Chương 2: Hoạch Định Chiến Lược Kinh Doanh 2 môn Lập kế hoạch doanh nghiệp | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Một là, chiến lược chung hay còn gọi là chiến lược tổng quát. Chiếnlược chung của doanh nghiệp thường đề cập tới những vấn đề quan trọng nhất, bao trùm nhất và có ý nghĩa lâu dài. Chiến lược chung quyết định những vấn đề sống còn của doanh nghiệp.Tài  liệu  giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Trường:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.6 K tài liệu

Thông tin:
2 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Chương 2: Hoạch Định Chiến Lược Kinh Doanh 2 môn Lập kế hoạch doanh nghiệp | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Một là, chiến lược chung hay còn gọi là chiến lược tổng quát. Chiếnlược chung của doanh nghiệp thường đề cập tới những vấn đề quan trọng nhất, bao trùm nhất và có ý nghĩa lâu dài. Chiến lược chung quyết định những vấn đề sống còn của doanh nghiệp.Tài  liệu  giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

7 4 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 32573545
Chương 2: HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH DOANH <2>
2.1 . KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
2.1.2 . Các loại chiến lược kinh doanh
* Căn cứ vào phạm vi của chiến lược, chiến lược kinh doanh gồm hai loại:
- Một là, chiến lược chung hay còn gọi là chiến lược tổng quát. Chiến lược
chung của doanh nghiệp thường đề cập tới những vấn đề quan trọng nhất, bao
trùm nhất và có ý nghĩa lâu dài. Chiến lược chung quyết định những vấn đề sống
còn của doanh nghiệp. Các mục tiêu chủ yếu của chiến lược tổng quát là tăng
khả năng sinh lợi, tạo thế lực trên thị trường và đảm bảo an toàn trong kinh
doanh. Mỗi doanh nghiệp có thể đặt 1, 2 hoặc cả 3 mục tiêu này trong một
khoảng thời gian
- Hai là, chiến lược bộ phận. Đây là chiến lược cấp hai. Nếu căn cứ vào các
hoạt độngmarketing trong doanh nghiệp thì loại chiến lược bộ phận này gồm:
chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối, và chiến lược yểm
trợ bán hàng. Nếu dựa vào nội dung chiến lược, nó có thể bao gồm chiến lược
khai thác các khả năng tiềm tàng, chiến lược tập trung vào các yếu tố then chốt,
chiến lược tạo ra các ưu thế tương đối và chiến lược sáng tạo tấn công. Chiến
lược chung và chiến lược bộ phận liên kết với nhau thành một chiến lược kinh
doanh hoàn chỉnh. Không thể coi là một chiến lược kinh doanh nếu chỉ có chiến
lược chung mà không có chiến lược bộ phận được thể hiện bằng các mục tiêu và
mỗi mục tiêu lại được thể hiện bằng một số chỉ tiêu nhất định.
* Căn cứ vào hướng tiếp cận chiến lược, chiến lược kinh doanh được chia làm
bốn loại:
- Loại thứ nhất, chiến lược tập trung vào những nhân tố then chốt. Tư tưởng
chỉ đạo của việc hoạch định ở đây là không dàn trải các nguồn lực, trái lại cần
tập trung cho những hoạt động có ý nghĩa quyết định đối với sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mình. Thí dụ, đối với ngành công nghiệp dầu khí thì
tìm nguồn nguyên liệu là một trong những nhân tố then chốt; đối với ngành chế
tạo máy bay thì đó là thiết kế; đối với ngành điện tử thì đó là công nghệ sản
xuất; đối với ngành sản xuất bia, thuốc lá là mạng lưới phân phối...
- Loại thứ hai, chiến lược dựa trên ưu thế tương đối. Tư tưởng chỉ đạo
hoạch định chiến lược ở đây bắt đầu tự phân tích, so sánh sản phẩm hay dịch vụ
của doanh nghiệp mình so với các đối thủ cạnh tranh. Thông qua sự phân tích
đó, tìm ra điểm mạnh của mình làm chỗdựa cho chiến lược kinh doanh. Thí dụ,
trong số các loại sản phẩm thì doanh nghiệp có ưu thế hơn các doanh nghiệp
khác ở sản phẩm nào hoặc trong một loại sản phẩm thì chi tiết nào. Ưu thế tương
lOMoARcPSD| 32573545
đối có thể biểu hiện bằng nhiều mặt như: chất lượng hoặc giá bán sản phẩm;
dịch vụ; hoặc công nghệ sản xuất, mạng lưới tiêu thụ...
- Loại thứ ba, chiến lược sáng tạo tấn công. Trong loại chiến lược này, việc
xây dựng được tiếp cận theo cách cơ bản là luôn luôn nhìn thẳng vào những vấn
đề vẫn được coi là phổ biến, khó làm khác được để đặt câu hỏi "tại sao", nhằm
xét lại những điều tưởng như đã kết luận.
- Loại thứ tư, chiến lược khai thác các mc độ tự do. Cách xây dựng chiến
lược ở đây không nhằm vào nhân tố then chốt mà nhằm vào khai thác khả năng
có thể có của các nhân tố bao quanh nhân tố then chốt.
| 1/2

Preview text:

lOMoAR cPSD| 32573545
Chương 2: HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH DOANH <2>
2.1 . KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
2.1.2 . Các loại chiến lược kinh doanh
* Căn cứ vào phạm vi của chiến lược, chiến lược kinh doanh gồm hai loại: -
Một là, chiến lược chung hay còn gọi là chiến lược tổng quát. Chiến lược
chung của doanh nghiệp thường đề cập tới những vấn đề quan trọng nhất, bao
trùm nhất và có ý nghĩa lâu dài. Chiến lược chung quyết định những vấn đề sống
còn của doanh nghiệp. Các mục tiêu chủ yếu của chiến lược tổng quát là tăng
khả năng sinh lợi, tạo thế lực trên thị trường và đảm bảo an toàn trong kinh
doanh. Mỗi doanh nghiệp có thể đặt 1, 2 hoặc cả 3 mục tiêu này trong một khoảng thời gian -
Hai là, chiến lược bộ phận. Đây là chiến lược cấp hai. Nếu căn cứ vào các
hoạt độngmarketing trong doanh nghiệp thì loại chiến lược bộ phận này gồm:
chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối, và chiến lược yểm
trợ bán hàng. Nếu dựa vào nội dung chiến lược, nó có thể bao gồm chiến lược
khai thác các khả năng tiềm tàng, chiến lược tập trung vào các yếu tố then chốt,
chiến lược tạo ra các ưu thế tương đối và chiến lược sáng tạo tấn công. Chiến
lược chung và chiến lược bộ phận liên kết với nhau thành một chiến lược kinh
doanh hoàn chỉnh. Không thể coi là một chiến lược kinh doanh nếu chỉ có chiến
lược chung mà không có chiến lược bộ phận được thể hiện bằng các mục tiêu và
mỗi mục tiêu lại được thể hiện bằng một số chỉ tiêu nhất định.
* Căn cứ vào hướng tiếp cận chiến lược, chiến lược kinh doanh được chia làm bốn loại: -
Loại thứ nhất, chiến lược tập trung vào những nhân tố then chốt. Tư tưởng
chỉ đạo của việc hoạch định ở đây là không dàn trải các nguồn lực, trái lại cần
tập trung cho những hoạt động có ý nghĩa quyết định đối với sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mình. Thí dụ, đối với ngành công nghiệp dầu khí thì
tìm nguồn nguyên liệu là một trong những nhân tố then chốt; đối với ngành chế
tạo máy bay thì đó là thiết kế; đối với ngành điện tử thì đó là công nghệ sản
xuất; đối với ngành sản xuất bia, thuốc lá là mạng lưới phân phối... -
Loại thứ hai, chiến lược dựa trên ưu thế tương đối. Tư tưởng chỉ đạo
hoạch định chiến lược ở đây bắt đầu tự phân tích, so sánh sản phẩm hay dịch vụ
của doanh nghiệp mình so với các đối thủ cạnh tranh. Thông qua sự phân tích
đó, tìm ra điểm mạnh của mình làm chỗdựa cho chiến lược kinh doanh. Thí dụ,
trong số các loại sản phẩm thì doanh nghiệp có ưu thế hơn các doanh nghiệp
khác ở sản phẩm nào hoặc trong một loại sản phẩm thì chi tiết nào. Ưu thế tương lOMoAR cPSD| 32573545
đối có thể biểu hiện bằng nhiều mặt như: chất lượng hoặc giá bán sản phẩm;
dịch vụ; hoặc công nghệ sản xuất, mạng lưới tiêu thụ... -
Loại thứ ba, chiến lược sáng tạo tấn công. Trong loại chiến lược này, việc
xây dựng được tiếp cận theo cách cơ bản là luôn luôn nhìn thẳng vào những vấn
đề vẫn được coi là phổ biến, khó làm khác được để đặt câu hỏi "tại sao", nhằm
xét lại những điều tưởng như đã kết luận. -
Loại thứ tư, chiến lược khai thác các mức độ tự do. Cách xây dựng chiến
lược ở đây không nhằm vào nhân tố then chốt mà nhằm vào khai thác khả năng
có thể có của các nhân tố bao quanh nhân tố then chốt.