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.
Theo ông, thế giới của những ý niệm tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt
đối, bất biến, sở tồn tại của thế giới các svật cảm tính. Còn thế giới
các sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các
ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm.
lOMoARcPSD| 59540283
Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ
thế giới các ý niệm như thế nào, Platon đã đưa ra ví dụ “Hang động” như sau:
Ở ngoài cửa của một cái hang tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời
chiếu vào cửa hang làm cho bóng của đoàn người được in lên vách đá. Nếu
nhìn lên vách hang bên trong, người ta sẽ thấy những bóng người đi qua. Những
bóng này chỉ là hình ảnh của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn người.
Thế giới các sự vật cảm tính cũng vậy, chỉ cái bóng của ý niệm đã từ
trước mà thôi.
Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề bản của triết học, Platon
cho rằng ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự
vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
Từ thế giới quan trên đây, Platon đã quan niệm một cách duy tâm, thần
bí về linh hồn.
Theo ông, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và không
khí, nó chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là sản
phẩm của linh hồn trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra,
mỗi linh hồn trú ngụ một vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần
gian nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con người thì
quên hết mọi quá khứ, do đó nhận thức của con người chỉ sự hồi tưởng lại
những gì mà linh hồn đã có nhưng bị lãng quên.
b. Lý luận về nhận thức
Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thnhất vấn đề
bản của triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, Platon
cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí.
lOMoARcPSD| 59540283
Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là các sự vật cảm tính khách
quan bên ngoài, thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính không phải nguồn
gốc của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính,
được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về nó; sự
vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có
thể sụp đổ, nát, không còn cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm
nhà) thì không mất.
Bằng cách nào để được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách
hồi tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con
người đã bị lãng quên. Tóm lại, Platon đã quy toàn bộ quá trình nhận thức
thành quá trình hồi tưởng của linh hồn bất tử, rất thần bí.
c. Học thuyết về chính trị – xã hội
Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Platon chia linh hồn
làm ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ
phận ấy là ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông
thái. Hạng này tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà
nước. Hạng thứ hai, là những người lính, linh hồn của họ tràn đầy xúc
cảm gan dạ, biết phục tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh
của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ ba, đại chúng, gồm những người nông dân,
thợ thủ công thương nhân. Hạng này linh hồn của họ không đi xa hơn những
khát vọng cảm tính thích nghi với lao động chân tay, làm ra của cải vật chất
phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. vậy, công lý là ở chỗ mọi người phải
sống đúng vị trí của mình.
Để duy trì trật tự xã hội, Platon cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết,
nhưng ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một nhà nước của bọn vua
chúa xây dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh.
lOMoARcPSD| 59540283
Hai là, nhà nước quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa
đến tội ác. Ba là, nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó một
nhà nước tồi tệ.
Platon nêu lên hình một nhà nước ông cho tưởng, đó nhà nước
cộng hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải
được duy trì, bởi hợp với tự nhiên, hợp với sự phân ng trong xã hội. Sự
tồn tại của nhà nước tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất
sự phân công hài hoà giữa các nghề trong hội. Để khắc phục sự phân chia
giàu nghèo, cần xoá bỏ gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các
quan giáo dục riêng, lựa chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để
trở thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ
binh này.
Quan niệm về một nhà nước tưởng trên đây của Platon chứa đựng nhiều
mâu thuẫn. Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương
duy trì sự bất bình đẳng giữa các hạng người. Một mặt, ông đề cao hình thức
cộng hoà, mặt khác ông lại ra sức bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ quý tộc,
chống lại nhà nước dân chủ Aten. Nhà nước mà ông coi tưởng, thực chất
chỉ là sự biện hộ cho giai cấp chủ nô quý tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó
chỉ là lý tưởng hoá chế độ đẳng cấp của Aicập vào Aten mà thôi.
CHƯƠNG III: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI LÀ SỰ ĐẤU
TRANH GIỮA TRƯỜNG PHÁI ĐEMOCRITE VÀ TRƯỜNG PHÁI
PLATON
Trong thời kỳ sơ khai, triết học Hy Lạp cổ đại ra đời thay thế cho thần thoại;
lý trí thay thế sự tưởng tượng trong việc giải đáp các vấn đthế giới quan , bản
thể luận . Lúc này các thị quốc đầu tiên bắt đầu hình thành .Chế độ chiếm hữu
lệ cũng dần thay thế cho chế độ thị tộc.Cách giải thích thế giới của thần thoại
không còn được tin tưởng con người muốn tìm kiếm một lời giải đáp nghiêm
lOMoARcPSD| 59540283
túc , hợp cho những vấn đề của sự tồn tại nhận thức . Tiêu biểu cho thời
kỳ này các nhà triết học của các trường phái như : Mi let , Pithagore ,
Héraclite, Elée …
những tri thức về khoa học nên các nhà triết học thời kỳ này ít chịu nh
hưởng của thế giới quan thần thoại và trở thành những người đầu tiên bước vào
con đường chinh phục thế giới , giải khám phá nguồn góc sự sống một
cách khoa học hơn. Ở giai đoạn cực thịnh, thời kỳ rực rỡ nhất của triết học Hi
Lạp cổ đại cũng thời kỳ rực rỡ của nền dân chủ Athene . Giai đoạn này Hi
Lạp xuất hiện những nhà triết học đại ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ
quá trình phát triển của triết học Hi Lạp và của cả châu Âu sau này như Socrate
, Đémocrite , Platon , Aristote .
Họ quan tâm nghiên cưus một khía cạnh gần gũi đó là con người . Con người
có vị trí như thế nào trong thế giới ? Số phận của họ rồi sẽ ra sao ? Ý nghĩa v
sự tồn tại của họ ? Họ năng lực phương tiện nào để nhận thức ? vai
trò trong tiến trình phát triển của lịch sử ? Mối quan hệ của họ với thế giới
xung quanh ? Rất nhiều câu hỏi liên quan đến con người đã được các nhà triết
học đặt ra và đi tìm câu trả lời .Vì thế , chủ nghĩa duy tâm ra đời , triết học Hi
–La cổ đại bước vào một cuộc tranh luận mới : cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm . Và đã trở thành hiện tượng phổ biến trong lịch
sử phát triển của triết học .
1. 3.1 Đấu tranh về tư tưởng chính trị
Nội dung cơ bản của sự phát triển ở Hi-La cở đại là cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm , phản ánh cuộc đấu tranh giũă tầng
lớp chủ dân chủ tiến bộ trong những điều kiện lịch sử thời đó tầng lớp
chủ quý tộc . Triết học Hi-La cổ đại n phản ánh cuộc đấu tranh gia cấp
lOMoARcPSD| 59540283
giữa chủ nô và nô lệ . Chế độ nô lệ là hình thức áp bức tàn nhẫn , vô nhân đạo
nhất so với tất cả mọi hình thức áp bức , bóc lột . Người nô lệ là tải sản sở hữu
của chủ nô ; họ là những “công cụ” biết nói , bị đối xử như súc vật , không có
một thứ quyền hạn nào , không được tham gia vào các hoạt độnghội , chính
trị và văn hoá . Bị áp bức, những người nô lệ đã đứng lên đấu tranh đòi quyền
lợi , nhưng chưa có sự thắng lợi nào . Tuy nhiên , chế độ áp bức, bóc lột nô lệ
cũng là cơ sở kinh tế trên con đường phát triển của Hi-La cổ đại
Có chế độ đó , giai cấp chủ nô Hi Lạp mới có thể thoát li được cuộc đời
lao động chân tay vất vả để xây dựng triết học, khoa học nghệ thuật .
Ăngghen đã cho rằng , phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng
được một quy phân công lao động lớn lao hơn trong nông nghiệp công
nghiệp , mới xây dựng được nước Hi Lạp cổ giàu có . Nếu không có chế độ nô
lệ thì cũng không quốc gia Hi Lạp , không khoa học nghệ thuật Hi Lạp
. Đémocrite ủng hộ chế độ lệ . Ông coi chế độ nô lệ hoàn toàn hợp đạo lý ,
cần phải sdụng những người lệ như các bộ phận trên thể con người .
Đémocrite đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ chống lại phái chủ
quý tộc .
Đémocrite giải thích nguồn gốc của sự vận động : chính sự va chạm của
nguyên tử vơí nhau làm cho các sự vật vận động . Vận động của nguyên tử theo
chiều hướng thẳng đứng . Điều này quy định tính tất nhiên , quy luật trong sự
vận động của các sự vật . Và từ đó , theo ông , khoa học tự nhiên đã phản ánh
trật tự xã hội , đó là trật tự của xã hội theo chế độ chiếm hữu nô lệ.
Trong khi đó Platon đứng trên lập trường của phái chủ nô quý tộc chống
lại phái chủ dân chủ . Quan điểm chính trị của ông thể hiện hình xây
dựng nhà nước tưởng . Nhà nước tưởng theo ông nhà nước xây dựng
bằng ba đẳng cấp trong xã hội. Mỗi đẳng cấp tương ứng với một bộ phận trong
lOMoARcPSD| 59540283
linh hồn con người . Ông phê phán tất cả các loại hình nhà nước đã từng tồn tại
trong lịc sử như : nhà nước vua chua hay nhà nước quân chủ mang tính tước
đoạt ; nhà nước quân phiệt mang tính đàn áp ; nhà nước dân chủ , quyền lợi
thuộc về số đông , là đầu mối của mọi sự rối loạ .
3.2 Đấu tranh về nhận thức luận và logic học
Xu hướng đề cao trí xuất phát từ Thales, Pythagore, Heraclite,
Parmecide, Anaxagore được Leucipe Đémocrite tiếp tục phát triển đạt
đỉnh cao dưới thời Dé mocrite. Ông cho rằng tồn tại trong thực tế là tồn tại về
mặt cảm giác, phân biệt hai dạng nhận thức nhận thức mờ tối nhận thức
chân thực tương ứng với hai nấc thang cảm giác duy. Cảm giác đem lại
cho con người những chất liệu thô, thiếu chọn lọc. Dạng nhận thức ấy mới chỉ
hướng đến tồn tại bề ngoài của sự vật, chưa đi sâu vào bản chất của nó, chưa
phân tích nguyên nhân của những cái do ta tri giác. Những chất liệu thô được
tư duy xữ lý, cải biến để trở nên hoàn thiện hơn.
Nhiệm vụ của nhận thức thong qua duy vạch ra tính quy luật
bên trong, cơ bản của sự vật. Đémocrite viết : “khi nào nhận thức chân mờ tối
không còn đủ sức để thấy cái quá nhỏ cũng như để nghe, để ngửi, để nắm bắt
được bằng xúc giác và vị giác nhưng vẫn phải đi sâu vào phân tích cái tinh tế
hơn (mà tri giác cảm tính không nắm nỗi nữa) thì lúc ấy xuất hiện vai trò của
nhận thức chân thực, trong duy một quan nhận thức tinh tế hơn”.
Như vậy nhận thức chân thực không phải duy nhất nhưng đóng vai trò quyết
định trong quá trình nhận thức.
Nhận thức chân thực hay sự thong thái theo Démocrite sự phản ánh lý
tưởng mọi cái đang tồn tại, là cơ sở của tính khoa học trong nhận thức thế giới.
Đémocrite không phải người sang lập ra logic học nhưng ông đã đặt nền
lOMoARcPSD| 59540283
móng cho nó, xem nó là công cụ giải mã tự nhiên. Đémocrite cũng viết một số
tác phẩm về logic học, nêu ra hang loạt các quy tắc, giả thiết, khái niệm, nhấn
mạnh vai trò hang đầu của phép quy nạp. Trong tác phẩm “Công cụ mới”
(Novum Organum) Bacon hoan nghênh Đémocrite đã đi sâu vào tận chiều sâu
thăm thẳm của tự nhiên, đồng thời than phiền rằng truyền thống tốt đẹp đó đã
bị làm hoen vào thời trung cổ khi người ta chỉ tuyên truyền một cách ồn ào
tư tưởng của Platon mà quên đi những giá trị tinh thần khác.
Đối lập với tưởng Démocrite tưởng của Platon, Platon không
những nâng tưởng duy tâm lên thành hệ thống, còn khẳng định tính tất
yếu của sự đối đầu duy vật-duy tâm trong triết học. Theo Platon, chủ nghĩa duy
tâm một triết học uyển chuyển vì thống nhất với tinh thần và minh luận,
còn chủ nghĩa duy vật một triết học thô thiển, xa lạ, không tin vào sự linh
thiêng của đời sống con người, nếu tin thì cũng loại trừ vai trò của thần linh
trong công việc của trần gian, nếu cực chẳng đã thừa nhận thần linh thì cũng
từ chối mọi hành vi sung bái.
Nguồn gốc và bản chất tồn tại là vấn đề nền tảng trong tư tưởng triết học
Platon. Sự khác nhau cơ bản giữa Platon và Démocrite trong nhận thức luận là
cách giải nguồn gốc sở của quá trình nhận thức. Thế giới khả giác,
theo Platon luôn biến đổi, nhất thời, không bền vững, nên không thể tồn tại
theo đúng nghĩa của từ đó. Tồn tại đích thực phải bền vững, tự thân đồng nhất,
không bị lệ thuộc vào điều kiện không gian, thời gian, vĩnh cửu. Nó mới là đối
tượng của trí. Platon cho rằng tri thức không phải là một hành vi cảm giác,
không phải một kiến giải đúng một kết quả được xây dựng trên nền
tảng của thực tại, thể hiện mối quan hệ tính logic, tính quy luật của những
hình ảnh diễn ra đó. luận nhận thức logic học của Platon chìm đắm
lOMoARcPSD| 59540283
trong chủ nghĩa thần bí duy tâm, nhưng khai mở phương pháp phân tích
khoa học những vấn đề này.
3.3 Đấu tranh trong quan niệm về con người và xã hội
Trong quan hệ hội Đémocrite đánh giá cao long nhân ái, tình bạn. Con
người không thể sống thiếu bạn bè, nhưng một người bạn thong minh vẫn tốt
hơn nhiều người bạn ngu đần, một người bạn chân chính đáng giá hơn ngàn
người bạn giả dối. Con người thiện, theo Đémocrite trước hết con người sống
đức hạnh. Nhưng đức hạnh không phải đạt được bằng cưỡng chế bằng
thuyết phục với những chứng lý của trí tuệ, bằng giáo dục, bằng học vấn. Triết
lý đạo đức của Đémocrite xây dựng mẫu người hiền nhân, tương tự mẫu người
quân tử trong triết học nho giáo phương đông. Đémocrite xây dựng học thuyết
về tiến bộ lịch sử tự thân của loài người từ trạng thái thú vật sang trạng thái văn
minh.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử, xuất hiện do nỗi sợ hãi của con người
trước các hiện tượng bí hiểm của thiên nhiên. Sấm sét, mưa gió, bão tố, lụt lội,
núi lữa, nhật thực, nguyệt thực những hiện tượng đó người nguyên thủy không
thể giải thích được nên gán cho các hiện tượng siêu nhiên, sức mạnh thần linh.
Thực ra thần linh chỉ là những ngẫu tượng, nếu có thần linh thì đó là lý trí con
người được thần linh hóa. Mối quan hệ thần linh con người được Đémocrite
rút thành mối quan hệ giữa con người – tự nhiên, trong đó con người từ chổ bắt
chước thế giới tự nhiên đã tạo ra thiên nhiên cho mình tức hội loài người.
Học thuyết Đémocrite tạo ra bước đột phá trong triết học Hy Lạp cổ đại, đặc
biệt trong chủ nghĩa duy vật.
Giá trị lịch sử của chủ nghĩa duy vật nguyên tử cổ đại ở chổ tính triệt
để của nó, lần đầu tiên nó dám thách thức mục đích luận của tôn giáo vốn ng

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59540283 TÊN ĐỀ TÀI
NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI TONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC NHÂN LOẠI
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2023 lOMoAR cPSD| 59540283 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại .......................................................... 3
1.1 Về tự nhiên .............................................................................................................................. 3
1.2 Về kinh tế .................................................................................................................................. 4
1.3 Về chính trị - xã hội .................................................................................................................. 5
1.4 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp ............................................................................... 7
CHƯƠNG II: Tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon ......................................................... 7
2.1 Tư tưởng triết học Đitmocrite................................................................................................ 7
a. Thuyết nguyên tử .................................................................................................................. 8
b. Lý luận về nhận thức ............................................................................................................ 9
c. Quan niệm về con người ..................................................................................................... 10
d. Quan điểm chính trị – xã hội ............................................................................................. 11
2.2 Tư tưởng triết học Platon ..................................................................................................... 11
a. Học thuyết về ý niệm .......................................................................................................... 12
b. Lý luận về nhận thức .......................................................................................................... 13
c. Học thuyết về chính trị – xã hội ......................................................................................... 14
CHƯƠNG III: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI LÀ SỰ ĐẤU TRANH GIỮA
TRƯỜNG PHÁI ĐEMOCRITE VÀ TRƯỜNG PHÁI
PLATON
............................................15 ......................................................................................... 15
3.1 Đấu tranh về tư tưởng chính trị........................................................................................ 16
3.2 Đấu tranh về nhận thức luận và logic học ........................................................................ 18
3.3 Đấu tranh trong quan niệm về con người và xã hội ......................................................... 20 KẾT
LUẬN........................................................................................................................................21 lOMoAR cPSD| 59540283 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Trong lịch sử phát triển của triết học nhân loại triết học Hy Lạp là khúc
mở đầu cho giai đoạn phát triển của triết học phương tây, trong đó triết
học cổ đại Hy Lạp với những nhà triết học xuất chúng như Đemocrite và
Platon là khởi nguồn cho mọi sự phát triển của triết học. Tìm hiểu triết
học Hy Lạp cổ đại không gì hơn là tìm hiểu tư tưởng triết học của
Đemocrite và Platon, tìm hiểu sự đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy vật và duy tâm.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong giai đoạn triết học Hy lạp
cổ đại. Với phương pháp nghiên cứu là phương pháp lịch sử và đối chiếu.
Bài nghiên cứu quy mô như một bài thu hoạch nên các vấn đề được đề cập mang tính khái quát.
CHƯƠNG I: Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại 1.1 Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc
gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng
(Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy
Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc , Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành
phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng
lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán
đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải
phát triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, lOMoAR cPSD| 59540283
buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu
Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều
kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia
chiếm hữu nô lệ có một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa
tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ. 1.2 Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển
cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư
duy bay bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp
cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc
bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm
dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo
phân công lao động trong nông nghiệp, giữa ngành trồng trọt và ngành chăn
nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ
nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ
VIII BC là lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân
cận. Engels đã nhận xét: “Phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây
dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao hơn trong công nghiệp và
nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế
độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp, không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp” lOMoAR cPSD| 59540283
1.3 Về chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị – xã hội, xã hội
phân hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị
phân hóa thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân
thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó,
Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều
kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy
Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển
kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát
triển nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính
vì thế Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức
rất tàn khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất
bại của thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng
về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói
đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất
phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn,
không được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua
Philíp ở phía Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế
kỷ thứ II BC, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế lOMoAR cPSD| 59540283
quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì
không có Châu Âu hiện đại được”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao
đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên
thường xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành
tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả
các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận,
“Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng
xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ
sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại.
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất
phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản
ánh cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại
những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.
Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị.
Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá
nghiêm tại thành bang Athen.
Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được
các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và
đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc. lOMoAR cPSD| 59540283
1.4 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và
cũng là điểm xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. •
Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy
vật – duy tâm, biện chứng – siêu hình, vô thần – hữu thần. •
Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh
vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó. •
Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
CHƯƠNG II: Tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon
2.1 Tư tưởng triết học Đitmocrite
Đémocrite (460-370 tr.CN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ
ở Ápđerơ (Hy Lạp). Ông đã đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc
với nền văn hoá phương Đông cổ đại. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh
vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học và âm nhạc v.v. Ông có đến 70 tác
phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói trên. Ông được Mác và Ăng -
ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp.
Đémocrite là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết
nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật.
Ngoài ra, ông còn có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức. lOMoAR cPSD| 59540283
a. Thuyết nguyên tử
Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải
đến Đémocrite học thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Theo ông, vũ trụ được cấu
thành từ hai thực thể đầu tiên: nguyên tử và chân không.
Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không thể
phân chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và
vận động không ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị,
âm thanh và mầu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí
và trình tự kết hợp của chúng. Có những nguyên tử hình cầu, hình tam giác,
hình móc câu, hình lõm v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính được với nhau.
Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì
vật thể bị tiêu diệt.
Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo
nên. Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như
những nguyên tử khác. Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với
Đémocrite, chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới
vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các nguyên tử thì sẽ không có điều kiện
cho vận động. Khác với nguyên tử có kích thước, hình dáng, chân không thì vô
hạn và không có hình dáng.
Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng,
khi thì tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau
tạo thành một cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những
nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi, còn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm,
nhờ đó các hành tinh, kể cả trái đất được hình thành. Những hành tinh xuất hiện
và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra. lOMoAR cPSD| 59540283
Những phán đoán trên đây về nguyên tử tuy còn nhiều điểm hạn chế (hạt vật
chất nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản chất
của thế giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Đémocrite
chưa giải thích được nguyên nhân của vận động, nhưng ông đã gắn liền vận
động với nguyên tử, và nó cũng vô cùng, vô tận như nguyên tử. Đó là một đóng
góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết học
duy vật. Chính vì quan niệm duy vật và vô thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị
coi là phủ nhận thần linh và trục xuất ông khỏi quê hương.
b. Lý luận về nhận thức
Đémocrite đã có công đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ông và
tiếp theo ông là Arixtốt, kể cả Platon đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến
lôgíc học. Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật
tác động vào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này
có nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản
ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi
vì, nó chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà
không phản ánh được nguyên tử và chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều
giống nhau về chất, bản thân chúng không có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và
không trông thấy được.
Bởi vậy, những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người. Theo ông,
muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận thức bản
chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy
nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ông chia
nhận thức làm hai dạng: dạng nhận thức “mờ tối”(nhận thức cảm tính) và dạng
nhận thức “trí tuệ”. Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy
hơn. Mặt tích cực trong quan điểm trên đây là ở chỗ, ông coi đối tượng của
nhận thức là thế giới khách quan do nguyên tử và chân không tạo ra. lOMoAR cPSD| 59540283
Tuy chưa nhận thức được sự chuyển hoá giữa nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính, nhưng ông đã thấy được vị trí của từng dạng nhận thức, đặc biệt là
nhận thức lý tính. Song mặt hạn chế trong quan niệm này là ở chỗ, ông coi các
thuộc tính khách quan của sự vật như âm thanh, mùi vị, mầu sắc chỉ là những
quy ước chủ quan của con người. Hạn chế này đã mở đường cho những quan
niệm duy tâm cho rằng chất tách rời sự vật, chất có trước và chất có sau của sự vật v.v.
Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đémocrite đã có một công
lao to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm “Bàn về lôgíc học”
(Canon); tác phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp
qua lời của Arixtốt, Platon). Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc
học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v,
trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Arixtốt đã coi Đémocrite là tiền
bối của mình về lôgíc học, là người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp.
c. Quan niệm về con người
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên
bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu giống
như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác.
Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của
quá trình biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt
dưới tác động của nhiệt độ. Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng
về khả năng có thể học được bất kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp. lOMoAR cPSD| 59540283
Đémocrite đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh;
thần chỉ là sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người.
d. Quan điểm chính trị – xã hội
Đémocrite đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten
chống lại chế độ chuyên chính. Ông cho rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ
cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do
quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến
dân chủ của chủ nô và công dân tự do; còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ.
Ông coi nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những
kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.
Tóm lại, triết học Đémocrite là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao
các quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của
Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại.
2.2 Tư tưởng triết học Platon
Platon (427 – 347 TCN) xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Aten.
Tên thật của ông là Aristôclơ. Theo Arixtốt, lúc đầu Platon là học trò của Cratin
(người theo thuyết tương đối), sau đó là học trò của Xôcrát (nhà triết học duy
lý, duy tâm chủ nghĩa). Khi Xôcrát bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại
chế độ dân chủ chủ nô, Platon rời Aten đến sống ở miền nam nước Italia. Trong
thời gian này ông có liên hệ với phái Pitago và Ơclít. Sau này ông trở lại Hy
Lạp, lập trường dạy học ở Aten, gọi là Viện hàn lâm (Académie). Đây là trường
Đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, học trò rất đông, trong đó có nhà triết học nổi tiếng Arixtốt. lOMoAR cPSD| 59540283
Ngót 40 năm giảng dạy và trước tác, ông đã để lại 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học.
Tác phẩm “Nước cộng hoà” (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông.
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa
duy vật đương thời. Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học,
Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường lối duy vật của Đémocrite và đường lối
duy tâm của Platon. Tư tưởng triết học của Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc các
yếu tố duy tâm trong triết học của Pitago và Xôcrát.
Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của
ý thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của
ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại.
a. Học thuyết về ý niệm
Như đã nói ở trên, Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý
trong triết học Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý
luận về con số của trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì
vậy ông xem nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận
thức lý tính, của khái niệm. Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của
những ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.
Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt
đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới
các sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các
ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm. lOMoAR cPSD| 59540283
Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ
thế giới các ý niệm như thế nào, Platon đã đưa ra ví dụ “Hang động” như sau:
Ở ngoài cửa của một cái hang tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời
chiếu vào cửa hang làm cho bóng của đoàn người được in lên vách đá. Nếu
nhìn lên vách hang bên trong, người ta sẽ thấy những bóng người đi qua. Những
bóng này chỉ là hình ảnh của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn người.
Thế giới các sự vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà thôi.
Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platon
cho rằng ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự
vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
Từ thế giới quan trên đây, Platon đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí về linh hồn.
Theo ông, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và không
khí, nó chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là sản
phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra,
mỗi linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần
gian và nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con người thì nó
quên hết mọi quá khứ, do đó nhận thức của con người chỉ là sự hồi tưởng lại
những gì mà linh hồn đã có nhưng bị lãng quên.
b. Lý luận về nhận thức
Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thứ nhất vấn đề cơ
bản của triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, Platon
cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí. lOMoAR cPSD| 59540283
Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là các sự vật cảm tính khách
quan bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính không phải là nguồn
gốc của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính,
được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về nó; sự
vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có
thể sụp đổ, hư nát, không còn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm nhà) thì không mất.
Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách
hồi tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con
người nó đã bị lãng quên. Tóm lại, Platon đã quy toàn bộ quá trình nhận thức
thành quá trình hồi tưởng của linh hồn bất tử, rất thần bí.
c. Học thuyết về chính trị – xã hội
Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Platon chia linh hồn
làm ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ
phận ấy là ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông
thái. Hạng này lý tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà
nước. Hạng thứ hai, là những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc
cảm gan dạ, biết phục tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh
của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ ba, là đại chúng, gồm những người nông dân,
thợ thủ công và thương nhân. Hạng này linh hồn của họ không đi xa hơn những
khát vọng cảm tính thích nghi với lao động chân tay, làm ra của cải vật chất
phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công lý là ở chỗ mọi người phải
sống đúng vị trí của mình.
Để duy trì trật tự xã hội, Platon cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết,
nhưng ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua
chúa xây dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. lOMoAR cPSD| 59540283
Hai là, nhà nước quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa
đến tội ác. Ba là, nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ.
Platon nêu lên mô hình một nhà nước mà ông cho là lý tưởng, đó là nhà nước
cộng hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải
được duy trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự
tồn tại của nhà nước lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất
và sự phân công hài hoà giữa các nghề trong xã hội. Để khắc phục sự phân chia
giàu nghèo, cần xoá bỏ gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ
quan giáo dục riêng, lựa chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để
trở thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh này.
Quan niệm về một nhà nước lý tưởng trên đây của Platon chứa đựng nhiều
mâu thuẫn. Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương
duy trì sự bất bình đẳng giữa các hạng người. Một mặt, ông đề cao hình thức
cộng hoà, mặt khác ông lại ra sức bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô quý tộc,
chống lại nhà nước dân chủ Aten. Nhà nước mà ông coi là lý tưởng, thực chất
chỉ là sự biện hộ cho giai cấp chủ nô quý tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó
chỉ là lý tưởng hoá chế độ đẳng cấp của Aicập vào Aten mà thôi.
CHƯƠNG III: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI LÀ SỰ ĐẤU
TRANH GIỮA TRƯỜNG PHÁI ĐEMOCRITE VÀ TRƯỜNG PHÁI PLATON
Trong thời kỳ sơ khai, triết học Hy Lạp cổ đại ra đời thay thế cho thần thoại;
lý trí thay thế sự tưởng tượng trong việc giải đáp các vấn đề thế giới quan , bản
thể luận . Lúc này các thị quốc đầu tiên bắt đầu hình thành .Chế độ chiếm hữu
nô lệ cũng dần thay thế cho chế độ thị tộc.Cách giải thích thế giới của thần thoại
không còn được tin tưởng mà con người muốn tìm kiếm một lời giải đáp nghiêm lOMoAR cPSD| 59540283
túc , hợp lý cho những vấn đề của sự tồn tại và nhận thức . Tiêu biểu cho thời
kỳ này là các nhà triết học của các trường phái như : Mi let , Pithagore , Héraclite, Elée …
Vì có những tri thức về khoa học nên các nhà triết học thời kỳ này ít chịu ảnh
hưởng của thế giới quan thần thoại và trở thành những người đầu tiên bước vào
con đường chinh phục thế giới , lí giải và khám phá nguồn góc sự sống một
cách khoa học hơn. Ở giai đoạn cực thịnh, thời kỳ rực rỡ nhất của triết học Hi
Lạp cổ đại cũng là thời kỳ rực rỡ của nền dân chủ Athene . Giai đoạn này Hi
Lạp xuất hiện những nhà triết học vĩ đại có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ
quá trình phát triển của triết học Hi Lạp và của cả châu Âu sau này như Socrate
, Đémocrite , Platon , Aristote .
Họ quan tâm nghiên cưus một khía cạnh gần gũi đó là con người . Con người
có vị trí như thế nào trong thế giới ? Số phận của họ rồi sẽ ra sao ? Ý nghĩa về
sự tồn tại của họ ? Họ có năng lực và phương tiện nào để nhận thức ? Có vai
trò gì trong tiến trình phát triển của lịch sử ? Mối quan hệ của họ với thế giới
xung quanh ? Rất nhiều câu hỏi liên quan đến con người đã được các nhà triết
học đặt ra và đi tìm câu trả lời .Vì thế , chủ nghĩa duy tâm ra đời , triết học Hi
–La cổ đại bước vào một cuộc tranh luận mới : cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm . Và đã trở thành hiện tượng phổ biến trong lịch
sử phát triển của triết học .
1. 3.1 Đấu tranh về tư tưởng chính trị
Nội dung cơ bản của sự phát triển ở Hi-La cở đại là cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm , phản ánh cuộc đấu tranh giũă tầng
lớp chủ nô dân chủ tiến bộ trong những điều kiện lịch sử thời đó và tầng lớp
chủ nô quý tộc . Triết học Hi-La cổ đại cũn phản ánh cuộc đấu tranh gia cấp lOMoAR cPSD| 59540283
giữa chủ nô và nô lệ . Chế độ nô lệ là hình thức áp bức tàn nhẫn , vô nhân đạo
nhất so với tất cả mọi hình thức áp bức , bóc lột . Người nô lệ là tải sản sở hữu
của chủ nô ; họ là những “công cụ” biết nói , bị đối xử như súc vật , không có
một thứ quyền hạn nào , không được tham gia vào các hoạt động xã hội , chính
trị và văn hoá . Bị áp bức, những người nô lệ đã đứng lên đấu tranh đòi quyền
lợi , nhưng chưa có sự thắng lợi nào . Tuy nhiên , chế độ áp bức, bóc lột nô lệ
cũng là cơ sở kinh tế trên con đường phát triển của Hi-La cổ đại
Có chế độ đó , giai cấp chủ nô Hi Lạp mới có thể thoát li được cuộc đời
lao động chân tay vất vả để xây dựng triết học, khoa học và nghệ thuật .
Ăngghen đã cho rằng , phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng
được một quy mô phân công lao động lớn lao hơn trong nông nghiệp và công
nghiệp , mới xây dựng được nước Hi Lạp cổ giàu có . Nếu không có chế độ nô
lệ thì cũng không có quốc gia Hi Lạp , không có khoa học và nghệ thuật Hi Lạp
. Đémocrite ủng hộ chế độ nô lệ . Ông coi chế độ nô lệ hoàn toàn hợp đạo lý ,
cần phải sử dụng những người nô lệ như các bộ phận trên cơ thể con người .
Đémocrite đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ chống lại phái chủ nô quý tộc .
Đémocrite giải thích nguồn gốc của sự vận động : chính sự va chạm của
nguyên tử vơí nhau làm cho các sự vật vận động . Vận động của nguyên tử theo
chiều hướng thẳng đứng . Điều này quy định tính tất nhiên , quy luật trong sự
vận động của các sự vật . Và từ đó , theo ông , khoa học tự nhiên đã phản ánh
trật tự xã hội , đó là trật tự của xã hội theo chế độ chiếm hữu nô lệ.
Trong khi đó Platon đứng trên lập trường của phái chủ nô quý tộc chống
lại phái chủ nô dân chủ . Quan điểm chính trị của ông thể hiện mô hình xây
dựng nhà nước lí tưởng . Nhà nước lí tưởng theo ông là nhà nước xây dựng
bằng ba đẳng cấp trong xã hội. Mỗi đẳng cấp tương ứng với một bộ phận trong lOMoAR cPSD| 59540283
linh hồn con người . Ông phê phán tất cả các loại hình nhà nước đã từng tồn tại
trong lịc sử như : nhà nước vua chua hay nhà nước quân chủ mang tính tước
đoạt ; nhà nước quân phiệt mang tính đàn áp ; nhà nước dân chủ , quyền lợi
thuộc về số đông , là đầu mối của mọi sự rối loạ .
3.2 Đấu tranh về nhận thức luận và logic học
Xu hướng đề cao lý trí xuất phát từ Thales, Pythagore, Heraclite,
Parmecide, Anaxagore được Leucipe và Đémocrite tiếp tục phát triển và đạt
đỉnh cao dưới thời Dé mocrite. Ông cho rằng tồn tại trong thực tế là tồn tại về
mặt cảm giác, phân biệt hai dạng nhận thức – nhận thức mờ tối và nhận thức
chân thực tương ứng với hai nấc thang cảm giác và tư duy. Cảm giác đem lại
cho con người những chất liệu thô, thiếu chọn lọc. Dạng nhận thức ấy mới chỉ
hướng đến tồn tại bề ngoài của sự vật, mà chưa đi sâu vào bản chất của nó, chưa
phân tích nguyên nhân của những cái do ta tri giác. Những chất liệu thô được
tư duy xữ lý, cải biến để trở nên hoàn thiện hơn.
Nhiệm vụ của nhận thức là thong qua tư duy mà vạch ra tính quy luật
bên trong, cơ bản của sự vật. Đémocrite viết : “khi nào nhận thức chân mờ tối
không còn đủ sức để thấy cái quá nhỏ cũng như để nghe, để ngửi, để nắm bắt
được bằng xúc giác và vị giác nhưng vẫn phải đi sâu vào phân tích cái tinh tế
hơn (mà tri giác cảm tính không nắm nỗi nữa) thì lúc ấy xuất hiện vai trò của
nhận thức chân thực, vì trong tư duy có một cơ quan nhận thức tinh tế hơn”.
Như vậy nhận thức chân thực không phải là duy nhất nhưng đóng vai trò quyết
định trong quá trình nhận thức.
Nhận thức chân thực hay sự thong thái theo Démocrite là sự phản ánh lý
tưởng mọi cái đang tồn tại, là cơ sở của tính khoa học trong nhận thức thế giới.
Đémocrite không phải là người sang lập ra logic học nhưng ông đã đặt nền lOMoAR cPSD| 59540283
móng cho nó, xem nó là công cụ giải mã tự nhiên. Đémocrite cũng viết một số
tác phẩm về logic học, nêu ra hang loạt các quy tắc, giả thiết, khái niệm, nhấn
mạnh vai trò hang đầu của phép quy nạp. Trong tác phẩm “Công cụ mới”
(Novum Organum) Bacon hoan nghênh Đémocrite đã đi sâu vào tận chiều sâu
thăm thẳm của tự nhiên, đồng thời than phiền rằng truyền thống tốt đẹp đó đã
bị làm hoen ố vào thời trung cổ khi người ta chỉ tuyên truyền một cách ồn ào
tư tưởng của Platon mà quên đi những giá trị tinh thần khác.
Đối lập với tư tưởng Démocrite là tư tưởng của Platon, Platon không
những nâng tư tưởng duy tâm lên thành hệ thống, mà còn khẳng định tính tất
yếu của sự đối đầu duy vật-duy tâm trong triết học. Theo Platon, chủ nghĩa duy
tâm là một triết học uyển chuyển vì nó thống nhất với tinh thần và minh luận,
còn chủ nghĩa duy vật là một triết học thô thiển, xa lạ, không tin vào sự linh
thiêng của đời sống con người, mà nếu tin thì cũng loại trừ vai trò của thần linh
trong công việc của trần gian, mà nếu cực chẳng đã thừa nhận thần linh thì cũng
từ chối mọi hành vi sung bái.
Nguồn gốc và bản chất tồn tại là vấn đề nền tảng trong tư tưởng triết học
Platon. Sự khác nhau cơ bản giữa Platon và Démocrite trong nhận thức luận là
cách lý giải nguồn gốc và cơ sở của quá trình nhận thức. Thế giới khả giác,
theo Platon luôn biến đổi, nhất thời, không bền vững, nên không thể là tồn tại
theo đúng nghĩa của từ đó. Tồn tại đích thực phải bền vững, tự thân đồng nhất,
không bị lệ thuộc vào điều kiện không gian, thời gian, vĩnh cửu. Nó mới là đối
tượng của lý trí. Platon cho rằng tri thức không phải là một hành vi cảm giác,
không phải là một kiến giải đúng mà là một kết quả được xây dựng trên nền
tảng của thực tại, thể hiện mối quan hệ có tính logic, tính quy luật của những
hình ảnh diễn ra ở đó. Lý luận nhận thức và logic học của Platon chìm đắm lOMoAR cPSD| 59540283
trong chủ nghĩa thần bí và duy tâm, nhưng khai mở phương pháp phân tích
khoa học những vấn đề này.
3.3 Đấu tranh trong quan niệm về con người và xã hội
Trong quan hệ xã hội Đémocrite đánh giá cao long nhân ái, tình bạn. Con
người không thể sống thiếu bạn bè, nhưng một người bạn thong minh vẫn tốt
hơn nhiều người bạn ngu đần, một người bạn chân chính đáng giá hơn ngàn
người bạn giả dối. Con người thiện, theo Đémocrite trước hết là con người sống
có đức hạnh. Nhưng đức hạnh không phải đạt được bằng cưỡng chế mà bằng
thuyết phục với những chứng lý của trí tuệ, bằng giáo dục, bằng học vấn. Triết
lý đạo đức của Đémocrite xây dựng mẫu người hiền nhân, tương tự mẫu người
quân tử trong triết học nho giáo phương đông. Đémocrite xây dựng học thuyết
về tiến bộ lịch sử tự thân của loài người từ trạng thái thú vật sang trạng thái văn minh.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử, xuất hiện do nỗi sợ hãi của con người
trước các hiện tượng bí hiểm của thiên nhiên. Sấm sét, mưa gió, bão tố, lụt lội,
núi lữa, nhật thực, nguyệt thực – những hiện tượng đó người nguyên thủy không
thể giải thích được nên gán cho các hiện tượng siêu nhiên, sức mạnh thần linh.
Thực ra thần linh chỉ là những ngẫu tượng, nếu có thần linh thì đó là lý trí con
người được thần linh hóa. Mối quan hệ thần linh – con người được Đémocrite
rút thành mối quan hệ giữa con người – tự nhiên, trong đó con người từ chổ bắt
chước thế giới tự nhiên đã tạo ra thiên nhiên cho mình tức xã hội loài người.
Học thuyết Đémocrite tạo ra bước đột phá trong triết học Hy Lạp cổ đại, đặc
biệt trong chủ nghĩa duy vật.
Giá trị lịch sử của chủ nghĩa duy vật nguyên tử cổ đại là ở chổ tính triệt
để của nó, lần đầu tiên nó dám thách thức mục đích luận của tôn giáo vốn ngự