Chương 7 Kế Hoạch Cung Ứng Vật Tư 6 môn Lập kế hoạch doanh nghiệp | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Chi phí đặt hàng: Bao gồm những phí tổn trong việc tìm kiếm nguồnnguyên vật liệu từ nhà cung cấp, các hình thức đặt hàng. Khi chúng ta sản xuất một lô hàng sẽ phát sinh một chi phí cho việc chuyển đổi qui trình do sự thay đổi sản phẩm từ giai đoạn trước sang giai đoạn tiếp theo..Tài  liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Trường:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.6 K tài liệu

Thông tin:
2 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Chương 7 Kế Hoạch Cung Ứng Vật Tư 6 môn Lập kế hoạch doanh nghiệp | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Chi phí đặt hàng: Bao gồm những phí tổn trong việc tìm kiếm nguồnnguyên vật liệu từ nhà cung cấp, các hình thức đặt hàng. Khi chúng ta sản xuất một lô hàng sẽ phát sinh một chi phí cho việc chuyển đổi qui trình do sự thay đổi sản phẩm từ giai đoạn trước sang giai đoạn tiếp theo..Tài  liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

9 5 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 32573545
Chương 7 KẾ HOẠCH CUNG ỨNG VẬT TƯ 6
7.6. LẬP KẾ HOẠCH TỐI ƯU VỀ DỰ TRỮ VẬT TƯ - HÀNG HOÁ
7.6.2. Phân tích chi phí dự trữ
b. Các chi phí giảm khi dự trữ tăng
- Chi phí đặt hàng: Bao gồm những phí tổn trong việc tìm kiếm nguồn
nguyên vật liệu từ nhà cung cấp, các hình thức đặt hàng. Khi chúng ta sản xuất
một lô hàng sẽ phát sinh một chi phí cho việc chuyển đổi qui trình do sự thay
đổi sản phẩm từ giai đoạn trước sang giai đoạn tiếp theo. Kích thước lô hàng
càng lớn thì dự trữ vật tư càng lớn, nhưng chúng ta đặt hàng ít lần trong năm thì
chi phí đặt hàng hàng năm sẽ thấp hơn.
- Chi phí thiếu hụt dự trữ: Mỗi khi chúng ta thiếu hàng dự trữ nguyên vật
liệu cho sản xuất hoặc thành phẩm cho khách hàng, có thể chịu một khoản chi
phí như là sự giảm sút về doanh số bán hàng và gây mất lòng tin đối với khách
hàng. Nếu thiếu hụt nguyên vật liệu cho sản xuất có thể bao gồm những chi phí
của sự phá vỡ qui trình sản xuất này và đôi khi dẫn đến mất doanh thu, mất lòng
tin khách hàng. Để khắc phục tình trạng này, người ta phải có dự trữ bổ sung
hay gọi là dự trữ bảo hiểm.
- Chi phí mua hàng: Khi mua nguyên vật liệu với kích thước lô hàng lớn sẽ
làm tăng chi phí tồn trữ nhưng chi phí mua hàng thấp hơn do chiết khấu theo số
lượng và cước phí vận chuyển cũng giảm.
Tóm lại: Khi dự trữ tăng sẽ có các chi phí tăng lên và có các khoản chi phí khác
giảm đi, mức dự trữ hợp lý sẽ làm cực tiểu tổng chi phí liên quan đến dự trữ. Do
một số khoản mục cấu thành nên tổng chi phí dự trữ có trị số nhỏ và để đơn giản
trong quá trình tính toán, người ta thường xác định tổng chi phí liên quan đến dự
trữ theo công thức sau
Tổng chi phí dự trữ = Chi phí mua hàng + Chi phí đặt hàng + Chi phí tồn trữ +
Chi phí thiếu hụt dữ trữ
7.6.3. Các mô hình dự trữ vật tư hàng hoá
Để đạt mục tiêu thỏa hiệp giữa lượng dự trữ và chi phí dữ trữ, kế hoạch dự trữ
phải trả lời 2 câu hỏi: Khi nào đặt hàng và đặt hàng với khối lượng bao nhiêu.
+ Với câu hỏi 1 (When to order), doanh nghiệp có thể lựa chọn: Đặt hàng đều
đặn (tức là đặt hàng theo những chu kỳ cố định như hàng tuần, tháng, quí, v.v.)
hoặc đặt hàng khi có nhu cầu (khi mức dự trữ giảm dưới mức cho phép)
lOMoARcPSD| 32573545
+ Với câu hỏi 2 (How much to order), doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn giữa
đặt hàng với lượng cố định (tức là khồi lượng hàng không thay đổi cho mỗi lần
đặt hàng) và đặt hàng với khối lượng thay đổi.
Trên thực tế, nếu doanh nghiệp chọn hệ thống đặt hàng theo chu kỳ cố định với
mức đặt hàng cố định sẽ khó thích ứng với sự biến động của nhu cầu. Còn nếu
chọn theo hệ thống chu kỳ không cố định và khối lượng thay đổi sẽ khó khăn
cho công tác lập kế hoạch. Do đó, thông thường, người ta chọn hệ thống đặt
hàng để tái tạo dự trữ với thời gian thay đổi và lượng hàng cố định (hệ thống 1),
hoặc số lượng thay đổi nhưng chu kỳ cố định (hệ thống 2). Hệ thống 2 thường
thấy hiện nay phù hợp với hệ thống phân phối của các đại lý. Hệ thống 1 (xác
định một số lượng nào đó phù hợp cho mỗi lần đặt hàng và cứ đến lúc nào cần
thì đặt đúng số lượng đó) thích hợp hơn với các doanh nghiệp sản xuất nên ta sẽ
xem xét mô hình này.
Hệ thống lượng đặt hàng cố định thiết lập các đơn hàng với cùng số lượng cho
một loại vật tư khi vật tư đó được đặt hàng. Lượng tồn kho giảm cho đến mức
giới hạn nào đó sẽ được 104 tiến hành đặt hàng, tại thời điểm đó lượng hàng còn
lại được tính bằng cách ước lượng số lượng vật liệu mong đợi được sử dụng
giữa thời gian chúng ta đặt hàng đến khi nhận được lô hàng khác của loại vật
liệu này.
Việc kiểm tra hàng tồn trữ đơn giản nhất là ứng dụng kiểu hệ thống 2 ngăn.
Trong kiểu hệ thống hai ngăn, từng loại vật tư được giữ trong hai ngăn của n
kho. Khi sử dụng, vật tư ở ngăn lớn được xài cho đến hết, thời điểm này đơn
hàng mới được gửi đi và ngay lúc vật tư trong ngăn nhỏ được sử dụng hết, tức là
lượng tồn kho đã đủ xài cho đến khi nhận được vật tư mới, khi đó cả hai ngăn
vật liệu đều đầy và chu kỳ lặp lại.
Khi các nhà quản trị tác nghiệp phải quyết định số lượng của một vật tư để đặt
hàng trong hệ thống đặt hàng cố định, không có công thức đơn giản nào áp dụng
cho mọi tình huống. Chúng ta khảo sát ở đây ước lượng tối ưu đơn hàng theo 3
kiểu tồn trữ.
| 1/2

Preview text:

lOMoAR cPSD| 32573545
Chương 7 KẾ HOẠCH CUNG ỨNG VẬT TƯ 6
7.6. LẬP KẾ HOẠCH TỐI ƯU VỀ DỰ TRỮ VẬT TƯ - HÀNG HOÁ
7.6.2. Phân tích chi phí dự trữ
b. Các chi phí giảm khi dự trữ tăng -
Chi phí đặt hàng: Bao gồm những phí tổn trong việc tìm kiếm nguồn
nguyên vật liệu từ nhà cung cấp, các hình thức đặt hàng. Khi chúng ta sản xuất
một lô hàng sẽ phát sinh một chi phí cho việc chuyển đổi qui trình do sự thay
đổi sản phẩm từ giai đoạn trước sang giai đoạn tiếp theo. Kích thước lô hàng
càng lớn thì dự trữ vật tư càng lớn, nhưng chúng ta đặt hàng ít lần trong năm thì
chi phí đặt hàng hàng năm sẽ thấp hơn. -
Chi phí thiếu hụt dự trữ: Mỗi khi chúng ta thiếu hàng dự trữ nguyên vật
liệu cho sản xuất hoặc thành phẩm cho khách hàng, có thể chịu một khoản chi
phí như là sự giảm sút về doanh số bán hàng và gây mất lòng tin đối với khách
hàng. Nếu thiếu hụt nguyên vật liệu cho sản xuất có thể bao gồm những chi phí
của sự phá vỡ qui trình sản xuất này và đôi khi dẫn đến mất doanh thu, mất lòng
tin khách hàng. Để khắc phục tình trạng này, người ta phải có dự trữ bổ sung
hay gọi là dự trữ bảo hiểm. -
Chi phí mua hàng: Khi mua nguyên vật liệu với kích thước lô hàng lớn sẽ
làm tăng chi phí tồn trữ nhưng chi phí mua hàng thấp hơn do chiết khấu theo số
lượng và cước phí vận chuyển cũng giảm.
Tóm lại: Khi dự trữ tăng sẽ có các chi phí tăng lên và có các khoản chi phí khác
giảm đi, mức dự trữ hợp lý sẽ làm cực tiểu tổng chi phí liên quan đến dự trữ. Do
một số khoản mục cấu thành nên tổng chi phí dự trữ có trị số nhỏ và để đơn giản
trong quá trình tính toán, người ta thường xác định tổng chi phí liên quan đến dự trữ theo công thức sau
Tổng chi phí dự trữ = Chi phí mua hàng + Chi phí đặt hàng + Chi phí tồn trữ +
Chi phí thiếu hụt dữ trữ
7.6.3. Các mô hình dự trữ vật tư hàng hoá
Để đạt mục tiêu thỏa hiệp giữa lượng dự trữ và chi phí dữ trữ, kế hoạch dự trữ
phải trả lời 2 câu hỏi: Khi nào đặt hàng và đặt hàng với khối lượng bao nhiêu.
+ Với câu hỏi 1 (When to order), doanh nghiệp có thể lựa chọn: Đặt hàng đều
đặn (tức là đặt hàng theo những chu kỳ cố định như hàng tuần, tháng, quí, v.v.)
hoặc đặt hàng khi có nhu cầu (khi mức dự trữ giảm dưới mức cho phép) lOMoAR cPSD| 32573545
+ Với câu hỏi 2 (How much to order), doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn giữa
đặt hàng với lượng cố định (tức là khồi lượng hàng không thay đổi cho mỗi lần
đặt hàng) và đặt hàng với khối lượng thay đổi.
Trên thực tế, nếu doanh nghiệp chọn hệ thống đặt hàng theo chu kỳ cố định với
mức đặt hàng cố định sẽ khó thích ứng với sự biến động của nhu cầu. Còn nếu
chọn theo hệ thống chu kỳ không cố định và khối lượng thay đổi sẽ khó khăn
cho công tác lập kế hoạch. Do đó, thông thường, người ta chọn hệ thống đặt
hàng để tái tạo dự trữ với thời gian thay đổi và lượng hàng cố định (hệ thống 1),
hoặc số lượng thay đổi nhưng chu kỳ cố định (hệ thống 2). Hệ thống 2 thường
thấy hiện nay phù hợp với hệ thống phân phối của các đại lý. Hệ thống 1 (xác
định một số lượng nào đó phù hợp cho mỗi lần đặt hàng và cứ đến lúc nào cần
thì đặt đúng số lượng đó) thích hợp hơn với các doanh nghiệp sản xuất nên ta sẽ xem xét mô hình này.
Hệ thống lượng đặt hàng cố định thiết lập các đơn hàng với cùng số lượng cho
một loại vật tư khi vật tư đó được đặt hàng. Lượng tồn kho giảm cho đến mức
giới hạn nào đó sẽ được 104 tiến hành đặt hàng, tại thời điểm đó lượng hàng còn
lại được tính bằng cách ước lượng số lượng vật liệu mong đợi được sử dụng
giữa thời gian chúng ta đặt hàng đến khi nhận được lô hàng khác của loại vật liệu này.
Việc kiểm tra hàng tồn trữ đơn giản nhất là ứng dụng kiểu hệ thống 2 ngăn.
Trong kiểu hệ thống hai ngăn, từng loại vật tư được giữ trong hai ngăn của nhà
kho. Khi sử dụng, vật tư ở ngăn lớn được xài cho đến hết, thời điểm này đơn
hàng mới được gửi đi và ngay lúc vật tư trong ngăn nhỏ được sử dụng hết, tức là
lượng tồn kho đã đủ xài cho đến khi nhận được vật tư mới, khi đó cả hai ngăn
vật liệu đều đầy và chu kỳ lặp lại.
Khi các nhà quản trị tác nghiệp phải quyết định số lượng của một vật tư để đặt
hàng trong hệ thống đặt hàng cố định, không có công thức đơn giản nào áp dụng
cho mọi tình huống. Chúng ta khảo sát ở đây ước lượng tối ưu đơn hàng theo 3 kiểu tồn trữ.