-
Thông tin
-
Quiz
Chương 4 kế hoạch sản xuất sản phẩm 2 môn Lập kế hoạch doanh nghiệp | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Đối với mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng ổn định hoặc mặt hàng thiếtyếu (ví dụ như xi măng, sắt, gạo, xà phòng, dầu gội, …) có đặc điểm là nhiều người tiêu dùng nhưng lại bị cạnh tranh gay gắt do nhiều đơn vị cung ứng nên căn cứ quan trọng nhất là phân tích tình hình tiêu thụ năm trước.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lập kế hoạch doanh nghiệp (HVNN) 95 tài liệu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.6 K tài liệu
Chương 4 kế hoạch sản xuất sản phẩm 2 môn Lập kế hoạch doanh nghiệp | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Đối với mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng ổn định hoặc mặt hàng thiếtyếu (ví dụ như xi măng, sắt, gạo, xà phòng, dầu gội, …) có đặc điểm là nhiều người tiêu dùng nhưng lại bị cạnh tranh gay gắt do nhiều đơn vị cung ứng nên căn cứ quan trọng nhất là phân tích tình hình tiêu thụ năm trước.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lập kế hoạch doanh nghiệp (HVNN) 95 tài liệu
Trường: Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:


Tài liệu khác của Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Preview text:
lOMoAR cPSD| 32573545
Chương 4 KẾ HOẠCH SẢN XUẤT SẢN PHẨM 2
4.2. CĂN CỨ ĐỂ LẬP KẾ HOẠCH SẢN XUẤT SẢN PHẨM
4.2.1. Những căn cứ chủ yếu - Chiến lược kinh doanh
- Tình hình tiêu thụ sản phẩm/dịch vụ năm trước, kỳ trước
- Đơn đặt hàng hoặc hợp đồng đã ký
- Chu kỳ sống của sản phẩm và xu hướng thay đổi của nhu cầu
- Quan hệ cung cầu trên thị trường
- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
4.2.2. Lưu ý khi sử dụng các căn cứ trong lập kế hoạch sản xuất sản phẩm
* Lưu ý: Tuỳ thuộc vào ngành hàng, thị trường tiêu thụ (trong nước hay xuất
khẩu), đặc điểm của doanh nghiệp, …mà các căn cứ trên có vị trí khác nhau.
- Đối với mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng ổn định hoặc mặt hàng thiết yếu (ví dụ
như xi măng, sắt, gạo, xà phòng, dầu gội, …) có đặc điểm là nhiều người tiêu
dùng nhưng lại bị cạnh tranh gay gắt do nhiều đơn vị cung ứng nên căn cứ
quan trọng nhất là phân tích tình hình tiêu thụ năm trước.
- Đối với mặt hàng xuất khẩu, doanh nghiệp nên dựa vào đơn đặt hàng và hợp
đồng đã ký làm căn cứ quan trọng nhất. Bởi vì hàng xuất khẩu có thể sẽ không
tiêu thụ được trong nước do mẫu mã, thị hiếu, giá cả hàng hoá không phù hợp với người Việt Nam.
- Đối với mặt hàng có chu kỳ sống ngắn, hay thay đổi mốt như quần áo, mũ,
khăn, sứ vệ sinh, đồ gốm sứ, ... thì việc lập kế hoạch sản xuất cần phụ thuộc
nhiều vào việc nghiên cứu xem sản phẩm đang ở giai đoạn nào, đồng thời dự
đoán xu hướng thay đổi của thị hiếu. Chẳng hạn, một loại khăn quàng phụ nữ
đã sản xuất và tiêu thụ được 2 năm, liệu năm thứ ba có nên sản xuất tiếp mẫu
mã chất liệu như vậy nữa không còn phải dựa vào việc nghiên cứu chu kỳ sống
và dự đoán xu hướng thay đổi của thị hiếu để lập kế hoạch, chứ không phải
dựa vào số tiêu thụ của năm trước. Cho dù năm trước số lượng tiêu thụ cao
nhưng có thể đã ở giai đoạn bão hoà và năm sau bước sang giai đoạn suy thoái,
không thể tiêu thụ được nhiều nữa thì có thể sản xuất ít hơn hoặc chỉ sản xuất
đúng bằng số lượng đơn đặt hàng đã có. lOMoAR cPSD| 32573545
- Đối với mặt hàng xa xỉ (máy điều hoà, đồ gỗ cao cấp, ...) khi lập kế hoạch nên
nghiên cứu kỹ quan hệ cung cầu. Nếu không, tiêu thụ chậm, tồn kho lớn sẽ
giảm hiệu quả kinh doanh nhiều.
- Năng lực sản xuất là căn cứ không thể bỏ qua với mọi doanh nghiệp
* Ví dụ minh hoạ Công ty xi măng A lập kế hoạch sản xuất xi măng đen năm 2010, có các căn cứ sau
- Mức tiêu thụ 2 năm gần đây nhất khoảng 100.000 tấn/năm
- Đơn đặt hàng đến hết 31/12/2009: 30.000 tấn/năm
- Năng lực sản xuất của công ty: 120.000 tấn/năm
- Ngành xi măng có rất nhiều người bán và người mua nên khó xác định được
lượng hàng có thể tiêu thụ ngoài đơn đặt hàng. Ngoài ra, xi măng là mặt hàng
được đánh giá là có nhu cầu tiêu dùng khá ổn định, năm tới sẽ vẫn tiêu thụ bình thường.
- Công ty xi măng cùng khu vực gặp sự cố, có thể giảm 30.000 tấn ở Quí 1 và 2 năm 2010.
- Trên địa bàn sẽ khởi công 3 khách sạn lớn trong năm 2010
Với các căn cứ trên và phân tích tổng hợp ta thấy, xi măng thuộc hàng tiêu dùng
khá ổn định nên tình hình tiêu thụ năm trước là căn cứ quan trọng nhất. Bên
cạnh đó, do cầu tăng đột biến (xây khách sạn) và cung giảm (đối thủ gặp sự cố)
nên công ty có thể tăng lượng tiêu thụ nhưng không vượt quá năng lực sản xuất.
Như vậy, nếu không có hàng tồn kho và dự trữ thì công ty có thể lập kế hoạch
sản xuất 120.000 tấn là hợp lý. Qua ví dụ trên cho thấy, một trong những căn cứ
quan trọng mà các doanh nghiệp đều phải xem xét khi lập kế hoạch sản xuất là
năng lực sản xuất của chính doanh nghiệp. Vì năng lực sản xuất của doanh
nghiệp là đại lượng động, thay đổi hàng năm khi có sự thay đổi của điều kiện
sản xuất nên doanh nghiệp phải soát lại năng lực của mình trước khi lập kế
hoạch sản xuất sản phẩm. Nếu không nắm vững năng lực sản xuất của mình,
doanh nghiệp không có cơ sở ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến khó
khăn cho khâu thực hiện hợp đồng hoặc giảm uy tín do lỡ hợp đồng với khách
hàng về số lượng hay tiến độ. Vì vậy, phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu về
phương pháp xác định năng lực sản xuất của doanh nghiệp.