



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58504431
PHẦN 2: ĐỊA LÝ CHƯƠNG I: Địa lý tự nhiên đại cương
I. Vũ Trụ và hệ Mặt Trời 1. Một số khái niệm -
Vũ trụ: là khoảng không gian bao la vô cùng tận, trong đó có các thiên thể
luôn luôn vận động. Các thiên thể bao gồm: sao, hành tinh, vệ tinh, tiểu hành tinh, sao
chổi, thiên thạch, bụi vũ trụ. Các thiên thể không hoàn toàn cô lập với nhau mà có mối
liên hệ lẫn nhau, được kết hợp với nhau tạo nên những hệ thống phức tạp với những quy luật riêng. -
Dải Ngân Hà: là tập hợp của khoảng 150 tỉ ngôi sao, có dạng thấu kính lồi
với đường kính 100 000 năm ánh sáng, dày 12 000 năm ánh sáng. Dải có cấu trúc xoắn
ốc, chu kì tự quay quanh trục là 180 triệu năm, tốc độ chuyển động đạt tới 250 km/s - Sao:
là các thiên thể có kích thước lớn và tự phát sáng được. -
Hành tinh: là các thiên thể có kích thước nhỏ hơn các sao gấp nhiều lần,
không tự phát sáng được và thường chuyển động quanh các sao. -
Vệ tinh: là thiên thể chuyển động xung quanh các hành tinh, có kích thước
nhỏ và có các đặc tính tương tự như các hành tính. -
Tiểu hành tinh: có những đặc tính tương tự như hành tinh nhưng có kích
thước nhỏ hơn hành tinh và vệ tinh. -
Sao chổi và các thiên thạch: là các vật thể có kích thước nhỏ, chuyển động
có quy luật hay không có quy luật trong không gian vũ trụ.
2. Nguyên nhân hình thành vũ trụ
Hiện nay có nhiều giả thuyết về sư hình thành vũ trụ, nhưng thuyết được nhiều người
thừa nhận nhất hiện nay là thuyết Bigbang (Vụ nổ lớn).Theo thuyết này, vũ trụ được hình
thành từ vụ nổ lớn cách đây khoảng 15 tỉ năm. Thuyết này được nhiều người công nhận vì: -
Vật chất cấu tạo nên các thiên thể trong vũ trụ đồng nhất (chủ yếu gồm hidro, heeli, …) -
Bức xạ tàn dư của vũ trụ sau vụ nổ lớn do vệ tinh vũ trụ Coobe thu được. - Vũ trụ đang giãn nở.
GT: Năm 1927, một linh mục người Bỉ là Georges Lemaître là người đầu tiên đề xuất
rằng vũ trụ đã ra đời từ một vụ nổ phát sinh từ một cái tâm nguyên thuỷ. Hơn 1 năm sau
đó, Edwin Hubble với những quan sát chi tiết về độ dịch bước sóng của các thiên hà ở xa
đã nhận ra rằng tất cả các thiên hà đều đang chạy ra xa chúng ta theo mọi hướng. Trong
khi đó chúng ta thì hẳn không phải trung tâm của vũ trụ, như vậy là vũ trụ đang giãn nở
theo mọi hướng, không gian có kích thước và nó đang ngày càng tăng lên cùng với chiều lOMoAR cPSD| 58504431
tăng của thời gian. Hubble được coi là người đầu tiên đặt nền tảng cho thuyết BigBang.
Tuy nhiên đến tận năm 1948, George Gamov mới biến BigBang thành một lí thuyết cho
biết vũ trụ ra đời từ một vụ nổ lớn nóng (the hot big bang). Tất nhiên có rất nhiều sự hoài
nghi về lí thuyết này cho đến năm 1964, khi Arno Penzias và Robert Wilson phát hiện ra
sự tồn tại của bức xạ nền vũ trụ (cosmic background radiation) - và họ đã nhận giải Nobel
cho phát hiện này. Sự tồn tại của loại bức xạ này đã chứng minh rằng vũ trụ phải ra đời từ
một vụ nổ lớn cách đây khoảng 10 - 20 tỉ năm. Như vậy là theo thuết BigBang nói trên,
tất cả chúng ta (vũ trụ) đã ra đời cách đây 15 tỷ năm bởi một vụ nổ.
Vụ nổ lớn-Thuyết Bigbang
Thuyết Bigbang cho rằng Vũ trụ được hình thành cách đây khoảng 15 tỉ năm, sau một vụ
nổ lớn từ “một nguyên tử nguyên thủy”. Nguyên tử này chứa vật chất bị nén ép trong một
không gian vô cùng nhỏ bé nhưng cực kì đậm đặc, có nhiệt độ cực cao. Do trạng thái
không ổn định này, vụ nổ làm tung ra trong không gian những đám bụi khí khổng lồ. Vũ
trụ khi đó chứa nhiều nhất là các hạt cơ bản: electron, pozitron, nơtrino, photon. Những
hạt này không ngừng được sinh ra từ năng lượng đơn thuần nhưng ngay sau đó lại bị hủy.
Sau vụ nổ, nhiệt độ giảm dần theo quá trình dãn nở của Vũ trụ. Sau ba phút đầu tiên,
nhiệt độ chỉ còn 1 tỉ độ. Khi đó, các hạt proton và nơton có thể liên kết lại để tạo nên hạt
nhân nguyên tử. Vũ trụ lúc này chủ yếu chứa các hạt photon, nơtrino (73% hạt nhân hiđrô,
27% hạt nhân hêli) và một ít electron.
Tất cả các hạt vật chất này tiếp tục tản ra xa nhau, nhiệt độ và tỉ trọng tiếp tục giảm dần.
Vài ngàn năm sau vụ nổ, nhiệt độ mới đủ thấp để các electron có thể bị các hạt nhân bắt
giữ tạo ra các nguyên tử hiđrô và hêli. Đám khí này sẽ tụ tập ngẫu nhiên dưới tác động
của lực hấp dẫn, hình thành các thiên hà và các ngôi sao trong vũ trụ hiện nay.
Năm 1929, thông qua việc đo sự di chuyển vị trí vạch quang phổ về phía có bước sóng
tương đối dài- tức là về phía màu đỏ, nhà thiên văn Mỹ Hơpbơn (Hublle) đã phát hiện ra
rằng: các thiên hà đều chạy ra xa nhau, tốc độ rời xa tỉ lệ với khoảng cách đến người quan
sát. Việc các thiên hà rời xa nhau chứng tỏ Vũ trụ đang giãn nở, kích thước vũ trụ ngày
một lớn lên. Như vậy là nếu đi ngược thời gian thì kích thước vũ trụ ngày càng nhỏ đi và
cho đến thời điểm kích thước vũ trụ chỉ còn là “một quả trứng Vũ trụ”. Một căn cứ quan
trọng khác giúp khẳng định sự hiện diện của luận thuyết “Vụ nổ lớn” là việc vào năm
1964, hai kĩ sư người Mĩ là A.Pendiat (A.Penzias) và R.Uynsơn (Wilson) phát hiện ra một
loại tạp âm có bước sóng 7,35 cm phát ra từ tất cả các hướng của bầu trời và không phụ
thuộc vào thời gian. Dựa vào đặc tính bức xạ của loại tạp âm này, A.Pediat và R.Uynsơn
tính ra được nguồn phát ra nó là vật thể có nhiệt độ là 30 K (tức – 270o C). Sau này, phát
hiện của A.Pediat và R.Uynsơn đã được Peebles, nhà Vật lí lí thuyết Mỹ giải thích rằng, lOMoAR cPSD| 58504431
tạp âm đó chính là tàn dư của giai đoạn đầu hình thành Vũ trụ mà nhiệt độ tương đương
khoảng 3oK. Đó là nhiệt độ của Vũ trụ hiện nay.
3. Hệ Mặt trời
- Hệ mặt Trời gồm Mặt trời là thiên thể phát sáng, quay xung quanh nó là các hành
tinh và các thiên thể không phát sáng. Cho đến nay người ta đã phát hiện ra các hành tinh
và các thiên thể: 1) Sao Thuỷ (Mercure); 2) Sao Kim (Venus); 3) Quả Đất; 4)
Sao Hoả (Mars); 5) Ceres là một tiểu hành tinh tìm thấy năm 1801 (thhiên thể này chưa
được hội đồng thiên văn quốc tế xếp vào các hành tinh); 6) Sao Mộc (Jupiter); 7) Sao Thổ
(Saturne); 8) Sao Thiên vương (Uranus); 9) Sao Hải Vương (Neptune); 10) Sao
Diêm Vương (Pluton) (thiên thể này trước đây được gọi là hành tinh nhưng sau này bị hội
đồng thiên văn quốc tế loại khỏi danh sách các hành tinh); 11) Xêna hay còn gọi là Eris
mang mã số 2003UB313, phát hiện ngày 29/7/2005. Thiên thể này cũng chưa được hội
đồng thiên văn quốc tế xếp vào hàng ngũ các hành tinh. 12) Các sao chổi.
GT: Trước đây chúng ta còn biết đến hành tinh thứ 9 là Sao Diêm Vương (Pluto). Tuy
nhiên đến tháng 8 năm 2006, hành tinh này đã được xét lại và với các yếu tố về khối
lượng, đường kính và khả năng phản chiếu ánh sáng quá thấp so với 8 hành tinh còn lại,
Sao Diêm Vương đã bị loại ra khỏi danh sách các hành tinh chủa Hệ Mặt Trời.
Nó được đưa vào một nhóm thiên thể mới gọi là các “hành tinh lùn” (dwarf planet). Hiện
nay nhóm này gồm có 3 thành viên là Pluto, Ceres - tiểu hành tinh lớn nhất trong vành
đai tiểu hành tinh, và 2003UB313 - một thiên thể được phát hiện năm 2003 tại vành đai
Kuiper. Đây là các thiên thể được coi là trung gian giữa hành tinh và tiểu hành tinh. Chúng
không đủ khối lượng, đường kính và khả năng phản chiếu ánh sáng để trở thành hành tinh
nhưng lại … quá lớn so với kích cỡ trung bình của các tiểu hành tinh.
8 hành tinh trong hệ Mặt Trời được chia làm 2 nhóm: -
Các hành tinh nhóm trong gồm Sao Thuỷ, Sao Kim, Trái Đất và Sao Hoả -
Các hành tinh nhóm ngoài gồm Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương
Các hành tinh nhóm trong có khối lượng và kích thước khá nhỏ so với các hành tinh
nhóm ngoài. Hai nhóm hành tinh ngăn cách nhau bởi một vành đai tiểu hành tinh
(asteroid) và vô số các thiên thạch nhỏ cùng quay quanh Mặt Trời.h 3.1. Mặt trời
Mặt trời là trung tâm, là hạt nhân của hệ Mặt trời, đồng thời là nguồn cung cấp năng
lượng chủ yếu và là động lực của mọi quá trình tự nhiên diễn ra trên Trái Đất. Mặt trời là
một ngôi sao, một quả cầu khí khổng lồ, rực sáng. Nó có đường kính 1
392 106 km (gấp 109 lần đường kính Trái Đất). Khối lượng của Mặt trời là 1,9891 ×1030
kg (332.946 lần Trái Đất), chiếm 99,88% toàn bộ khối lượng hệ Mặt Trời. Thành phần lOMoAR cPSD| 58504431
của Mặt trời gồm: 70% khối lượng là khí hyđrô, 29% là khí hêli và 1% là các chất khí
khác. Vì thế, tỷ trọng trung bình của Mặt Trời rất nhỏ (1,41 g/cm3).
Nhiệt độ bên ngoài của Mặt Trời lên tới khoảng 60000C, trong lòng có thể đạt tới 20
triệu 0C. Nguồn nhiệt này có được là do các phản ứng nhiệt hạch, hạt nhân xảy ra trong
lòng Mặt Trời tạo ra (hình 21). Mặt Trời bức xạ ra xung quanh dưới dạng sóng điện từ (tia
tử ngoại, tia nhìn thấy, tia hồng ngoại...) và các hạt.
Mặt Trời tự quay quanh trục với thời gian để hoàn thành một vòng là 27,35 ngày
đêm (hướng quay như hướng tự quay của Trái Đất và ngày đêm cũng tính theo Trái Đất).
Ngoài ra, nó cũng còn chuyển động trong hệ Ngân Hà quanh tâm của nó mất khoảng 180 triệu năm.
Mặt Trời cũng có các chu kì hoạt động mạnh yếu khác nhau, rõ rệt nhất là các chu
kì 11, 22 năm. Khi Mặt Trời hoạt động mạnh có thể gây ra hiện tượng cực quang, bão từ... trên Trái Đất.
3.2. Hệ Mặt Trời có các đặc điểm chính -
Tất cả các hành tinh đều chuyển động quanh Mặt Trời theo một quỹ đạo gần
tròn (còn gọi là chuyển động ellip có tâm sai nhỏ). -
Các hành tinh chuyển động trên qũy đạo theo chiều thuận thiên văn (ngược
chiều kim đồng hồ nếu nhìn từ Bắc thiên cực xuống). -
Mặt phẳng qũy đạo của các hành tinh gần trùng khớp nhau, phần lớn không
quá 4o (trừ Thuỷ tinh 7 o và Diêm vương tinh 17 o ). -
Các sao chổi, thiên thạch chuyển động tuy có phức tạp hơn nhưng chúng vẫn
biểu hiện quy luật chung: chu kỳ xuất hiện, qũy đạo... -
Hướng chuyển động tự quay quanh trục là ngược chiều kim đồng hồ (trừ
Kim tinh, Thiên vương tinh) -
Dựa vào các tính chất vật lý, kích thước... các nhà khoa học chia các hành
tinh trong hệ Mặt Trời thành 2 nhóm:
+ Nhóm các hành tinh nội (còn gọi là nhóm Trái Đất) gồm Thủy tinh, Kim tinh,
Trái Đất, Hoả tinh. Nhóm này có đặc điểm: kích thước nhỏ, tỉ trọng trung bình lớn, tốc độ
tự quay xung quanh trục chậm, có ít hoặc không có vệ tinh.
+ Nhóm các hành tinh ngoại gồm Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên vương tinh, Hải vương
tinh và Diêm vương tinh. Nhóm này có đặc điểm: kích thước lớn, tỉ trọng trung bình nhỏ,
tốc độ tự quay quanh trục nhanh và có nhiều vệ tinh.
4. Sự hình thành các sao, hành tinh
a) Sao được hình thành từ một đám mây khí và bụi. Để duy trì sự tồn tại, sao đốt
nhiên liệu như hyđrô, hêli, carbon…từ đám mây bụi vũ trụ bằng những phản ứng tổng
hợp nhiệt hạch phát ra nhiều năng lượng. lOMoAR cPSD| 58504431
GT: Mặt Trời và các thành viên trong hệ Mặt trời được hình thành cách đây khoảng
4,6 tỉ năm, từ một đám mây bụi khí rất lớn có bán kính khoảng 103 đơn vị thiên văn (đơn
vị đo khoảng cách giữa các thiên thể trong vũ trụ, được tính bằng khoảng cách trung bình
từ Trái Đất đến Mặt Trời và bằng 149,5 triệu km). Thành phần chính của đám mây này là
khí hiđrô và khí hêli, ngoài ra còn có một số rất ít các hạt bụi và băng của các nguyên tố
khác. Khoảng 4,6 tỉ năm trước, do một số nguyên nhân còn chưa được biết, đám mây khí
đủ đậm đặc để có lực hấp dẫn lớn và bắt đầu co lại dưới tác dụng của lực hấp dẫn. Phần
trung tâm của đám mây co lại thành quả cầu khí. Bộ phận khí ở tâm bị nén và trở nên
nóng hơn. Sau vài triệu năm, nhiệt độ đủ nóng để cho sự tổng hợp hiđrô bắt đầu tại tâm
đám bụi khí. Quả cầu khí đã trở thành Mặt Trời. Phần ngoài cùng của đám mây cũng co
lại nhưng không phải chỉ do lực hấp dẫn. Lúc đầu, bộ phận khí bên ngoài quay rất chậm.
Khi co lại chúng bắt đầu quay nhanh hơn, và khi quay đủ nhanh để lực li tâm cân bằng
với lực hấp dẫn thì sự co ngừng lại. Toàn bộ khí dồn lại trong một đĩa bao quanh Mặt Trời.
Khí đó chứa các hạt bụi và các hạt băng, ban đầu kích thước rất nhỏ, khi va chạm,
chúng kết dính với nhau để trở thành hạt lớn hơn. Đến lượt chúng, những hạt lớn hơn này
lại va chạm nhau và dần dần kết dính thành những tảng đá lớn hơn. Khi những tảng đá đủ
lớn thì lực hấp dẫn của chúng hút tiếp các hạt bụi và đá khác, dần dần hình thành những thiên thể cỡ hành tinh.
Vì đại bộ phận các tảng đá đều bị hút nên chúng rơi với tốc độ lớn vào các hành
tinh, đồng thời giải phóng nhiều nhiệt năng làm cho các hành tinh nóng lên. Sau một thời
gian, khi không còn cá tảng đá rơi vào thiên thể nữa thì phần ngoài của các thiên thể có
kích thước hành tinh này sẽ nguội dần và rắn lại. Trong khi đó, bên trong lòng các hành
tinh bị nung chảy do sự phân hủy phóng xạ. Nhiệt độ cao đã tạo cho các nguyên tố nặng
như sắt (Fe) và Niken (Ni) dồn về phía tâm của hành tinh. Thủy tinh, Kim tinh, Trái Đất
và Hỏa tinh được hình thành như vậy.
Trái lại, các hành tinh: Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên vương tinh và Hải vương tinh lại
được hình thành không chỉ từ các đám mây nguyên thủy (chưa bị phân dị) mà cả những
khí bị bốc hơi từ trong ra, bởi vậy hiện nay các hành tinh kiểu Mộc tinh chứa tới 75% là
hiđrô, 23% là heli với một lõi vật chất rắn nằm gần tâm. Những khí này bị giữ ở bề mặt
các hành tinh do có lực hấp dẫn lớn và nhiệt độ bề mặt thấp (thí dụ Mộc tinh có lực hấp
dẫn lớn gấp 2,74 lần lực hấp dẫn ở bề mặt Trái Đất, nhiệt độ bề mặt từ 110o đến 150o K).
Cuối cùng Mặt Trời trở nên nóng và phát sáng thì toàn bộ các khí, bụi và hạt băng còn lại
đều bị thổi ra khỏi hệ Mặt Trời và hệ Mặt Trời có dạng như ngày nay.
b) Giả thuyết của Ốttô Xmít về nguồn gốc của các hành tinh và Trái Đất -
Giả thuyết: Mặt Trời khi chuyển động quanh dải Ngân Hà qua những đám
mây bụi khí nguội lạnh. Khi ra khỏi những đám mây bụi khí đó, Mặt Trời hút một phần lOMoAR cPSD| 58504431
vật chất của chúng. Các đám mây vật chất được Mặt Trời hút quay xung quanh Mặt Trời
do lực hấp dẫn. Phần gần Mặt Trời do bị nung nóng nên vật chất nhẹ bị bốc hơi, các hành
tinh được hình thành có kích thước nhỏ và được cấu tạo bởi vật chất đặc và nặng. Các
hành tinh xa có kích thước lớn được cấu tạo bởi các chất khí và các chất bốc hơi. -
Những hạn chế: nhiều chứng cứ khoa học mới cho rằng Trái Đất và các hành
tinh được hình thành cùng lúc với Mặt Trời chứ không hình thành sau như giả thuyết trên.
II. Hình dạng, kích thước Trái Đât 1. Hình dạng, kích thước của Trái Đất
Trái Đất có dạng hình cầu nhưng không phải là một khối cầu hoàn hảo. Trái Đất dẹt ở
2 cực nên gọi là một khối elipxôit. Nhưng độ dẹt này không chỉ có ở hai cực mà còn ở cả
xích đạo (đường xích đạo cũng là một đường elip).
Tuy nhiên độ dẹt ở xích đạo rất nhỏ.
Gần đây, những số liệu thu được chính xác cho thấy, hình dạng Trái Đất rất phức
tạp. Nó không giống bất cứ một hình học nào, vì vậy người ta đành gọi nó là hình Trái Đất hay Giêôit (Geoid)
Từ các số liệu ở hình 22, có thể tính ra một số số liệu khác về kích thước Trái
Đất: - Bán kính trung bình của Trái Đất là 6371,11 km.
- Diện tích bề mặt Trái Đất: 510 200 000km2.
- Thể tích Trái Đất: 1, 083. 1012 km3.
2. Các hệ quả chính
Dạng hình cầu của Trái Đất đem lại các hệ quả chính: -
Hiện tượng ngày, đêm: Ánh sáng Mặt Trời luôn chiếu sáng một nửa mặt cầu.
Nửa còn lại bị che khuất, vì vậy trên bề mặt Trái Đất lúc nào cũng có hiện tượng ngày, đêm. -
Làm cho các tia sáng song song của Mặt Trời chiếu xuống bề mặt Trái Đất ở
các vĩ độ khác nhau dưới các góc khác nhau (còn gọi là góc nhập xạ). Hiện tượng đó sinh
ra trường nhiệt có sự giảm dần theo hướng từ xích đạo về hai cực. -
Mặt phẳng xích đạo chia Trái Đất thành hai nửa cầu Bắc, Nam và đối xứng
nhau. Nhiều hiện tượng tự nhiên đối xứng và trái ngược nhau ở hai nửa cầu này.
VD: Gió tín phong ở bán cầu Bắc có hướng đông bắc, còn ở bán cầu nam lại có hướng đông nam.
Bán cầu Bắc là mùa nóng thì ở bán cầu Nam là mùa lạnh.
Ở bán cầu Bắc, càng đi về hướng bắc càng lạnh, ngược lại ở bán cầu Nam càng về hướng bắc càng nóng. -
Càng lên cao, cách xa mặt đất, tầm nhìn của con người về phía chân trời càng mở rộng. lOMoAR cPSD| 58504431 -
Trái Đất có dạng hình cầu, do đó có thể tích tối đa so với các hình dạng hình
học khác có cùng diện tích bề mặt, nhờ đó Trái Đất chứa được một lượng vật chất tối đa.
Vật chất càng vào trung tâm càng bị nén chặt, có tỉ trọng lớn và Trái Đất có sự phân chia
thành nhiều lớp đồng tâm. -
Nhờ có kích thước và khối lượng trung bình so với các hành tinh khác mà
Trái Đất đã giữ được một lớp khí quyển dày đặc, đủ tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự
sống hình thành, tồn tại và phát triển.
III.Vận động tự quay quanh trục của Trái Đất và hệ quả
1. Vận động tự quay quanh trục -
Trái Đất tự quay quanh một trục tưởng tượng. Trục này tạo nên một góc
66o33’ với mặt phẳng chứa quỹ đạo chuyển động của TĐ quanh Mặt Trời. -
Trái Đất tự quay một vòng xung quanh trục hết một ngày đêm (trung bình:
24 giờ). Có hai cách xác định thời gian một ngày đêm, đó là xác định theo Mặt Trời và xác định theo sao. -
Hướng tự quay của Trái Đất theo chiều thuận thiên văn (ngược chiều kim
đồng hồ nếu nhìn từ Bắc thiên cực), nói cách khác nó tự quay theo chiều từ Tây sang Đông. -
Bất cứ điểm nào ở bề mặt đất (trừ 2 cực) đều quay được một góc như nhau
trong cùng một đơn vị thời gian. Đó là vận tốc quay (Ω) được tính bằng:
= 2 = 3600 =150 /h T 24h
Như vậy, sau 1 giờ, mọi điểm bất kì ở bề mặt đất đều quay được một góc 15o.
-Vận tốc tự quay (vận tốc dài) của Trái Đất ở các vĩ độ là khác nhau và theo hướng
giảm dần từ xích đạo về cực. Cụ thể, ở xích đạo v = 464 m/s; tốc độ ở các vĩ độ khác được
tính theo công thức: v = 464. cos ϕ m/s (trong đó: ϕ là vĩ độ cần tính).
Chú ý: vận tốc góc ở bất cứ điểm nào cũng như nhau và bằng 15 o/giờ. 2. Các hệ quả
2.1. Tạo ra cơ sở để hình thành hệ thống kinh tuyến - vĩ tuyến trên Trái Đất.
Trong khi Trái Đất tự quay, tất cả các điểm đều di chuyển, riêng có hai điểm không
di chuyển. Đó là cực Bắc và cực Nam của Trái Đất. Giao tuyến giữa bề mặt Trái Đất với
các mặt phẳng chứa trục là các kinh tuyến. Mặt phẳng xích đạo đi qua tâm Trái Đất và
vuông góc với trục Trái Đất cắt bề mặt Trái Đất theo một đường tròn lớn gọi là đường
xích đạo. Các vĩ tuyến trên bề mặt Trái Đất là những vòng tròn song song với đường xích đạo. lOMoAR cPSD| 58504431
Tất cả các đường kinh tuyến và vĩ tuyến nói trên đã tạo nên hệ thống kinh - vĩ tuyến
trên Trái Đất (thực tế những đường này chỉ là các đường tưởng tượng). Hệ thống kinh vĩ
tuyến là cơ sở để xác định tọa độ địa lý, phương hướng và không thể thiếu trong trắc địa,
bản đồ, hàng hải, hàng không, quân sự, vật lý thiên văn...
2.2. Hiện tượng ngày đêm: Do có sự phối hợp giữa hình dạng và hiện tượng tự quay
quanh trục nên trên bề mặt Trái Đất của chúng ta có hiện tượng ngày và đêm kế tiếp nhau
liên tục, sinh ra nhịp điệu ngày đêm.
Nhờ tốc độ tự quay khá lớn và nhịp điệu ngày đêm làm cho chế độ nhiệt trên Trái
Đất được điều hòa. Nhịp điệu ngày đêm cũng tạo ra tính nhịp điệu của nhiều thành phần
tự nhiên và cả hoạt động của con người.
2.3. Giờ địa phương: Trái Đất tự quay theo chiều từ Tây sang Đông nên trong cùng một
thời điểm, các kinh tuyến khác nhau nhìn thấy Mặt Trời ở các vị trí khác nhau. Năm 1884,
Hội nghị quốc tế đã thống nhất chia Trái Đất thành 24 múi giờ và qui định lấy giờ của
kinh tuyến gốc đi qua đài thiên văn Grin uyt (Greenwich) làm giờ quốc tế (giờ GMT) và
được đánh số 0. Việc tính toán theo múi giờ rất đơn giản: đi về phía đông cứ qua một múi
giờ ta cộng thêm một giờ, ngược lại đi về phía tây cứ qua một múi giờ ta trừ đi một giờ.
Ngoài ra, do Trái Đất có hình khối cầu nên khu vực giờ số 0 trùng với khu vực giờ
số 24 nhưng ở hai ngày khác nhau. Để tránh những phiền phức trong giao thông, giao
dịch quốc tế... người ta qui ước chọn kinh tuyến 180 ở giữa múi giờ số 12 làm đường
chuyển ngày quốc tế. Nếu đi từ phía Tây sang phía Đông qua kinh tuyến chuyển ngày thì
phải chuyển sớm lên một ngày, còn nếu đi theo hướng từ Đông sang Tây qua kinh tuyến
chuyển ngày thì phải chuyển lùi lại thêm một ngày.
Như vậy, miền nào trên Trái Đất cũng có giờ riêng (gọi là giờ địa phương). Tuy
nhiên, để tiện cho việc thống nhất quản lí, một số quốc gia rộng lớn có nhiều múi giờ vẫn
chỉ dùng một giờ chung (ví dụ như Trung Quốc). Vì thế, bản đồ giờ các quốc gia trên thế
giới không hoàn toàn giống như lí thuyết.
2.4. Sự lệch hướng của các vật thể chuyển động theo hướng kinh tuyến.
Tất cả các vật thể chuyển động trên bề mặt Trái Đất đều chịu một sự lệch hướng về
bên phải ở nửa cầu Bắc và về bên trái đối với nửa cầu Nam theo hướng chuyển động.
IV.Vận động của Trái Đất quanh Mặt Trời và hệ quả
1. Sự vận động của Trái Đất quanh Mặt Trời.
Trái Đất chuyển động xung quanh Mặt Trời theo một qũi đạo elip gần tròn, dài
993.040.000 km. Do quỹ đạo hình elip nên vào các ngày 3 tháng 1, Trái Đất ở điểm cận
nhật (cách Mặt Trời 147 triệu km) và vào ngày 5 tháng 7, Trái Đất ở điểm viễn nhật (cách Mặt Trời 152 triệu km). lOMoAR cPSD| 58504431
Hướng chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời cũng là hướng từ tây sang đông
(ngược chiều kim đồng hồ). Trái Đất chuyển động với vận tốc trung bình 29, 8 km/s. Vận
tốc lớn nhất tại điểm cận nhật là 30,3km, vận tốc nhỏ nhất tại điểm viễn nhật là 29,3 km.
Để hoàn thành trọn một vòng trên quỹ đạo nó phải cần tới 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây.
Trong quá trình chuyển động, trục Trái Đất luôn nghiêng 66033' so với mặt phẳng
Hoàng đạo, người ta gọi đó là chuyển động tịnh tiến. 2. Các hệ quả
2.1. Sự chuyển động biểu kiến của Mặt Trời giữa 2 chí tuyến
Do trục Trái Đất nghiêng một góc không đổi trên mặt phẳng quỹ đạo nên trong 1 năm,
chỉ các khu vực giữa 2 chí tuyến có 2 lần Mặt Trời lên thiên đỉnh. Ngày 21 tháng 3 tia
Mặt Trời chiếu vuông góc với xích đạo, sau ngày này Mặt Trời dịch chuyển về nửa cầu
Bắc, đến ngày 22 tháng 6 tia sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc với chí tuyến Bắc. Sau ngày
22 tháng 6 tia sáng Mặt Trời dịch chuyển về phía xích đạo, đến ngày 23 tháng 9 tia sáng
Mặt Trời chiếu thẳng góc với xích đạo. Sau ngày 23 tháng 9, Mặt Trời dịch chuyển về nửa
cầu Nam; đến ngày 22 tháng 12, tia Mặt Trời chiếu thẳng góc với chí tuyến Nam. Sau
ngày 22 tháng 12, Mặt Trời dịch chuyển về phía xích đạo và đến ngày 21tháng 3, tia Mặt
Trời lại chiếu thẳng góc với xích đạo.
Quan sát hiện tượng này trên bề mặt Trái Đất, chúng ta có ảo giác là Mặt Trời trong
năm có sự di chuyển lên, xuống từ từ trong khu vực giữa hai chí tuyến. Đó là sự chuyển
động biểu kiến của Mặt Trời trong năm. Thực tế, Mặt Trời không chuyển động mà do sự
chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời.
2.2. Hiện tượng các mùa hay sự thay đổi các thời kỳ nóng lạnh trong năm và hiện
tượng ngày đêm dài ngắn khác nhau
Từ ngày 21 tháng 3 đến 23 tháng 9 nửa cầu Bắc chúc về phía Mặt Trời nên nhận
được nhiều nhiệt và đây là mùa nóng của nửa cầu Bắc và là mùa lạnh của nửa cầu Nam.
Từ ngày 23 tháng 9 đến ngày 21 tháng 3 của năm sau, nửa cầu Nam lại chúc về phía Mặt
Trời nên vào khoảng thời gian này là mùa nóng của nửa cầu Nam và là mùa lạnh của nửa lOMoAR cPSD| 58504431
cầu Bắc. Kết quả là có sự luân phiên nóng lạnh đối với mỗi nửa cầu và nhờ đó không nơi
nào có khí hậu quá khắc nghiệt.
Về độ dài ngày đêm cũng vậy: Từ ngày 21 tháng 3 đến ngày 23 tháng 9, nửa cầu
Bắc được chiếu sáng nhiều hơn nên có ngày dài hơn đêm. Ngày sẽ dài dần từ ngày 21
tháng 3 tới ngày 22 tháng 6, sau khi đạt cực đại vào ngày 22 tháng 6, ngày sẽ ngắn dần
cho tới ngày 23 tháng 9. Trong thời gian này nửa cầu Nam có ngày ngắn, đêm dài. Từ
ngày 23 tháng 9 tới 21 tháng 3 tình hình sẽ ngược lại, nghĩa là ngày dài, đêm ngắn đối với
nửa cầu Nam và ngày ngắn, đêm dài đối với nửa cầu Bắc.
Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn không phải nơi nào cũng như nhau: ở xích đạo ngày
đêm luôn bằng nhau, càng xa xích đạo ngày đêm so le càng lớn. Từ 2 vòng cực tới 2 cực
có hiện tượng ngày, đêm dài hơn 24 giờ; ở cực hiện tượng này đạt cực đại với ngày đêm dài tới 6 tháng.
2.3. Năm lịch
Trái Đất chuyển động trọn một vòng trên quỹ đạo (mất đúng 365 ngày 5 giờ 48
phút, 56 giây) tạo ra một đơn vị đo thời gian cơ bản là năm thiên văn, làm cơ sở để xây
dựng năm lịch (còn gọi là dương lịch) phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Năm lịch
được quy định lấy tròn là 365 ngày. Như vậy, năm lịch sẽ ngắn hơn năm thiên văn gần 1/4
ngày nên cứ sau 3 năm lại có một năm nhuận (có 366 ngày). Năm nhuận là năm chia hết
cho 4. Để lịch chính xác hơn người ta qui ước cứ 100 lần nhuận trong 400 năm lại bỏ đi
3 lần vào các năm tròn thế kỷ không chia hết cho 4. Mỗi năm qui ước chia làm 12 tháng,
số ngày trong tháng không đều nhau và cũng là do qui ước. Năm nhuận sẽ có tháng 2 thêm 1 ngày là 29 ngày.
Trong năm người ta còn chia ra các mùa. Các mùa trong năm cũng thay đổi theo
từng vĩ độ. Xích đạo quanh năm nóng. Các vĩ độ gần chí tuyến, đặc biệt là các vĩ độ ôn
đới có biểu hiện 4 mùa (xuân, hạ, thu, đông). Riêng ở nước ta còn có thêm 1 loại lịch kết
hợp giữa âm lịch với dương lịch gọi là âm dương lịch; lịch này phân thành 24 tiết và sự
phân mùa như sau: Mùa xuân từ ngày 5 tháng 2 đến ngày 6 tháng 5; mùa hạ từ ngày 6
tháng 5 đến ngày 8 tháng 8; mùa thu từ ngày8 tháng 8 đến ngày 8 tháng 11; mùa đông từ
ngày 8tháng 11 đến ngày 5 tháng 2 năm sau. Từ vòng cực trở lên lại chỉ còn có 2 mùa nóng - lạnh.
2.4. Các vành đai khí hậu
Chuyển động của Trái Đất xung quanh Mặt Trời còn tạo ra một hệ quả nữa là sự
hình thành các vành đai khí hậu theo vĩ độ (các đới khí hậu).
Vùng nội chí tuyến là vùng nhận được nhiều nhiệt của Mặt Trời nhất, nóng quanh
năm nên gọi là vùng nhiệt đới. lOMoAR cPSD| 58504431
Hai vùng từ chí tuyến đến vòng cực nhận được lượng nhiệt trung bình của Mặt Trời
nên ấm áp, đó là vùng ôn đới.
Hai vùng từ vòng cực đến cực nhận được lượng nhiệt Mặt Trời ít nhất nên bị giá
lạnh quanh năm, đó là vùng hàn đới
Ngoài ra,Trái Đất còn tham gia vào chuyển động của hệ Trái Đất - Mặt trăng.
Chuyển động này cũng gây ra nhiều hệ quả có liên quan trực tiếp với con người và tự
nhiên: sóng triều và là cơ sở để xây dựng âm lịch.
V. Vận động của hệ thống Trái Đất - Mặt Trăng và hệ quả 1. Sự vận động của hệ
thống Trái Đất- Mặt Trăng
Trái Đất và Mặt Trăng là hai thiên thể lớn nên giữa chúng có lực hấp dẫn liên kết tạo
thành một hệ thống Trái Đất – Mặt Trăng. Hệ thống này quanh xung quanh tâm của hệ
thống theo chiều từ tây sang đông.
Mặt Trăng vừa tự quay quanh trục của nó, vừa chuyển động quanh quỹ Trái Đất
trên quỹ đạo hình elip gần tròn.
Chu kì vận động của Mặt Trăng quanh Trái Đất là 27,32 ngày. Tốc độ trung bình là 1017 m/s (3660km/h).
Chu kì tự quay quanh trục của Mặt Trăng đúng bằng chu kì của Mặt Trăng chuyển động
quanh Trái Đất và cùng chuyển động ngược chiều kim đồng hồ. Vì vậy, từ TĐ chúng ta
luôn chỉ nhìn thấy một phía không đổi của Mặt Trăng. 2. Các hệ quả
2.1. Quỹ đạo của Trái Đất không phải là một đường cong đều đặn
Do quay quanh một tâm chung nên khi Mặt Trăng quay quanh TĐ thì TĐ cũng vận động
quanh tâm chung. Do đó, trong khi vận động quanh Mặt Trời thì quỹ đạo của TĐ không
phải là một đường cong đều đặn mà hơi gợn sóng: TĐ có lúc ra xa, có lúc nhích lại gần
Mặt Trời một khoảng cách bằng 0,73 bán kính TĐ (khoảng 4800 km). 2.2. Tuần trăng
Mặt Trăng là một quả cầu tròn, một thiên thể không tự phát sáng. Ánh sáng mà chúng ta
nhìn thấy được là nhờ sự phản chiếu ánh sáng Mặt Trời. Như vậy, khi phần Mặt Trăng
được chiếu sáng quay về phía chúng ta thì ta mới nhìn thấy Trăng. Song phần nhìn thấy
này luôn thay đổi, có lúc tròn lúc khuyết. Sự thay đổi này trong một tháng âm- dương lịch
chính là các tuần trăng.
Tuần trăng là chu kì biến đổi các pha nhìn thấy Trăng.
Chu kì tuần trăng là 29,5 ngày đêm trên Trái Đất. Thời gian này được gọi là tháng giao hội. lOMoAR cPSD| 58504431
Do TĐ chuyển động quanh Mặt trời, còn Mặt Trăng lại quay quanh TĐ nên vị trí tương
đối của Mặt Trăng đối với Mặt Trời và TĐ thay đổi. Đó là nguyên nhân tạo nên các tuần trăng.
Ngày cuối tháng âm – dương lịch, Mặt Trăng ở vị trí giao hội (giữa Mặt Trời và TĐ),
phía Mặt Trăng quay về TĐ không được Mặt Trời chiếu sáng. Lúc đó, ta không thấy có Trăng, đó là ngày sóc.
Ngày đầu tháng, Trăng chếch một chút so với Mặt Trời, do đó có một phần được chiếu
sáng, có hình lưỡi liềm, đó là trăng non.
Tại vị trí Mặt Trăng vuông góc với đường nối tâm TĐ và tâm Mặt Trời, nó quay một nửa
phần được Mặt Trời chiếu sáng về phía TĐ và ta nhìn thấy Trăng có hình bán nguyệt, đó là Trăng thượng huyền.
Ngày giữa tháng âm- dương lịch, Mặt trăng ở vị trí xung đối. Mặt Trăng hướng toàn bộ
phần được chiếu sáng về phía Trái Đất, nên ta nhìn thấy Trăng tròn, đó là ngày vọng.
Tại vị trí Mặt Trăng vuông góc với đường nối tâm TĐ và tâm Mặt Trời, nó quay một nửa
phần được Mặt Trời chiếu sáng về phía TĐ và ta nhìn thấy Trăng có hình bán nguyệt, đó
là Trăng hạ huyền. Qua ngày hạ huyền, Trăng lại tiếp tục nhỏ dần thành hình lưỡi liềm
cho tới cuối tháng không có trăng.
2.3. Hiện tượng nhật thực và nguyệt thực
Trong khi Mặt Trăng quay xung quanh TĐ thì TĐ vẫn chuyển động quanh Mặt Trời. Khi
3 thiên thể này thẳng hàng hoặc gần thẳng hàng với nhau thì sẽ sinh ra hiện tượng Mặt
Trời bị Mặt Trăng che khuất (nhật thực) hoặc Mặt Trăng bị TĐ che khuất (nguyệt thực). Nhật thực
Tuy nhiên, do mặt phẳng chứa quỹ đạo chuyển động của Mặt Trăng nghiêng trên mặt
phẳng chứa quỹ đạo chuyển động của Trái Đất nên không phải tháng nào cũng xảy ra
nhật, nguyệt thực. Nếu gọi giao tuyến của hai mặt phẳng này là tiết tuyến, thì các tiết
tuyến này luôn song song với nhau; nhưng chỉ có hai vị trí 1 và 3 thì cả 3 thiên thể này
mới nằm trên tiết tuyến. Trong một năm chỉ có hai đợt xảy ra nhật thực và nguyệt thực (cách nhau 6 tháng).
Khi Mặt Trăng đi vào khu vực giữa Mặt Trời và TĐ thì bóng Mặt Trăng in lên mặt đất,
Mặt Trăng che toàn bộ Mặt Trời, ta có nhật thực toàn phần.
Các địa phương ở TĐ bị một phần bóng của Mặt Trăng lướt qua (vùng nửa tối) thì Mặt
Trời chỉ bị che một phần, ta có nhật thực một phần. Có lúc khoảng cách Mặt Trời ở xa
TĐ, khung Mặt Trăng nhỏ không che hết Mặt Trời, do đó ta còn nhìn thấy mép của Mặt
Trời. Đó là nhật thực vòng hay nhật thực hình khuyên.
Do Mặt Trăng chuyển động và TĐ tự quay nên vết bóng tối quét một dải trên mặt đất. Vì
thế, không phải trên nửa TĐ đang là ban ngày thì cũng đều quan sát thấy nhật thực. Hơn lOMoAR cPSD| 58504431
nữa, các địa phương không những thấy nhật thực không giống nhau, mà còn thấy ở những
thời điểm khác nhau. Nhật thực chỉ xảy ra vào kì không trăng (ngày sóc hoặc cuối tháng
âm- dương lịch) và vào ban ngày. Nguyệt thực
Nguyệt thực xảy ra khi Mặt Trăng đi vào vùng bóng tối của TĐ trong khoảng ngày rằm
âm – dương lịch (ngày vọng). Mặt Trăng là một vật thể nguội nên khi đi vào vùng bóng
tối thì bị che khuất ngay. Do đó, nguyệt thực được thấy đồng thời và giống nhau đối với
các khu vực trên mặt đất đang nhìn thấy Trăng. Mặt khác, do bóng tối của TĐ có đường
kính khá lớn, nên Mặt Trăng vượt qua bóng tối này có thể mất khoảng 1 giờ.
Khi có nguyệt thực, nếu một phần bóng râm của Mặt trăng đi vào vùng bóng tối của Trái
Đất thì đó là nguyệt thực toàn phần, còn khi toàn bộ bóng râm của Mặt Trăng bị bóng tối
của TĐ che khuất thì gọi là nguyệt thực toàn phần.
2.4. Hiện tượng sóng triều trên Trái Đất
Giữa Trái Đất và Mặt Trăng có lực hấp dẫn và lực li tâm. Tác động qua lại giữa lực
hút của Mặt Trăng và lực li tâm đã sinh ra hiện tượng sóng triều.
Hiện tượng sóng triều làm vật chất trên Trái Đất có xu hướng dâng cao cả hai phía:
Phía hướng về phía Mặt Trăng và phía đối diện
Hiện tượng này biểu hiện rõ rệt nhất ở biển và đại dương
CHƯƠNG III: Địa lý Việt Nam
I. Tìm hiểu vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên 1. Vị trí địa lí
1.1. Phần đất liền
Phần đất liền nước ta nằm trên bán đảo Trung Ấn, tiếp giáp với CHND Trung Hoa,
CHDC nhân dân Lào và vương quốc Cămpuchia. Toạ độ địa lí của các điểm cực được thể hiện ở bảng 5.
Bảng 5. Toạ độ các điểm cực phần đất liền của lãnh thổ nước ta
Điểm cực Địa danh hành chính Vĩ độ Kinh độ Bắc
Xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang 23023’ B 105020’ Đ Nam
Xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau 8034’ B 104040’ Đ Tây
Xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên 22022’ B 102010’ Đ Đông
Xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà 12040’ B 109024’ Đ
1.2. Phần biển -
Diện tích vùng biển rộng khoảng một triệu kilômét vuông có hàng nghìn đảo
lớn, nhỏ và nhiều quần đảo lớn. -
Đường bờ biển dài, chạy dọc theo lãnh thổ từ bắc xuống nam làm cho thiên
nhiên nước ta chịu ảnh hưởng nhiều của biển. lOMoAR cPSD| 58504431 -
Vùng biển rộng lớn tiếp giáp với vùng biển nhiều nước trong khu vực.
1.3. Ý nghĩa của vị trí địa lí:
Vị trí địa lí đã quy định thiên nhiên nước ta là thiên nhiên của vùng nhiệt đới gió mùa ẩm.
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội, ưu thế nổi bật của vị trí nước ta là vừa gắn với
lục địa Á -Âu vừa trông ra Thái Bình Dương rộng lớn nên nước ta vừa có lợi thế của
một quốc gia biển, vừa có lợi thế của một quốc gia trên đất liền (hình 44).
2. Điều kiện tự nhiên 2.1. Địa hình
Đặc điểm chung của địa hình nước ta: -
Phần lớn là đồi núi thấp, có cấu trúc theo hướng tây bắc -đông nam, hướng
vòng cung. - Địa hình có tính chất phân bậc khá rõ rệt.
Địa hình mang tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm và chịu tác động mạnh mẽ của
con người. 2.2. Khí hậu
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Tính chất nổi bật là nền nhiệt độ cao,
nhiệt độ không khí trung bình năm vượt trên 210C, lượng mưa lớn (từ 1500- 2000mm/
năm) tập trung theo mùa và phụ thuộc vào chế độ gió mùa. Bên cạnh đó khí hậu nước ta
còn có sự phân hóa đa dạng giữa các vùng và diễn biến phức tạp.
Khí hậu nước ta chia thành hai mùa rõ rệt phù hợp với hai mùa gió: mùa gió đông
bắc vào mùa đông (miền Bắc chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ cao áp lục địa Bắc
Á; miền Nam chịu ảnh hưởng nhiều của tín phong đông bắc) và mùa hạ với gió mùa tây
nam. Trong năm, thời tiết, khí hậu diễn biến thất thường và có nhiều thiên tai (bão, lốc, mưa lũ, hạn hán…). -
Miền Bắc ( từ vĩ tuyến 18 0B ra Bắc) có một mùa đông lạnh, nhiệt độ các
tháng mùa đông xuống dưới 200C . -
Miền khí hậu đông Trường Sơn bao gồm phần lãnh thổ Trung Bộ phía đông
dãy Trường Sơn có mùa mưa lệch hẳn về thu đông và đầu mùa hạ bị khô hạn do ảnh
hưởng của gió phơn tây nam .
+ Miền khí hậu phía Nam bao gồm Nam Bộ và Tây Nguyên có khí hậu cận xích
đạo, nhiệt độ cao quanh năm, mùa khô sâu sắc hơn miền khí hậu phía Bắc (biểu đồ hình
46). Tuy nhiên, chế độ gió mùa, độ cao và hướng một số dãy núi lớn đã làm cho thời tiết,
khí hậu nước ta đa dạng, thất thường. Giữa các vùng, khí hậu có sự khác biệt rõ rệt. - Sông ngòi:
+ Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc, nguồn nước phong phú, phân bố rộng
khắp trên cả nước, song phần lớn là các sông nhỏ, ngắn và dốc.
+ Sông ngòi nước ta phần lớn chảy theo hướng tây bắc-đông nam. lOMoAR cPSD| 58504431
+ Chế độ nước theo mùa và có nhiều phù sa. - Đất trồng:
Nước ta có hai nhóm đất chính là đất feralit và đất phù sa.
Nhóm đất feralit có nhiều ở vùng đồi núi với nhiều loại đất khác nhau. Trong đó,
loại đất feralit trên đá ba dan là loại đất tốt và có giá trị kinh tế nhất chỉ có khoảng 2 triệu
ha. Nhóm đất phù sa có ở đồng bằng, tập trung ở các đồng bằng lớn như đồng bằng sông
Cửu Long, đồng bằng sông Hồng và các đồng bằng Duyên hải miền Trung. Trong nhóm
đất này, loại đất tốt có giá trị kinh tế nhất là đất phù sa trong đê ở đồng bằng sông Hồng,
và đất phù sa ngọt ven sông Tiền và sông Hậu. Đất chua, mặn có diện tích lớn, phân bố
chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long đang được cải tạo phục vụ sản xuất. Đất phù sa loại
tốt có khoảng 3,12 triệu ha chiếm 9,5% diện tích tự nhiên. - Sinh vật:
Nước ta có giới sinh vật rất phong phú và đa dạng. Về thực vật, nước ta có 14 600
loài thực vật tự nhiên; về động vật có trên 11200 loài và phân loài. Trong đó, có 365 loài
động vật và 350 loài thực vật thuộc loại quý hiếm được đưa vào “Sách đỏ Việt Nam”.
Các vùng sinh thái đa dạng, nhưng tiêu biểu nhất là sinh vật của vùng nhiệt đới ẩm.
Các kiểu rừng nhiệt đới gió mùa là kiểu rừng tiêu biểu nhất. Trong kiểu rừng nhiệt đới gió
mùa có rừng rậm nhiệt đới gió mùa thường xanh và rừng gió mùa rụng lá.
Tuy nhiên, giới sinh vật nguyên sinh ở nước ta bị tàn phá, huỷ diệt nặng nề. Sự
giảm sút tài nguyên rừng tự nhiên đã làm cho môi trường sống của sinh vật và con người bị đe doạ.
- Tài nguyên khoáng sản: Nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú,
trong đó nhiều loại có giá trị đối với sản xuất công nghiệp (trữ lượng lớn, giá trị kinh tế
cao) gồm: than, dầu khí, một số khoảng sản kim loại (sắt, crôm, bôxit, đồng…) và phi kim
loại (apatit, đá quý, đá vôi…). III.
Địa lý dân cư và các ngành kinh tế 1. Dân cư
Việt Nam là một nước đông dân, dân số tăng nhanh (hình 49). Nước ta có nhiều
dân tộc, người Kinh, Hoa, Chăm, Khơ me sống ở đồng bằng còn các dân tộc ít người khác
chủ yếu sống ở trung du và miền núi.
Mật độ dân số nước ta là 231người/ km2 (1999). So với thế giới, nước ta có mật độ
dân số cao (mật độ dân số trung bình của thế giới là 46 người/km2).
Dân cư nước ta phân bố không đều. Sự phân bố dân cư có sự chênh lệch lớn giữa
đồng bằng và miền núi, giữa thành thị và nông thôn. Trong các khu vực đồng bằng, miền
núi, dân cư cũng phân bố cũng không đều.
Đặc điểm dân cư nước ta bên cạnh những mặt tích cực đã dẫn đến những khó khăn
không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Nhà nước ta đã và đang thực hiện
nhiều chính sách về dân số, phân bố lại dân cư, lao động. lOMoAR cPSD| 58504431
2. Địa lí các ngành kinh tế Việt Nam 2.1. Nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành kinh tế lâu đời và giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Nông nghiệp bao gồm hai ngành chính là trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài ra, còn có
các ngành: nuôi trồng và đánh bắt hải sản, trồng rừng. Hiện nay, ngành trồng trọt giữ vị
trí chủ đạo, ngành chăn nuôi đang tăng dần tỉ trọng trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp.
Trong ngành trồng trọt, lúa là cây trồng chính được trồng chủ yếu ở các đồng bằng
nhất là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng.
Cây công nghiệp hàng năm được trồng ở trung du và đồng bằng. Cây công nghiệp
lâu năm được trồng ở trung du và miền núi.
Cây ăn quả, rau được trồng nhiều ở các đồng bằng và một số cao nguyên ở miền núi.
Trâu bò được nuôi nhiều ở các vùng trung du và miền núi; lợn, gia cầm được nuôi
nhiều ở các vùng đồng bằng.
2.2. Công nghiệp
Hiện nay, công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao và đang có những chuyển
biến rõ rệt theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Nền công nghiệp nước ta hiện nay gồm 4 nhóm ngành chính, mỗi nhóm ngành công
nghiệp này lại bao gồm nhiều ngành công nghiệp nhỏ hơn. Trong cơ cấu ngành công
nghiệp nổi lên một số ngành chiếm tỉ trọng lớn và cũng là những ngành công nghiệp trọng điểm của cả nước.
Cả nước đã hình thành nhiều vùng công nghiệp trọng điểm với các trung tâm công
nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất…Tuy nhiên, sự phân bố công nghiệp nước ta còn
có sự chênh lệch lớn giữa các vùng.
2.3. Địa lí một số ngành dịch vụ
- Ngành giao thông vận tải và thông tin liên lạc:
+ Ngành giao thông vận tải Mạng lưới giao thông gồm nhiều ngành: đường ôtô,
đường sắt, đường sông, đường biển, đường hàng không, đường ống. Trong đó, mạng lưới
đường ô tô giữ vai trò quan trọng nhất đối việc vận tải hàng hoá và hành khách.
Hệ thống đường ô tô có tổng chiều dài 181 421km, đạt mật độ khá cao (55km/
100km2). Tuy nhiên, chất lượng đường chưa đồng đều và còn thua kém nhiều nước trong
khu vực Đông Nam Á. Các ngành giao thông vận tải khác bao gồm : đường sắt (2630
km), đường sông (11 000km), đường biển (73 cảng biển lớn nhỏ), đường không (18 sân lOMoAR cPSD| 58504431
bay, trong đó có 3 sân bay quốc tế…). Nhìn chung sự phát triển của các ngành này chưa
đáp ứng yêu cầu vận chuyển.
Hệ thống giao thông vận tải Bắc - Nam với trục chính là đường số 1 và đường sắt
Thống Nhất giữ vị trí hàng đầu. Hệ thống đường ô tô đang được nâng cấp, cải tạo với
những dự án lớn đang thực hiện: đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á …
+Ngành thông tin liên lạc của nước ta đang được chú trọng đầu tư phát triển với
tốc độ cao, với nhiều mạng thông tin hiện đại, phân bố rộng khắp: mạng điện thoại, mạng
phi thoại, mạng truyền dẫn…
- Ngành thương nghiệp đã có những biến chuyển mạnh mẽ, nhất là ngành
ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương, hoạt động xuất nhập khẩu tăng mạnh,
thị trường mở rộng…góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh của đất
nước (tổng giá trị xuất, nhập khẩu 1998 là 20.856 triệu USD) . - Ngành du lịch:
Từ thập kỉ 90 trở lại đây, ngành du lịch đang thực sự “bùng nổ”. Số lượng khách du
lịch trong nước và quốc tế tăng mạnh. Số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt1.520
nghìn lượt người (1998), 1781 nghìn lượt người (1999). Doanh thu của ngành du lịch
không ngừng tăng (1992: 1350 tỉ đồng; 1994: 5200 tỉ đồng; 1996: 9500 tỉ đồng).
III. Thiên nhiên, con người và hoạt động kinh tế ở các vùng 1. Trung du và miền
núi phía Bắc
1.1. Thiên nhiên và tài nguyên
Trung du và miền núi phía Bắc bao gồm vùng núi Tây Bắc và vùng đồi núi Đông Bắc.
Tây Bắc là một vùng gồm chủ yếu là núi trung bình và núi cao. Đây là nơi có địa
hình cao nhất, bị chia cắt nhất và hiểm trở nhất Việt Nam. Các dạng địa hình phổ biến ở
đây là các dãy núi cao, các thung lũng sâu hay hẻm vực, các cao nguyên đá vôi có độ cao
trung bình. Dãy núi cao và đồ sộ nhất là dãy Hoàng Liên Sơn với nhiều đỉnh cao trên
2500m, đỉnh núi cao nhất là Phanxipăng (3143m).
Vùng đồi núi Đông Bắc gồm chủ yếu là núi trung bình và núi thấp. Khối núi thượng
nguồn sông Chảy có nhiều đỉnh cao trên dưới 2000m là khu vực cao nhất của vùng. Từ
khối núi này ra tới biển là các dãy núi hình cánh cung thấp dần về phía biển. Có bốn
cánh cung lớn là cánh cung sông Gâm, cánh cung Ngân Sơn, cánh cung Bắc Sơn và cánh cung Đông Triều.
Chuyển tiếp từ vùng núi Đông Bắc tới đồng bằng sông Hồng, từ Vĩnh Phú đến
Quảng Ninh là những dải đồi với đỉnh tròn, sườn thoải. Đây là vùng trung du điển hình
của nước ta, ranh giới rất khó xác định. lOMoAR cPSD| 58504431
Vùng giàu có về tài nguyên khoáng sản và tiềm năng thuỷ điện dồi dào nhất nước
ta. Ngoài ra, vùng còn giàu có tài nguyên du lịch, tài nguyên đất đai, khí hậu để phát triển
nông nghiệp (trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc lớn…)
1.2. Con người và hoạt động kinh tế
Năm 2001 số dân của vùng là 113 493 000 người, mật độ dân số là 65
người/km2(Tây Bắc) và138 người/km2(Đông Bắc). Vùng có gần 30 dân tộc ít người sinh
sống. Các dân tộc có số dân tương đối đông là:người Mường, người Tày, người Thái,
người Nùng, người Thổ, người Mông, người Dao.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp chính của vùng là trồng cây công nghiệp (chè),
cây làm thuốc (tam thất, đương quy, đỗ trọng…), cây ăn quả (mận, đào, lê, vải…) và chăn
nuôi trâu, bò. Lúa được trồng nhiều ở các cánh đồng giữa núi, thung lũng, trên các ruộng
bậc thang hoặc sườn núi. Ngô, sắn cũng được trồng trên các sườn núi. Nhìn chung, sản
xuất lương thực chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Tại đây vẫn còn tồn tại những hình thức canh
tác, sinh sống lạc hậu: đốt rừng làm rẫy, du canh, du cư…
Hoạt động sản xuất công nghiệp của vùng gồm một số ngành chính: ngành than,
ngành điện (thuỷ điện, nhiệt điện), hoá chất (sản xuất phân bón hoá học, hoá chất cơ
bản…) và khai thác khoáng sản…
Ngành du lịch được đẩy mạnh phát triển trong những năm gần đây với nhiều loại
hình đa dạng: du lịch văn hoá, lịch sử, lễ hội, tôn giáo, tham quan phong cảnh thiên nhiên…
1.3. Một số thành phố
Việt Trì, thành phố công nghiệp trung tâm của công nghiệp hoá chất (sản xuất hoá
chất cơ bản, phân lân…), giấy, vật liệu xây dựng.
Thái Nguyên, thành phố công nghiệp gang thép.
Hạ Long, thành phố du lịch và cũng là thành phố công nghiệp, thành phố cảng.
Hoà Bình, thành phố công nghiệp bên bờ sông Đà, cửa ngõ của vùng Tây bắc, nơi
có nhà máy thuỷ điện Hoà Bình lớn nhất nước ta.
Điện Biên Phủ, thành phố trẻ, trung tâm kinh tế-xã hội của tỉnh Điện biên, nơi có
di tích chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. 2. Tây Nguyên
2.1. Thiên nhiên và tài nguyên
Tây Nguyên gồm các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Đây
là vùng không giáp biển và có diên tích là 56 082, 8 km2, dân số, mật độ 67 ng/km2.
Tây Nguyên là bộ phận rộng lớn nhất của hệ thống núi Trường Sơn Nam. Địa hình
bao gồm chủ yếu các cao nguyên lượn sóng. Các cao nguyên này tạo ra các bậc địa hình:
100-300m, 300-500m, 500- 800m. Về phía đông, các cao nguyên được bao bọc bởi các lOMoAR cPSD| 58504431
khối núi, dãy núi cao (cao nhất là Ngọc Linh 2.598m). Sườn của các khối núi, dãy núi đổ
dốc xuống các đồng bằng nhỏ hẹp ven biển.
Tài nguyên chính của Tây Nguyên là các cao nguyên phủ đất đỏ ba dan thuận lợi
cho việc trồng cây công nghiệp, chăn nuôi… với quy mô lớn. Rừng Tây nguyên có nhiều
loài thực, động vật, nhiều loài quý hiếm có giá trị kinh tế cao. Thực vật có thông nước,
thông năm lá, cây quao xẻ tua, gạo lông đen, các loại cây thuốc quý như sâm bố chính, sa
nhân, sâm ngọc linh, actisô, xuyên khung…
Khoáng sản của Tây nguyên không nhiều, đáng kể nhất là bô xit có trữ lượng hàng
tỉ tấn. Ngoài khoáng sản, Tây nguyên cũng là vùng có trữ năng thuỷ điện khá lớn trên các
sông Xê-xan, Xrê-pốc và thượng nguồn sông Đồng Nai.
2.2. Dân cư và hoạt động kinh tế
Tây Nguyên là nơi sinh sống của nhiều dân tộc: Raglai, Xơđăng, Cơho, Êđê, Ba
Na, Mạ, Mơ Nông…Người Việt (Kinh) có sự phân bố rộng rãi trong vùng do di cư từ
các vùng khác đến. So với các vùng khác, Tây Nguyên là vùng thưa dân, tỉ lệ người
chưa biết đọc, biết viết cao, người lao động lành nghề, cán bộ khoa học-kĩ thuật còn thiếu.
Công nghiệp của vùng đang trong giai đoạn hình thành với các điểm, trung tâm
công nghiệp nhỏ. Tây nguyên là vùng trồng cây công nghiệp lâu năm lớn nhất nước ta.
Đây là vùng trồng cà phê, dâu tằm lớn nhất, vùng trồng cao su, chè, hồ tiêu thứ hai cả
nước. Lâm nghiệp là thế mạnh của Tây Nguyên. Do sự suy giảm tài nguyên rừng, nên sản
lượng khai thác đã giảm hẳn.
- Các thành phố: Tây Nguyên có 3 thành phố tỉnh lị là Plâycu, Buôn Ma Thuột và Đà Lạt.
3. Đồng Bằng Sông Hồng
3.1. Thiên nhiên và tài nguyên
Đồng bằng châu thổ sông Hồng gồm thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng và
các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Hà tây, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Vĩnh
Phúc và Bắc Ninh với diện tích 14 685,5 km2, số dân là 16.862,7 nghìn người (1997).
Địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng, lớp đất phù sa được hệ thống sông Hồng
và sông Thái Bình bồi đắp rất màu mỡ, hàng năm lấn ra biển khoảng 100m ở bờ biển phía
đông nam của đồng bằng. Đất đã sử dụng hiện có trên 1triệu ha, chiếm 82,48% diện tích
tự nhiên của vùng. Tỉ lệ này cao nhất của cả nước (bình quân của cả nước là 50-56%,
Đồng bằng sông Cửu Long là 78,71%). Khả năng mở rộng diện tích của đồng bằng không
nhiều, gắn liền với quá trình chinh phục biển.
Dọc theo các con sông của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình là hệ thống đê
ngăn lũ với tổng chiều dài khoảng 1600km. lOMoAR cPSD| 58504431
Nét đặc trưng cho khí hậu của vùng là có một mùa đông lạnh kéo dài từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau, trong đó có ba tháng nhiệt độ xuống dưới 180C (tháng 12, 1, 2).
Tài nguyên khoáng sản ở đồng bằng không nhiều, tiềm năng khoáng sản lớn nhất
là than nâu, trữ lượng hàng chục tỉ tấn ở độ sâu từ 200-2000m, hiện chưa có điều kiện
khai thác. Ngoài ra, vùng còn có tiềm năng về khí đốt.
3.2. Con người và hoạt động kinh tế
Đồng bằng sông Hồng là vùng có mật độ dân số cao nhất cả nước (1180 người/km2,
năm 1999). Dân số đông, mức độ đô thị hoá nhanh, nguồn lao động có trình độ học vấn
cao hơn các vùng khác, nhưng với nguồn lao động quá dư thừa nên việc giải quyết vấn đề
việc làm trở nên cấp bách.
Đất nông nghiệp chiếm 57,65% diện tích tự nhiên của vùng được sử dụng chủ yếu
để trồng lúa. Đồng bằng sông Hồng là vựa lúa lớn thứ hai, cung cấp khoảng 20% sản
lượng lúa của cả nước. Ngoài ra, vùng còn chuyên canh rau quả thực phẩm, xuất khẩu,
nhiều nhất là vụ đông xuân. Vùng ít có khả năng mở rộng diện tích đất nông nghiệp bằng khai hoang.
Công nghiệp ở đây khá phát triển, đứng thứ hai cả nước với một số nhóm ngành
quan trọng: công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp dệt may, giày, da,
công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, hoá chất, phân bón, cao su…Trên địa bàn
đồng bằng đã hình thành một số cụm công nghiệp tập trung (Hà Hội, Hải Phòng, Hải
Dương, Vĩnh Phúc), các khu công nghiệp lớn.
Ngành dịch vụ phát triển mạnh, thương mại chiếm vị trí quan trọng, hoạt động tài
chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, bưu điện, du lịch…mở rộng trên phạm vi cả nước.
3.3. Các thành phố lớn
Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học kĩ thuật, văn hoá, đào tạo, y tế lớn nhất cả nước.
Hải Phòng thành phố cảng.
Các thành phố khác: Hải Dương, Nam Định, Thái Bình.
4. Đồng bằng sông Cửu Long
4.1. Thiên nhiên và tài nguyên
Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh
Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến tre, Cà Mau, Hậu Giang, Cần
Thơ, An Giang có diện tích tự nhiên 39.569,9km2 và dân số khoảng 16, 4 triệu người (năm 1999).
Đây là vùng đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta có địa hình tương đối bằng phẳng,
độ cao trung bình so với mặt biển từ 3-5 m, có khuvực chỉ cao 0,5 đến 1m.