I.LUT DÂN S
1. Khái niệm
Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong Hệ
thống Pháp luật Việt Nam.
Bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chnh
các quan hệ tài sản mang nh chất hàng hóa- ền tệ và các
quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ đó và có hiệu lực pháp lý trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự
Luật Dân sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của
Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật Dân sự
có đối tượng điều chỉnh riêng, đó là các quan hệ tài sản và các quan
hệ nhân thân. Điều 1 BLDS 2015 quy định: “Bộ luật này quy định địa
vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp
nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp
nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do
ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là
quan hệ dân sự)”
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế với sự đa
dạng, đan xen về lợi ích của các chủ thể thì việc xác định đối tượng
điều chỉnh của Luật Dân sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo v
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng như đảm bảo strt
tự, ổn định của các quan hệ xã hội nhất định. Đối tượng điều chỉnh
của Luật Dân sự được phân loại thành:
a) Quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản, hay còn gọi là quan hệ xã hội về tài sản là quan
hệ giữa chủ thể này với chủ thkhác có liên quan đến tài sản. Tài sản
có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, tài sản hiện có hoặc
tài sản được hình thành trong tương lai.
Trong BLDS 2015, quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của
Luật Dân sự được thể hiện qua nhiều chế định khác nhau như chế
định tài sản và quyền sở hữu, chế định hợp đồng, chế định nghĩa vụ
ngoài hợp đồng, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chế
định chuyển quyền sử dụng đất và chế định thừa kế.
Việc xác định quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của Lut
Dân sự dựa vào các đặc điểm của các quan hệ tài sản này. Quan h
tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh có các đặc điểm sau đây:
Thnhất: Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh luôn liên
quan đến tài sản;
Tài sản theo quy định của pháp luật có thể là vật hiện có, tài sản
được hình thành trong tương lai, quyền tài sản..
Thứ hai: Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh được xác
lập bởi các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự; Mỗi ngành
luật khác nhau sẽ có một phạm vi chthể khác nhau của ngành
luật đó. Chthể của ngành Luật Dân sự rất đa dạng, có thể là
thể nhân, có thể là pháp nhân hoặc các chủ thể đặc biệt (Nhà
ớc), chuyên biệt khác (hộ gia đình, tổ hợp tác).
Thứ ba: Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh thể hiện ý
chí của các chủ thể tham gia quan hệ, ý chí đó phải phù hợp với
ý chí của Nhà nước; Tham gia quan hệ tài sản, các chủ th đều
quan tâm đến lợi ích vật chất cụ th(tài sản), do đó việc tham
gia một quan hệ tài sản nào đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của chủ thể tham gia quan hệ đó. Chthể tham gia quan hệ tài
sản có toàn quyền định đoạt trong các quan hệ mà mình tham
gia. Tuy nhiên, khi tham gia quan hệ tài sản, ý chí của chth
tham gia quan hệ phải phù hợp với ý chí của Nhà nước (th
hiện qua các quy định của pháp luật). Thông thường, trong
quan hệ tài sản mà chủ thể tham gia, Nhà nước thường có sự
linh hoạt,
mềm dẻo trong việc đưa ra các quy định xác định quyền và
nghĩa vụ của chủ thể và đó là những quy định mang nh
nguyên tắc chung.
Thứ tư: Trong quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh, có sự
đền bù ngang giá về lợi ích vật chất đối với các chủ thể tham
gia. Tham gia quan hệ tài sản, ít nhất một bên trong quan hệ tài
sản cũng quan tâm đến lợi ích vật chất – đó là tài sản. Chính vì
lý do đó, sự đền bù ngang giá là yếu tố đc trưng của các quan
hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh. Sự đền bù ngang giá đem
lại lợi ích cho tất cả các chủ ththam gia quan hệ tài sản, tuy
nhiên cũng cần hiểu sự đền bù ngang giá có nh tương đối vì
không phải quan hệ tài sản nào cũng có sự đền bù ngang giá (ví
dụ quan hệ thừa kế, quan hệ tặng cho không có điều kiện...).
Ngoài ra, nh đền bù trong quan hệ tài sản còn có thể bị chi
phối bởi rất nhiều yếu tố như nh cảm, phong tục tập quán...
b) Quan hệ nhân thân
Chúng ta có thể hiểu các quan hệ này xuất phát từ các giá trị nh
thần của chủ thể, giá trị nh thần này có thể gắn liền với lợi ích kinh
tế, có thể không gắn liền với lợi ích kinh tế. Các quan hệ nhân thân
xuất phát từ quyền nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có thể chia
làm 2 nhóm căn cứ vào khoản 1 Điều 17 BLDS 2015:
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;
- Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản.
Đặc điểm:
Thnhất, Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thnht
định và không thể dịch chuyển được cho các chủ thể khác. Tuy
nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được dịch
chuyển. Những trường hợp này phải do pháp luật quy định.
Thứ hai, Quyền nhân thân không xác định được bằng n – Giá
trị nhân thân và ền tệ không phải là những đại lượng tương
đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân thân
không gắn với tài sản như quyền đối với họ, tên; thay đổi họ
tên;... (từ Điều 26 đến Điều 39 BLDS 2015) 3. Phương pháp điu
chỉnh của Luật Dân sự
a) Khái niệm
- Là những cách thức, biện pháp mà Nhà nước tác động lên các
quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này
phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của Nhà nước phù hợp với
ba lợi ích (nhà nước, xã hội và cá nhân).
- Được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về
tài sản và tự chịu trách nhiệm. b) Đặc điểm
- Các chủ thể tham gia các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân
thân do luật dân sđiều chỉnh độc lập về tổ chức và tài sản, bình
đẳng với nhau về địa vị pháp lí.
- Pháp luật dân sự ghi nhận quyền tự định đoạt của các chủ th
trong việc tham gia các quan hệ tài sản.
- Xuất phát từ sự bình đẳng giữa các chủ thể, quyền tự định đoạt
của họ khi tham gia các quan hệ dân sự, cho nên, đặc trưng của
phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là hòa giải. Đây là
nguyên tắc được quy định tại Điều 7 BLDS 2015 – Nguyên tắc hòa
gii.
- Các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ
tài sản mang nh chất hàng hóa và ền tệ, việc vi phạm nghĩa vụ của
một bên trong quan hệ đó dẫn đến thiệt hại về tài sản đối với bên
kia.
II. LUT TỐ TỤNG DÂN S
1.Khái niệm
Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm
sát, Cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng phát
sinh trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ vic
dân sự và thi hành án dân sự một cách nhanh chóng, đúng đắn,
bảo vquyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chc
và lợi ích của Nhà nước.
2.Đối tượng điều chỉnh
- Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng dân sự ViệtNam là mối
quan hệ giữa tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân s,
đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch,
người giám định, người định giá tài sản và những người liên quan
phát sinh trong tố tụng dân sự.
- Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Tố Tụng Dân
sự Việt Nam bao gồm:
Các mối quan hgiữa tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành
án dân sự với đương sự, người đại diện của đương sự, người
bảo vquyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người phiên dịch, người giám định, người định giá tài
sản và người liên quan;
Các quan hệ giữa tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án
dân sự với nhau;
Các quan hệ giữa các đương sự với những người liên quan
khác.
Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này rất đa dạng
nên giữa các chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau. Trong đó, toà án,
cơ quan thi hành án dân sự là các chủ thể đóng vai trò chchốt,
mang nh quyết định đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự và
tổ chức thi hành án dân sự.
3.Phương pháp điều chỉnh
a) Phương pháp mệnh lnh
Điều này được thể hin chỗ quy định về địa vị pháp lý
của Tòa án; Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và các ch
thể khác trong tố tụng là không giống nhau. Các quyết định
của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án có giá tr
bắt buộc phải thực hiện đối với các chủ thể khác nếu
không sẽ bị ỡng chế thực hiện. Việc pháp luật quy định
như vậy là xuất phát từ việc Tòa án, Viện kiểm sát và cơ
quan thi hành án dân sự có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, tổ
chức thi hành án dân sự giải quyết vụ việc dân sự và kim
sát các hot động về tố tụng. Vì thế, các
cơ quan này không thể nào có chức năng và quyền hạn
bình đẳng đối với các chủ thể khác.
b) Phương pháp định đoạt
Các đương sự có quyền quyết định việc bảo vquyền và
lợi ích hợp pháp của mình khi lợi ích bị xâm phạm thông
qua việc tự quyết định khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết
vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi
hành án dân sự, các đương sự vẫn có thể cùng nhau
thương lượng, thỏa thuận về những vấn đề tranh chấp,
việc rút đơn yêu cầu hay đơn khởi kiện hoặc cũng có thể là
yêu cầu không thi hành án na.

Preview text:

I.LUẬT DÂN SỰ 1. Khái niệm
Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong Hệ
thống Pháp luật Việt Nam.
• Bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa- tiền tệ và các
quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ đó và có hiệu lực pháp lý trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự
Luật Dân sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của
Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật Dân sự
có đối tượng điều chỉnh riêng, đó là các quan hệ tài sản và các quan
hệ nhân thân. Điều 1 BLDS 2015 quy định: “Bộ luật này quy định địa
vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp
nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp
nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do
ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”

Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế với sự đa
dạng, đan xen về lợi ích của các chủ thể thì việc xác định đối tượng
điều chỉnh của Luật Dân sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng như đảm bảo sự trật
tự, ổn định của các quan hệ xã hội nhất định. Đối tượng điều chỉnh
của Luật Dân sự được phân loại thành: a)
Quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản, hay còn gọi là quan hệ xã hội về tài sản là quan
hệ giữa chủ thể này với chủ thể khác có liên quan đến tài sản. Tài sản
có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, tài sản hiện có hoặc
tài sản được hình thành trong tương lai.
Trong BLDS 2015, quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của
Luật Dân sự được thể hiện qua nhiều chế định khác nhau như chế
định tài sản và quyền sở hữu, chế định hợp đồng, chế định nghĩa vụ
ngoài hợp đồng, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chế
định chuyển quyền sử dụng đất và chế định thừa kế.
Việc xác định quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
Dân sự dựa vào các đặc điểm của các quan hệ tài sản này. Quan hệ
tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh luôn liên quan đến tài sản;
Tài sản theo quy định của pháp luật có thể là vật hiện có, tài sản
được hình thành trong tương lai, quyền tài sản..
Thứ hai: Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh được xác
lập bởi các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự; Mỗi ngành
luật khác nhau sẽ có một phạm vi chủ thể khác nhau của ngành
luật đó. Chủ thể của ngành Luật Dân sự rất đa dạng, có thể là
thể nhân, có thể là pháp nhân hoặc các chủ thể đặc biệt (Nhà
nước), chuyên biệt khác (hộ gia đình, tổ hợp tác).
Thứ ba: Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh thể hiện ý
chí của các chủ thể tham gia quan hệ, ý chí đó phải phù hợp với
ý chí của Nhà nước; Tham gia quan hệ tài sản, các chủ thể đều
quan tâm đến lợi ích vật chất cụ thể (tài sản), do đó việc tham
gia một quan hệ tài sản nào đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của chủ thể tham gia quan hệ đó. Chủ thể tham gia quan hệ tài
sản có toàn quyền định đoạt trong các quan hệ mà mình tham
gia. Tuy nhiên, khi tham gia quan hệ tài sản, ý chí của chủ thể
tham gia quan hệ phải phù hợp với ý chí của Nhà nước (thể
hiện qua các quy định của pháp luật). Thông thường, trong
quan hệ tài sản mà chủ thể tham gia, Nhà nước thường có sự linh hoạt,
mềm dẻo trong việc đưa ra các quy định xác định quyền và
nghĩa vụ của chủ thể và đó là những quy định mang tính nguyên tắc chung.
Thứ tư: Trong quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh, có sự
đền bù ngang giá về lợi ích vật chất đối với các chủ thể tham
gia. Tham gia quan hệ tài sản, ít nhất một bên trong quan hệ tài
sản cũng quan tâm đến lợi ích vật chất – đó là tài sản. Chính vì
lý do đó, sự đền bù ngang giá là yếu tố đặc trưng của các quan
hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh. Sự đền bù ngang giá đem
lại lợi ích cho tất cả các chủ thể tham gia quan hệ tài sản, tuy
nhiên cũng cần hiểu sự đền bù ngang giá có tính tương đối vì
không phải quan hệ tài sản nào cũng có sự đền bù ngang giá (ví
dụ quan hệ thừa kế, quan hệ tặng cho không có điều kiện...).
Ngoài ra, tính đền bù trong quan hệ tài sản còn có thể bị chi
phối bởi rất nhiều yếu tố như tình cảm, phong tục tập quán... b)
Quan hệ nhân thân
Chúng ta có thể hiểu các quan hệ này xuất phát từ các giá trị tinh
thần của chủ thể, giá trị tinh thần này có thể gắn liền với lợi ích kinh
tế, có thể không gắn liền với lợi ích kinh tế. Các quan hệ nhân thân
xuất phát từ quyền nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có thể chia
làm 2 nhóm căn cứ vào khoản 1 Điều 17 BLDS 2015:
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;
- Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản. Đặc điểm:
Thứ nhất, Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất
định và không thể dịch chuyển được cho các chủ thể khác. Tuy
nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được dịch
chuyển. Những trường hợp này phải do pháp luật quy định.
Thứ hai, Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền – Giá
trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương
đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân thân
không gắn với tài sản như quyền đối với họ, tên; thay đổi họ
tên;... (từ Điều 26 đến Điều 39 BLDS 2015) 3. Phương pháp điều
chỉnh của Luật Dân sự

a) Khái niệm -
Là những cách thức, biện pháp mà Nhà nước tác động lên các
quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này
phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của Nhà nước phù hợp với
ba lợi ích (nhà nước, xã hội và cá nhân). -
Được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về
tài sản và tự chịu trách nhiệm. b) Đặc điểm -
Các chủ thể tham gia các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân
thân do luật dân sự điều chỉnh độc lập về tổ chức và tài sản, bình
đẳng với nhau về địa vị pháp lí. -
Pháp luật dân sự ghi nhận quyền tự định đoạt của các chủ thể
trong việc tham gia các quan hệ tài sản. -
Xuất phát từ sự bình đẳng giữa các chủ thể, quyền tự định đoạt
của họ khi tham gia các quan hệ dân sự, cho nên, đặc trưng của
phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là hòa giải. Đây là
nguyên tắc được quy định tại Điều 7 BLDS 2015 – Nguyên tắc hòa giải. -
Các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ
tài sản mang tính chất hàng hóa và tiền tệ, việc vi phạm nghĩa vụ của
một bên trong quan hệ đó dẫn đến thiệt hại về tài sản đối với bên kia.
II. LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.Khái niệm
Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm
sát, Cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng phát
sinh trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc
dân sự và thi hành án dân sự một cách nhanh chóng, đúng đắn,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức
và lợi ích của Nhà nước.
2.Đối tượng điều chỉnh -
Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng dân sự ViệtNam là mối
quan hệ giữa tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự,
đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch,
người giám định, người định giá tài sản và những người liên quan
phát sinh trong tố tụng dân sự. -
Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Tố Tụng Dân sự Việt Nam bao gồm:
• Các mối quan hệ giữa tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành
án dân sự với đương sự, người đại diện của đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người phiên dịch, người giám định, người định giá tài
sản và người liên quan;
• Các quan hệ giữa tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự với nhau;
• Các quan hệ giữa các đương sự với những người liên quan khác.
Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này rất đa dạng
nên giữa các chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau. Trong đó, toà án,
cơ quan thi hành án dân sự là các chủ thể đóng vai trò chủ chốt,
mang tính quyết định đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự và
tổ chức thi hành án dân sự.
3.Phương pháp điều chỉnh a)
Phương pháp mệnh lệnh
Điều này được thể hiện ở chỗ quy định về địa vị pháp lý
của Tòa án; Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và các chủ
thể khác trong tố tụng là không giống nhau. Các quyết định
của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án có giá trị
bắt buộc phải thực hiện đối với các chủ thể khác nếu
không sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Việc pháp luật quy định
như vậy là xuất phát từ việc Tòa án, Viện kiểm sát và cơ
quan thi hành án dân sự có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, tổ
chức thi hành án dân sự giải quyết vụ việc dân sự và kiểm
sát các hoạt động về tố tụng. Vì thế, các
cơ quan này không thể nào có chức năng và quyền hạn
bình đẳng đối với các chủ thể khác. b)
Phương pháp định đoạt
Các đương sự có quyền quyết định việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình khi lợi ích bị xâm phạm thông
qua việc tự quyết định khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết
vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi
hành án dân sự, các đương sự vẫn có thể cùng nhau
thương lượng, thỏa thuận về những vấn đề tranh chấp,
việc rút đơn yêu cầu hay đơn khởi kiện hoặc cũng có thể là
yêu cầu không thi hành án nữa.