


















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58737056 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 3
2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 3 3. Bố cục đề
tài.......................................................................................................5Chương 1:
Khái lược về địa tô và các học thuyết liên quan .................................................... 3
Chương 2: “Địa tô” trong các học thuyết kinh tế khác nhau ............................. 3
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................6
................................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ ĐỊA TÔ VÀ CÁC HỌC THUYẾT KINH
TẾ CÓ LIÊN QUAN TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẠM TRÙ ĐỊA
TÔ.....61. Khái niệm về địa tô: .............................................................................. 4
2. Khái niệm về các học thuyết kinh tế có liên quan tới sự phát triển của phạm
trù địa tô .............................................................................................................. 5
CHƯƠNG 2 : “ĐỊA TÔ” TRONG CÁC HỌC THUYẾT KINH
TẾ..............81.Lý thuyết địa tô của william Petty ................................................ 6
2. Lý thuyết địa tô của Adam Smith ................................................................... 8
3. Lý thuyết địa tô của David ricardo ................................................................. 9
4. Lý thuyết địa tô của Sismondi ...................................................................... 11
5. Lý thuyết địa tô của Karl marx ..................................................................... 13
6. Lý thuyết địa tô của Johann Heinrich von thiinen và sự vận dụng vào kinh
tếtân cổ điển ...................................................................................................... 15
Chương 3: Vận dụng về lí luận “địa tô” trong Việt Nam....................................5
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG LÍ LUẬN “ĐỊA TÔ” TRONG VIỆT NAM........18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................20 lOMoAR cPSD| 58737056 THÀNH VIÊN NHÓM STT Họ và tên Nhiệm vụ 1
Nhóm trưởng, phân công nhiệm vụ, Nguyễn Hải Ngọc
làm nội dung lý thuyết địa tô của David Ricardo và Sismondi. 2
Chỉnh sửa, hoàn thiện bố cục tiểu Nguyễn Chi Mai
luận, làm nội dung chương 1. 3 Thuyết Trình Lê Nhật Nam 4
Làm nội dung của lý thuyết địa tô Lê Ngọc Hà Vi Karl Marx và Johann 5
Làm nội dung của lý thuyết địa tô Võ Thị Kim Ngân
Adam Smith và Vận dụng lý luận địa tô trong Việt Nam 6 Thuyết Trình Nguyễn Thị Hoài Phương 7 Làm powerpoint Đoàn Trương Nguyệt Minh 8 Thuyết Trình Võ Yến Linh 9
Làm nội dung Lý thuyết địa tô của Quang Văn Hoài Linh William Petty 10 Làm Powerpoint Trần Hồng Huy lOMoAR cPSD| 58737056 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thuở sơ khai đất nước ta đã và đang đi lên và phát triển, con người ta đã từng bước
thay đổi trái đất này. Đối với Việt Nam nói riêng dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà Nước dưới sự kế thừa, phát huy những gì đã có mà tư tưởng của Mác đã làm
ngọn hải đăng dẫn đường để ngày càng đưa đất nước mình vươn xa hơn nữa. Đất
nước Việt Nam chúng ta từ xưa đến nay đều có truyền thống làm nghề nông, phát
triển cây lúa nước đã trở thành một truyền thống lâu đời của người dân nước ta. Tất
cả những nông sản, tài sản của chúng ta đều được hình thành trên đất mà ra. Vì
vậy, người xưa thường ví von rằng: “ Tấc đất tấc vàng” từ xa xưa ông cha ta đã
luôn đề cao vai trò của đất đai. Trên hành trình phát triển nền kinh tế trong tương
lai chúng ta không chỉ nên quan tâm đến kinh tế thị trường, cổ phần hóa của doanh
nghiệp … mà chúng ta còn cần quan tâm đến vấn đề đất đai, đặc biệt là thuế đất.
Đây là một dự án quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế sau này. Đất đai là
tài sản vô giá của mọi quốc gia, con người muốn sinh sống cần đất để xây nhà, cần
đất để trồng trọt, cần đất để chăn nuôi, doanh nghiệp muốn tồn tại phải cần đất đai
để kinh doanh. Vậy thuê đất ở đâu để kinh doanh? Tiền thuê đất là bao nhiêu? Và
phải có những trách nhiệm gì với mảnh đất đó? Tất cả những điều đó đều cần được
tìm hiểu và biết đến.
Để hiểu rõ về những vấn đề đó chúng ta tìm về những lí luận về địa tô của Mác, từ
đó hiểu được sự vận dụng của Việt Nam trên con đường đưa Việt Nam trở thành
con rồng Đông Nam Á. Chính vì vậy mà đề tài chúng em lựa chọn để đề cập đến là
sự phát triển theo lịch sử của phạm trù: “Địa tô” trong các học thuyết kinh tế khác nhau.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Trình bày về sự phát triển theo lịch sự của phạm trù: “Địa tô” trong các học thuyết
kinh tế, từ đó soi chiếu vào Việt Nam hiện nay. 3. Bố cục đề tài:
Chương 1: Khái lược về địa tô và các học thuyết liên quan.
Chương 2: “Địa tô” trong các học thuyết kinh tế khác nhau.
Chương 3: Vận dụng về lí luận “địa tô” trong Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58737056 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ ĐỊA TÔ VÀ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
CÓ LIÊN QUAN TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẠM TRÙ ĐỊA TÔ.
1. Khái niệm về địa tô:
1.1. Khái niệm và bản chất của địa tô của Các Mác:
Trong nền tư bản chủ nghĩa, người thực sự canh tác ruộng đất không phải là
chủ tư bản mà là những người lao động làm thuê. Nhà tư bản từ thuê đất của địa
chủ để kinh doanh, rồi coi nông nghiệp là một lĩnh vực đầu tư kinh doanh kiếm lời.
Số tiền mà nhà tư bản sẽ trả cho người sở hữu ruộng đất theo hợp đồng để được
cấp quyền sử dụng đất trong một thời gian nhất định là địa tô tư bản chủ nghĩa.
Địa tô tư bản chủ nghĩa sẽ thể hiện mối quan hệ giữa người công nhân làm
thuê,địa chủ và nhà tư bản chủ nghĩa.Từ khoản địa tô có được do nhà tư bản bóc
lột người công nhân làm thuê để thuê lợi nhuận bình quân. Từ đó muốn kéo dài
thời gian sử dụng đất để thu về lợi nhuận nhiều hơn. Tuy nhiên, chủ đất luôn tìm
cách khống chế nhà tư bản bằng cách tăng các khoản địa tô hoặc rút ngắn thời hạn được sử dụng đất.
Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một phần giá trị thặng dư còn lại
sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
1.2. Khái niệm địa tô trong kinh tế:
Địa tô trong kinh tế được hiểu là một khoản tiền phát sinh ra từ một yếu tố
sản xuất khi yếu tố này vượt quá mức cần thiết về mặt kinh tế và xã hội để sử dụng nó.
Điều kiện để xuất hiện địah tô kinh tế là sự không hoàn hảo của thị trường.
Bởi trong thị trường không hoàn hảo, tồn tại cạnh tranh không còn công bằng từ đó
dẫn tới sự khập khiễng về giá với cùng một mặt hàng.Tô kinh tế còn có cách gọi
khác là tiền thuê kinh tế.
Lý thuyết địa tô là một trong những vấn đề rất quan trọng của các học thuyết
kinh tế. Tuy nhiên, lý thuyết này lại chưa được các nhà triết học theo chủ nghĩa
trọng thương nghiên cứu rộng rãi. Mãi cho tới thế kỷ XVII, XVIII, khi các nhà lOMoAR cPSD| 58737056
kinh tế học cổ điển Anh xuất hiện như W. Petty, A. Smith, D. Ricardo thì vấn đề địa
tô mới bắt đầu được quan tâm nhiều hơn và bắt đầu đi vào nghiên cứu.
2. Khái niệm về các học thuyết kinh tế có liên quan tới sự phát triển
của phạm trù địa tô.
2.1 Học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh:
Ra đời trong điều kiện tích lũy nguyên thủy của CNTB đã kết thúc, lý luận
của chủ nghĩa trọng thương suy yếu, đòi hỏi thay thế bằng một lý thuyết kinh tế
mới. Đây là học thuyết đánh dấu sự ra đời quy luật khách quan Xương sống cho
kinh tế học cho đến bây giờ: học thuyết “Bàn tay vô hình”. Cuộc cách mạng tư sản
Anh giữa thế kỉ 17 đã tạo ra một tình hình KT-XH, chính trị mới.
Giai cấp tư sản Anh cuối thế kỉ 17 đã trưởng thành không cần tới sự bảo hộ
của nhà nước. Các chính sách kinh tế của nhà nước cũng ít hà khắc hơn. Trong thời
kì này trọng tâm của lĩnh vực nghiên cứu sẽ từ lưu thông chuyển sang sản xuất.
Lấy lí luận giá trị làm trọng tâm, dựa trên nguyên lý giá trị lao động để xem xét các
phạm trù kinh tế tư sản. Các quan điểm kinh tế cũng dần thể hiện rõ khuynh hướng
tự do kinh tế. Học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh sẽ áp dụng phương
pháp trừu tượng hóa trong nghiên cứu kinh tế nên phát hiện ra tính quy luật kinh tế,
từ đó sẽ áp dụng phương pháp phân tích vi mô. Và các nhà tư tưởng lớn này sáng
lập học thuyết này là W.Petty, được phát triển qua A.Smith, D.Ricardo.
2.2 Học thuyết kinh tế chính trị tiểu tư sản:
Học thuyết kinh tế đứng trên lập trường của giai cấp tiểu tư sản để phê phán
gay gắt chủ nghĩa tư bản, phê phán nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi
cho nền sản xuất nhỏ, chống lại sự phát triển của nền sản xuất lớn – sản xuất tư bản
chủ nghĩa là một trào lưu tư tưởng vừa có tính không tưởng, vừa có tính phản
động. Jean Charles Léonard Simonde Sismondi (1773-1842) là một trong những
đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tiểu tư sản.
2.3 Kinh tế học Mác-xít:
Bước đến nền kinh tế học Mác-xít thì đây là một trường phái tư tưởng kinh
tế dựa trên công trình nghiên cứu của nhà kinh tế học và triết gia thế kỉ 19 Karl
Marx. Kinh tế học Mác-xít tập trung vào vai trò của lao động trong sự phát triển
của một nền kinh tế. Nhà kinh tế học Marx lập luận rằng chuyên môn hóa lực
lượng lao động, cùng với dân số ngày càng tăng, giảm tiền lương xuống, thêm giá
trị vào hàng hóa và dịch vụ không thể tính chính xác được chi phí lao động thực sự. lOMoAR cPSD| 58737056
Ngoài ra, đóng góp vào sự đa dạng của nền học thuyết kinh tế chúng ta phải
kể đến Johann Heinrich von Thünen (1783 - 1850), ông là một nhà kinh tế học lỗi
lạc đầu thế kỷ XIX. Ông được xem trọng bởi đã có những dự báo quan trọng cho
nền kinh tế học hiện đại, và được coi như cha đẻ của lý thuyết địa tô đô thị.
CHƯƠNG 2 : “ĐỊA TÔ” TRONG CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ.
1.Lý thuyết địa tô của william Petty.
1.1. Sơ lược về tiểu sử của William Petty:
William Petty sinh ngày 26 tháng 5 năm 1623 tại Romsey, Hampshire - miền
Nam nước Anh, mất ngày 16 tháng 12 năm 1687 tại London. Ông là người khai sinh
và là đại diện nổi bật nhất của trường phái kinh tế chính trị học tư sản cổ điển. Những
lý thuyết của ông đã góp phần làm cho chủ nghĩa trọng thương Anh tan rã vào cuối thế kỷ XVII.
Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau và có nhiều tài năng: năm 1647
phát minh ra máy chữ, năm 1649 ông nhận học vị tiến sĩ vật lý, năm 1657 trở thành
giáo sư giải phẫu và âm nhạc, năm 1658 ông làm bác sĩ trong quân đội Cromwell.
William Petty còn là nhà công nghiệp lớn đồng thời là chủ đồn điền. C. Mác cho
rằng, William Petty là người toàn tài, là “cha đẻ” của kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Anh. Do hoạt động lý luận gắn liền với thực tiễn nên thế giới quan và phương pháp
luận của William Petty có bước tiến vượt bậc so với chủ nghĩa trọng thương.
1.2. Sự nghiệp nghiên cứu về kinh tế học của William Petty
- Bàn về thuế khóa và lệ phí (1662). - Giá trị lao động. - Lý luận về thu nhập. - Tiền tệ và thuế khóa. - Lý luận về địa tô. -
Giải phẫu học chính trị Ireland (1672). -
Số học chính trị (1676). -
Điều khác về tiền tệ (1682). -
Phương pháp định lượng trong nghiên cứu kinh tế. 1.3. Lý thuyết địa
tô của William Petty
1.3.1. Về địa tô:
William Petty xây dựng cơ sở cho việc nghiên cứu giá trị thặng dư thông qua
phát triển lý luận về địa tô. Dường như khả năng tính toán đã giúp ông dự đoán được lOMoAR cPSD| 58737056
khái niệm về thặng dư. Ông tìm cách lý giải khái niệm mới này thông qua địa tô.
Vẫn dựa trên lý thuyết giá trị lao động của mình, William Petty coi địa tô là giá trị
nông sản còn lại sau khi khấu trừ chi phí sản xuất cho giống và tiền công cho lao động.
Theo quan niệm này, địa tô là một bộ phận dôi ra ngoài tiền công, là một phần
của lợi nhuận nhờ độ màu mỡ của đất đai và vị trí canh tác, là số chênh lệch giữa giá
trị hàng hoá và chi phí sản xuất, nghĩa là số sản phẩm của lao động thặng dư. Theo
đó mà ông nghiên cứu về địa tô chênh lệch, tuy nhiên ông vẫn chưa biết tới địa tô
tuyệt đối. Với quan điểm này, C. Mác cho rằng ông đã chỉ ra được nguồn gốc của
địa tô và có mầm mống tư tưởng về bóc lột lao động làm thuê.
1.3.2. Về lợi tức:
Petty đã áp dụng điều đó lên tiền tệ, ông đã đồng nhất tiền với đất đai và gọi
“tô” của tiền là lợi tức. Nghĩa là, số thặng dư của tiền sẽ được tính tương đương với
số thặng dư do một mảnh đất tạo nên qua quá trình sản xuất. William Petty đưa ra
hai phương án thu lợi tức: một là, gửi tiền ở ngân hàng để thu lãi; hai là, mua đất để
cho thuê và thu địa tô, đó là cách sử dụng tiền tệ hiệu quả nhất. Như vậy lợi tức là
thu nhập phát sinh của địa tô. Muốn xác định lợi tức phải dựa vào địa tô. Mức cao
hay thấp của lợi tức phụ thuộc vào điều kiện sản xuất của nông nghiệp quyết định.
Từ đó, ông suy ra thu nhập của chủ đất chính là số thặng dư đó.
Theo William Petty, mảnh đất có điều kiện về vị trí, độ màu mỡ, đầu tư sản
xuất càng tốt thì lợi tức càng cao. Như vậy, việc nhà nước áp đặt lợi tức sẽ khiến cho
các chủ đất không còn hứng khởi trong việc nâng cao chất lượng sản xuất, dẫn tới
kinh tế đình trệ. Với William Petty, nền kinh tế sẽ phát triển tốt nếu nó tuân theo quy
luật tự nhiên mà không bị áp đặt bởi các luật lệ hà khắc của chính phủ. Francois
Quesnay đã khai thác chi tiết này để phát triển lý thuyết địa tô của phái trọng nông.
1.3.3. Về giá cả ruộng đất
William Petty cho rằng, bán ruộng đất là bán quyền được hưởng địa tô và giá
cả ruộng đất do địa tô quyết định, giá cả của ruộng đất cao hay thấp là do giá trị địa
tô mà nó đem lại. Công thức được ông đưa ra là:
Giá cả ruộng đất = Địa tô x 20
Để có công thức này, William Petty đã dựa vào các tài liệu thống kê dân số,
đặc biệt là xác định khoảng cách trung bình giữa các thế hệ trong một gia đình. Kết
quả là cứ sau 20 năm, một gia đình sẽ có thêm một thế hệ mới. Ông lý luận rằng
trong các gia đình ở Anh thông thường luôn có ba thế hệ cùng sinh sống. Tổng địa
tô trong số năm khoảng cách giữa hai thế hệ sẽ quyết định giá của mảnh đất họ đang
sinh sống. Đó là lý do ông lấy số 20 cho công thức tính giá cả ruộng đất của mình. lOMoAR cPSD| 58737056
Trong điều kiện xã hội ở Anh thế kỷ XVII, việc thống kê chính xác dân số rất khó
khăn. Vì vậy, mong muốn suy luận một cách chính xác theo công thức dựa trên các
thông số vĩ mô không chắc chắn thường đưa ra một kết luận sai. Đó cũng là trường hợp của William Petty. NHẬN XÉT CHUNG:
Mặc dù còn nhiều thiếu sót và chịu ảnh hưởng của Chủ Nghĩa Trọng Thương
nhưng William Petty đã có những bước tiến lớn để khắc phục những sai lầm cơ bản
của Chủ Nghĩa Trọng Thương. Nói chung, các quan điểm kinh tế của William Petty
vẫn còn những mặt hạn chế, và về lý thuyết địa tô cũng vậy. Nhưng ông vẫn là người
đã có công lớn trong việc đặt nền móng xây dựng những nguyên lý của trường phái
kinh tế học cổ điển ở Anh.
2. Lý thuyết địa tô của Adam Smith.
2 .1. Đặc điểm phương pháp luận của Adam Smith:
Adam Smith (1723-1790) sinh ra và lớn lên ở Kilcadry, Scotland, trong một
gia đình nhân viên hải quan. Ông học tại Đại học Glasgow, sau đó tiếp tục học tại
Đại học Oxford và trở thành nhà lý luận kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng người
Anh. Smith dạy thần học tự nhiên, logic, luật và kinh tế chính trị.
Về phương pháp luận của Adam Smith, K. Marx nhận xét: Một mặt Adam
Smith quan sát các mối quan hệ nội tại và các phạm trù kinh tế. Mặt khác, Adam
Smith lại coi mối quan hệ này là mối liên hệ hiển nhiên của các hiện tượng...
Phương pháp nghiên cứu của Adam Smith đã có tác động sâu sắc đến lý thuyết kinh tế tư sản sau này.
Ông được coi là “cha đẻ của lý thuyết kinh tế thị trường” hay nói rộng hơn
là cha đẻ của kinh tế học hiện đại.
2 .2. Lý thuyết địa tô của Adam Smith :
2 .2.1 . Lý thuyết địa tô của Adam Smith:
Các nhà vật lý nông nghiệp người Pháp coi đất đai là nguồn thặng dư, trong
khi Adam Smith coi đất đai là sức lao động của con người. Adam Smith tin rằng
“tiền lương, lợi nhuận và tiền thuê là ba nguồn đầu tiên của mọi giá trị trao đổi”.
Do đó, ông coi lợi nhuận, tiền thuê và doanh thu là những khoản khấu trừ từ sản
phẩm lao động của người công nhân. “Bây giờ tất cả đất đai ở nước này nước kia
đã trở thành tài sản riêng, những người sở hữu đất đai cũng như tất cả những
người khác muốn gặt hái những gì họ chưa gieo trồng và thậm chí họ còn bắt đầu
thu tiền thuê từ sản phẩm tự nhiên. lOMoAR cPSD| 58737056
Bởi vậy, A. Smith đã đưa ra hai khái niệm về địa tô: Một là, địa tô là “khoản
khấy trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động” là kết quả của sự bóc lột trực tiếp của
người sản xuất; Hai là địa tô là “ tiền trả cho việ sử dụng đất đai“ “phụ thuộc vào
độ phì nhiêu của đất”. Adam Smith cũng là người đầu tiên đưa ra lập luận cơ bản
về thuế tư sản, đó là chuyển gánh nặng thuế sang địa chủ và giai cấp công nhân.
Điểm nổi bật trong nghiên cứu của Adam Smith về địa tô là ông đã phân biệt hai
hình thức địa tô chênh lệch II, nhưng ông không nghiên cứu địa tô chênh lệch II
và phủ nhận địa tô tuyệt đối. Ngoài ra, A. Smith còn bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa
nông nghiệp do Francois Quesnay đại diện. Theo đó, ông cho rằng tiền thuê đất
chỉ tồn tại trong nông nghiệp. Vì nông nghiệp được hỗ trợ bởi tính chất của đất
đai nên ông cho rằng năng suất lao động nông nghiệp cao hơn năng suất lao động công nghiệp.
Nhìn chung, A. Smith đã mang lại nhiều thành tựu cho kinh tế học cổ điển.
Các lý thuyết của ông đã đặt nền tảng quan trọng cho các nhà tư tưởng sau này
trong đó có nhà kinh tế học nổi tiếng David Ricardo. 2.2.2. Hạn chế
Tuy nhiên, lý thuyết của ông vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể, ông cũng như
Petty, tin rằng tiền thuê đất là một phạm trù thường xuyên và lợi ích của chủ đất
nhất quán với lợi ích của xã hội. Ông cũng đưa ra nhiều kết luận trái ngược nhau
về tiền thuê đất, chẳng hạn: trước tiên ông coi tiền thuê đất là một bộ phận cấu
thành của giá tự nhiên, sau đó coi nó là phần dư nằm ngoài giá tự nhiên, sau đó
lại coi nó là một trong những giá tự nhiên. Đầu tiên, tiền thuê được coi là nguyên
nhân tạo ra giá cả, sau đó nó được coi là ảnh hưởng của giá cả. Hơn nữa, ông phủ
nhận tiền thuê tuyệt đối, tức là tiền thuê mà người lao động ở bất kỳ lĩnh vực nào
buộc phải trả cho địa chủ của họ. Nhưng ông cho rằng nếu kinh doanh lĩnh vực
xấu thì không phải trả tiền thuê, vì nếu trả tiền thuê sẽ vi phạm quy luật giá trị.
3. Lý thuyết địa tô của David ricardo.
3.1 Đặc điểm phương pháp luận của David Ricardo:
David Ricardo (1772 -1823) là nhà kinh tế học người Anh, người cổ vũ cho
tư tưởng thương mại tự do quốc tế. Ông đã tiếp bước Adam Smith và đóng góp lớn
vào việc phát triển thuyết giá trị lao động. David Ricardo cũng là một thương gia,
chuyên gia tài chính, nhà đầu cơ. Ricardo sinh trưởng tại London, là con thứ ba
trong số bẩy người con của một gia đình người Do Thái nhập cư từ Hà Lan đến
Anh. Năm 14 tuổi, sau một khóa học ngắn ở Hà Lan, Ricardo đã tham gia công
việc cùng với cha của ông ở Sở giao dịch chứng khoán London, nơi ông bắt đầu
học về các công việc tài chính. Đây là nền tảng cho các thành công sau đó của ông
trên thị trường chứng khoán và kinh doanh bất động sản. lOMoAR cPSD| 58737056
Về phương pháp luận, David Ricardo tiếp tục phương pháp khoa học tự
nhiên. Tư tưởng về quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế đã quán triệt
trong toàn bộ hệ thống lý luận của ông. Ông đã đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho
toàn bộ hệ thống lý thuyết kinh tế.Đặc trưng trong phương pháp luận của David
Ricardo là muốn trình bày sự vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trên cơ
sở tìm hiểu sự phụ thuộc bên trong của quan hệ sản xuất TBCN, sử dụng phương
pháp trừu tượng hóa để nắm lấy bản chất của các hiện tượng kinh tế và các quy luật
chi phối các hiện tượng đó.Tuy vậy, phương pháp của ông còn có tính chất siêu
hình, phi lịch sử và nhiều khi còn thiên về lượng hóa.
3.2 Lý thuyết địa tô của David Ricardo
Nhờ dựa trên cơ sở bộ khung lý luận của Adam Smith đưa ra, các trường
phái kinh tế học cổ điển về sau đã bắt đầu phát triển với nhiều những khái niệm
khác nhau.Trong đó, nổi bật là David Ricardo. Ông đã phê phán những sai lầm của
Adam Smith Nhưng đồng thời cũng tiếp thu và khắc phục những mặt hạn chế trong
lý luận của Smith. Nhờ đó, D. Ricardo đã cho ra đời những khái niệm hoàn chỉnh
hơn, đưa nền kinh tế chính trị cổ điển Anh lên một đỉnh cao lý luận mới
3.2.1 Lý thuyết địa tô:
Đầu tiên, Ông dựa vào lý thuyết giá trị để bác bỏ quan điểm địa tô là sản vật
của tự nhiên và khẳng định địa tô là một phần khấu trừ vào sản phẩm lao động của
công nhân nông nghiệp. Có nghĩa địa tô là lao động làm thuê tạo ra, địa chủ được
hưởng. Ông gián tiếp chỉ ra quan hệ bóc lột ở trong nông nghiệp.
Thứ hai, giá trị nông phẩm được hình thành trên đất xấu, đất tốt thu được
nhiều nông phẩm hơn đất xấu nên phải nộp tô còn đất xấu thì không phải nộp.
Ông lập luận rằng do “đất đai canh tác hạn chế” “độ màu mỡ đất đai giảm
sút”, “năng suất đầu tư bất tương xứng”, trong khi đó dân số tăng nhanh làm cho
nạn khan hiếm tư liệu sinh hoạt là phổ biến cho mọi xã hội. Điều đó buộc xã hội
phải canh tác cả trên ruộng đất xấu mới có đủ lương thực để nuôi sống loài người.
Vì canh tác trên ruộng xấu, nên giá trị nông phẩm là do hao phí lao động trên
ruộng đất xấu nhất quyết định. Do đó tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt và trung
bình thu được lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận siêu ngạch này phải nộp cho địa chủ
dưới hình thức địa tô.
Thứ ba, D.Ricardo đã phân biệt được địa tô và tiền tô. Theo ông, địa tô là việc
trả công cho những khả năng thuần túy tự nhiên, còn tiền tô bao gồm cả địa tô và
lợi nhuận do tư bản đầu tư vào ruộng đất. lOMoAR cPSD| 58737056
Tiền tô = Địa tô + Lợi nhuận của tư bản đầu tư vào nông nghiệp 3.2.2 Hạn chế:
- Gắn lý luận địa tô với quy luật độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm xuống. -
Ông chưa đề cập đến địa tô chênh lệch 2 và phủ nhận địa tô tuyệt đối. Ông cho
rằng, thừa nhận địa tô tuyệt đối là vi phạm quy luật giá trị. Tư tưởng cơ bản trong
học thuyết của D.Ricardo về phân phối thu nhập đã chỉ rõ những xung đột giữa các
giai cấp trong phân phối. Theo ông, khi tiền lương của công nhân có khuynh hướng
tăng do tăng giá lúa mì, địa tô của địa chủ cũng có khuynh hướng tăng vì dân số
càng ngày càng tăng và con người buộc phải khai thác thêm những vùng đất ít màu
mỡ. Xu hướng này sẽ làm cho doanh lợi của các nhà tư bản ngày càng giảm. Trong
sự biến đổi này, công nhân không được lợi nhưng cũng không bị thiệt hại, nhà tư
bản là người bị thiệt hại do lợi nhuận giảm vì vậy, chỉ có giai cấp địa chủ là người
được lợi do địa tô tăng, đây là giai cấp được hưởng lợi duy nhất của tổ chức kinh tế.
4. Lý thuyết địa tô của Sismondi.
4.1. Đặc điểm phương pháp luận
J.C.L.Sismondi là một trong những đại biểu nổi bật nhất của KTCT tiểu tư
sản. Ông sinh ra ở Geneva, Thụy Sĩ. Cha của ông là một giáo sĩ theo đạo Calvin,
thuộc tầng lớp quý tộc lâu đời. Ông là nhà kinh tế học và là nhà sử học lớn. Quá
trình phát triển tư tưởng kinh tế của ông chia thành hai giai đoạn. Trong giai
đoạn đầu, ông ủng hộ A.Smith, ông ủng hộ quan điểm của A.Smith Về tự do kinh
tế, không có sự can thiệp của nhà nước.
Giai đoạn sau, do sự phát triển của cách mạng công nghiệp, trước những mặt
trái của kinh tế thị trường và sự tàn phá nền sản xuất nhỏ của nông dân và thợ thủ
công, ông chuyển sang phê phán chủ nghĩa tư bản và học thuyết kinh tế tư sản cổ
điển. Trên cơ sở đó ông đứng về phía những người sản xuất nhỏ, bênh vực cho
quyền lợi của họ trước sự tấn công của chủ nghĩa tư bản. Từ đó đã hình thành
những quan điểm kinh tế đặc trưng của Sismondi, những quan điểm kinh tế tiểu tư sản.
Theo ông, không thể định nghĩa kinh tế chính trị là khoa học về tài sản, ông
cho rằng đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là phúc lợi vật chất của con
người. Ông phê phán các nhà kinh tế chính trị cổ điển đã xem thường lợi ích của
quần chúng - là những người sản xuất. lOMoAR cPSD| 58737056
Trong nghiên cứu kinh tế, ông áp dụng phương pháp chủ quan và phê phán
việc áp dụng trừu tượng hóa của các nhà kinh tế học cổ điển. Ông xem KTCT là
khoa học của “đạo đức”, “phẩm hạnh”, liên quan đến phẩm giá chứ không liên
quan đến quan hệ kinh tế. Theo ông, cơ sở của các quá trình lịch sử là các “tình
cảm tốt”, “bình đẳng”, chứ không phải là quan hệ sản xuất. Ông đưa ra nguyên tắc
phê phán CNTB theo quan điểm tiểu tư sản, mà đặc trưng của sự phê phán này là
phê phán nền sản xuất lớn TBCN và lý tưởng hóa nền sản xuất nhỏ, lý tưởng hóa
chế độ kinh tế gia trưởng và những điều tốt đẹp của nền kinh tế nông dân trong
CNTB. Từ đó, ông đấu tranh ủng hộ những cải cách trong khuôn khổ xã hội tư bản.
4.2. Lý thuyết về địa tô:
Đầu tiên, Trên cơ sở kế thừa những quan điểm về lợi nhuận của trường phái
tư sản cổ điển, Sismondi cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ tư vào sản phẩm
lao động. Đó là thu nhập không lao động, là kết quả của sự cướp bóc công nhân, là
tai họa kinh tế của giai cấp vô sản. Ông cho rằng, việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt
được bằng cách: Phá huỷ những tư bản cố định bằng sự tiêu vong của công nhân
trong các ngành bị suy sụp.
Tiếp theo, ông cho rằng đất xấu cũng phải nộp tô, đây là điểm tiến bộ hơn lý
thuyết địa tô của David Ricardo.
Cuối cùng, ông cho rằng địa tô là tặng thưởng của tự nhiên. 4.3. Hạn chế:
Hạn chế lớn nhất của các nhà kinh tế tiểu tư sản là: phân tích các vấn đề kinh tế -
xã hội dựa trên cơ sở tình cảm đạo đức của những người sản xuất nhỏ bị phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho tan rã. Từ đó đã đi đến phủ nhận quy luật
khách quan khi phê phán chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nền sản xuất đại công nghiệp,
phủ nhận tính khách quan, hợp quy luật của con đường phát triển xã hội, vì thế có
thái độ cơ bản là tiêu cực đối với nền sản xuất lớn.
Đưa ra cương lĩnh cải tạo xã hội vừa mang tính chất không tưởng, vừa mang
tính chất phản động. Đó là hy vọng vào việc cải tạo xã hội tư bản theo mô hình lý
tưởng phù hợp với đạo đức và tình cảm của người tiểu tư sản ngay trên những cơ sở
tồn tại của xã hội tư bản.
Theo Lê-nin: Gốc rễ của sai lầm là họ không thấy được mối quan hệ biện
chứng của sự phát triển từ sản xuất hàng hoá nhỏ lên sản xuất hàng hoá lớn.
Những tư tưởng của các nhà kinh tế tiểu tư sản được những người cải lương
xã hội triệt để lợi dụng. lOMoAR cPSD| 58737056
5. Lý thuyết địa tô của Karl marx.
5.1. Sơ lược về Karl Marx và Kinh tế chính trị Marxist.
Karl Heinrich Marx (1818 - 1883) là một nhà triết học, kinh tế học, sử học,
xã hội học, lý luận chính trị, nhà báo và nhà cách mạng người Đức gốc Do Thái.
Mặc dù chịu ảnh hưởng rất lớn từ những tư tưởng của trường phái kinh tế chính trị
cổ điển của Adam Smith và David Ricardo. Tuy nhiên, nếu so sánh với trường phái
kinh tế chính trị cổ điển, thì có thể nói, trường phái kinh tế chính trị Marxist của
Marx đã đưa lý luận về địa tô lên tới đỉnh cao.
Đây là trường phái kinh tế chính trị mà Karl Marx là người sáng lập và
Friedrich Engels là một đại biểu khác. Trường phái này đã phát triển đáng kể
những lý luận về phân công lao động và lý luận giá trị lao động của kinh tế chính
trị tân cổ điển, từ đó giới thiệu lý luận về lao động thặng dư, giá trị thặng dư, quy
luật giá trị và thay đổi hình thái giá trị. Marx đã phê phán lý luận về dư thừa dân số
của Malthus và giới thiệu khái niệm về đội quân lao động dự bị. Marx đã tiếp thu
và phát triển những lý luận của Ricardo về phân phối. Những đóng góp quan trọng
khác của trường phái này là các lý luận về phương tiện sản xuất, phương thức sản
xuất, lực lượng sản xuất…
5.2. Lý thuyết địa tô của Karl Marx.
5.2.1. Điểm khác biệt trong lý luận về địa tô của Karl Marx so với trường
phái kinh tế chính trị cổ điển.
Nói về địa tô, Marx đã làm rõ được địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ
nghĩa. Ông cho rằng sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là cơ sở hình
thành địa tô tư bản chủ nghĩa. Ông định nghĩa địa tô tư bản chủ nghĩa: "là phần giá
trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân phải nộp cho địa
chủ". Theo Karl Marx, người sở hữu đất đai có thu nhập nhờ dựa vào quyền sở hữu
đất đai mà không phải qua lao động, khoản thu nhập đó được gọi là địa tô, hay địa
tô là khoản thu nhập khi thực hiện quyền sở hữu đất đai trong nền kinh tế.
Từ những kết quả nghiên cứu của mình, Karl Marx đã nêu ra những hạn chế
trong quan điểm của Adam Smith và David Ricardo. Adam Smith đã sai lầm khi
cho rằng địa tô là một bộ phần cấu thành giá trị của đất. Ông phản bác quan điểm
của David Ricardo cho rằng địa tô tuyệt đối không có sự tồn tại.
5.2.2. Lý thuyết địa tô của Karl Marx .
Lý thuyết địa tô mà Karl Marx đã đưa ra như sau: Địa tô gồm có 2 loại là địa
tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối. lOMoAR cPSD| 58737056
Về địa tô chênh lệch “là phần lợi nhuận vượt ra ngoài lợi nhuận bình quân,
thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn". Trong địa tô
chênh lệch Marx cũng đã chỉ ra có hai loại là: địa tô chênh lệch I– “là loại địa tô
thu được trên những ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi (trung bình và tốt),
gần nơi tiêu thụ, gần đường giao thông” và địa tô chênh lệch II - “là địa tô thu được nhờ thâm canh mà có”.
Theo đó, địa tô chênh lệch I gắn chặt với những đặc điểm khác nhau về điều
kiện tự nhiên vốn có của đất đai như (vị trí địa lý, độ màu mỡ của đất đai, khí hậu,
nguồn nước, điều kiện giao thông...) đã dẫn đến kết quả sản xuất, kinh doanh trên
đất đai có điều kiện tự nhiên khác nhau là khác nhau. Việc sản xuất kinh, doanh
trên những diện tích đất có điều kiện sản xuất tốt, trung bình sẽ mang lại hiệu quả
cao hơn so với kết quả kinh doanh trên đất có điều kiện sản xuất xấu. Do đất đai có
điều kiện sản xuất, kinh doanh tốt là có hạn. Trước nhu cầu ngày càng lớn của xã
hội, buộc phải đưa tất cả các loại ruộng đất vào sử dụng, dẫn đến giá cả của nông
sản được xác định theo chi phí canh tác trên đất có điều kiện kinh doanh xấu. Bởi
vậy, kết quả tất yếu là trên đất tốt, đất trung bình sẽ có nguồn thu cao hơn đất xấu.
Cùng với sự tồn tại của QSH về đất mà địa tô chênh lệch I xuất hiện trên đất có
điều kiện sản xuất trung bình và tốt. Lẽ đương nhiên, chủ SHĐĐ được quyền thu
đối với phần địa tô chênh lệch này. Các chủ thể SDĐĐ có điều kiện sản xuất tốt,
trung bình phải nộp tiền thuê cao hơn so với các chủ thể sử dụng đất có điều kiện sản xuất.
Nếu địa tô chênh lệch I có nguyên nhân từ những yếu tố tự nhiên gắn với đất đai thì
trái lại địa tô chênh lệch II lại không dựa trên cơ sở tự nhiên mà nó được hình thành
trên cơ sở của việc khai thác, SDĐĐ với quy mô, trình độ, năng lực của các chủ thể
SDĐĐ là khác nhau. Những người có trình độ kỹ thuật chuyên môn tốt hơn, quy mô
và tổ chức sản xuất tốt hơn thì có được nguồn thu cao hơn so với những người khác
khi sử dụng cùng một hạng đất. Với Mác, việc chủ đất thu phần chênh lệch này đã
gây lên mâu thuẫn giữa người SDĐĐ và chủ đất. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả của việc khai thác, sử dụng tài nguyên đất đai cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Nó hướng các nhà đầu tư tới những chiến lược đầu tư với các giải pháp trực tiếp để
phát huy vai trò của đất mà không tính đến nguy cơ làm cạn kiện tài nguyên vốn có
của đất, độ màu mỡ của đất, làm suy thoái điều kiện môi trường gắn với đất đai.
Về địa tô tuyệt đối, Marx đưa ra khái niệm “là địa tô mà tất cả các nhà tư bản
kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ dù ruộng đất đó tốt hay xấu. Đây
là loại địa tô thu trên tất cả mọi thứ ruộng đất”. Điểm nổi trội của Karl Marx về địa
tô là lý thuyết về địa tô tuyệt đối, khi mà các nhà kinh tế chính trị học cổ điển chưa có ai làm được. lOMoAR cPSD| 58737056
6. Lý thuyết địa tô của Johann Heinrich von thiinen và sự vận dụng
vào kinh tế tân cổ điển.
6.1. Sơ lược về Johann Heinrich von Thünen
Johann Heinrich von Thünen (24 tháng 6 năm 1783 – 22 tháng 9 năm 1850)
là một địa chủ người Phổ, ông nổi tiếng là một nhà kinh tế học tài ba lỗi lạc ở đầu thế kỷ XIX.
Những dự báo cho nền kinh tế học hiện đại của ông được công nhận, và
Thunen được coi như cha đẻ của lý thuyết địa tô đô thị. Sự đóng góp của Thünen
có ý nghĩa trong việc hình thành nền tảng phân tích của trường phái Vienne.
6.2 . Lý thuyết địa tô của Johann Heinrich von Thünen.
6.2.1 . Lý thuyết địa tô của Johann Heinrich von Thünen.
Tương tự như Ricardo, Johann Heinrich von Thunen cũng cho rằng sự khác
nhau về chất lượng của đất và vị trí là điều kiện để địa tô xuất hiện. Nhưng khác
nhau của hai quan điểm ở chỗ, thay vì tập trung vào độ màu mỡ của đất như
Ricardo, Thunen tập trung khai thác sự khác biệt về vị trí. Quan điểm của ông là
khi nông sản ở quá xa trung tâm đồng nghĩa với chi phí vận chuyển sẽ buộc phải
đắt hơn, ngoài ra còn có nguy cơ các nông sản vận chuyển trong thời gian dài bị hao hụt do hư hỏng.
Vì thế, ông đã nghiên cứu một mô hình với mục đích có thể sử dụng đất như
thế nào để đem lại lợi nhuận tốt cho từng loại sản xuất khác nhau. Cụ thể, mô hình
này được thiết lập với thị trường nằm ở trung tâm. Sau đó ra xa dần sẽ là những
khu sản xuất mà sao cho chi phí vận chuyển tới thị trường được tối ưu nhất.
Tựu chung của vấn đề, lý thuyết của Johann Heinrich von Thünen hướng tới
giải quyết vấn đề trong phân tích địa điểm, nghĩa là địa điểm của nhà sản xuất trên
một diện tích phục vụ cho người tiêu dùng ở một điểm trung tâm. Mặc dù giả định
của thuyết còn hạn chế, tuy nhiên đánh dấu sự khởi đầu có ý nghĩa trong phân tích
địa điểm và trong kinh tế học toán học. Ngoài ra, Greenhut cũng chứng minh việc
phân tích không hạn chế ở các địa điểm nông nghiệp mà còn thích hợp khi quyết
định chọn địa điểm của các ngành sản xuất khác. 6.2.2. Ưu điểm:
Mô hình của Thünen được coi là rất có giá trị cho các nhà kinh tế học tân cổ
điển và kể cả về sau này. Là tiền đề cho sự phát triển của các mô hình khác đa dạng
hơn. Với Friedrich von Wieser thì chú trọng phát triển mô hình thuê độc quyền, giả
định rằng nhu cầu của các hộ gia đình, tức là khả năng và mức độ sẵn sàng chi trả lOMoAR cPSD| 58737056
của họ cho các vị trí đô thị là khác nhau. Với William Alonso, ông đã kết hợp cả
cách tiếp cận của von Thünen vào mô hình tân cổ điển của mình.
Mô hình này của ông giải thích cho mối quan hệ giữa giá thuê và cấu trúc đô
thị. Tiền thuê đất lúc này là tiền được chi trả cho vị trí của đô thị. Mô hình của
William Alonso hướng tới phân tích hành vi tối đa hóa tiện ích hợp lý không chỉ
đối với các công ty mà còn của các hộ gia đình. Alonso giả định rằng các hộ gia
đình chọn vị trí nào đó ở một khoảng cách cụ thể đến khu trung tâm và có thể tối
đa hóa tiện ích của họ. Tức là, họ chọn sống gần trung tâm thành phố với chi phí
vận chuyển thấp hơn (về cả tiền bạc và thời gian) nhưng về không gian sống thì ít
hơn do giá thuê cao hơn. Đối với những vị trí xa trung tâm hơn, giá thuê thấp hơn
đồng nghĩa chi phí vận chuyển cũng phải cao hơn. Với ngân sách có giới hạn, các
hộ gia đình phải quyết định địa điểm phù hợp cùng những tiện ích mà họ cần. 6.2.3. Hạn chế:
Lý thuyết này còn nhiều hạn chế do các giả định trong môi trường đặc thù,
dù vậy, mô hình này là cột mốc có ý nghĩa đánh dấu tiền đề trong phân tích địa
điểm của địa tô đô thị và trong kinh tế học toán học.
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG LÍ LUẬN “ĐỊA TÔ” TRONG VIỆT NAM.
Ngày nay, khi đất nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những lý
luận địa tô đó được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn
để xây dựng đất nước giàu mạnh trong thực tiễn để đất nước trở nên giàu mạnh. Lý
luận này đã trở thành cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông
nghiệp và các ngành khác có liên quan nhằm kích thích phát triển nông nghiệp và
các ngành trong nền kinh tế.
1. Vận dụng trong luật đất đai.
Đất đai là một tài nguyên quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn phân
bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng.
Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý.
Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế hay đơn vị vũ trang để sử dụng. Để
bổ sung cho nguồn ngân sách và thông qua ngân sách thực hiện một số chính sách
phát triển nông nghiệp, những người thuê đất phải đóng thuế cho nhà nước. Thuế
này khác xa với địa tô tư bản chủ nghĩa và địa tô phong kiến vì nó tập trung vào ngân
sách đem lại lợi ích cho toàn dân, nó không mang bản chất bóc lột của địa tô phong
kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa.
Nhà nước đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và
nghĩa vụ của người dân theo những điều khoản như: điều 1, điều 4, điều 5, điều 12, lOMoAR cPSD| 58737056
điều 22, điều 79 luật đất đai. Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai của nhà nước ta
hiện nay cũng ban hành những quy định để người dân phải trả tiền thuê đất (một
hình thức của địa tô) khi sử dụng đất một cách tự nguyện. Hiện nay, đất được cấp
cho dân, dân có quyền sử dụng đất vào mục đích của mình. Nếu đối với đất ở thì
người dân chỉ phải nộp một khoản tiền thuê đất rất nhỏ so với thu nhập của họ. Còn
đối với đất để làm nông nghiệp thì người dân phải nộp thuế nhưng họ có thể tự do
kinh doanh trên đất của mình sao cho thu được lợi nhuận cao nhất. Chẳng hạn như
có vùng trồng lúa, có vùng lại trồng đay và có vùng lại trồng cà phê, điều, bông,….
2. Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp.
Thuế nông nghiệp ở đây không phải thể hiện sự bóc lột đối với nông dân mà
đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi công.
Để khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả; thực hiện công bằng,
hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách Nhà
nước; căn cứ vào điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992. Luật này quy định thuế sử dụng đất nông nghiệp, cụ thể ở các điều
1 đến điều 10, điều 19, điều 21, điều 22, điều 23,…
Việc miễn giảm thuế cho những người dân có hoàn cảnh đặc biệt là một việc
khác xa so với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự sáng tạo của đảng ta
trong việc vận dụng lý luận về địa tô khi đề ra chính sách thuế nông nghiệp, động
viên thúc đẩy người dân sản xuất. Hiện nay, tổng cục thuế đã ban hành quy trình
miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp số 137 TCT/ QD/ NV7 ngày 21/8/2001 cho
các đối tượng chính sách xã hội như: hộ gia đình có công với cách mạng, hộ gia
đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn,…(báo pháp luật số 159 ra ngày 29/8/2001).
3. Vận dụng trong việc cho thuê đất.
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ
phải thuê đất của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương với diện
tích cũng như vị trí của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất rõ việc thuê đất để
kinh doanh, trên cơ sở ấy, ta thấy rõ sự khác biệt và sự vận dụng lý luận địa tô của
Mác trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những văn bản pháp
lý quy định quyền và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất
đều tự nguyện đóng góp. Trong việc thuê đất để kinh doanh thì người đã thuê đất
của nhà nước sẽ phát triển kinh doanh trên mảnh đất đó rồi lấy lợi nhuận mà mình
làm ra để trả cho nhà nước và số tiền đó sẽ vào ngân sách nhà nước. Hiện nay không
chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà nước còn cho
nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách. lOMoAR cPSD| 58737056
=> Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như trong
một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tô vẫn còn tồn tại
nhưng về bản chất thì hoàn toàn khác so với địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ
nghĩa. Tuy nhiên trong việc sử dụng lý luận địa tô của C.Mác trong việc quản lý đất
đai vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chẳng hạn như nhà nước thu đất của nông dân
với giá rất rẻ sau đó quy hoạch xây dựng nhà ở và cho thuê với giá rất cao. Đây là
vấn đề cần được kiến nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù thoả đáng cho
dân. Nếu như trong xã hội phong kiến và tư bản chủ nghĩa, người sử dụng đất phải
nộp tô cho địa chủ thì ngày nay tô hay còn nói các khác là thuế đất, thuế nhà, tiền
thuê đất đều được nộp vào ngân sách nhà nước. Nguồn ngân sách đó lại được dung
vào những công việc nhằm xây dựng đấy nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl_Marx
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/kinh-tedat/phan-
tich-lich-su-ra-doi-cua-ly-thuyet-dia-to/19216171?shared=a
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/ly-luan-dia-to-cua-karl-max-voi-viec-
hoanthien-du-thao-luat-dat-dai-sua-doi-o-nuoc-ta-hien-nay-104819.htm
https://iife.edu.vn/wp-content/uploads/2020/04/William-Petty-1.pdf
https://www.studocu.com/vn/document/hoc-vien-tai-chinh/kinh-te-vi-
mo1/giaotrinh-lich-su-cac-hoc-thuyet-moi-nhat/20819030
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/kinh-tedat/phan-
tich-lich-su-ra-doi-cua-ly-thuyet-dia-to/19216171
https://luatduonggia.vn/van-dung-ly-luan-dia-to-cua-c-mac-trong-viec-quan-ly- datdai-o-viet-nam-hien-nay/
https://lytuong.net/hoc-thuyet-kinh-te-cua-sismondi/ https://vietnambiz.vn/kinh-te-
hoc-mac-xit-marxian-economics-la-gi-dac-
diem20200514194834361.htm#:~:text=Kinh%20t%E1%BA%BF%20h%E1%BB %8Dc
%20M%C3%A1c%2Dx%C3%ADt%20trong%20ti%E1%BA%BFng%20Anh
%20l%C3%A0%20Marxian,c%E1%BB%A7a%20m%E1%BB%99t%20n
%E1%BB%81n%20kinh%20t%E1%BA%BF. lOMoAR cPSD| 58737056
https://vi.wikipedia.org/wiki/Johann_Heinrich_von_Th%C3%BCnen
https://luatminhkhue.vn/su-dong-gop-cua-th%C3%BCnen-gossen-va-
mangoldttrong-viec-hinh-thanh-nen-tang-phan-tich-cua-truong-phai-vienne.aspx
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/kinh-tedat/phan-
tich-lich-su-ra-doi-cua-ly-thuyet-dia-to/19216171?shared=a
https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/Tieu-luan-luat-thuong-mai--Van-dung-
lyluan-dia-to-cua-CMac-trong-viec-quan-ly-dat-dai-o-Viet-Nam-hien-nay-9108/