lOMoARcPSD| 58737056
CHƯƠNG 6: HỌC THUYẾT KINH TẾ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG TƯNG
6.1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của kinh tế ch nghĩa xã hội không
ng
6.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Kinh tế chính chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời trong bối cảnh chế độ phong kiến
đang dần suy tàn và chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này,
giai cấp công nhân xuất hiện và trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu. Tuy nhiên, họ lại
bị áp bức, bóc lột nặng nới chế độ tư bản chủ nghĩa.
a.Tiền đề về kinh tế
Năm 1848 cách mạng tư sản Pháp thành công; cuộc cách mạng công nghiệp phát triển
mạnh mẽ ở các nước Tây Âu vào thế kỷ XVIII đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Máy móc công nghiệp được cải tiến và chế tạo ngày một tăng lên và hoàn thiện hơn,
làm cho năng suất lao động tăng nhanh chưa từng có. Lao động thủ công được thay thế
dần bằng máy móc.
Chủ nghĩa tư bản bộc lộ rõ tính chất phản động, những mặt trái của nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa như khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, …
b. Tiền đề về chính trị - xã hội
Khi lực lượng sản xuất phát triển làm cho xã hội phân chia thành giai cấp rõ rệt: Bao
gồm giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giai cấp tư sản tăng cường bóc lột giai cấp công
nhân. Do đó xuất hiện đấu tranh giai cấp, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ
được chuyển dần từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác (có ý thức và có tổ chc
hơn) nhưng vào đầu thế kỷ XIX phong trào còn chưa mạnh mẽ và rộng khắp.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nước Anh và Pháp đã liên tiếp diễn ra những cuộc biến
động về chính trị (bãi công, đình công). Biểu hiện ở cuộc đấu tranh giữa hai thế lực
phong kiến, tư sản tự do và dân chủ cách mạng. Trong cuộc đấu tranh này đã dần dần
làm thức tỉnh giai cấp công nhân phải có một tổ chức tiên phong dẫn đường chỉ đạo
chống lại giai cấp tư sản. Chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời.
6.1.2 Đặc điểm chung của kinh tế chính trị chủ nghĩa xã hội không tưởng a.
Đặc điểm chung
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là học thuyết kinh tế th hiện sự phản kháng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chống lại chế độ tư bản chủ nghĩa và tìm đường xây
dựng xã hội mới tốt đẹp hơn.
Đặc điểm chung nổi bật là phê phán chủ nghĩa tư bản xuất phát từ lợi ích của sản xuất
và theo quan điểm kinh tế chứ không theo quan điểm đạo đức, luận lý. Chỉ rõ chủ nghĩa
tư bản là một giai đoạn phát triển của lịch sử, nhưng chưa phải là chế độ xã hội tốt đp
nht của loài người. Vạch rõ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, sự kìm hãm lực lượng
sản xuất phát triển và cần phải thay thế bằng xã hội mới.
Tuy nhiên con đường họ đề xuất xây dựng xã hội mới có tính chất không tưởng (chỉ
dừng lại ở tính ước muốn, không có cơ sở khoa học để thc hiện, đặc biệt chưa thấy
vai trò của giai cấp công nhân).
Về chế độ sở hữu, cơ sở của những quan hệ kinh tế cơ bản, các nhà kinh tế xã hội chủ
nghĩa không tưởng chưa hoàn toàn nhất trí với nhau, người thì cho rằng còn duy trì chế
độ tư hữu, người cho rằng phải xóa bỏ và thay vào đó là chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất.
lOMoARcPSD| 58737056
b. Những đại biểu điển hình Saint Simon (1760 – 1825)
Là nhà văn Pháp nổi tiếng, có kiến thức sâu rộng. Ông sinh ra trong một gia đình quý
tộc giàu có ở Pháp, được hưởng mọi sự giáo dục đầy đủ và có hệ thống. Ông đã từng
tham gia cuộc chiến tranh ở Bắc Mỹ, được phong quân hàm đại tá.
Ông đã viết nhiều tác phẩm: “Khái niệm về khoa học và con người” (1813); “Những bức
thư gửi một người Mỹ” (1817); “Quan điểm về sở hữu và pháp chế” (1818); “Bàn về hệ
thống công nghiệp” (1821); “Cẩm nang của nhà công nghiệp” (1823)Charles
Fourier (1772 – 18320)
Là người Pháp, xuất thân trong một gia đình thương nhân buôn bán. Ông trực tiếp
chứng kiến sự lừa bip, tước đoạt lẫn nhau giữa các thương nhân, nên ông căm ghét
nghề buôn bán. Do đó thúc đẩy ông nghiên cứu xã hội.
Ông viết nhiều tác phẩm: "Sự hòa hợp toàn thế gii" (1803); "Lý thuyết về bốn giai đoạn
và những số phận chung" (1808); "Lý thuyết về hiệp hội gia đình và công nghiệp"
(1822); "Thế giới kinh tế mới xã hội chủ nghĩa" (1829)…
Robert Owen (1771 – 1858)
Ông xuất thân từ một gia đình thợ thủ công ở ớc Anh. Ông sống tự lập từ nhỏ, năm
1799 ông mua một xưởng kéo sợi, bắt đầu từ đây ông bắt đầu snghiệp của một nhà
cải cách xã hội chủ nghĩa không tưởng. Ông đã biến xưởng máy của mình thành nơi thu
hút những người nghèo khổ, không việc làm. Làm việc ở đây, ngày lao động chỉ có 10
gi, cấm lao động trẻ em dưới 9 tuổi, xây dựng nhà ở cho công nhân, lập các nhà trẻ,
trường học kiểu mẫu…
Các tác phẩm của ông: “Những nhận xét về ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp”;
“Báo cáo về giảm nhẹ tình cảnh của công nhân công nghiệp và nông nghiệp”; “Báo cáo
về kế hoạch giảm bớt tai họa xã hội”; “Lời kêu gọi của Đại hội các hợp tác xã của nước
Anh”; “Thế giới đạo đức mới”.
Kết luận:
Kinh tế chính chủ nghĩa xã hội không tưởng là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển
của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Nó đã góp phần thức tỉnh giai cấp công nhân và thúc đẩy phong
trào đấu tranh của họ. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội không tưởng vẫn còn những hạn chế do tính
không tưởng và chưa có cơ sở khoa học.
6.2. Những nội dung cơ bản của học thuyết kinh tế chủ nghĩa
xã hội không tưng
6.2.1. Quan điểm kinh tế của Saint Simon
- Quan điểm lịch s
.Ông khẳng định lịch sử là sự thay thế lẫn nhau giữa các giai đoạn khác nhau, song lại
gắn bó quá trình với nhận thức của con người.
.Ông thừa nhận sự phát triển của xã hội theo những quy luật thay thế tất yếu khách
quan của một xã hội phát triển cao hơn đối với một xã hội phát triển thấp hơn. .Hạn chế:
Ông không phân tích đúng động lực thực sự của tiến bộ xã hội
- Phê phán chủ nghĩa tư bản:
Ngay trong tác phẩm đầu tiên Những bức thư từ Geneve (1803) gửi những người cùng
thời, ông cho rằng xã hội đương thời chia ra làm ba giai cấp:
lOMoARcPSD| 58737056
Giai cấp thứ nhất: gồm các nhà khoa học, nghệ sĩ và tất cả những người tán thành tư
ởng tự do
Giai cấp thứ hai: gồm tất cả những người sở hữu không thuộc giai cấp thnhất
Giai cấp thứ ba: gồm sngười còn lại có tư tưởng bình đẳng
Về sau quan điểm đó được diễn đạt rõ ràng hơn trước Cách mạng dân tộc được chia
làm 3 giai cấp, cụ thể:
Quý tộc
Nhà tư tưởng
Nhà công nghiệp: giai cấp này được Saint Simon đề cập trong nhiều tác phẩm, ông cho
rằng giai cấp những nhà công nghiệp được hình thành từ thời kỳ trung cổ vào địa vị địa
vị nô lệ, nhưng hiện nay đã đủ sức dành toàn bộ chính quyền, công nghiệp của các nhà
công nghiệp là trung tâm và là khởi nguyên thực sự của nền văn minh, giai cấp này giữ
địa vị hàng đầu vì nó quan trọng hơn tất c, không có các giai cấp khác thì nó vẫn sống,
còn nếu như không có nó thì không có giai cấp nào sống được. Tóm lại giai cấp nhng
nhà công nghiệp là giai cấp có trí tuệ và chỉ có nó mới có năng lực quản lý đất nước.
=> Lúc đầu Saint Simon quan niệm giai cấp những nhà công nghiệp như một khái niệm tổng
quát bao gồm tất cả những người lao động có ích thì về sau tiến thêm một bước, ông đã chú ý
đến sự khác biệt và mâu thuẫn nội bộ giai cấp giữa những nhà công nghiệp. Trong giai cấp đó,
ông phân biệt một bên là giai cấp ít ỏi những người sở hữu, và bên kia là đông đảo những
người không có của, và ông cho rằng cuộc đấu tranh giữa những người không có của và
những người sở hữu là điều không tránh khỏi.
Vào những năm cuối cuộc đời mình ông thể hiện một ý niệm cho rằng: cơ sở của xã hội không
phải là các nhà công nghiệp nói chung mà là giai cấp những công nhân làm lao động thủ công.
Tiếp theo truyền thống của những nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa khác, Saint Simon
theo dõi cuộc đấu tranh giữa các tầng lớp nhân dân bị áp bức và không có của với những kẻ
sở hữu trong tất cả các giai đoạn chủ yếu của lịch sử. Cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô,
bình dân và quý tộc, nông nô và phong kiến. Ông cho rằng các giai cấp xuất hiện là do s
chiếm đoạt. Với tác phẩm cuối cùng Đạo Cơ đốc mới, Saint Simon mới trực tiếp biểu hiện ra là
người phát ngôn của giai cấp cần lao và ông mới tuyên bố rằng giải phóng giai cấp cần lao là
mục đích cuối cùng của những nỗ lực của ông.
- Dự án về cải tạo xã hội tương lai:
*) Saint Simon có thái độ phê phán đối với Cách mạng tư sản Pháp, ông cho rằng cuộc
cách mạng ấy chưa thiết lập được một chế độ phù hợp với quyền lợi của của giai cấp nghèo
khổ nhất và đông đảo nhất. Do đó cần có và sẽ có một cuộc cách mạng mới thay đổi xã hội
theo hướng bảo đảm lợi ích cho xã hội.
.Chế độ tương lai được ông gọi là hệ thống công nghiệp mới trong đó sẽ thc hiện nguyên
tắc “mỗi người làm theo năng lực, mỗi năng lực sđược trả công theo lao động”.
.Theo ông sẽ không có bóc lột lẫn nhau nữa, ( Tt:Thay vào đó là sự “bóc lột” thế giới tự
nhiên, “bóc lột” vật phẩm, người thống trị sẽ được thay thế bằng sự thống trị của người đối với
tự nhiên.)
.Theo ông, trong xã hội tương lai sẽ không còn nhà nước( Tt:chính quyền sẽ được chuyển
vào tay các nhà công nghiệp và các nhà bác học.)
Học thuyết của Saint Simon có tính chất hoang đường vì ông thường dựa vào tôn giáo mới,
còn các nhà bác học Thượng đế linh thiêng. (Tt:Saint Simon nói rằng: Nếu nước Pháp đột
nhiên mất đi 50 nhà vật lý giỏi, 50 nhà bác học giỏi, 50 nhà sinh vật hc giỏi, 500 nông dân
lOMoARcPSD| 58737056
giỏi... quốc gia sẽ đại họa và trở thành cái xác không hồn. Nhưng nếu nước Pháp mất hết
những nhà hoàng tộc, tất c những nhà quý phái thượng thư, tất cả những thẩm phán và nhân
viên cao cấp, tham chính viên, tất cả các thống chế, tất cả các nhân viên cán bộ và 10000 địa
chủ giàu có nhất... thì quốc gia sẽ không thiệt hại gì.)
Và chúng ta biết rằng tư tưởng của Saint Simon về xã hội mới, tư tưởng của ông về xã
hội chủ nghĩa, mặc dù còn có những điểm còn hạn chế, tức là mang tính không tưởng nhưng
những giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng của Saint Simon đã được Mác và Ăngghen kế
thừa có chọn lọc và chứng minh nó trên cơ sở khoa học. Và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp, trong đó đặc biệt là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Saint Simon chính là một trong ba
nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của Chủ nghĩa Mác. Và trong đó, chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp là tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của nghĩa xã hội khoa học.
6.2.2. Quan điểm kinh tế của Charles Fourier
a. Lý thuyết về sự phát triển xã hội
- Charles Fourier cho rằng xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn phát triển, từ thp đến
cao, là mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Charles Fourier cho rằng xã hội
loài người sẽ tiến hóa từ tư bản chủ nghĩa sang một xã hội không còn giai cấp, không
còn áp bức bóc lột, và mọi người đều được hưởng hạnh phúc.
b. Phê phán chủ nghĩa tư bản:
· Charles Fourier phê phán chủ nghĩa tư bản trên các mặt sau:
- Lao động: Fourier cho rằng chủ nghĩa tư bản là một xã hội phung phí lao động, dẫn đến
hình thành đội quân lớn những người không sản xuất. Ông cho rằng chỉ có lao động
thực tế cần thiết cho xã hội mới là lao động sản xuất.
- Sự bất công: Fourier cho rằng nguồn gốc của sự đau khổ trong xã hội tư bản là thương
nghiệp tư bản chủ nghĩa. Ông cho rằng thương nghiệp là một hoạt động ăn căp, nói dối,
lừa đảo, đầu cơ nâng giá.
- Cạnh tranh và khủng hoảng: Fourier cho rằng sự vô chính phủ trong sản xut sẽ đẻ ra
cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh và không tránh khỏi các cuộc khủng hoảng. Ông
cho rằng sự nghèo đói là do sự thừa thãi sinh ra, nỗi bất hnh của quần chúng là không
có việc làm.
- Độc quyền: Fourier cho rằng tập trung sản xuất cao sẽ đẻ ra độc quyền tư bản và độc
quyền tất yếu sẽ thay thế cạnh tranh tự do.
c. Dự án xã hội tương lai
- Fourier đề xuất xây dựng một xã hội tương lai, một xã hội không còn giai cấp, không
còn áp bức bóc lột, và mọi người đều được hưởng hạnh phúc.
- Xã hội tương lai của Fourier được chia thành các cộng đồng tự trị, tự cung tự cấp, gọi là
"phalanstère". Mỗi phalanstère có dân số khoảng 1600 người. Trong các phalanstère,
mọi người sẽ được phân công lao động theo sở thích và khả năng của họ. Sản phẩm
lao động sẽ được phân phối theo nhu cầu của mọi người.
- Fourier cho rằng lao động là một nhu cầu tự nhiên của con người và đề xuất một hệ
thống lao động tự do và hấp dẫn, cho phép mọi người được làm những công việc mà họ
thích.
- Dự án về xã hội tương lai của Fourier mang tính chất không tưởng, nhưng vẫn có ý
nghĩa nhất đnh, bởi nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của tư tưởng xã hội chủ
nghĩa.
lOMoARcPSD| 58737056
d. Lý thuyết “Lao động hấp dẫn”
- Charles Fourier cho rằng lao động là một nhu cầu tự nhiên của con người. Ông đề xuất
một hệ thống lao động tự do và hấp dẫn, cho phép mọi người được làm những công
việc mà họ thích.
- Lao động dưới chủ nghĩa xã hội không phải là một gánh nặng, mà là một nguồn vui.
- Con người có 12 thứ ham thích, trong đó có ba thứ ham thích chính: ưa thay đổi, ưa đả
kích, ưa phức tạp.
- Để biến lao động từ ỡng bức sang lao động hấp dẫn, cần phải đáp ứng những điều
kiện sau:
+/ Bảo đảm phương tiện vật chất cho mọi người, bảo đảm mức sinh hoạt tối thiểu
cần thiết.
+/ Tạo điều kiện cho mọi người được tự do lựa chọn, di chuyển công việc. +/ Tổ
chức lao động thành các tốp nhỏ, phù hợp với sở thích và khả năng của con
ngưi.
e. Lý thuyết “Công đoàn”
- Charles Fourier cho rằng, cộng đoàn là một đơn vị cơ bản của xã hội tương lai.
- Cộng đoàn là một tổ chức tự quản, tự cung tự cấp, dựa trên sở hữu chung về tư liệu
sản xuất và phân phối công bằng sản phẩm lao động.
- Cộng đoàn có dân số khoảng 1600 người.
- Cộng đoàn được tổ chức thành các nhóm nhỏ, phù hợp với sở thích và khả năng của
con người. Cộng đoàn vừa là hợp tác xã sản xuất, vừa là hợp tác xã tiêu thụ.
- Tiền lời thu được sẽ được phân phối theo công thức: lao động 5/12, tư bản 4/12, tài
năng (quản lý) 3/12.
- Mỗi thành viên vừa là chủ sở hữu, vừa là người lao động và có quyền tham gia quản lý.
6.2.3: Quan điểm kinh tế của Robert Owen
Phê phán chủ nghĩa tư bản:
Ông đả kích chế độ tư hữu, coi đó là nguyên nhân của mọi tai họa trong xã hội tư
bản. (TT: Vì tư hữu đẻ ra lòng ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, sự cạnh tranh, tình trạng
vô chính phủ trong sản xuất và phân phối.)
Thảm họa do CNTB gây nên như: ngày lao động bị kéo dài, tăng cường độ lao
động, thất nghiệp, sử dụng lao động phụ nữ và trẻ em…
( TT: Do con người và lao động bị mất giá, do đồng tiền dưới CNTB gây ra)
Trong lĩnh vực phân phối, ông cho rằng: Phân phối qua đồng tiền và thương
nghiệp là có hại cho xã hội. ( TT: tham gia vào việc phân phối này có rất nhiều
người trung gian như: thương nghiệp, chủ ngân hàng, kẻ đầu cơ…Tất cả họ đều
làm ra giá trị, song họ lại tăng nó lên vì đủ loại chi phí.) Ông đi đến đề cao trao đổi
bằng hiện vật trực tiếp.
Dự án về xã hội tương lai:
Cơ sở của chế độ sở hữu công cộng trong tương lai là “tiền lao động” và “trao đổi
công bằng”, và điều kiện để thực hiện chế độ này là sự dồi dào về sản phẩm. ( TT:
Như vậy, đồng tiền sẽ bị loại khỏi lưu thông và mất đi chức năng là thước đo giá
trị, thay thế cho nó là “lao động chi phí” và “tiền lao động” xuất hiện. Thực chất
của “tiền lao đông” cũng là một thứ phiếu chứng nhận lao động chi phí vào việc
lOMoARcPSD| 58737056
sản xuất hàng hóa, từ đó mà họ nhận được những hàng hóa mà họ cần cho tiêu
dùng.)
Mô hình lý thuyết của Owen = H - “Tiền lao động” - H
Tiền lao động: là phiếu lao động ghi rõ số giờ lao động sản xuất hàng hóa
Với mô hình này, ông hy vọng gạt bỏ sự trung gian, đảm bảo việc làm cho người
lao động và thủ tiêu khủng hoảng thừa.
(TT: Ông đã dựa theo Ricardo, lấy lao động chi phí để quy định giá trị hàng hóa.)
Tuy nhiên, chế độ “trao đổi công bằng” không đem lại kết quả, không thể thủ tiêu
được tiền tệ khi còn sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Dự án kế hoạch xây dựng hợp tác xã: Ông chủ trương xây dựng thị trấn công bằng
mang tính chất hợp tác xã. Mỗi thị trấn cộng đồng là một đơn vị kinh tế, là tổ chức
cơ sở của xã hội mới trong tương lai.
Ngoài ra, Ricardo Owen cho rằng:
Nông nghiệp là cơ sở của các cộng đồng nhưng sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật
sẽ là nét của yếu của xã hội trong tương lai.
Trong xã hội tương lai, không có sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao
động chân tay và lao động trí óc.
Việc chuyển lên “ một tương lai xán lạn, hấp dẫn, có tổ chức và hạnh phúc, không
phải bằng những biện pháp bạo lực mà bằng phương pháp hòa bình và hợp lý.
=> KẾT LUẬN:
Theo Mac: “ Owen đã mở đầu cho chủ nghĩa cộng sản Anh, học thuyết của ông đã
xuất phát từ hệ thống công nghiệp, công xưởng, người cha của hợp tác xã công
nhân.”
Theo Ăngghen: “ Chủ nghĩa cộng sản của Owen mang tính chất hướng về chủ
nghĩa thực tiễn, mỗi thành tựu của giai cấp công nhân đều gắn với tên tuổi của
Owen”
6.3. Đánh giá chung về học thuyết kinh tế chủ nghĩa xã hội không
tưởng.
a. Thành tựu
Chủ nghĩa xã hội không tưởng có một quá trình phát triển lâu dài, từ chỗ là những ước mơ, khát
vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền thuyết tôn giáo đến những học thuyết xã
hội – chính trị. Cống hiến lớn lao của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
+ Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên án, phê phán kịch liệt và
ngày càng gay gắt, các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư
bản chủ nghĩa; góp phần nói lên tiếng nói của những người lao động trước tình trạng bị áp bức,
bị bóc lột ngày càng nặng nề.
+ Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phản ánh được những ước mơ, khát vọng của
những giai cấp lao động về một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái. Nó chứa đựng giá trị nhân
lOMoARcPSD| 58737056
đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện lòng yêu thương con người, thông cảm, bênh vực những người
lao khổ, mong muốn giúp đỡ họ, giải phóng họ khỏi nỗi bất hạnh.
+ Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng bằng việc phác họa ra mô hình xã hội tương lai tốt
đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã hội mới mà sau này các nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và chứng minh chúng trên cơ sở khoa
học. Ví dụ như những luận điểm: về tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm; về xóa bỏ sự đối
lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay; về vai trò của công nghiệp; về giáo dục; về sự
nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai trò lịch sử của nhà nước,…
Với những giá trị lịch sử trên mà chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ yếu là của chủ nghĩa xã hội
không tưởng phê phán đầu thế kỷ XIX, được các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học thừa
nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
b. Hạn chế
Không phát hiện ra được những quy luật kinh tế khách quan vận động trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa.
-> Không vạch ra được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Không thấy được vai trò của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Chủ trương xây dựng xã hội mới bằng con đường không tưởng như việc tuyên truyền,
chờ mong vào lòng từ thiện của những nhà tư bản và sự giúp đỡ của nhà nước tư sản.
Kêu gọi các nhà tư sản, những người giàu có thực hiện những kế hoạch mà họ đề ra: kế
hoạch công cộng hoặc dựa vào chế độ tôn giáo, coi tư tưởng về chủ nghĩa xã hội là tôn
giáo mới
=> Mặc dù chủ nghĩa xã hội không tưởng có nhiều giá trị, xong nó mắc phải những hạn
chế nên nó chỉ có vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản phát triển tới quy mô rộng
lớn, đòi hỏi phải có một lý luận khoa học và cách mạng soi đường, khi chủ nghĩa xã hội
khoa học ra đời thì các trào lưu của chủ nghĩa xã hội không tưởng trở nên lỗi thời, bảo
thủ, thậm chí còn mang tính chất phản động, cản trở phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chống giai cấp tư sản.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58737056
CHƯƠNG 6: HỌC THUYẾT KINH TẾ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG TƯỞNG
6.1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của kinh tế chủ nghĩa xã hội không tưởng
6.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Kinh tế chính chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời trong bối cảnh chế độ phong kiến
đang dần suy tàn và chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này,
giai cấp công nhân xuất hiện và trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu. Tuy nhiên, họ lại
bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
a.Tiền đề về kinh tế
Năm 1848 cách mạng tư sản Pháp thành công; cuộc cách mạng công nghiệp phát triển
mạnh mẽ ở các nước Tây Âu vào thế kỷ XVIII đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. •
Máy móc công nghiệp được cải tiến và chế tạo ngày một tăng lên và hoàn thiện hơn,
làm cho năng suất lao động tăng nhanh chưa từng có. Lao động thủ công được thay thế dần bằng máy móc. •
Chủ nghĩa tư bản bộc lộ rõ tính chất phản động, những mặt trái của nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa như khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, …
b. Tiền đề về chính trị - xã hội
Khi lực lượng sản xuất phát triển làm cho xã hội phân chia thành giai cấp rõ rệt: Bao
gồm giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giai cấp tư sản tăng cường bóc lột giai cấp công
nhân. Do đó xuất hiện đấu tranh giai cấp, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ
được chuyển dần từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác (có ý thức và có tổ chức
hơn) nhưng vào đầu thế kỷ XIX phong trào còn chưa mạnh mẽ và rộng khắp. •
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nước Anh và Pháp đã liên tiếp diễn ra những cuộc biến
động về chính trị (bãi công, đình công). Biểu hiện ở cuộc đấu tranh giữa hai thế lực
phong kiến, tư sản tự do và dân chủ cách mạng. Trong cuộc đấu tranh này đã dần dần
làm thức tỉnh giai cấp công nhân phải có một tổ chức tiên phong dẫn đường chỉ đạo
chống lại giai cấp tư sản. Chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời.
6.1.2 Đặc điểm chung của kinh tế chính trị chủ nghĩa xã hội không tưởng a. Đặc điểm chung
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là học thuyết kinh tế thể hiện sự phản kháng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chống lại chế độ tư bản chủ nghĩa và tìm đường xây
dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. •
Đặc điểm chung nổi bật là phê phán chủ nghĩa tư bản xuất phát từ lợi ích của sản xuất
và theo quan điểm kinh tế chứ không theo quan điểm đạo đức, luận lý. Chỉ rõ chủ nghĩa
tư bản là một giai đoạn phát triển của lịch sử, nhưng chưa phải là chế độ xã hội tốt đẹp
nhất của loài người. Vạch rõ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, sự kìm hãm lực lượng
sản xuất phát triển và cần phải thay thế bằng xã hội mới. •
Tuy nhiên con đường họ đề xuất xây dựng xã hội mới có tính chất không tưởng (chỉ
dừng lại ở tính ước muốn, không có cơ sở khoa học để thực hiện, đặc biệt chưa thấy
vai trò của giai cấp công nhân). •
Về chế độ sở hữu, cơ sở của những quan hệ kinh tế cơ bản, các nhà kinh tế xã hội chủ
nghĩa không tưởng chưa hoàn toàn nhất trí với nhau, người thì cho rằng còn duy trì chế
độ tư hữu, người cho rằng phải xóa bỏ và thay vào đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. lOMoAR cPSD| 58737056
b. Những đại biểu điển hình Saint Simon (1760 – 1825)
Là nhà văn Pháp nổi tiếng, có kiến thức sâu rộng. Ông sinh ra trong một gia đình quý
tộc giàu có ở Pháp, được hưởng mọi sự giáo dục đầy đủ và có hệ thống. Ông đã từng
tham gia cuộc chiến tranh ở Bắc Mỹ, được phong quân hàm đại tá. •
Ông đã viết nhiều tác phẩm: “Khái niệm về khoa học và con người” (1813); “Những bức
thư gửi một người Mỹ” (1817); “Quan điểm về sở hữu và pháp chế” (1818); “Bàn về hệ
thống công nghiệp” (1821); “Cẩm nang của nhà công nghiệp” (1823)… Charles
Fourier (1772 – 18320)
Là người Pháp, xuất thân trong một gia đình thương nhân buôn bán. Ông trực tiếp
chứng kiến sự lừa bip, tước đoạt lẫn nhau giữa các thương nhân, nên ông căm ghét
nghề buôn bán. Do đó thúc đẩy ông nghiên cứu xã hội. •
Ông viết nhiều tác phẩm: "Sự hòa hợp toàn thế giới" (1803); "Lý thuyết về bốn giai đoạn
và những số phận chung" (1808); "Lý thuyết về hiệp hội gia đình và công nghiệp"
(1822); "Thế giới kinh tế mới xã hội chủ nghĩa" (1829)…
Robert Owen (1771 – 1858)
Ông xuất thân từ một gia đình thợ thủ công ở nước Anh. Ông sống tự lập từ nhỏ, năm
1799 ông mua một xưởng kéo sợi, bắt đầu từ đây ông bắt đầu sự nghiệp của một nhà
cải cách xã hội chủ nghĩa không tưởng. Ông đã biến xưởng máy của mình thành nơi thu
hút những người nghèo khổ, không việc làm. Làm việc ở đây, ngày lao động chỉ có 10
giờ, cấm lao động trẻ em dưới 9 tuổi, xây dựng nhà ở cho công nhân, lập các nhà trẻ,
trường học kiểu mẫu… •
Các tác phẩm của ông: “Những nhận xét về ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp”;
“Báo cáo về giảm nhẹ tình cảnh của công nhân công nghiệp và nông nghiệp”; “Báo cáo
về kế hoạch giảm bớt tai họa xã hội”; “Lời kêu gọi của Đại hội các hợp tác xã của nước
Anh”; “Thế giới đạo đức mới”. Kết luận:
Kinh tế chính chủ nghĩa xã hội không tưởng là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển
của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Nó đã góp phần thức tỉnh giai cấp công nhân và thúc đẩy phong
trào đấu tranh của họ. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội không tưởng vẫn còn những hạn chế do tính
không tưởng và chưa có cơ sở khoa học.
6.2. Những nội dung cơ bản của học thuyết kinh tế chủ nghĩa xã hội không tưởng
6.2.1. Quan điểm kinh tế của Saint Simon
- Quan điểm lịch sử

.Ông khẳng định lịch sử là sự thay thế lẫn nhau giữa các giai đoạn khác nhau, song lại
gắn bó quá trình với nhận thức của con người.
.Ông thừa nhận sự phát triển của xã hội theo những quy luật thay thế tất yếu khách
quan của một xã hội phát triển cao hơn đối với một xã hội phát triển thấp hơn. .Hạn chế:
Ông không phân tích đúng động lực thực sự của tiến bộ xã hội
- Phê phán chủ nghĩa tư bản:
Ngay trong tác phẩm đầu tiên Những bức thư từ Geneve (1803) gửi những người cùng
thời, ông cho rằng xã hội đương thời chia ra làm ba giai cấp: lOMoAR cPSD| 58737056 •
Giai cấp thứ nhất: gồm các nhà khoa học, nghệ sĩ và tất cả những người tán thành tư tưởng tự do •
Giai cấp thứ hai: gồm tất cả những người sở hữu không thuộc giai cấp thứ nhất •
Giai cấp thứ ba: gồm số người còn lại có tư tưởng bình đẳng
Về sau quan điểm đó được diễn đạt rõ ràng hơn trước Cách mạng dân tộc được chia
làm 3 giai cấp, cụ thể: • Quý tộc • Nhà tư tưởng •
Nhà công nghiệp: giai cấp này được Saint Simon đề cập trong nhiều tác phẩm, ông cho
rằng giai cấp những nhà công nghiệp được hình thành từ thời kỳ trung cổ vào địa vị địa
vị nô lệ, nhưng hiện nay đã đủ sức dành toàn bộ chính quyền, công nghiệp của các nhà
công nghiệp là trung tâm và là khởi nguyên thực sự của nền văn minh, giai cấp này giữ
địa vị hàng đầu vì nó quan trọng hơn tất cả, không có các giai cấp khác thì nó vẫn sống,
còn nếu như không có nó thì không có giai cấp nào sống được. Tóm lại giai cấp những
nhà công nghiệp là giai cấp có trí tuệ và chỉ có nó mới có năng lực quản lý đất nước.
=> Lúc đầu Saint Simon quan niệm giai cấp những nhà công nghiệp như một khái niệm tổng
quát bao gồm tất cả những người lao động có ích thì về sau tiến thêm một bước, ông đã chú ý
đến sự khác biệt và mâu thuẫn nội bộ giai cấp giữa những nhà công nghiệp. Trong giai cấp đó,
ông phân biệt một bên là giai cấp ít ỏi những người sở hữu, và bên kia là đông đảo những
người không có của, và ông cho rằng cuộc đấu tranh giữa những người không có của và
những người sở hữu là điều không tránh khỏi.
Vào những năm cuối cuộc đời mình ông thể hiện một ý niệm cho rằng: cơ sở của xã hội không
phải là các nhà công nghiệp nói chung mà là giai cấp những công nhân làm lao động thủ công.
Tiếp theo truyền thống của những nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa khác, Saint Simon
theo dõi cuộc đấu tranh giữa các tầng lớp nhân dân bị áp bức và không có của với những kẻ
sở hữu trong tất cả các giai đoạn chủ yếu của lịch sử. Cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô,
bình dân và quý tộc, nông nô và phong kiến. Ông cho rằng các giai cấp xuất hiện là do sự
chiếm đoạt. Với tác phẩm cuối cùng Đạo Cơ đốc mới, Saint Simon mới trực tiếp biểu hiện ra là
người phát ngôn của giai cấp cần lao và ông mới tuyên bố rằng giải phóng giai cấp cần lao là
mục đích cuối cùng của những nỗ lực của ông.
- Dự án về cải tạo xã hội tương lai:
*) Saint Simon có thái độ phê phán đối với Cách mạng tư sản Pháp, ông cho rằng cuộc
cách mạng ấy chưa thiết lập được một chế độ phù hợp với quyền lợi của của giai cấp nghèo
khổ nhất và đông đảo nhất. Do đó cần có và sẽ có một cuộc cách mạng mới thay đổi xã hội
theo hướng bảo đảm lợi ích cho xã hội.
.Chế độ tương lai được ông gọi là hệ thống công nghiệp mới trong đó sẽ thực hiện nguyên
tắc “mỗi người làm theo năng lực, mỗi năng lực sẽ được trả công theo lao động”.
.Theo ông sẽ không có bóc lột lẫn nhau nữa, ( Tt:Thay vào đó là sự “bóc lột” thế giới tự
nhiên, “bóc lột” vật phẩm, người thống trị sẽ được thay thế bằng sự thống trị của người đối với tự nhiên.)
.Theo ông, trong xã hội tương lai sẽ không còn nhà nước( Tt:chính quyền sẽ được chuyển
vào tay các nhà công nghiệp và các nhà bác học.)
⇒ Học thuyết của Saint Simon có tính chất hoang đường vì ông thường dựa vào tôn giáo mới,
còn các nhà bác học là Thượng đế linh thiêng. (Tt:Saint Simon nói rằng: Nếu nước Pháp đột
nhiên mất đi 50 nhà vật lý giỏi, 50 nhà bác học giỏi, 50 nhà sinh vật học giỏi, 500 nông dân lOMoAR cPSD| 58737056
giỏi... quốc gia sẽ đại họa và trở thành cái xác không hồn. Nhưng nếu nước Pháp mất hết
những nhà hoàng tộc, tất cả những nhà quý phái thượng thư, tất cả những thẩm phán và nhân
viên cao cấp, tham chính viên, tất cả các thống chế, tất cả các nhân viên cán bộ và 10000 địa
chủ giàu có nhất... thì quốc gia sẽ không thiệt hại gì.)
Và chúng ta biết rằng tư tưởng của Saint Simon về xã hội mới, tư tưởng của ông về xã
hội chủ nghĩa, mặc dù còn có những điểm còn hạn chế, tức là mang tính không tưởng nhưng
những giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng của Saint Simon đã được Mác và Ăngghen kế
thừa có chọn lọc và chứng minh nó trên cơ sở khoa học. Và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp, trong đó đặc biệt là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Saint Simon chính là một trong ba
nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của Chủ nghĩa Mác. Và trong đó, chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp là tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của nghĩa xã hội khoa học.
6.2.2. Quan điểm kinh tế của Charles Fourier
a. Lý thuyết về sự phát triển xã hội
- Charles Fourier cho rằng xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn phát triển, từ thấp đến
cao, là mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Charles Fourier cho rằng xã hội
loài người sẽ tiến hóa từ tư bản chủ nghĩa sang một xã hội không còn giai cấp, không
còn áp bức bóc lột, và mọi người đều được hưởng hạnh phúc.
b. Phê phán chủ nghĩa tư bản:
· Charles Fourier phê phán chủ nghĩa tư bản trên các mặt sau:
- Lao động: Fourier cho rằng chủ nghĩa tư bản là một xã hội phung phí lao động, dẫn đến
hình thành đội quân lớn những người không sản xuất. Ông cho rằng chỉ có lao động
thực tế cần thiết cho xã hội mới là lao động sản xuất.
- Sự bất công: Fourier cho rằng nguồn gốc của sự đau khổ trong xã hội tư bản là thương
nghiệp tư bản chủ nghĩa. Ông cho rằng thương nghiệp là một hoạt động ăn căp, nói dối,
lừa đảo, đầu cơ nâng giá.
- Cạnh tranh và khủng hoảng: Fourier cho rằng sự vô chính phủ trong sản xuất sẽ đẻ ra
cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh và không tránh khỏi các cuộc khủng hoảng. Ông
cho rằng sự nghèo đói là do sự thừa thãi sinh ra, nỗi bất hạnh của quần chúng là không có việc làm.
- Độc quyền: Fourier cho rằng tập trung sản xuất cao sẽ đẻ ra độc quyền tư bản và độc
quyền tất yếu sẽ thay thế cạnh tranh tự do.
c. Dự án xã hội tương lai
- Fourier đề xuất xây dựng một xã hội tương lai, một xã hội không còn giai cấp, không
còn áp bức bóc lột, và mọi người đều được hưởng hạnh phúc.
- Xã hội tương lai của Fourier được chia thành các cộng đồng tự trị, tự cung tự cấp, gọi là
"phalanstère". Mỗi phalanstère có dân số khoảng 1600 người. Trong các phalanstère,
mọi người sẽ được phân công lao động theo sở thích và khả năng của họ. Sản phẩm
lao động sẽ được phân phối theo nhu cầu của mọi người.
- Fourier cho rằng lao động là một nhu cầu tự nhiên của con người và đề xuất một hệ
thống lao động tự do và hấp dẫn, cho phép mọi người được làm những công việc mà họ thích.
- Dự án về xã hội tương lai của Fourier mang tính chất không tưởng, nhưng vẫn có ý
nghĩa nhất định, bởi nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 58737056
d. Lý thuyết “Lao động hấp dẫn”
- Charles Fourier cho rằng lao động là một nhu cầu tự nhiên của con người. Ông đề xuất
một hệ thống lao động tự do và hấp dẫn, cho phép mọi người được làm những công việc mà họ thích.
- Lao động dưới chủ nghĩa xã hội không phải là một gánh nặng, mà là một nguồn vui.
- Con người có 12 thứ ham thích, trong đó có ba thứ ham thích chính: ưa thay đổi, ưa đả kích, ưa phức tạp.
- Để biến lao động từ cưỡng bức sang lao động hấp dẫn, cần phải đáp ứng những điều kiện sau:
+/ Bảo đảm phương tiện vật chất cho mọi người, bảo đảm mức sinh hoạt tối thiểu cần thiết.
+/ Tạo điều kiện cho mọi người được tự do lựa chọn, di chuyển công việc. +/ Tổ
chức lao động thành các tốp nhỏ, phù hợp với sở thích và khả năng của con người.
e. Lý thuyết “Công đoàn”
- Charles Fourier cho rằng, cộng đoàn là một đơn vị cơ bản của xã hội tương lai.
- Cộng đoàn là một tổ chức tự quản, tự cung tự cấp, dựa trên sở hữu chung về tư liệu
sản xuất và phân phối công bằng sản phẩm lao động.
- Cộng đoàn có dân số khoảng 1600 người.
- Cộng đoàn được tổ chức thành các nhóm nhỏ, phù hợp với sở thích và khả năng của
con người. Cộng đoàn vừa là hợp tác xã sản xuất, vừa là hợp tác xã tiêu thụ.
- Tiền lời thu được sẽ được phân phối theo công thức: lao động 5/12, tư bản 4/12, tài năng (quản lý) 3/12.
- Mỗi thành viên vừa là chủ sở hữu, vừa là người lao động và có quyền tham gia quản lý.
6.2.3: Quan điểm kinh tế của Robert Owen
Phê phán chủ nghĩa tư bản:
Ông đả kích chế độ tư hữu, coi đó là nguyên nhân của mọi tai họa trong xã hội tư
bản. (TT: Vì tư hữu đẻ ra lòng ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, sự cạnh tranh, tình trạng
vô chính phủ trong sản xuất và phân phối.) •
Thảm họa do CNTB gây nên như: ngày lao động bị kéo dài, tăng cường độ lao
động, thất nghiệp, sử dụng lao động phụ nữ và trẻ em…
( TT: Do con người và lao động bị mất giá, do đồng tiền dưới CNTB gây ra) •
Trong lĩnh vực phân phối, ông cho rằng: Phân phối qua đồng tiền và thương
nghiệp là có hại cho xã hội. ( TT: tham gia vào việc phân phối này có rất nhiều
người trung gian như: thương nghiệp, chủ ngân hàng, kẻ đầu cơ…Tất cả họ đều
làm ra giá trị, song họ lại tăng nó lên vì đủ loại chi phí.) Ông đi đến đề cao trao đổi
bằng hiện vật trực tiếp. •
Dự án về xã hội tương lai: •
Cơ sở của chế độ sở hữu công cộng trong tương lai là “tiền lao động” và “trao đổi
công bằng”, và điều kiện để thực hiện chế độ này là sự dồi dào về sản phẩm. ( TT:
Như vậy, đồng tiền sẽ bị loại khỏi lưu thông và mất đi chức năng là thước đo giá
trị, thay thế cho nó là “lao động chi phí” và “tiền lao động” xuất hiện. Thực chất
của “tiền lao đông” cũng là một thứ phiếu chứng nhận lao động chi phí vào việc lOMoAR cPSD| 58737056
sản xuất hàng hóa, từ đó mà họ nhận được những hàng hóa mà họ cần cho tiêu dùng.) •
Mô hình lý thuyết của Owen = H - “Tiền lao động” - H •
Tiền lao động: là phiếu lao động ghi rõ số giờ lao động sản xuất hàng hóa •
Với mô hình này, ông hy vọng gạt bỏ sự trung gian, đảm bảo việc làm cho người
lao động và thủ tiêu khủng hoảng thừa.
(TT: Ông đã dựa theo Ricardo, lấy lao động chi phí để quy định giá trị hàng hóa.) •
Tuy nhiên, chế độ “trao đổi công bằng” không đem lại kết quả, không thể thủ tiêu
được tiền tệ khi còn sản xuất và lưu thông hàng hóa. •
Dự án kế hoạch xây dựng hợp tác xã: Ông chủ trương xây dựng thị trấn công bằng
mang tính chất hợp tác xã. Mỗi thị trấn cộng đồng là một đơn vị kinh tế, là tổ chức
cơ sở của xã hội mới trong tương lai. •
Ngoài ra, Ricardo Owen cho rằng: •
Nông nghiệp là cơ sở của các cộng đồng nhưng sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật
sẽ là nét của yếu của xã hội trong tương lai. •
Trong xã hội tương lai, không có sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao
động chân tay và lao động trí óc. •
Việc chuyển lên “ một tương lai xán lạn, hấp dẫn, có tổ chức và hạnh phúc, không
phải bằng những biện pháp bạo lực mà bằng phương pháp hòa bình và hợp lý. => KẾT LUẬN: •
Theo Mac: “ Owen đã mở đầu cho chủ nghĩa cộng sản Anh, học thuyết của ông đã
xuất phát từ hệ thống công nghiệp, công xưởng, người cha của hợp tác xã công nhân.” •
Theo Ăngghen: “ Chủ nghĩa cộng sản của Owen mang tính chất hướng về chủ
nghĩa thực tiễn, mỗi thành tựu của giai cấp công nhân đều gắn với tên tuổi của Owen”
6.3. Đánh giá chung về học thuyết kinh tế chủ nghĩa xã hội không tưởng. a. Thành tựu
Chủ nghĩa xã hội không tưởng có một quá trình phát triển lâu dài, từ chỗ là những ước mơ, khát
vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền thuyết tôn giáo đến những học thuyết xã
hội – chính trị. Cống hiến lớn lao của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
+ Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên án, phê phán kịch liệt và
ngày càng gay gắt, các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư
bản chủ nghĩa; góp phần nói lên tiếng nói của những người lao động trước tình trạng bị áp bức,
bị bóc lột ngày càng nặng nề.
+ Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phản ánh được những ước mơ, khát vọng của
những giai cấp lao động về một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái. Nó chứa đựng giá trị nhân lOMoAR cPSD| 58737056
đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện lòng yêu thương con người, thông cảm, bênh vực những người
lao khổ, mong muốn giúp đỡ họ, giải phóng họ khỏi nỗi bất hạnh.
+ Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng bằng việc phác họa ra mô hình xã hội tương lai tốt
đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã hội mới mà sau này các nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và chứng minh chúng trên cơ sở khoa
học. Ví dụ như những luận điểm: về tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm; về xóa bỏ sự đối
lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay; về vai trò của công nghiệp; về giáo dục; về sự
nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai trò lịch sử của nhà nước,…
Với những giá trị lịch sử trên mà chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ yếu là của chủ nghĩa xã hội
không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX, được các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học thừa
nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác. b. Hạn chế
Không phát hiện ra được những quy luật kinh tế khách quan vận động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
-> Không vạch ra được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. •
Không thấy được vai trò của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. •
Chủ trương xây dựng xã hội mới bằng con đường không tưởng như việc tuyên truyền,
chờ mong vào lòng từ thiện của những nhà tư bản và sự giúp đỡ của nhà nước tư sản. •
Kêu gọi các nhà tư sản, những người giàu có thực hiện những kế hoạch mà họ đề ra: kế
hoạch công cộng hoặc dựa vào chế độ tôn giáo, coi tư tưởng về chủ nghĩa xã hội là tôn giáo mới
=> Mặc dù chủ nghĩa xã hội không tưởng có nhiều giá trị, xong nó mắc phải những hạn
chế nên nó chỉ có vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản phát triển tới quy mô rộng
lớn, đòi hỏi phải có một lý luận khoa học và cách mạng soi đường, khi chủ nghĩa xã hội
khoa học ra đời thì các trào lưu của chủ nghĩa xã hội không tưởng trở nên lỗi thời, bảo
thủ, thậm chí còn mang tính chất phản động, cản trở phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chống giai cấp tư sản.