



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 59540283
Đề tài: Từ quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối 
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, 
làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát 
triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay.   MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2 
NỘI DUNG CHÍNH..................................................................................................3  I. 
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực 
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất..........................................................................3 
1.1. Lực lượng sản xuất......................................................................................3 
1.2. Quan hệ sản xuất..........................................................................................4 
1.3. Nội dung của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng 
sản xuất........................................................................................................4  II. 
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản 
xuất, làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển lực lượng 
sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay.....................................................5 
2.1. Bối cảnh Việt Nam hiện nay........................................................................6 
2.2. Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt nam trướcvà 
sau Đổi mới (1986)............................................................................................8 
2.2.1. Thời kỳ trước đổi 
mới...............................................................................8 
2.2.2. Thời kỳ sau đổi mới 
(1986)....................................................................10      lOMoAR cPSD| 59540283
2.3. Phương hướng để tiếp tục vận dụng tốt quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với 
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.......................11 
KẾT LUẬN..............................................................................................................16 
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................17  MỞ ĐẦU 
Triết học Mác - Lênin đã cung cấp một quan điểm sâu sắc về mối quan 
hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, qua đó đóng một 
vai trò quan trọng trong việc nắm bắt và phân tích quá trình phát triển xã hội. 
Mô hình này không chỉ có giá trị lý thuyết mà còn được áp dụng vào thực tế, 
bao gồm cả tình hình phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong 
nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các chính 
sách và biện pháp nhằm thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và điều chỉnh 
quan hệ sản xuất, nhằm đạt được mục tiêu xây dựng một xã hội xã hội công 
bằng, tiến bộ và phát triển bền vững. 
Triết học Mác - Lênin cho rằng, sự tương tác giữa lực lượng sản xuất 
(bao gồm các yếu tố sản xuất như công nghệ, lao động và tài nguyên) và quan 
hệ sản xuất (bao gồm các quy tắc, quyền lực và tổ chức xã hội) là nguyên nhân 
chính cho sự phát triển xã hội. Trong quá trình này, lực lượng sản xuất có vai 
trò quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất lại tác động trở lại đối 
với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất không ngừng tiến bộ, và đồng thời, 
quan hệ sản xuất cũng phải điều chỉnh và thích ứng để phù hợp với sự phát 
triển đó. Sự tương tác được thể hiện thông qua một quá trình biện chứng không 
ngừng, đóng góp vào sự tiến bộ và phát triển của xã hội.      lOMoAR cPSD| 59540283
Trong bối cảnh của nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hiểu 
rõ quan điểm này và vận dụng nó một cách đúng đắn, sáng tạo trong thực tiễn 
quá trình phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thông qua việc 
tạo điều kiện thuận lợi cho tiến bộ khoa học, đẩy mạnh đổi mới công nghệ, cải 
tiến quy trình sản xuất, Đảng đã tạo đà phát triển mạnh mẽ cho lực lượng sản 
xuất. Đồng thời, Đảng cũng đã có chủ trương chủ động điều chỉnh và cải cách 
các quy tắc, quyền lực và tổ chức xã hội, nhằm tạo điều kiện công bằng và 
thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. 
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng đến việc xây dựng nền kinh tế 
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò của nhà nước 
và thúc đẩy sự phát triển bền vững trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, đầu 
tư và quản lý. Bằng việc kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ 
sản xuất, Đảng ta đã định hình được một mô hình phát triển đặc trưng, phù 
hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước ta. 
Tuy nhiên, cần nhận thức rằng sự phát triển lực lượng sản xuất và quan 
hệ sản xuất là quá trình phức tạp, đa chiều và đòi hỏi sự điều chỉnh liên tục. 
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt 
Nam đang đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn, bao gồm việc cải cách 
thể chế, đảm bảo công bằng xã hội cũng như xử lý bất cập trong quan hệ sản 
xuất. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và vận dụng quan điểm của 
triết học Mác - Lênin sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát 
triển bền vững của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta. 
NỘI DUNG CHÍNH I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan 
hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất   
I.1. Lực lượng sản xuất 
Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo ra 
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm cải biến các đối tượng của giới tự nhiên      lOMoAR cPSD| 59540283
theo nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, hay nói cách khác lực lượng 
sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, mà trước hết là 
công cụ sản xuất và những con người với trình độ kỹ năng, kinh nghiệm và 
thói quen lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó để sản xuất ra của cải 
vật chất. "Lực lượng sản xuất - tất cả những gì có nguồn gốc từ công nghệ và 
quyền lực cùng với sự tạo ra và phân phối của hàng hóa - đó là cơ sở vật chất 
của tất cả các quan hệ xã hội." (“Các biên niên sử kinh tế chính trị” - C. Mác) 
Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của hai bộ phận cơ bản 
cấu thành lên nó, bao gồm: tư liệu sản xuất và người lao động. 
Tư liệu sản xuất là tất cả những yếu tố vật chất mà con người sử dụng 
để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong 
đó tư liệu lao động là nguồn lực mà xã hội sử dụng để thực hiện quá trình sản 
xuất (bao gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận chuyển và bảo 
quản sản phẩm……). Đối tượng lao động là những yếu tố nguyên nhiên vật 
liệu có sẵn trong tự nhiên (gỗ, than đá,…) hoặc được tạo ra nhân tạo để phục 
vụ sản xuất (polyme,….). Tư liệu lao động là yếu tố cách mạng trong lực lượng 
sản xuất, đóng vai trò lớn trong sự biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử, là tiêu 
chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Khẳng định về tầm quan 
trọng của nó, C. Mác khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không 
phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, 
với những tư liệu lao động nào”. (C. Mác va 
Ph. Ăng-ghen (1993), Toàn tập, t 23, NXB Chính trị quốc giax, Hà Nội, tr  269). 
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố giữ vai trò quyết 
định, là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, bao gồm những con người có 
tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định có khả      lOMoAR cPSD| 59540283
năng tạo ra và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động để tạo ra sản 
phẩm, cũng đồng thời là chủ thể tiêu dùng của mọi của cải vật chất xã hội. Họ 
là nguồn lực chủ yếu, vô tận, đóng một vai trò quan trọng trong việc áp dụng 
kiến thức, kỹ năng và sáng tạo của mình để sản xuất và đóng góp vào phát 
triển kinh tế và xã hội. Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học 4.0, với 
sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri thức khoa học 
công nghệ càng trở nên đặc biệt quan trọng và trở thành lực lượng sản xuất  trực tiếp. 
Lực lượng sản xuất đóng vai trò cơ bản trong việc cải biến tự nhiên, tạo 
nên cơ sở vật chất cho các quan hệ xã hội và xác định tính chất cũng như phạm 
vi phát triển của xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất có thể dẫn đến 
sự thay đổi trong các quan hệ xã hội và mang lại tiến bộ lịch sử. Hiểu về lực 
lượng sản xuất là một phần quan trọng trong việc nghiên cứu về sự phát triển 
và biến đổi của xã hội.   
I.2. Quan hệ sản xuất 
Quan hệ sản xuất: là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người 
với người trong quá trình sản xuất vật chất. 
Quan hệ sản xuất bao gồm: 
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (quan hệ sở hữu): nói lên ai là 
chủ sở hữu đối với nhà máy, xí nghiệp ,các thiết bị, các nguyên nhiên vật liệu 
trong quá trình sản xuất . 
Quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và trao đổi hoạt động 
với nhau: nói lên ai là người tổ chức, quản lý và điều hành quá trình sản xuất. 
Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động: nói lên ai là người có 
quyền phân phối, chia thành quả sản xuất, cho những ai và như thế nào? 
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất. Trong ba 
mối quan hệ trên thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quan      lOMoAR cPSD| 59540283
trọng nhất, quy định quan hệ quản lý và phân phối cũng như mục đích, hình 
thức tổ chức, phương thức quản lý và quyết định cả việc phân phối sản phẩm 
làm ra. Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất 
và tính chất của quan hệ sản xuất, đồng thời các mặt trong quan hệ sản xuất 
gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau bằng cách thúc đẩy hay kìm hãm. 
Nắm rõ những yếu tố trên là cơ sở để tiếu hành điều chỉnh và xây dựng 
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, góp phần thúc đẩy nền kinh 
tế phát triển theo quy luật khách quan. 
I.3. Nội dung của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất 
Lực lượng sản xuất là hình thức nội dung của quá trình sản xuất mang 
tính năng động, cách mạng, không ngừng vận động và phát triển; còn quan hệ 
sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất mang tính ổn định tương 
đối. Trong sự vận động của mâu thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết 
định quan hệ sản xuất. C.Mác cho rằng: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã 
hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản 
công nghiệp.” (“Các biên niên sử kinh tế chính trị” – C.Mác). Lực lượng sản 
xuất có vai trò quyết định sự ra đời của quan hệ sản xuất mới trong lịch sử, 
quyết định đến nội dung và tính chất đối với sự hình thành và phát triển của  quan hệ sản xuất. 
Tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi 
phải có một quan hệ sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất luôn không 
ngừng phát triển đạt tới trình độ cao hơn nên đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng 
phải phát triển để tạo động lực cho lực lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng 
sản xuất có khả năng phát triển nhanh hơn quan hệ sản xuất nên đến một lúc 
nào đó lực lượng sản xuất sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, đòi hỏi một      lOMoAR cPSD| 59540283
quản hệ sản xuất mới phải xuất hiện để phù hợp và đáp ứng với trình độ phát 
triển của lực lượng sản xuất. 
Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại đối với sự phát triển của lực 
lượng sản xuất, sự phù hợp đó được thể hiện thông qua sự biện chứng giữa 
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, phương thức của sản xuất và cách 
thức phân phối sản phẩm lao động. Vì vậy nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ 
của người lao động, đến năng suất, chất lượng cũng như hiệu quả của quá trình 
sản xuất và cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của qua lại của quan hệ sản 
xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy 
lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc là tiêu cực, kìm hãm lực 
lượng sản xuất khi nó không phù hợp. 
Như vậy, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp 
về mặt trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó đòi hỏi phá bỏ quan hệ sản 
xuất lỗi thời và thay thế bởi một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Quá trình đó 
lặp đi lặp lại tác động đến xã hội loài người qua việc trải qua những phương 
thức sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay thế lẫn nhau của các hình thái 
kinh tế – xã hội, từ kinh tế cổ điển đến kinh tế công nghiệp, và từ kinh tế công 
nghiệp đến kinh tế tri thức và đổi mới. Đây được coi là một phần quan trọng 
trong sự phát triển và tiến bộ lịch sử của xã hội loài người. 
II. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và 
quan hệ sản xuất, làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản 
Việt Nam trong phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản 
xuất ở nước ta hiện nay   
II.1. Bối cảnh Việt Nam hiện nay 
Việt Nam hiện nay đang trải qua thời kỳ quan trọng của quá trình quá 
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong lịch sử và      lOMoAR cPSD| 59540283
phát triển của đất nước, đòi hỏi sự nhạy bén, quyết đoán và sáng tạo từ Đảng 
Cộng sản Việt Nam để tạo ra một xã hội xã hội công bằng, tiến bộ và phát 
triển bền vững. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng 
ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… tiến 
dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa 
và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta 
phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm 
vụ chủ chốt và lâu dai” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.13) 
Trong thời kỳ quá độ này, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức 
và cơ hội. Thách thức đầu tiên đó là việc phải vượt qua những hạn chế và bất 
cập của chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ những tác động tiêu cực từ thị trường tự do 
và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đồng thời, Việt Nam cũng phải đối mặt với áp 
lực của quá trình toàn cầu hóa và sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc  tế. 
Tuy nhiên, trong bối cảnh này, Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để khai 
thác và phát triển. Nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc 
phát triển kinh tế, đổi mới công nghệ, và tạo ra sự tiến bộ trong đời sống của 
nhân dân. Sự ổn định chính trị cùng với sự lãnh đạo mạnh mẽ của Đảng và sự 
quyết tâm của nhân dân Việt Nam là những yếu tố quan trọng trong việc thúc 
đẩy quá trình quá độ này. 
Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang nỗ lực để định hình một hướng 
phát triển xã hội chủ nghĩa đúng đắn và bền vững. Việc xây dựng và củng cố 
quyền lực nhân dân, tăng cường vai trò của các lực lượng cơ sở, đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, và phát triển giáo dục, y tế và văn 
hóa đang được coi là những ưu tiên hàng đầu.      lOMoAR cPSD| 59540283
Trong bối cảnh đặc biệt này, triết học Mác - Lênin đã và đang đóng vai 
trò quan trọng trong việc hướng dẫn và định hình con đường phát triển của 
Việt Nam. Sự vận dụng linh hoạt và sáng tạo của triết học Mác - Lênin trong 
tình hình Việt Nam hiện nay là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự thành công 
của quá trình quá độ và xây dựng một xã hội xã hội công bằng, tiến bộ và phát  triển bền vững. 
Về kinh tế, chính trị và văn hóa-xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam, đã xảy ra nhiều biến đổi đáng kể và đạt được những  thành tựu đáng chú ý. 
Về mặt kinh tế, Việt Nam đã chuyển từ một nền kinh tế tập trung vào 
kinh tế truyền thống và nông nghiệp sang một nền kinh tế đa dạng hóa, công 
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng đã tạo 
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ và 
xuất khẩu. Kinh tế Việt Nam đã có mức tăng trưởng ấn tượng, thu hút đầu tư 
nước ngoài và đóng góp quan trọng vào nền kinh tế khu vực. 
Về mặt chính trị, Việt Nam đã duy trì một chế độ chính trị ổn định 
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã thể hiện vai trò 
quan trọng trong việc xây dựng và duy trì một hệ thống chính trị liên kết, 
trong đó quyền lực nhân dân và các tổ chức cơ sở được tôn trọng và đảm 
bảo. Đảng cũng đã đẩy mạnh công tác cải cách thể chế, tăng cường sự minh 
bạch và chống tham nhũng, đồng thời đảm bảo ổn định an ninh và trật tự 
trong quá trình phát triển. 
Về mặt văn hóa - xã hội, Việt Nam đã chú trọng đến việc bảo tồn và 
phát triển văn hóa truyền thống, đồng thời đa dạng hóa và tiếp thu các giá trị 
văn hóa toàn cầu. Đất nước đã đạt được tiến bộ đáng kể trong giáo dục, y tế 
và phát triển các ngành nghề. Quyền lợi của công dân được đảm bảo, đảm bảo 
sự công bằng và bình đẳng trong xã hội. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã đóng      lOMoAR cPSD| 59540283
góp tích cực vào hòa bình và hợp tác quốc tế, trở thành một thành viên có 
trách nhiệm trong các cộng đồng quốc tế. 
Tuy nhiên bên cạnh đó, trong quá trình phát triển, Việt Nam vẫn còn đối 
mặt với một số thách thức. Các khía cạnh kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội 
vẫn cần được cải thiện và điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu và mong đợi của 
nhân dân. Cần tiếp tục nỗ lực trong việc phát triển kinh tế bền vững, nâng cao 
chất lượng cuộc sống của nhân dân và đảm bảo công bằng xã hội. Đồng thời, 
cần duy trì sự ổn định chính trị và phát triển văn hóa - xã hội đa dạng và giàu  tính nhân văn. 
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã cho thấy những đổi 
mới, phát triển và tiến bộ đáng kể trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn 
hóa-xã hội. Điều này đã tạo ra một cơ sở vững chắc cho sự phát triển và tiến 
bộ của đất nước trong tương lai. 
2.2. Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt nam 
trước và sau Đổi mới (1986) 
2.2.1. Thời kỳ trước đổi mới 
Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc 
hậu nay lại càng gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta còn 
thấp kém và chưa có điều kiện phát triển. 
Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết không có chuyên môn tay 
nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt nam chủ yếu hoạt 
động trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha ông 
để lại. Trường dạy nghề rất hiếm, chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài Gòn, 
… Tại những đô thị lớn, trình độ của người lao động có chênh lệch cao hơn 
các vùng khác trong cả nước.      lOMoAR cPSD| 59540283
Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này còn 
thô sơ, lạc hậu. Là một nước nông nghiệp thế nhưng công cụ lao động chủ yếu 
là cày, cuốc, theo hình thức “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, sử dụng sức 
người là chủ yếu, trong công nghiệp máy móc thiết bị còn ít và rất lạc hậu. 
Phát triển công cụ lao động giữa các vùng, miền cũng có sự khác nhau. 
Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng sản xuất ở Việt Nam thấp 
kém, lạc hậu và phát triển không đồng đều. 
Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan 
hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao 
gồm hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn 
dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao  động. 
Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ 
nghĩa xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò “tích cực” của quan hệ 
sản xuất, dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo 
động lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Có những nơi nông dân bị bắt 
ép đi vào các hợp tác xã, mở rộng nông trường quốc doanh mà không tính đến 
lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu. 
Người lao động không được chú trọng về cả trình độ và thái độ lao 
động, đáng ra là chủ thể của sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế 
quan liêu bao cấp. Nước ta quá nhấn mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng 
tập thể hóa, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ đó người 
lao động bị biệt lập với đối tượng lao động. Quan hệ sản xuất lên quá cao, tách 
rời với lực lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị kìm hãm, đời sông nhân dân 
đi xuống nhanh chóng. Đến cuối năm 1985, giá bán lẻ hàng hóa tăng vọt 
(845.3%), năng suất lao động quá thấp, kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm  trọng.      lOMoAR cPSD| 59540283
2.2.2. Thời kỳ sau đổi mới (1986) 
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) được diễn ra 
trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang lâm vào trạng thái khủng hoảng trầm 
trọng. Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, với tinh thần thẳng thắn 
thừa nhận khuyết điểm, dánh giá đúng sự thật, Đảng đã đi sâu phân tích những 
tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo 
và chỉ đạo đất nước. Trên cơ sở đó, Đảng đã đề ra chủ trương Đổi mới phương 
thức quản lý và cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó khẳng định phải đẩy mạnh 
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép và khuyễn khích kinh 
tế tư nhân, cá thể phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực nhất định, coi 
trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, điều chỉnh 
lại cơ cấu kinh tế ngành đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế 
tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của nhà nước và tranh thủ vốn 
nước ngoài. cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Việc thừa nhận 
những khuyết điểm và sai lầm này đã mở đường cho quá trình đổi mới và cải 
cách toàn diện Việt Nam. Đại hội khẳng định mục tiêu phát triển kinh tế hàng 
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà 
nước chính là con đường tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tập trung vào việc 
nâng cao năng suất lao động, tăng cường năng lực công nghệ và cải tiến quy 
trình sản xuất. Việc đầu tư vào hạ tầng, nâng cao trình độ và tay nghề lao động, 
đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ là những yếu tố quan 
trọng để nâng cao lực lượng sản xuất. Đồng thời, quan hệ sản xuất cũng được 
điều chỉnh và cải tiến. Việc mở rộng sự tự do kinh doanh và khuyến khích sự 
đầu tư từ các nguồn lực khác nhau đã tạo điều kiện cho sự phát triển và đa 
dạng hóa quan hệ sản xuất. Sự tư nhân hóa và hình thành các hình thức kinh      lOMoAR cPSD| 59540283
tế mới như doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, và đầu tư nước ngoài đã 
mang lại sự đa dạng và động lực cho nền kinh tế Việt Nam. 
Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất 
lượng nhân lực và đào tạo tay nghề. Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách 
và chương trình nhằm tăng cường đào tạo, phát triển tay nghề, và tạo điều kiện 
thuận lợi cho sự hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Nhờ đó, chất lượng nhân lực 
và tay nghề của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, thị trường lao 
động vẫn bị phân mảng, tồn tại tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu lao 
động, nhất là “thiếu thợ”. Nền kinh tế đang thiếu đi nguồn nhân lực có tay 
nghề, chất lượng nhân lực của Việt Nam còn thấp so với các nước lân cận. 
Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi 
trong các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các giống 
cây trồng mới cũng được tìm ra và phổ biến. Trong công nghiệp bắt đầu phát 
triển, đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên nhìn chung so với nhiều quốc gia trên thế 
giới thì tư liệu sản xuất nước ta còn nghèo nàn, chậm cải tiến, hiệu quả chưa 
thật sự cao và còn phân hóa giữa các vùng trong cả nước. 
Như vậy, trong hoàn cảnh lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, 
Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước đầu 
vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực 
lượng sản xuất và được đạt nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ tăng 
trưởng GDP của nước ta là 8,4 %, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong bối 
cảnh nhiều nước rơi vào khủng hoảng thì vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 
vẫn cao, cụ thể là 45 tỷ USD vốn FDI từ 2005 - 2010, GDP trên người khoảng 
1168 USD/người/năm (theo số liệu của Tổng cục Thống kê)       lOMoAR cPSD| 59540283
2.3. Phương hướng để tiếp tục vận dụng tốt quy luật quan hệ sản xuất 
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta  hiện nay 
Một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác là phát hiện Chủ nghĩa 
duy vật lịch sử - đây là bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử triết học 
của nhân loại. Bằng phương pháp biện chứng và lập trường duy vật về lịch sử, 
Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hôi loài người qua các thời kỳ ̣ lịch sử. 
Với cống hiến này, lần đầu tiên lịch sử được nhận thức và lý giải đúng như 
bản thân nó, khách quan và chân thực. 
Theo C.Mác, xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp 
đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn nhất định là một hình thái kinh tế - xã 
hội; sự vận động thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử do các 
quy luật khách quan chi phối - đó là một quá trình lịch sử tự nhiên, mà nguồn 
gốc sâu xa của sự vận động phát triển đó là do sự phát triển của lực lượng sản 
xuất, C.Mác khẳng định: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan 
hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng 
sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát 
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” (C. 
Mác - "Các biên niên sử kinh tế chính trị"). 
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt có mối quan hệ biện 
chứng với nhau làm cho sản xuất phát triển. Lực lượng sản xuất là sự thống 
nhất giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. 
Con người không thể sản xuất có hiệu quả nếu tiến hành riêng lẻ, mà phải liên 
kết, phối hợp với nhau, quan hệ tác động với nhau. Bởi vậy, thiếu một trong 
hai mối quan hệ này thì không thể có sản xuất vật chất. 
Trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lượng sản xuất. Mỗi loại hình 
quan hệ sản xuất được xác lập trên cơ sở thích ứng với một trạng thái, trình      lOMoAR cPSD| 59540283
độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất biến 
đổi thì quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo, sự phát triển của lực lượng sản 
xuất là nguyên nhân sâu xa và là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của  lịch sử. 
Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào tạo 
đặc biệt là đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo nghề, 
nhằm đẩy mạnh phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng. 
Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để 
hoàn thiện quan hệ sản xuất. Tăng cường những bước cơ bản về cơ sở vật chất 
cho khoa học – công nghệ, tập trung phát triển để đạt trình độ tiên tiến trong 
khu vực trên các lĩnh vực công nghệ trọng điểm như công nghệ thông tin, công 
nghệ sinh học, hóa dầu…. 
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải 
có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản 
lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử 
dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế 
thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích 
cực và hạn chế những mặt tiêu cực. 
Mặc dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng do quan 
hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, quy định cách thức tổ chức, quản 
lý, phân công sản xuất, quy định sự phát triển và ứng dụng khoa học công 
nghệ vì vậy, tác động đến thái độ của con người trong sản xuất ... từ đó hình 
thành những yếu tố, khuynh hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của  lực lượng sản xuất. 
Có thể thấy rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của 
lực lượng sản xuất là quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương 
thức sản xuất, không loại trừ một quốc gia dân tộc nào. Điều đó, đòi hỏi chúng      lOMoAR cPSD| 59540283
ta muốn phát triển kinh tế đất nước thì phải nhận thức đúng để hành động phù 
hợp với quy luật khách quan. 
Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế 
hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người, 
sức của cho kháng chiến và phát huy có hiệu quả trong thời kỳ, nhưng kinh tế 
tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng. Do chưa thừa nhận sự tồn tại của nền 
kinh tế nhiều thành phần, coi cơ chế thị trường chỉ là thứ yếu bổ sung cho kế 
hoạch hoá; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao 
động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ… quá nhấn mạnh một chiều cải 
tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản 
xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Trong xác lập quan hệ sản 
xuất, chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản xuất 
chỉ còn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể; nóng vội trong 
việc xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận các 
hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một 
cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát triển lực lượng sản xuất. 
Dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản 
xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Hạn chế đó, có nhiều 
nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là chúng ta đã chủ quan, duy ý chí, 
nóng vội dẫn đến việc nhận thức và vận dụng không đúng quy luật về sự phù 
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã 
nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành 
phần đi lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Mặc dù, chưa đề cập 
đến cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng đây là dấu mốc 
quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và 
phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và      lOMoAR cPSD| 59540283
vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất; đồng thời đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các 
nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh tế nước ta. 
Quá trình vận dụng quy luật và xuất phát từ thực tiễn đất nước, tại Hội nghị 
Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán 
chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa 
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; 
trong đó mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh 
doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, 
vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật”. 
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhìn tổng thể hơn 35 năm qua 
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con 
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận 
dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của 
lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội 
nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với từng 
bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục 
nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang càng là một yêu cầu cấp thiết. 
Để thực hiện điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục 
thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận 
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời bảo 
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của 
đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự 
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt 
Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Việt nam “có quan hệ sản 
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều 
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai      lOMoAR cPSD| 59540283
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các 
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo 
pháp luật”; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu 
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; 
các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 
phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng 
và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch 
và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước 
để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo 
vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng 
chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển  kinh tế xã hội. 
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để 
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, 
tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mô 
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh 
tế, doanh nghiệp và hàng hoá dịch vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế 
để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về 
khoa học và công nghệ, về kinh tế tri thức. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp và 
chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, 
trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý nhà nước. Đổi mới thể chế 
nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, 
tăng cường kỷ luật, kỷ cương. 
Có thể khẳng định công cuộc đổi mới là quá trình chúng ta ngày càng 
nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản      lOMoAR cPSD| 59540283
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn  Việt Nam.  KẾT LUẬN 
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng 
sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong toàn tiến trình lịch sử nhân loại. 
Sau chặng đường thực hiện Đổi mới vừa qua, Đảng ta đã không ngừng tìm 
tòi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản 
xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành nên quan hệ sản xuất. Có 
thể khẳng định, quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện 
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vừa là cơ sở lý luận, vừa 
là bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 
Thực tiễn cho thấy con đường chúng ta đang đi là đúng đắn và đạt nhiều 
thành tựu quan trọng, vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử nhạy cảm. Trong bài 
viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi 
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết 
sâu sắc về sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng và thành tựu phát triển 
đất nước trong 35 đổi mới; trong đó có đánh gia quan trọng là: “Đưa ra quan 
niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá 
lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng 
trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và 
có tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”. Về con đường và cách thức đi 
lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều vấn đề được làm sáng tỏ nhưng cũng 
có nhiều vấn đề cần phải phát triển thêm. Có thể nói việc xây dựng và hoàn 
thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa ở nước ta là một vấn đề như thế. Mặt khác cần đi đôi với việc phát triển      lOMoAR cPSD| 59540283
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và đi tắt đón đầu, chú trọng các ngành 
nhiều thế mạnh trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, phù hợp với sự phát 
triển nền khoa học công nghệ nước nhà. 
Việc phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và phát triển 
nền kinh tế thị trường phải được thực hiện đồng thời, thúc đẩy hỗ trợ nhau 
cùng phát triển. Bởi lẽ nếu công nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo nên lực lượng 
sản xuất cần thiết cho sự phát triển xã hội thì việc phát triển kinh tế hàng hóa 
nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp. Nước ta cần 
xác lập và hoàn thiện một quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp với lực lượng 
sản xuất hiện nay để đất nước phát triển hơn nữa, mà trước hết là phát triển 
kinh tế một cách bền vững. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. 
Bộ GD và ĐT, Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của Chủ 
nghĩaMác – LêNin, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021  2. 
Bộ GD và ĐT, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc 
đạihọc hệ không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật,  2021;  3. 
BCH Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 
06NQ/HNTW ngày 29/3/2989, Hội nghị lần thứ sau BCH Trung ương Đảng 
(khóa VI) về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương 
hướng, nhiệm vụ ba năm tới;  4. 
BCH Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đạibiểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 2016, tr  25;  5. 
Các biên niên sử kinh tế chính trị - C. Mác