-
Thông tin
-
Quiz
Chương 4 Đảng ta là 1 đảng cầm quyền.... môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Chương 4 Đảng ta là 1 đảng cầm quyền.... môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:


















































Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài:
TRONG DI CHÚC HỒ CHÍ MINH VIẾT: “ĐẢNG TA LÀ MỘT ĐẢNG CẦM
QUYỀN. MỖI ĐẢNG VIÊN VÀ CÁN BỘ PHẢI THẤM NHUẦN ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG, THẬT SỰ CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ. PHẢI GIỮ GÌN
ĐẢNG TA THẬT TRONG SẠCH, PHẢI XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO,
NGƯỜI ĐẦY TỚ THẬT TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN” Hà Nội – 2021 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
I. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM...........................................................................................5
1. Cơ sở lý luận.....................................................................................................5
1.1. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản.........5
1.2. Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin trong xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam............................................................................................7
2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................................8
2.1. Bối cảnh trong nước...................................................................................8
2.2. Bối cảnh quốc tế.......................................................................................10
II. NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM...............................................................................12
1. Đảng ta là một đảng cầm quyền....................................................................12
1.1 Khái niệm Đảng cầm quyền.....................................................................12
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền”...........14
2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh................................................................17
2.1. Đảng là đạo đức, là văn minh..................................................................17
2.2. Đảng là người lãnh đạo, là đầy tớ của nhân dân...................................23
2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên.......................................................26
III. GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM......................................................32
1. Giá trị của luận điểm...................................................................................32
1. Ý nghĩa của luận điểm.................................................................................33
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM..............................................................34
1. Thành tựu.....................................................................................................36
1.1. Kinh tế.....................................................................................................36
1.2. Văn hóa - Xã hội....................................................................................38
2. Hạn chế..........................................................................................................39
2.1. Kinh tế.......................................................................................................39
2.2. Văn hóa - Xã hội.......................................................................................41
2.3. An sinh xã hội:..........................................................................................41
3.Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ..............................................................42
3.1.Mục tiêu phát triển....................................................................................42
3.2.Phương hướng, nhiệm vụ.........................................................................43
4. Thực tiễn.....................................................................................................46
4.1. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành công của Đại hội XIII:...............46
4.2. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành công của cuộc bầu cử Đại biểu
quốc hội khóa XV và Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kì 2021-
2026...................................................................................................................47
4.3.Vai trò của Đảng thể hiện qua nỗ lực chống dịch và tiêm phòng vacxin
cho nhân dân....................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................49 LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sôi động
nhất, hào hùng nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giành
được những thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử dân tộc và thời đại sâu sắc, thể hiện
những bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Nhân vân Việt Nam đặc
biệt là thế hệ trẻ đã và đang được trực tiếp hưởng thụ những thành quả của cách
mạng, từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, việc giáo dục cho các thế hệ
được thấy được vai trò và sự cống hiến của Đảng và đặc biệt là thấy được ý nghĩa
to lớn từ sự xuất hiện, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đã hơn 90 năm hình
thành và phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam luôn có trách nhiệm quan trọng và
vai trò to lớn đối với Tổ quốc , với dân tộc. Sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó đòi hỏi
Đảng ta phải tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bảo đảm cho Đảng ta thực sự
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một cách toàn diện những vấn đề
về Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam đã trở thành nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta qua lời di chúc: “Đảng ta
là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xây dựng Đảng ta xứng đáng là một người lãnh đạo, là một
người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đây cũng là luận điểm mà em lựa chọn để
phân tích nhằm cung cấp cho mọi người cái nhìn sâu hơn về tư tưởng này của Bác,
đồng thời cũng giúp các thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước, những
người cán bộ Đảng viên trong tương lai sẽ nhận thức đúng đắn hơn về vai trò và
trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. 4
I. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM 1. Cơ sở lý luận
1.1. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản.
Theo quan điểm của Mác - Lênin, “trong xã hội xây dựng trên cơ sở phân
chia giai cấp, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp thù địch, đến một chừng mực nào
đó, sẽ trở thành đấu tranh chính trị. Đấu tranh của Đảng là phản ánh đấu tranh
chính trị của giai cấp có giá trị đầy đủ và có thể thức dứt khoát nhất”. Giai cấp vô
sản muốn hoàn thành sứ mệnh của mình là giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi
áp bức bóc lột và lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản thì cần phải có sự thống
nhất về mục đích và tổ chức. Và chỉ có đảng chính trị mới có thể đem lại sự thống
nhất ấy. Theo Lênin, phong trào công nhân không thể thắng lợi nếu như không có
lý luận cách mạng khoa học: “Lý luận này không thể do tưởng tượng mà bịa đặt
ra. Lý luận này được hình thành trên cơ sở tổng hợp kinh nghiệm cách mạng và tư
tưởng cách mạng của tất cả các nước trên trái đất. Lý luận đó ra đời từ nửa thế kỷ
19. Lý luận đó là chủ nghĩa Mác”. Học thuyết Mác xuất hiện bên ngoài phong trào
tự phát của công nhân, mặt khác nó đã ra đời như là kết quả phát triển khách quan
và tất yếu của tư tưởng cách mạng. Nó đã xuất hiện từ cơ sở tư tưởng và khoa học,
được vun đắp bởi các nhà đại diện của giới trí thức cách mạng. Theo V. Lênin với
Tuyên ngôn của đảng cộng sản, chủ nghĩa Mác đã trở thành thế giới quan hoàn
chỉnh của giai cấp công nhân. V.Lênin cũng đã nhấn mạnh: Nhiệm vụ quan trọng
của đảng cộng sản là “phải tích cực giáo dục chính trị cho giai cấp công nhân, là
phải tăng cường giác ngộ chính trị cho giai cấp công nhân”. Đảng cộng sản, bộ
phận tiên phong của giai cấp, nhờ được vũ trang bởi học thuyết mác-xít mới có thể
đem ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa đến cho phong trào công nhân, mới là đại
diện cho những quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân. Kết luận này đã được 5
V.Lênin chỉ rõ trong hai luận điểm mật thiết liên hệ với nhau: “Không có lý luận
cách mạng, không thể có phong trào cách mạng” và từ đó “chỉ có đảng được vũ
trang bằng lý luận tiên phong mới đóng được vai trò là người chiến sĩ tiên phong”.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng cầm quyền mà không có lý luận
dẫn đường thì cách mạng sẽ không có “phong trào vận động” và đảng sẽ không thể
làm nổi “trách nhiệm cách mạng tiền phong”. Từ rất sớm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhận thức rất rõ điều đó. Trong toàn bộ hoạt động của Đảng, Đảng ta
luôn luôn đề cao vai trò của lý luận, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
Cùng với việc làm sáng tỏ vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn để
“xây dựng chủ nghĩa cho vững”. Chủ nghĩa ấy phải đảm bảo thể hiện rõ bản chất
giai cấp công nhân, tính cách mạng sáng tạo và khoa học của Đảng. Trước hết, trên
hết phải vì lợi ích của giai cấp, của toàn thể nhân dân và dân tộc Việt Nam; phản
ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, dẫn đường chỉ lối cho nhân dân hành
động phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và thời đại.
Trên nền tảng Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930) của Đảng, trải qua
nhiều thời kỳ cách mạng khác nhau cam go, gian khó, trong đó có cả sự bất hòa
trong hệ thống XHCN, nhưng Đảng ta vẫn tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy, tư tưởng ấy vào
hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng nước ta, đồng thời làm phong phú
thêm nó. Đường lối cách mạng Việt Nam mỗi thời kỳ lại được bổ sung, phát triển,
nhưng trước sau như một, Cương lĩnh của Đảng vẫn xác định: “Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của 6
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động,…”
1.2. Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Với Hồ Chí Minh, một Đảng với tư cách Đảng cầm quyền thì trước hết,
Đảng phải có “lý luận cách mệnh tiền phong”, có “chủ nghĩa làm cốt”. Ngay từ
năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Bác đã nhấn mạnh: Cách mạng
muốn thành công thì phải có tổ chức vững bền, sức cách mạng phải tập trung,
muốn tập trung thì trước hết phải có Đảng, cũng giống như đũa thì phải bó lại
thành bó chứ không phải mỗi chiếc một nơi. Cách mạng muốn thành công thì trước
hết phải có Đảng cách mệnh. Có Đảng để trong thì vận động công nông và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với tất cả các nước và giai cấp vô sản trên toàn thế
giới. Bác khẳng định, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như “người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Tuy nhiên, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam”. Bác cũng chỉ ra: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lê-nin”. Bác xem chủ nghĩa Mác Lênin như “cái cẩm nang thần kỳ”, “là
mặt trời chân lý”, “là cái kim chỉ nam cho mọi hành động” mà Đảng ta với tư
cách là một Đảng cầm quyền cần phải có, cần phải làm theo và lấy đó làm vũ khí
tinh thần để làm tròn vai trò tiền phong, vai trò lãnh đạo cách mạng của mình. 7
Khẳng định vai trò “làm cốt” của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với vị trí cầm
quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng ta, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: Chủ
nghĩa Mác-Lênin không chỉ là “lực lượng tư tưởng hùng mạnh” chỉ đạo mọi hoạt
động của Đảng ta, mà còn là lý luận nền tảng, mang bản chất cách mạng và khoa
học, làm cho Đảng ta “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao
động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm” của dân tộc Việt Nam chúng ta.
Mặc dù Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hành động nhưng
theo Bác, điều đó không có nghĩa là Đảng giáo điều theo từng câu, từng chữ của
C.Mác, của V.I.Lênin, mà là nắm vững tinh thần, lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời tiếp thu những tinh hoa của văn hoá
dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản và công nhân
quốc tế, vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam
để đề ra đường lối, chủ trương, phương thức lãnh đạo đúng đắn, phù hợp cho Cách mạng Việt Nam.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Bối cảnh trong nước
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, năm 1858, thực dân Pháp bắt
đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động
của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược,
nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930,
hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh
hướng khác nhau, như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du... Các cuộc
khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp
đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con 8
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Đứng
trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, việc tìm một con đường cứu
nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là
nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra nước
ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới,
vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng
tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế
Cộng sản, tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp
chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tổ chức cộng sản
lần lượt được thành lập:
Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố
thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở
Việt Nam. Tuy nhiên, 3 tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh
hưởng lẫn nhau, không có lợi cho cách mạng.
Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam,
ngày 5/3/1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Khoảng tháng 5/1929, Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên họp hội nghị toàn quốc. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức
ngay một Đảng Cộng sản. Các đại biểu khác đề nghị sau này hãy tổ chức. Nhóm 9
Bắc Kỳ bỏ hội nghị ra về và tổ chức một đảng (Đông Dương). Một số khác, sau đó
đã tổ chức một đảng khác (An Nam). Đó là mối bất hoà đầu tiên. Nhóm Bắc Kỳ
tìm hết cách để phá hoại Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vì họ cho rằng: hội
đó quá đông và cơ hội chủ nghĩa nên nó có thể làm lu mờ ảnh hưởng và công tác
của Đảng Cộng sản trong quần chúng. Nhóm An Nam ra sức giữ cho Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên tiếp tục hoạt động vì họ cho rằng: Hội có thể lợi dụng để
tập họp tầng lớp trí thức và giai cấp tiểu tư sản. Đó là mối bất hoà thứ hai. Cả hai
đều cố thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng hiểu lầm nhau
bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày cũng rộng ra bấy nhiêu”. Sự chia rẽ, mất đoàn
kết đã làm phân tán sức mạnh chung của phong trào, không có lợi cho cách mạng.
Điều này thể hiện sự cấp thiết của cách mạng Việt Nam là lúc này phải thành lập
ngay một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam để tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.
Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán
đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) hội nghị nhất trí thành lập một đảng
thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập.
Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên sớm ý thức và hiện thực hóa ý thức đó
về một tổ chức Đảng lãnh đạo - nhân tố then chốt quyết định sự thắng lợi
của cách mạng. Từ đây, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam tiến hành
theo con đường cách mạng vô sản.
Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam trở thành đảng cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam. 10
2.2. Bối cảnh quốc tế
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là một trong những sự
kiện vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đánh dấu mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân
loại, đã tạo ra nhà nước của người lao động, thể hiện giấc mơ của toàn nhân loại.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã tiếp sức cho phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Từ đó, một làn sóng cách mạng vô sản ở châu Âu đã bùng lên
mạnh mẽ, tạo ra một cao trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, làm rung chuyển nền thống trị của giai cấp tư sản độc quyền ở nhiều nước.
Một hệ thống xã hội chủ nghĩa đã ra đời, đóng vai trò to lớn trong tiến trình phát
triển của thế giới hiện đại. Cách mạng tháng Mười Nga còn tác động mạnh mẽ đến
đời sống chính trị-xã hội của nhiều quốc gia, dân tộc; đã thức tỉnh, cổ vũ các dân
tộc thuộc địa bị áp bức và các nước phụ thuộc vùng dậy đấu tranh vì độc lập tự do,
đem lại niềm tin và niềm hy vọng về khả năng tự giải phóng.
Với những ý nghĩa to lớn và sâu sắc như vậy, thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga thực sự đã sáng tạo ra một kỷ nguyên mới của nước Nga, đồng thời đã
mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại. Sau Cách mạng Tháng 10 Nga và
việc thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) đã chỉ
hướng cho nhân dân các quốc gia bị áp bức và các nước thuộc địa về con đường
đấu tranh giải phóng dân tộc. Quốc tế Cộng sản được thành lập với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc các quốc gia bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới với giai cấp vô sản là nòng cốt.
Ngày 27 tháng 10 năm 1929 Quốc tế Cộng sản gửi cho người Cộng sản tại
Đông Dương về việc thành lập một Đảng Cộng sản tại Đông Dương: “Việc thiếu
một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào công nhân và nông dân ngày
càng phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt 11
cuộc cách mạng ở Đông Dương”. Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan
trọng nhất của tất cả những người Cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng
cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản
có tính chất quần chúng Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng
sản duy nhất ở Đông Dương ”
II. NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM
1. Đảng ta là một đảng cầm quyền
1.1 Khái niệm Đảng cầm quyền
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên xây dựng học thuyết về
Đảng Cộng sản trong những năm nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, trong thời kỳ của
C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có một đảng nào lãnh đạo nhân dân giành được chính
quyền. Do đó, vấn đề đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền xây dựng xã hội
mới- xã hội chủ nghĩa chưa được các ông nghiên cứu nhiều. Sự ra đời của Đảng
Bônsêvích Nga (đảng kiểu mới của giai cấp công nhân) và việc thành lập Quốc tế
III là sự thể hiện tư tưởng của Lênin về học thuyết Đảng Cộng sản.
Khái niệm "đảng cầm quyền" được dùng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các
nước xã hội chủ nghĩa. Các nước tư bản chủ nghĩa, khái niệm này dùng để chỉ một
đảng hay một liên minh chính trị gồm nhiều đảng đã nắm được chính quyền, điều
hành đất nước trong nhiệm kỳ hiện tại của quốc hội, nhiệm kỳ của tổng thống. Với
các nước xã hội chủ nghĩa, khái niệm này được dùng trong thời kỳ từ khi Đảng
Cộng sản đã giành được chính quyền, nắm chính quyền, lãnh đạo nhân dân thực
hiện nhiệm vụ, mục tiêu chính trị. Như vậy, đảng cầm quyền là đảng giành chiến
thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Từ đó, đảng thành lập chính
phủ đưa ra các quyết định chính sách đại diện cho nhân dân. 12
Ngay từ trước Cách mạng tháng Mười Nga (năm 1917), Lênin nói rằng
Đảng Bônsêvích Nga bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm chính quyền. Sau
Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Bônsêvích, sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xô
trở thành đảng cầm quyền đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Liên Xô và nhân dân thế giới. Lênin lần đầu tiên đã đưa ra khái
niệm "Đảng Cộng sản cầm quyền" vào ngày 27/3/1922 trong Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga và nhận định ở nước Nga chỉ có
"đảng cầm quyền duy nhất"
Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng
thuật ngữ này để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như ''Đảng giành được chính
quyền'', ''Đảng nắm chính quyền'', ''Đảng cầm quyền''. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Những khái niệm này cũng
đã được ghi trong các văn kiện của Đảng ta khi đề cập đến vai trò của Đảng đối với
xã hội từ sau khi có chính quyền cách mạng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
được Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI thông qua có ghi "Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền".
Với các Đảng Cộng sản cầm quyền, thuật ngữ Đảng Cộng sản dùng để chỉ
các đảng Cộng sản ở những nước có duy nhất một đảng cầm quyền, nắm chính
quyền lãnh đạo mọi mặt trong đời sống xã hội. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng
phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước dân tộc. Điều mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói, Đảng chẳng những phải lo những việc to lớn như việc biến đổi
kinh tế và văn hóa mà còn còn phải lo đến những việc nhỏ nhặt "tương cà, mắm
muối" là những thứ cần thiết cho đời sống thường nhật của nhân dân. Đảng đại
diện lợi ích của giai cấp công nhân, cho toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội
tiên phong chính trị của cả dân tộc. Đảng luôn giữ được bản chất cách mạng và
khoa học, có phương thức lãnh đạo đúng đắn. 13
Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vững được nguyên tắc xây dựng đảng của
các nhà nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản, vận dụng sáng tạo, kế thừa có chọn lọc
học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đảng là một tổ chức của những người tự nguyện cùng chung một chí hướng
đấu tranh cho lợi ích của một giai cấp hoặc một tầng lớp nhất định. Ở các nước
phương Tây, thuật ngữ "đảng cầm quyền", "đảng chấp chính", "đảng nắm chính
quyền" đã được dùng từ lâu, dùng để chỉ rõ vai trò, vị thế của một đảng khi đã có
chính quyền. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối
chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện tư tưởng, đường lối
của đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp
mà đảng đó đại diện.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, con đường trở thành Đảng Cộng sản cầm
quyền lại có đặc điểm và sắc thái riêng. Để trở thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng
sản phải lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh, chống “thù trong, giặc ngoài”, tiến
hành cuộc cách mạng vô sản hoặc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để lật
đổ chính quyền của giai cấp bóc lột, thiết lập chính quyền mới của giai cấp công
nhân. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng, giành chính quyền về tay mình, Đảng
Cộng sản lãnh đạo nhà nước và bộ máy của nó, tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây
dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi Đảng Cộng sản nắm được
quyền thống trị, thì điều đó có nghĩa là “nắm quyền đó với ý thức là chỉ một mình
mình nắm”1. Theo V.I.Lênin, trong thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, duy nhất chỉ
có Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội, không có sự cạnh
tranh, chia sẻ quyền lực cho các đảng chính trị khác; thực hiện thể chế nhất
nguyên, không có đảng đối lập tranh giành quyền lực nhà nước. 14
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền”
Tại sao Bác không nói là “Đảng ta là đảng cầm quyền” mà phải nói là
“một đảng cầm quyền”? “Một” thể hiện tính duy nhất, hàm ý cả tính tuyệt đối.
Đảng không được chia sẻ quyền lực với đảng khác trong vai trò cầm quyền của
mình (nên hiểu là “không chia sẻ quyền lực” chứ không độc nhất tồn tại, vì thời
của Bác còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 đến năm 1988) và Đảng Xã hội
Việt Nam (1946 – 1988), nhưng không giữ vai trò lãnh đạo. Tức là không liên
minh, liên kết với bất kỳ đảng khác để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Đây
không phải là sự độc chiếm quyền lực mà đó là kết quả tất yếu của lịch sử.
Tuy nhiên, cũng cần hiểu đầy đủ lời của Người: “Đảng ta là một đảng cầm
quyền”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã hàm ý cảnh báo. Vì là “một đảng cầm quyền” nên
có thể phát sinh những vấn đề do chỉ có một đảng nắm quyền, nhất là khi nắm
quyền liên tục trong một thời gian dài. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, chắc
chắn Hồ Chí Minh hiểu rằng mọi sự vật, hiện tượng đều luôn vận động và biến đổi.
Là đảng duy nhất cầm quyền, ở đỉnh cao quyền lực, rất có thể nội bộ đảng nảy sinh
những trì trệ, thậm chí sai lầm, nếu Đảng giáo điều, không phát huy và mở rộng
dân chủ, không lắng nghe phản ánh từ nhân dân, không tiếp thu các ý kiến phản
biện… Rất có thể, khi cầm quyền trong thời gian dài, đảng tự xây cho mình một
“tháp ngà” và tự cách biệt mình với quần chúng nhân dân. Nghiêm trọng hơn,
chính điều đó nảy sinh quan liêu, xa dân, tham nhũng, thậm chí độc đoán, dần đánh
mất lòng tin của nhân dân. Điều này đã từng xảy ra với một số đảng, dẫn đến kết
cục đảng không cầm quyền được nữa, gây những hệ lụy nguy hiểm cho quốc gia,
cho dân tộc. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, một triều đại lúc mới khai sáng
thì luôn có vua sáng tôi hiền, có nhiều đóng góp quan trọng cho đất nước thì về sau
lại trở nên trì trệ, khủng hoảng, suy tàn. Đây là một hiện tượng bình thường trong
lịch sử, trong xã hội, được khái quát trong tư tưởng của người phương Đông, 15
“trăng có khi tròn khi khuyết”. Nhận thức được vấn đề này Đảng luôn luôn tự đổi
mới, tự hoàn thiện mình, tự khắc phục các hạn chế, khuyết điểm điểm để phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể, với yêu cầu lãnh đạo cụ thể.
Ở Việt Nam,Đảng Cộng Sản nắm quyền lãnh đạo nhưng quyền lãnh đạo đó
là thuộc về nhân dân và Đảng nhận sự ủy thác giao phó quyền lực từ dân.Hồ Chí
minh nói : “cách mạng rồi thì chuyển giao cho dân chúng số nhiều,chớ để trong tay
một bọn ít người”.Người đề cập xây dựng một Nhà nước “của dân,do dân và vì
dân”. Một khi Đảng trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền thì Đảng cầm quyền, dân
là chủ, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ. Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Song,
Đảng cầm quyền, dân là chủ: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đây là vấn
đề nguyên tắc, là bản chất của chế độ mới. Đảng lãnh đạo chính quyền là nhằm
thiết lập quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân, làm
trái nguyên tắc đó Đảng sẽ thoái hóa, biến chất. Bởi vậy, phải xây dựng cơ chế
Đảng cầm quyền mà cái cốt lõi của cơ chế này là mối quan hệ giữa Đảng, nhân dân.
Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân
dân.Theo Người, quyền lực thuộc về nhân dân là bản chất,là nguyên tắc của chế độ
mới, một khi xa rời nguyên tắc này ,Đảng sẽ trở thành đối lập với nhân dân.Dân
làm chủ,Đảng lãnh đạo,Đảng phải “lấy dân làm gốc”. Dân muốn làm chủ thật sự
thì phải theo Đảng.Mỗi người dân phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia
vào xây dựng chính quyền .Theo Hồ Chí minh,nguyên tắc dân làm chủ,dân làm
gốc có thành hiện thực khi cán bộ,Đảng viên còn là đầy tớ trung thành của nhân dân 16
Vì vậy, là thành viên của “một đảng cầm quyền”, Hồ Chí Minh đã căn dặn:
“Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Những chữ
“thực sự”, “thật sự”, “thật” là sự nhấn mạnh của Bác đối với các yêu cầu của Đảng,
của mỗi đảng viên trong lời khẳng định “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Tức là,
một đảng cầm quyền thì đảng viên phải thực sự như thế, không thể khác được.
2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Ở đây
Bác đang muốn đề cập đến vấn đề đạo đức của Đảng và muốn nhấn mạnh rằng
Đảng cần phải có sự trong sạch và vững mạnh.
2.1. Đảng là đạo đức, là văn minh
Trong bài nói tại Lễ Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (năm 1960), Hồ
chí Minh cho rằng: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Hồ Chí Minh quan niệm
đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ rất sớm và xuyên suốt cuộc đời
cách mạng của mình. Cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927 không phải là một
chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách Người đã
nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết ba mối quan
hệ: Với mình, với người, với việc. Những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi,
Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Người coi
đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông, cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho 17
loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản,
tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”. Vai trò nền tảng của đạo đức
cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ
thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đạo đức trở thành nhân
tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người: “Mọi việc
thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là
không”, “Tuy năng lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to,
người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao
thượng”. Người từng khẳng định: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật
chất” . Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện tượng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà
xem, thì không giải thích được thắng lợi của ta đối với kẻ thù lớn mạnh. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đảng ta theo chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta không những nhìn vào
hiện tại mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của
quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng
chừng và bi quan kia rằng:
“Nay tuy châu chấu đấu voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”.
Đạo đức còn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã
hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó
khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và
thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, 18
không quan liêu, không kiêu ngạo không hủ hóa”. Đạo đức của Đảng thể hiện qua những điểm:
Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp
cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, làm cho dân tộc được độc lập, nhân
dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự, đoàn kết hữu nghị với
các dân tộc trên thế giới. Đạo đức của Đảng là thật sự vì nước, vì dân, nêu
cao lợi ích của đất nước, dân tộc, Tổ quốc trên hết, độc lập trên hết. Toàn
Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức và hành động vì lợi ích của dân
tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng không có lợi ích
nào khác. Toàn Đảng chung sức lãnh đạo đấu tranh làm sao cho đất nước
được hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc, đồng bào được tự do, hạnh
phúc, bảo đảm quyền sống và thoát khỏi sự áp bức, bất công, đau khổ dưới
sự thống trị của chế độ thực dân, phong kiến và các thế lực phản động.
Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng đều
nhằm mục đích đó. Đảng phải luôn luôn trung thành với lợi ích toàn dân tộc
vì Đảng không có mục đích riêng, sự ra đời và phát triển của Đảng đều là vì
mục đích làm cho đất nước hùng cường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại quyền lợi cho dân.
Đội ngũ đảng viên phải luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu
dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Do vậy,
một trong những biểu hiện rõ nhất của Hồ Chí Minh về rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam để cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức của văn minh
là Người “rèn” đạo đức cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh , đảng
viên càng phải là những người có lòng nhân ái, “phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau”, trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, có bốn
đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính và luôn chí công vô tư, có tinh thần quốc tế 19
trong sáng.Việc thực hiện phẩm chất này, đặt ra đối với tất cả mọi người, đòi
hỏi mỗi người phải lấy bản thân mình làm đối tượng điều chỉnh. Nó diễn ra
hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt. Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư là những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền thống
Việt Nam, được Hồ Chí Minh tiếp thu chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và
nội dung mới. Người khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần,
kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân
theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm,
chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước,
cho dân”. Tháng 6-1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết
tác phẩm Cần, kiệm, liêm, chính. Sau
đó, Người thường xuyên đề cập tới
các phạm trù đạo đức này.
Hồ Chí Minh không chỉ giải thích nghĩa của cần, kiệm, liêm, chính mà
Người còn nêu lên mối quan hệ giữa bốn phẩm chất đó: “Cần, Kiệm, Liêm,
là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa,
quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải
Chính mới là người hoàn toàn” . So sánh với bốn mùa của trời, bốn phương
của đất, Người cho rằng: “Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một
phương thì không thành đất, thiếu một đức, thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính đối với cán bộ đảng viên lại càng cần thiết, bởi vì:
“Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền
nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp
ăn của đút” . Theo Hồ Chí Minh, càng có chức, có quyền càng cần phải cần
kiệm, liêm, chính. Người viết: “Những người trong các công sở đều có nhiều
hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở
nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”. 20
Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của
một dân tộc. Người viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”.
Cần, kiệm, liêm, chính, vì vậy là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái
quốc”; là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể,
giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Đồng chí Phạm Văn Đồng cho
rằng “cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh. Những điều
trái lại là đặc điểm của xã hội suy vong”.
Chí công, vô tư là không nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là lòng
mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. Điều mà Phạm Trọng Yêm
đời Tống đã nói: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”
đã được Hồ Chí Minh đưa thành nội dung phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân. Hồ Chí Minh đòi hỏi, thực hành chí công vô tư là phải “kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi vì, chủ nghĩa cá
nhân là trái với chủ nghĩa tập thể, trái với đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ ra “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt,
nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra
hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi,
thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh, v.v...”. Tóm lại, chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng
ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu đậy. Nó
là một kẻ địch, bạn đồng minh của các kẻ địch khác.
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng,
về ý nghĩa cơ bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng trở thành một Đảng 21
văn minh hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là “một Đảng cách mạng chân chính”.
Điều này được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc.
Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến bộ
của dân tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu
cầu phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm trọng, mọi lợi
ích giai cấp đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc, mọi hoạt động của
Đảng đều phải phù hợp với quy luật vận động của xã hội Việt Nam.
Đảng phải luôn trong sạch , vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân
dân, dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự do,
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Hồ Chí
Minh càng chú trọng hơn việc phòng và chống các tiêu cực trong Đảng.
Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng
hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp, Đảng không phải là tổ
chức đứng trên dân tộc.
Đảng văn minh còn ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ chức
vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần
chúng, nhất là những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cho đến
đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiến sĩ tiên
phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động
không những vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển của các dân tộc trên thế giới. 22
Nếu Đảng không có đạo đức, văn minh thì Đảng sẽ bị mất chính quyền lãnh
đạo và khi đó Đảng chứng tỏ là một tổ chức không trong sạch, vững mạnh, đội ngũ
cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất. Đến mức như thế và đến lúc như thế thì mọi
thành quả của Cách mạng Việt Nam sẽ bị tiêu tàn đúng như cái logic tất yếu mà Hồ
Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa , nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”. Như vậy, xây dựng Đảng để cho Đảng xứng đáng là Đảng đạo đức,
văn minh là một nội dung sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam, là bước phát triển sáng tạo của Người so với lý luận của Lênin về đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản.
2.2. Đảng là người lãnh đạo, là đầy tớ của nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân là một luận điểm cách mạng, khoa học, là một đóng góp quan
trọng vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Luận điểm này
đã chỉ rõ vấn đề bản chất nhất trong mối quan hệ giữa một đảng cộng sản cầm
quyền với quần chúng nhân dân.
Đảng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân là tư tưởng nhất
quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, khẳng
định rõ vai trò đội tiên phong, bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Ngay từ khi
thành lập Đảng, Người đã chỉ rõ: Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và dựa vững vào
hạng dân cày nghèo. Đảng ra đời là vì lợi ích của nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng
là nhằm “lấy tài dân, sức dân để làm những công việc có lợi cho dân”, chứ không
phải vì lợi ích của người lãnh đạo. Với ý nghĩa như vậy, nên Đảng vừa là người 23
lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân. Đó cũng chính là lý do ra đời và tồn tại của Đảng.
Là người lãnh đạo, Đảng phải lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với Nhà nước, các
tổ chức đoàn thể xã hội và toàn thể nhân dân. Do vậy, Đảng phải có trách nhiệm
hoạch định đường lối đúng đắn, hợp quy luật, thuận lòng dân và đưa đường lối đó
vào nhân dân để giác ngộ, tập hợp, tổ chức nhân dân đứng lên đấu tranh giành độc
lập dân tộc và xây dựng xã hội mới-xã hội xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng phải
thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực sự là công bộc của nhân dân. Sự
nghiệp lãnh đạo của Đảng là vì dân, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, việc gì có
lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh;
mỗi cán bộ, đảng viên phải là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung,
chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ dân.
Đảng có trách nhiệm là người “đầy tớ’’ của dân. “Đầy tớ” ở đây không có nghĩa là
“tôi tớ, hay theo đuôi quần chúng” mà là tận tâm tận lực, phụng sự nhân dân nhằm
đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân. Bác nói “ việc gì có lợi cho nhân dân
phải làm cho kì được, việc gì có hại cho nhân dân thì phải hết sức tránh”. Đảng
phải tuyệt đối tin tưởng vào nhân dân (vì tài năng và trí tuệ của nhân dân vô cùng
to lớn), sức mạnh của nhân dân vô cùng to lớn “ phải lấy dân làm gốc”
Hồ Chí Minh đề cập “Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe
ý kiến của nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của
nhân dân. Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, trước hết là dân chủ trong nội bộ
Đảng, chống bạo biện, làm thay, phải thông qua chính quyền Nhà nước “của dân
do dân và vì dân”. Đảng phải lãnh đạo xây dựng luật pháp để quản lý ,điều hành xã
hội ,đồng thời thường xuyên coi trọng công tác giáo dục ,đào tạo bồi dưỡng cán bộ 24
viên chức Nhà nước. Phải kiểm tra nhằm phát huy vai trò tiên phong của cán bộ
đội ngũ giảng viên,cán bộ Đảng.Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Chế độ ta là chế
độ dân chủ,nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả
các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào
và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Vào Đảng là
để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ cách mạng. Vì vậy, Bác nhấn
mạnh: “Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu
rằng mình vào Đảng để làm đầy tớ cho nhân dân... Làm đầy tớ nhân dân chứ không
phải là “quan” nhân dân".
“ Người đầy tớ trung thành” là sự nhắc nhở và chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi
cán bộ Đảng viên trong mọi hoạt động của mình đều phải quan tâm thực sự đến lợi
ích của nhân dân, tận tụy với công việc, phải gương mẫu trước dân. Phải làm cho
dân tin, dân phục để dân hết lòng ủng hộ giúp đỡ.
“ Người đầy tớ trung thành” theo Hồ Chí Minh còn có nghĩa khác, đó là đòi hỏi
mỗi cán bộ Đảng viên phải có tri thức khoa học, trình độ chuyên môn giỏi nghiệp
vụ, thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng: “ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư”. Không chỉ nắm vững và thực hiện tốt quan điểm của Đảng mà còn biết tuyên
truyền vận động lôi cuốn quần chúng đi theo Đảng .
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
của nhân dân không hề có sự đối lập, mâu thuẫn mà ngược lại đó là sự gắn bó,
thống nhất chặt chẽ, không tách rời của một vấn đề, mặt này làm điều kiện, tiền đề
của mặt kia và phải làm tốt cả hai mặt thì đảng cộng sản mới hoàn thành được
trọng trách của mình. Người chỉ rõ, đảng viên, cán bộ muốn xứng đáng là người
lãnh đạo, thì: “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì 25
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những
người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. Phải tổ chức sự thi hành cho
đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong. Phải tổ chức sự
kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”.
Theo chỉ dẫn đó của Người, có thể thấy được hai mặt lãnh đạo và đầy tớ thống nhất
với nhau một cách tất yếu, hòa hợp trong một chủ thể duy nhất là Đảng. Vì Đảng
lãnh đạo mọi công việc của Nhà nước, của xã hội trước hết bằng nghị quyết, chủ
trương, đường lối. Muốn có chủ trương, đường lối đúng thì đường lối đó phải lấy
mục tiêu dân giàu, nước mạnh làm hệ quy chiếu nền tảng để xây dựng; lấy lợi ích
của quốc gia, dân tộc làm nguyên tắc bất biến. Đường lối đó phải lấy nhân dân làm
trung tâm, đáp ứng đúng nhu cầu của cuộc sống, những nguyện vọng chân chính
của nhân dân, được nhân dân tin theo và ủng hộ; ý Đảng phải chính là lòng dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng phải làm thế
nào để quyền lực không làm tha hóa, biến chất cán bộ, đảng viên của mình. Người
đã đề cập đến ba nguy cơ là tha hóa bản chất Cộng sản, đó là nguy cơ về sai lầm
đường lối, nguy cơ về chủ nghĩa cá nhân phát triển và nguy cơ xa dần, mất dần
quần chúng. Sự sai lầm về đường lối xuất phát từ sự thiếu vững vàng về chính trị,
không đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, thiếu tri thức lý luận. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, chủ nghĩa các nhân dễ có cơ hội phát triển đẻ ra nhiều
cái xấu, gây tác hại lớn làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến uy tín của Chính
phủ. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không
lường được đối với vận mệnh của đất nước. Mọi biểu hiện của bệnh quan liêu, xa
dân đều làm suy yếu Đảng, hơn nữa còn làm cho sự tồn tại của Đảng không còn ý nghĩa.
2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên 26
Bất cứ việc gì thì cũng cần quan tâm đến yếu tố con người và Hồ Chí Minh
cũng vậy. Bác đặc biệt coi trọng công tác cán bộ vì Người cho rằng: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích dân chúng hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”; cán bộ là gốc của công việc,
“muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Trong công tác
cán bộ, Bác yêu cầu: Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ, phải chú trọng huấn luyện
cán bộ, huấn luyện một cách thiết thực, có hiệu quả; phải đề bạt đúng cán bộ; phải
sắp xếp, sử dụng cán bộ cho đúng; phải kết hợp “cán bộ cấp trên phải đến và cán
bộ địa phương”; phải chống bệnh địa phương cục bộ; phải kết hợp cán bộ trẻ với
cán bộ cũ; phải phòng và chống các tiêu cực trong công tác cán bộ; phải thường
xuyên kiểm tra, giúp đỡ cán bộ.
Là người có tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lường trước
những căn bệnh khi Đảng cầm quyền: Kiêu ngạo cộng sản, công thần địa vị, tham
ô, lãng phí, hủ hóa, quan liêu xa rời quần chúng, trở thành những "ông quan cách
mạng" quay lại sách nhiễu, ức hiếp nhân dân và nhiều thói hư tật xấu khác. Thấu
hiểu mối nguy hại nảy sinh "bên trong Đảng", Người sớm cảnh báo, cần lãnh đạo,
chỉ đạo tích cực xây dựng, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng trong sáng, mẫu mực,
có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, am hiểu các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang gay go,
quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian viết Thư gửi các đồng chí Bắc
bộ (1-3-1947), viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10-1947), trong đó, Người đã
chỉ rõ những khuyết điểm của đội ngũ cán bộ, đảng viên như: Địa phương chủ
nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt, quan liêu, óc hẹp hòi, bệnh ham chuộng hình 27
thức, làm việc theo lối bàn giấy, thói vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa... đồng thời, Người
yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải tẩy sạch những căn bệnh đó.
Xuyên suốt toàn bộ tư tưởng, Người chủ trương xây dựng tư chất cán bộ,
đảng viên: Trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng, với nhân dân, luôn đặt
lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, sẵn sàng hy sinh thân
mình vì sự nghiệp cách mạng. Phải là những người nghiêm chỉnh thực hiện cương
lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng và các nguyên tắc xây
dựng Đảng. Nêu cao tính tiền phong gương mẫu, cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư. Nói đi đôi với làm, không nói một đằng làm một nẻo, lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ. Luôn khiêm tốn học hỏi nhân dân, gần gũi nhân dân, biết dựa vào dân,
chăm lo đến lợi ích của dân, tận tụy phục vụ nhân dân, phát huy quyền làm chủ của dân.
Trong công tác và trong cuộc sống hàng ngày luôn thực hiện đúng quan
điểm, đường lối quần chúng của Đảng, thắt chặt mối liên hệ mật thiết với nhân
dân, được quần chúng tín nhiệm. Không công thần địa vị, quan liêu mệnh lệnh, xa
rời quần chúng, cơ hội vụ lợi, tham ô, tham nhũng, hủ hóa, chủ quan tự mãn và
mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Cán bộ, đảng viên cần am hiểu lý luận Mác-
Lênin, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, ra sức
học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức về các lĩnh vực của
đời sống xã hội để tuyên truyền, vận động, giáo dục, giác ngộ cách mạng cho nhân
dân, lãnh đạo, tổ chức cho nhân dân thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Không tự kiêu, tự đại - tự cho mình là tài giỏi mà sinh ra
lười biếng, thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, không chịu học hỏi quần chúng mà
sinh ra thoái bộ: "Nếu có tính tự kiêu, thì dù tài giỏi vô cùng như ông Chu Công,
thì tài giỏi ấy cũng vất đi". 28
Bên cạnh đề ra yêu cầu xây dựng cán bộ, đảng viên, Người còn chỉ ra các
nội dung, biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, khẳng định rõ trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và của chính bản thân
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thứ nhất, phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ
Theo Hồ Chí Minh muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ,
“huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Theo Người, huấn luyện
cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học.
Cán bộ có cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể, cán bộ ở Trung ương,
địa phương và cơ sở... Huấn luyện cán bộ cũng phải có nội dung, kế hoạch phù hợp
với từng loại cán bộ trong những lĩnh vực cụ thể.
Theo Hồ Chí Minh, huấn luyện cán bộ là công việc thường xuyên, công phu,
lâu dài, cần phải kiên trì và bền bỉ mới có kết quả tốt. Bởi vì: “Không phải vài ba
tháng hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt... cần phải công tác,
đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được”.
Thứ hai, phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ
Đây là công việc hệ trọng và rất khó. Đánh giá đúng cán bộ là xác định
chính xác ai là cán bộ tốt, ai là cán bộ kém, ai mạnh ở chỗ nào, yếu ở chỗ nào, khả
năng hoàn thành công việc đến đâu, quan hệ với quần chúng ra sao... Trên cơ sở đó
mà bố trí, sử dụng, đề bạt đúng cán bộ. Muốn hiểu, đánh giá đúng cán bộ phải căn
cứ vào tiêu chuẩn cán bộ và tiêu chuẩn này phải luôn phù hợp với yêu cầu nhiệm
vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Đánh giá cán bộ phải công tâm, khách quan;
không đơn thuần theo bằng cấp, học vị, tuổi tác; không hẹp hòi, định kiến cá nhân. 29
Về phương pháp đánh giá, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặt cán bộ trong phạm
vi công tác và môi trường mà người cán bộ hoạt động. Kết hợp theo dõi thường
xuyên với đánh giá định kỳ. Phải kết hợp nhiều nguồn thông tin để phân tích, chọn
lọc một cách khách quan. Nhận xét, đánh giá công khai; đánh giá để giúp cán bộ
phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Để đánh
giá đúng cán bộ, người làm công tác cán bộ phải biết tự đánh giá chính mình.
“Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn với các hạng người, trước
hết phải sửa những khuyết điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem
xét cán bộ càng đúng”.
Thứ ba, phải khéo dùng cán bộ
Khéo dùng cán bộ thể hiện ở chỗ xếp người đúng việc, vì việc mà xếp
người. Người căn dặn: “Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to,
nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được”. Người phê bình: “Thường chúng ta
không biết tuỳ tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì
bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người
thì hai người đều thành công”.
Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở chỗ biết kết kợp các thế hệ cán bộ một
cách đúng đắn. Người dạy, trong đội ngũ cán bộ của Đảng có cán bộ già, có cán bộ
trẻ. Cán bộ già là vốn quý của Đảng, họ có kinh nghiệm về mặt lãnh đạo, được rèn
luyện, thử thách nhiều trong thực tế đấu tranh... Còn cán bộ trẻ tuy chưa có một số
ưu điểm như cán bộ già, nhưng họ lại hăng hái, nhạy cảm với cái mới, chịu khó
học tập, cho nên tiến bộ rất nhanh.
Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài
Đảng. Theo Người, bất kỳ ai, có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu của cách 30
mạng là phải dùng..., vì Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc.
Khéo dùng cán bộ là còn phải mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ có đủ tiêu
chuẩn và có triển vọng vào các cương vị lãnh đạo, quản lý.
Thứ tư, phải “có gan cất nhắc cán bộ”
Có gan tức là phải mạnh dạn. Sở dĩ Người nói như vậy vì chúng ta thường
hay “rụt rè” hoặc “quá khắt khe” trong việc đề bạt cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, có
gan cất nhắc cán bộ nghĩa là người cán bộ được cất nhắc có thể còn điểm yếu, song
phải biết được khuyết điểm của họ để sau khi cất nhắc tiếp tục giúp đỡ họ tiến bộ.
Có gan cất nhắc là không sợ người được cất nhắc sẽ vượt mình. Có gan không có
nghĩa là làm nóng vội, làm ẩu, làm liều, càng không vì danh lợi của mình mà cất
nhắc cán bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, vì tài năng,
vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy.
Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà
lại gây lên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng
bào”. Sau khi cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự
trọng của họ, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Người còn nhắc nhở: “Cất nhắc cán
bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ.
Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ
làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên, thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”.
Thứ năm, phải thương yêu, chăm sóc bảo vệ cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm là
đào tạo được một người cán bộ tốt, mà cần phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu 31
năm mới có được. Hơn nữa, trong đấu tranh, có rất nhiều thử thách, nguy cơ dẫn
đến mất cán bộ. Vì vậy, Đảng phải yêu thương cán bộ.
Nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu
là giúp họ học tập, tiến bộ thêm, là giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn...
Thương yêu là luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy khuyết điểm
thì giúp đỡ họ sửa chữa ngay, để vun trồng cái thói có gan phụ trách, cả gan làm
việc của họ. Đồng thời, phải nêu rõ những ưu điểm, những thành công của họ. Phải
vun đắp chí khí của họ, để đi đến chỗ “bại không nản, thắng cũng không kiêu”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc
thì có sai lầm. Vì vậy, đối với cán bộ mắc sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ
muốn như thế, mà công kích họ. Trái lại, khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục
để giúp họ sửa chữa, phải có thái độ thân thiết, giúp đỡ và động viên họ hăng hái tiến lên.
III. GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM
1. Giá trị của luận điểm
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống
quan điểm toàn diện, phong phú, một di sản quý báu. Luận điểm của người về
Đảng, về cán bộ đảng viên và về vai trò của nhân dân có giá trị lý luận và thực tiễn
đối với quá trình xây dựng và hoạt động của Đảng ta.
Về giá trị lý luận, từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh dạn, khoa học
trong kế thừa học thuyết Mác – Lênin vào thực tiễn đất nước, Hồ Chí Minh đã có
những luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ 32
nghĩa Mác – Lênin . Dựa vào sự sáng tạo đó, người đã vạch ra con đường đúng đắn
cho Đảng ta và cán bộ đảng viên.
Về giá trị thực tiễn, đến nay luận điểm của Bác về Đảng vẫn được áp dụng
trong sự nghiệp xây dựng Đảng về mọi mặt bao gồm: chính trị, tổ chức, tư tưởng và đạo đức.
Xây dựng Đảng về chính trị: Bác vạch ra con đường phát triển của Đảng
Cộng sản Việt Nam , đáp ứng được yêu cầu cơ bản, đảm bảo được sự phát
triển lâu dài và thích ứng được diễn biến phức tạp của tình hình đất nước sau
này, duy trì duy nhất một Đảng cầm quyền, Đảng có ai tò là người lãnh đạo của nhân dân.
Xây dựng Đảng về tư tưởng: Đảng là người lãnh đạo của nhân dân, để đảm
bảo phát triển được lâu dài phải thật trong sạch, cán bộ Đảng viên phải đảm
bảo được tư tưởng đạo đức tốt, thấm nhuần đạo đức cách mạng, đảm bảo công tác lý luận.
Xây dựng Đảng về tổ chức:ói đến Đảng là nói đến một tổ chức chặt chẽ.
Điều này liên quan đến năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến
đấu của Đảng.Điều quan trọng nhất là chất lượng đảng viên và đội ngũ cán
bộ các cấp. Bởi vì, Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta. Đảng lớn lên là do
mỗi chúng ta lớn lên. Đó là một khía cạnh rất quan trọng trong di sản Hồ
Chí Minh xây dựng Đảng về tổ chức. Điều có ý nghĩa nhất là chất lượng đảng viên.
Xây dựng về đạo đức: Xây dựng văn hóa chính trị, lõi cốt là văn hóa đảng,
xây đi đôi với chống, nói đi đôi với làm với quyết tâm chính trị cao, thật sự vì nước, vì dân. 33
1. Ý nghĩa của luận điểm
Luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng mang ý nghĩa lịch sử và giá
trị muôn đời. Người luôn nhấn mạnh những vấn đề cơ bản, về sự duy nhất của
Đảng cầm quyền, từ thực tiễn các nước xã hội chủ nghĩa khác, người vạch ra con
đường cho Đảng ta là chỉ “một Đảng cầm quyền”, người nhấn mạnh về sự quan
trọng của đạo đức cán bộ Đảng viên, cần kiệm, liêm chính, vì nhân dân, là người đầy tớ của nhân dân.
Lời căn dặn sâu sắc, đầy tính nhân văn của Người đã trở thành lẽ sống,
phương châm hành động, nền tảng tư tưởng và là cơ sở để Đảng tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn, làm trong sạch nội bộ, giữ vững niềm tin và
lòng kính trọng đối với nhân dân. Đồng thời, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn,
nâng cao năng lực lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng để thực hiện khát vọng
phát triển, đổi mới, sáng tạo, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu
nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nửa thế kỷ qua, Di chúc của
Hồ Chí Minh luôn đồng hành với Đảng, với
nhân dân, soi sáng cho cách mạng Việt Nam trên hành trình đấu tranh giành độc
lập dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong tiến trình lịch sử ấy, dưới ánh sáng
của Di chúc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng xây dựng và chỉnh đốn
Đảng; đặc biệt là chăm lo, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên, để họ thật sự xứng đáng là “người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành
của nhân dân”. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã luôn tiên phong,
gương mẫu, lãnh đạo nhân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc và hiện nay là đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng. 34
Thấm nhuần lời dạy của Người, trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt
Nam, nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên đã phấn đấu quên mình vì sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là người chiến sĩ cách mạng có phẩm
chất đạo đức trong sáng được quần chúng tin yêu, mến phục. Những cán bộ, đảng
viên đó đã lấy lời dạy của Bác làm phương châm hành động: “Trung với Đảng,
trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; sẵn sàng hiến
dâng đời mình cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
Trong Di chúc, Người căn dặn, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đặt lợi ích
của tập thể, đất nước lên trên lợi ích cá nhân, “chí công vô tư” là chuẩn mực đạo
đức cao nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu ở mỗi đảng viên, đồng thời còn là thước đo,
là tiêu chí để đánh giá phẩm chất cách mạng của người cán bộ, đảng viên trong các
giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển hiện nay.
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và
lãnh đạo; là đội tiên phong dũng cảm, là bộ tham mưu sáng suốt, là đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Tuy
nhiên, Đảng có huy động được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để làm nên chiến
thắng được hay không phần lớn phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực lãnh đạo của
Đảng, có “trong sạch, vững mạnh”, có “là đạo đức, là văn minh” hay không. Trong
sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, học tập và làm việc theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh, Đảng ta đang ngày càng trưởng thành và đóng vai trò quyết định đến việc
bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, đồng thời góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh 35
đạo của Đảng, vào con đường phát của đất nước. Vâ Œn dụng quan điểm của Hò Chí
Minh và chủ nghĩa Mác - Lenin vào quá trình đổi mới đất nước, Đảng cũng đã tự
rút ra những sai lầm và kinh nghiê Œm để từ đó sửa chữa, chỉnh đốn, thể hiê Œn sự
trưởng thành và lớn mạnh từng ngày. Điều này được thể hiê Œn cụ thể ở mô Œt số đại hô Œi nổi bâ Œt như:
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) là đại hôi Œkhởi xướng quyết
định đường lối đổi mới toàn diện, đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị
và sự lãnh đạo của Đảng, đánh dấu bước ngoă Œt phát triển mới trong thời kỳ
quá đô Œ lên chủ nghĩa xã hô Œi. Đồng thời, Đảng đã chỉ ra thành công, hạn chế,
khuyết điểm, nguyên nhân, bài học và chủ trường đổi mới đô Œi ngũ cán bô Œ,
đổi mới phong cách lãnh đạo và xây dựng Đảng ngang tầm mô Œt đảng cầm
quyền lãnh đạo toàn dân thực hiê Œn thắng lợi hai nhiê Œm vụ chiến lược.
Đến đại hôi Œ VII, Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá đô Œ lên chủ nghĩa xã hô Œi. Đai hô Œi được đánh giá là “Đại hô Œi của
trí tuê Œ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. Đảng cũng tiếp tục chủ
trương đổi mới hê Œ thống chính trị, với nguyên tắc là vâ Œn dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng trong sự nghiê Œp xây dựng và bảo vê Œ Tổ quốc.
Đại hôi Œ IX của Đảng (4-2001) là đại hô Œi của trí tuê Œ, dân chủ, đoàn kết, đổi
mới, thể hiê Œn ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của Đảng, toàn dân.
Đại hội xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 - 2010 là đưa nước ta “ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Đồng thời ra sức chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới. 36
Đại hô Œi XII, Đảng tiếp tục đề ra nhiê Œm vụ tăng cường xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 1. Thành tựu
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình
độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như
ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục
vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. 1.1. Kinh tế
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình
quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp
đôi, đạt 8,2%/năm; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm
2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19 nhưng tốc độ tăng
GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3
tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân
dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập
đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. 37
Môi trường đầu tư liên tục được cải thiện và phát triển. Năm 2019, vốn đầu
tư phát triển toàn xã đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020,
trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các
nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD.
Qua 35 năm đổi mới, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất
khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông
sản, như cà phê, gạo, rau quả, các sản phẩm từ gỗ.. luôn duy trì ở mức cao. Đặc
biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 khiến hoạt động
thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019;
xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016.
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ
đối tác chiến lược về kinh tế, đồng thời ký kết 15 hiệp định FTA khu vực và song
phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác, phủ rộng hầu hết các châu
lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có
15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt
Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á.
1.2. Văn hóa - Xã hội 38
Công tác giảm nghèo : Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng
trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con
người, tiến bộ và công bằng xã hội. Đất nước ta dần chuyển trọng tâm sang thiết
lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia
tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến
khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm
nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng.
Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005;
9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 .
Giáo dục : Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được
nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều
chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như:
Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau
Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm
đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
Y tế : Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Cơ sở
vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống
y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật
công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được
nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có COVID-19; chủ động sản xuất được nhiều
loại vắc-xin phòng bệnh, mới đây nhất là vắc-xin phòng COVID-19...
An sinh xã hội : Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được
Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Trong 25 năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội 39
đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Từ
năm 2003 đến 2018, ngành Bảo hiểm xã hội phối hợp với ngành Y tế đã đảm bảo
quyền lợi cho trên 1.748 triệu lượt người tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế,
bình quân mỗi năm có trên 109 triệu lượt người thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta,
khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được trong suốt thời
gian 35 năm đổi mới, nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và
còn những tồn tại, hạn chế nhất là trước ảnh hưởng của dịch COVID-19 đang tiếp
tục diễn biến phức tạp. 2.1. Kinh tế
Thiên tai đặc biệt là mưa lũ đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế nói chung
và các tỉnh miền Trung nói riêng. Theo Ủy ban phòng chống thiên tai, tính đến
ngày 22/10/2020 có hơn 6 nghìn con gia súc, 741 nghìn con gia cầm bị chết và
cuốn trôi, làm hàng nghìn ha lúa, hoa màu bị ngập, hư hại. Đồng thời, mưa lũ cũng
đã ảnh hưởng tới nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi thủy sản lồng bè và khai thác
thủy sản biển, cụ thể sản lượng cá tra –trong tháng 10 giảm 14,6% so với cùng kỳ
năm trước, sản lượng tôm sú trong tháng cũng giảm tới 16,3% do diện tích thu
hoạch ở một số tỉnh giảm nhiều như Sóc Trăng giảm 23%, Bến Tre giảm 7%. 40
Tăng trưởng của công nghiệp chế biến, chế tạo hiện nay phụ thuộc nhiều vào
ngành sản xuất điện tử, máy tính, điện thoại và linh kiện điện thoại, trong khi nhiều
ngành mũi nhọn khác vẫn tiếp tục tăng trưởng âm như: Chỉ số sản xuất công
nghiệp 10 tháng năm 2020 của ngành sản xuất trang phục giảm 4,8%; sản xuất da
và các sản phẩm có liên quan giảm 3,8%; sản xuất xe máy giảm 10%; dệt giảm
0,5%; sản xuất ô tô giảm 10,8%; sản xuất đồ uống giảm 5,3%.
Hiệp định EVFTA bắt đầu có hiệu lực từ tháng 8/2020 nhưng chưa thể hiện
được rõ vai trò tác động tích cực. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sang EU tháng 9
giảm 5,6% so với tháng 8, sang tháng 10 tiếp tục giảm 0,1% so với tháng 9. Đối
với kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ EU vào Việt Nam, do hưởng ưu đãi thuế
quan nên giá hàng hóa nhập khẩu thấp hơn nhưng tháng 8 đạt 1,28 tỷ USD, tăng
14,4% so với tháng trước, sang tháng 9 giảm 5,9% và tháng 10 tăng trở lại 3,6%.
Đầu tư công đạt được kết quả tích cực nhưng do quy mô kế hoạch đầu tư
năm nay lớn hơn so với năm 2019 nên cho đến nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn
ngân sách Nhà nước bằng 69,8% kế hoạch năm (cùng kỳ năm 2019 bằng 68,8%),
trong đó vốn Trung ương quản lý bằng 67,7% và vốn địa phương quản lý bằng 70,3%.
2.2. Văn hóa - Xã hội
Công tác giảm nghèo : Kết quả giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, miền núi
chưa thực sự bền vững, chất lượng giảm nghèo chưa cao: Hộ nghèo dân tộc thiểu
số chiếm tỷ lệ cao so với tổng số hộ nghèo cả nước (52,66%) và chiếm tỷ lệ
27,55% so với tổng số hộ dân tộc thiểu số; tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số tái nghèo, phát
sinh nghèo, cận nghèo đều cao hơn tỷ lệ chung cả nước. Thu nhập bình quân đầu 41
người thấp; các chỉ số thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo dân tộc
thiểu số còn ở mức cao, nhất là thiếu hụt về chất lượng nhà ở, diện tích nhà ở, nhà
tiêu hợp vệ sinh, nước sinh hoạt.
Giáo dục : Công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục thể
chất cho học sinh còn hạn chế; cá biệt có một số giáo viên, học sinh có hành vi ứng
xử thiếu văn hóa gây mất niềm tin của cha mẹ học sinh, bức xúc trong xã hội. Tình
trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, trong đó có
một số địa phương để xảy ra những sai phạm nghiêm trọng trong công tác tuyển
dụng, sử dụng giáo viên. Tình trạng lạm thu đầu năm học trong các cơ sở giáo dục
còn diễn ra ở nhiều địa phương. Đổi mới chương trình, sách giáo khoa chưa đạt tiến độ đề ra. 2.3. An sinh xã hội:
Trên thực tế nhiều vấn đề về ASXH vẫn chỉ dừng lại ở tư tưởng chính sách,
chưa được quán triệt một cách sâu sắc trong hoạch định chiến lược, cũng như từng
chính sách ASXH cụ thể. Chính sách ASXH được ban hành rất nhiều (hơn 50 loại
chính sách), nhưng thiếu tính hệ thống, chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết và hỗ trợ
nhau. Hệ thống cơ chế, chính sách và luật pháp ASXH không sát với thực tế nên
khó thực hiện, đồng thời nhiều quy định đến nay không còn phù hợp hoặc chưa mở
rộng đến toàn thể dân cư, nhất là dân cư vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa; chưa
bổ sung kịp thời các chính sách mới để đảm bảo ổn định cuộc sống và an sinh cho người dân.
3.Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
Đứng trước công tác tư tưởng có mặt còn hạn chế, thiếu kịp thời, tính thuyết
phục chưa cao; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình
trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", 42
"tự chuyển hóa" trong nội bộ còn diễn biến phức tạp… trong phương hướng,
nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII đặc biệt chú trọng công
tác xây dựng Đảng và chỉ rõ: “Trong những năm tới, phải đặc biệt coi trọng và đẩy
mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
tổ chức và cán bộ", trong đó xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức là
"nền tảng", là "linh hồn" góp phần quan trọng làm cho Đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
3.1.Mục tiêu phát triển
Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức
mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng
hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm
thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung
bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. 43
3.2.Phương hướng, nhiệm vụ
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đến năm 2025, năm 2030 và đến năm
2045, Đại hội XIII của Đảng đã đồng thời đề ra những phương hướng và nhiệm vụ
phát triển, cụ thể là 03 đột phá chiến lược và 06 nhiệm vụ trọng tâm
a, 03 đột phá chiến lược
Thứ nhất: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia
theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có
chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập
môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần
kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát,
kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.
Thứ hai: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;
ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực
then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về
chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài,
đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công
nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết,
tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế
và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, 44
thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông,
tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
b, 06 nhiệm vụ trọng tâm
Một là: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững
mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích
nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Xây dựng
đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ
phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của
nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Tập trung kiểm soát đại dịch COVID-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin
COVID-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế
phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển
đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất, kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp
trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ,
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền
vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và
giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước. 45
Ba là: Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây
dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn
đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình,
ổn định để phát triển đất nước.
Bốn là: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát
huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào
dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh
con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
Năm là: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm
phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng
thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững
mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết
là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp
uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã
hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc. 46
Sáu là: Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo
vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với
biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt. 4. Thực tiễn
4.1. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành công của Đại hội XIII:
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đề nghị ngay sau Đại hội,
các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung làm tốt việc phổ biến, tuyên truyền sâu rộng
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về kết quả Đại hội; nghiên cứu, quán triệt sâu
sắc Nghị quyết và các văn kiện Đại hội; khẩn trương xây dựng, triển khai chương
trình, kế hoạch hành động, phát động phong trào thi đua yêu nước sâu rộng, tinh
thần đổi mới sáng tạo, vượt qua khó khăn, thách thức để sớm đưa Nghị quyết Đại
hội vào cuộc sống. Biến những quyết định quan trọng của Đại hội thành hiện thực
sinh động, đưa nghị quyết vào cuộc sống, làm ra của cải vật chất, mang lại cuộc
sống hạnh phúc cho nhân dân. Tổng Bí thư nhấn mạnh, đại hội biểu thị sự thống
nhất ý chí và quyết tâm hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong thời
kỳ mới, thực hiện bằng được mục tiêu phát triển tổng quát đã nêu trong Báo cáo
chính trị. Đại hội đã thảo luận và thông qua những chủ trương, quyết sách quan
trọng để định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, toàn diện quá trình triển khai
tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước nhanh, bền vững,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự thành công của Đại hội XIII là minh chứng cho nỗ
lực của Đảng để là người lãnh đạo mẫu mực của nhân dân, là đầy tớ trung thành
của nhân dân, được nhân dân tin tưởng.
4.2. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành công của cuộc bầu cử Đại biểu quốc
hội khóa XV và Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kì 2021-2026
Vừa qua, Đại hội Đảng đã diễn ra thành công tốt đẹp. Ngày 23-5-2021 ghi
một dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước. Trên 69 triệu cử 47
tri đã thực hiện quyền và nghĩa vụ thiêng liêng, bỏ phiếu bầu những người đại diện
cho mình tại Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-
2026. Không khí Ngày Bầu cử thực sự là ngày hội lớn của toàn dân. Con số
99,16% cử tri đi bầu cử là minh chứng cụ thể những điều này. Để có được kết quả
này, ngay từ rất sớm, Hội đồng Bầu cử Quốc gia, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, các bộ, ngành liên quan, cơ quan chức năng như Văn phòng Hội đồng Bầu cử
Quốc gia, Bộ Nội vụ và cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã tập
trung nỗ lực cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện cuộc
bầu cử. Việc triển khai thực hiện rất cụ thể, chi tiết, tích cực của các địa phương,
đơn vị và các Tổ Bầu cử cũng như sự hưởng ứng tích cực, đồng thuận, thống nhất,
đoàn kết của người dân đã góp phần làm nên thành công của cuộc bầu cử. Có thể
khẳng định, làm nên những kết quả rất đáng trân trọng, tự hào này chính là sự đồng
tâm, hiệp lực, sự đoàn kết, ủng hộ của toàn dân, ý thức và trách nhiệm cao trong
thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân cũng như tuân thủ nghiêm túc các quy định
về phòng, chống dịch COVID-19. Đại đoàn kết toàn dân, chính là cội nguồn sức
mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam - bài học kinh nghiệm này đã được đúc rút
qua lịch sử phát triển của đất nước và tiếp tục phát huy, tỏa sáng trong cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-
2026. Chính sự quyết tâm, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã làm
nên một kỳ bầu cử thành công trên nhiều lĩnh vực. Qua đó đã thể hiện lòng tin của
dân với Đảng nhà nước.
4.3.Vai trò của Đảng thể hiện qua nỗ lực chống dịch và tiêm phòng vacxin cho nhân dân
Năm 2020, dư luận quốc tế đã đánh giá rất cao công tác phòng, chống đại
dịch Covid-19 tại Việt Nam, ngay cả những ngày đầu năm 2021, mặc dù tại một số
địa phương lại xuất hiện những ca nhiễm Covid-19 mới, nhưng các chuyên gia,
học giả và truyền thông quốc tế vẫn bày tỏ tin tưởng về vai trò lãnh đạo Đảng và 48
tin rằng, Việt Nam sẽ tiếp tục vượt qua được đại dịch, gặt hái thành công trong
trạng thái “bình thường mới”. Trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh Thủ
tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 và các bên
liên quan đã thường xuyên chỉ đạo sát sao, quyết liệt, chủ động, kịp thời thực hiện
các biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt để phòng, chống, ngăn chặn dịch bệnh. Tư
tưởng nhất quán, xuyên suốt "chống dịch như chống giặc", kiên định thực hiện
mục tiêu kép phòng, chống dịch hiệu quả đồng thời phát triển kinh tế, chăm lo đời
sống, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, đã huy động được sự vào cuộc của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân. Ngay đầu tháng 6/2021, Quỹ vắc-xin phòng, chống dịch
Covid-19 đã chính thức ra mắt với sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Phạm
Minh Chính và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Tính đến ngày 20/7/2021, tổng cộng số tiền đã chuyển vào Quỹ vắc-xin
phòng, chống dịch Covid-19 hơn 8 tỷ đồng. Điều đó đã thể hiện Đảng là người đầy
tớ trung thành của nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân, mong muốn đem lại cuộc
sống tốt đẹp nhất cho nhân dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Mạch Quang Thắng chủ biên biên soạn
2. https://tinhdoanqnam.vn/news/kien-thuc-ky-nang/cach-mang-thang-muoi-
nga-moc-moi-trong-lich-su-cua-nhan-loai-2426.html
3. https://hochiminh.vn/book/tac-pham-ve-ho-chi-minh/tac-pham-tr ong-
nuoc/phan-i-tutuong-ho-chi-minh-ve-dao-duc-334 49 4. http://www
.xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien-
Kinhnghiem/2010/2247/Dang-ta-la-van-minh.aspx 5. http://www
.dankinhte.vn/nhung-han-che-cua-viec-thuc-hien-cong-tac-an-sinh- xa-hoi/
6. Thiếu tướng, PGS.TS, NGƯT Nguyễn Văn Thế Giá trị và ý nghĩa tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh qua Di chúc, Cổng thông tin điện tử Nhà
văn hóa Thanh niên TP. Hồ Chí Minh, https://nvhtn.org.vn/gia-tri-va-y-nghia-
tu-tuong-dao-duc-phong-cach-ho-chi-minh-qua-di-chuc/
7. PGS.TS Bùi Đình Phong, Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
vào xây dựng Đảng hiện nay, http://dukcqtw.dcs.vn/van-dung-sang-tao-tu-
tuong-ho-chi-minh-ve-dang-vao-xay-dung-dang-hien-nay-duk5816.aspx 50