Cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh

Tóm tắt: Cùng với quá trình đổi mới đất nước, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta cũng biến đổi rất mạnh mẽ theo hướng chuyển từ cơ cấu “hai giai cấp, một tầng lớp” sang cơ cấu hai giai cấp và nhiều tầng lớp khác nhau. Các giai cấp và các tầng lớp cũng biến đổi mạnh mẽ. Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội định hướng, phát huy những xu hướng tích cực, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

104
Cơ cấu xã hội - giai cấp
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Lê Thị Hồng Nhiên
1
1
Trường Chính trị Phạm Hùng, tỉnh Vĩnh Long.
Email: nhientctph@gmail.com
Nhận ngày 3 tháng 7 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 4 tháng 8 năm 2017.
Tóm tắt: Cùng với quá trình đổi mới đất nước, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta cũng biến đổi rất
mạnh mẽ theo hướng chuyển từ cấu “hai giai cấp, một tầng lớp” sang cấu hai giai cấp
nhiều tầng lớp khác nhau. Các giai cấp các tầng lớp cũng biến đổi mạnh mẽ. Đảng, Nhà nước,
các tổ chức hội định hướng, phát huy những xu hướng tích cực, đồng thời hạn chế những xu
hướng không mong muốn do sự biến đổi của cơ cấu xã hội giai cấp.
Từ khoá: Cơ cấu xã hội - giai cấp, đổi mới, sự biến đổi, Việt Nam.
Phân loại ngành: Chính trị học
Abstract: Together with the process of renovation, the structure of the society and classes in
Vietnam has also changed dramatically from having two classes and one tier to having two classes
and many tiers. Changing strongly are also the classes and tiers themselves. The Party, State and
social organisations have oriented and developed the positive trends, and, at the same time, limited
the unwanted ones caused by the changes of the structure.
Keywords: Structure of the society and classes, renovation, change, Vietnam.
Subject classification: Politics
1. Mở đầu
Việt Nam đã đang chuyển từ giai đoạn
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập
trung bao cấp sang hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ một
hội khép sang một hội rộng mở (với
phương châm sẵn sàng là bạn với tất cả các
quốc gia, dân tộc trên thế giới, trên sở
bình đẳng cùng lợi). Do sự chuyển
đổi đó nên xã hội Việt Nam cũng có sự biến
đổi hết sức sâu sắc trên nhiều phương diện,
trong đó sự biến đổi cấu hội - giai
cấp. Sự biến đổi này, một mặt tác động tích
cực đến công cuộc đổi mới đất nước, nhưng
mặt khác cũng đặt ra nhiều vấn đề về
kinh tế - hội cần phải được giải quyết.
Bài viết này đề cập đến sự biến đổi cơ cấu
hội - giai cấp Việt Nam trong thời k
đổi mới.
Lê Thị Hồng Nhiên
105
2. cấu hội - giai cấp Việt Nam
hiện nay
Ph.Ăngghen đã từng cho rằng: “Trong mọi
thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế cấu
xã hội - cấu này tất yếu phải do sản xuất
kinh tế ra, cả hai cái đó cấu thành sở
lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời
đại ấy” [1, tr.21]. Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới vừa qua cũng sự chuyển đổi
về cơ cấu xã hội - giai cấp. Đó là sự chuyển
đổi từ cấu “hai giai một tầng” (giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức) giai đoạn bao cấp sang cấu hai
giai cấp, nhiều tầng lớp trong thời kỳ
đổi mới (giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp nhà doanh
nghiệp, tầng lớp tiểu thương, tầng lớp
tiểu chủ).
Các giai tầng (trong đó phải kể đến
những giai tầng mới) ngày càng năng động
hơn, sáng tạo chủ động hơn. Tuy nhiên,
do giữa các tầng lớp giai cấp vừa sự
tương đồng, vừa những khác biệt nhất
định về mặt lợi ích, cho nên mối quan hệ
giữa các giai tầng trong xã hội Việt Nam
hiện nay là mối quan hệ vừa hợp tác và vừa
đấu tranh với nhau. Khẳng định điều này,
Đảng ta chỉ rõ: “Mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp hội quan hệ hợp tác
đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn
kết hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây
dựng bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo
của Đảng” [2, tr.85].
3. Các xu hướng biến đổi của giai cấp
công nhân
Một là, xu hướng tăng lên về số lượng cùng
với sự phát triển của các ngành nghề công
nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Trước đổi mới, số lượng công
nhân nước ta 7 triệu người, đến năm
2007 9,5 triệu người, năm 2013 tăng lên
gần 11 triệu hiện nay khoảng 15 triệu
người, chiếm 21% tổng số lao động và 11%
dân số cả nước [4, tr.266]. Sự gia tăng về số
lượng của giai cấp công nhân nước ta
trong những năm qua chủ yếu là do sự phát
triển các ngành công nghiệp của các thành
phần kinh tế. Kinh tế ngoài nhà nước là khu
vực số lượng công nhân tăng lên nhanh
chóng, còn khu vực kinh tế nhà nước, số
lượng công nhân tăng không đáng kể.
Hai là, xu hướng đa dạng hoá sự phát
triển của giai cấp công nhân trong các thành
phần kinh tế. Giai cấp công nhân nước ta
không những phát triển cả về số lượng
chất lượng, còn ngày càng phát triển đa
dạng hơn. Cụ thể, hiện nay giai cấp công
nhân Việt Nam đang có mặt trong tất cả các
thành phần kinh tế; trong số khoảng 15
triệu công nhân gần 2 triệu công nhân
trong các doanh nghiệp nhà nước 1,6
triệu công nhân trong các doanh nghiệp
vốn đầu nước ngoài, số còn lại trong
các doanh nghiệp tư nhân.
Công nhân hoạt động các thành phần
kinh tế khác nhau sẽ khác nhau về tính chất
lao động, trình độ sản xuất công nghiệp
về thu nhập. Trên thực tế, tình trạng phân
hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội trong nội
bộ giai cấp công nhân ở nước ta cũng đã và
đang diễn ra rất sâu sắc. Ở một mức độ nhất
định, điều này sẽ dẫn đến sự khác biệt về ý
thức làm chủ, trình độ tác phong công
nghiệp, tinh thần giác ngộ đoàn kết giai
cấp… Đây chính những yếu tố làm tăng
thêm quá trình phức tạp đa dạng hoá
trong giai cấp công nhân ở nước ta.
Ba là, xu hướng ngày càng nâng cao về
trình độ, ý thức lao động và tác phong công
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
106
nghiệp của giai cấp công nhân. Nếu như
trước đổi mới, chỉ 57,5% công nhân
trình độ phổ thông sở đa số không
qua đào tạo nghề thì đến năm 2008 đã
80% công nhân có trình độ trung học sở
trung học phổ thông; 37% lao động đã
qua đào tạo, trong đó 25% đào tạo nghề
[5, tr.156]. Năm 2014, có 70,2% công nhân
trình độ trung học phổ thông, 26,8%
trình độ trung học cơ sở và 3,1% có trình độ
tiểu học. Công nhân trình độ trung cấp
chiếm 17,9%, trình độ cao đẳng chiếm
6,6%, trình độ đại học chiếm 17,4% [9,
tr.61-62].
Xu hướng nâng cao trình độ (từ trình độ
học vấn đến chuyên môn trình độ tay
nghề của công nhân) xu thế khách quan
của quá trình phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần quá trình hội nhập quốc tế.
Xu hướng đó hệ quả tất yếu phát triển
những ngành nghề sản xuất đòi hỏi người
lao động phải trình độ tay nghề cao.
Đây động lực quan trọng thúc đẩy người
lao động tự giác nâng cao trình độ văn hoá,
trình độ chuyên môn và tay nghề để thể
đáp ứng được yêu cầu các ngành nghề
sản xuất đặt ra.
Bốn là, xu hướng ngày càng đa đạng v
cấu ngành nghề. Sự phát triển không
ngừng của khoa học, công nghệ, sự phát
triển của nền kinh tế tri thức quá trình
hợp tác quốc tế làm xuất hiện nhiều ngành
nghề mới, trong đó phải kể đến các ngành
kinh tế công nghiệp mũi nhọn (như: điện,
dầu khí, điện tử, tin học, viễn thông, chế tạo
vật liệu mới…). Sự xuất hiện của những
ngành nghề này đặt ra yêu cầu cần phải
một lực lượng công nhân phù hợp.
Bên cạnh đó, nhiều ngành dịch vụ cũng
phát triển (như: các ngành tài chính, ngân
hàng, chuyển giao kỹ thuật, đầu ra cho các
sản phẩm…). Đây những ngành nhu
cầu phát triển lớn; thế nên công nhân
hoạt động ở khu vực các ngành này sẽ ngày
càng tăng.
4. Các xu hướng biến đổi của giai cấp
nông dân
Một là, xu hướng giảm về số lượng. Cùng
với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, những năm qua giai cấp nông dân
Việt Nam xu hướng ngày càng giảm.
Năm 2001, cả nước 24,95 triệu lao động
nông nghiệp, năm 2007 giảm 1,14 triệu lao
động còn 23,81 triệu [5, tr.1167]. Hiện
nay, Việt Nam 23 triệu người làm nông
nghiệp [12]. Đây là xu hướng mới tích
cực về chuyển dịch lao động nước ta,
phản ánh kết quả thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
chuyển dịch cấu kinh tế nông thôn
của Đảng và Nhà nước.
Trong những năm gần đây, nền sản xuất
nông nghiệp nước ta chuyển mạnh từ nền
nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản xuất
hàng hoá, theo đó cấu ngành nghề
nông thôn cũng thay đổi theo chiều hướng
tích cực và trở nên đa dạng hoá. Đó là giảm
số lượng và ttrọng nhóm hộ nông - lâm -
thuỷ sản; tăng số lượng và tỷ trọng nhóm hộ
công nghiệp dịch vụ. Theo kết quả điều
tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2011 của Tổng cục Thống kê, số hộ hoạt
động trong lĩnh vực nông, lâm, thusản
9,53 triệu hộ (chiếm 62,2%), giảm 248
nghìn hộ so với năm 2006 (chiếm 71,1%);
số hộ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ là 5,13 triệu, tăng 1,67
triệu hộ so với năm 2006. Tính chung trong
giai đoạn 2001 - 2011, số hộ nông, lâm,
thuỷ sản cứ qua 5 năm lại giảm đi khoảng
từ 9% đến 10%.
Lê Thị Hồng Nhiên
107
Mặc đã đạt được những kết quả rất
tích cực, nhưng chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
ngành, nghề cấu lao động khu vực
nông thôn vẫn còn chậm còn cách xa so
với yêu cầu quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong 10
năm, từ 2001 - 2011, tỷ trọng lao động hoạt
động trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản mới
giảm được 20%, từ khoảng 80% năm 2001
xuống còn khoảng 60% vào năm 2011, bình
quân mỗi năm chỉ giảm được 2%.
Trong cấu ngành nghề nông thôn,
một bộ phận chuyển sang làm nghề thủ
công hoặc dịch vụ, khí, chế biến nông
sản, cung ứng vật tư nông nghiệp…; một bộ
phận không nhỏ chuyển sang kinh doanh
trang trại và kinh tế hợp tác với quy mô lớn.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2008 cả
nước có 7.592 hợp tác xã, đến năm 2016 là
10.756 hợp tác xã [10]. Năm 2008 cả nước
120.699 trang trại, hiện nay gần
150.000 trang trại [6]. Kinh tế trang trại
kinh tế hợp tác phát triển đã góp phần
chuyển dịch cấu kinh tế, dẫn tới sự đa
dạng hoá cơ cấu ngành nghề trong giai cấp
nông dân ở nước ta.
Hai là, xu hướng ngày càng nâng cao về
trình độ sản xuất kinh doanh. Cùng với
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn; người nông dân từ
chỗ thụ động, thờ ơ với việc học tập, tiếp
thu trình độ kỹ thuật canh tác đã trở nên
tích cực hơn, chủ động hơn trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Họ biết ứng dụng
kỹ thuật canh tác mới, học hỏi những kinh
nghiệm sản xuất mới, nghiên cứu thị
trường, giá cả nhằm nâng cao trình độ sản
xuất kinh doanh, tăng hiệu quả trên đơn vị
sản xuất.
Những dụ về hình trồng rau công
nghệ cao trong nhà lưới ở thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy hiệu quả rõ rệt khi doanh thu
đạt từ 120 - 150 triệu đồng/ha, gấp 2 - 3 lần
canh tác theo lối truyền thống. Các mô hình
trồng hoa - cây cảnh ở Đà Lạt và chè ô long
Lâm Đồng (dây chuyền sản xuất khép
kín, cây giống, ươm, chăm sóc, thu hoạch
trong nhà lưới; hệ thống tưới phun sương,
tưới nhỏ giọt theo tiêu chuẩn Israel) đã cho
năng suất chất lượng sản phẩm hơn hẳn
cách sản xuất truyền thống, sử dụng màng
phủ. Tại Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Hà
Nội nhiều mô hình sản xuất giống cây, chăn
nuôi lợn, quy mô công nghiệp theo công
nghệ Nhật Bản đã đang mang lại những
hiệu quả to lớn, giúp người sản xuất thu
nhập gấp 2, thậm chí gấp nhiều lần, so với
sản xuất quảng canh hộ gia đình truyền
thống. Thực tế y cho thấy, trình độ của
người nông dân Việt Nam ngày càng nâng
cao trong quá trình sản xuất.
Ba là, xu hướng tăng vai trò tự chủ của
kinh tế hộ gia đình nông dân, tăng sự phân
hoá giàu - nghèo nông thôn. Cùng với s
phát triển của chế kinh tế thị trường,
người nông dân được giải phóng khỏi sự áp
đặt, ràng buộc của chế quản kinh tế
tập trung quan liêu, bao cấp. Họ được
quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh,
được quyền sử dụng ruộng đất lâu dài. Đây
chính là động lực bản nhất để kích thích
phát huy tính năng động, tinh thần sáng
tạo của người nông dân, để họ thể quan
tâm gắn lâu dài hơn với đồng ruộng
cũng như sản xuất ngày càng đạt hiệu quả
hơn. Kinh tế hộ đã đóng góp một phần quan
trọng trong việc ổn định phát triển kinh
tế - hội ở khu vực nông thôn. Xu hướng
này sẽ được tiếp tục khẳng định ngày
càng phát huy vai trò tốt hơn khi Đảng giải
quyết đồng bộ vấn đề nông dân, nông
nghiệp và nông thôn.
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
108
Song, cùng với xu hướng tăng lên về vai
trò của kinh tế hộ thì sự phân hoá giàu -
nghèo ở khu vực nông thôn cũng ngày càng
diễn ra mạnh mẽ. Theo số liệu điều tra của
Tổng cục Thống năm 2008, chênh lệch
giữa nhóm thu nhập cao nhất nhóm
có thu nhập thấp nhất ở nông thôn là 6,5 lần
[8, tr.117]; con số này tăng lên 7,5 lần vào
năm 2010. Tương tự, chênh lệch về chi tiêu
giữa nhóm thu nhập cao nhất nhóm
thu nhập thấp nhất cũng tăng t 3,1 lần
năm 2002 lên 3,5 lần năm 2010 [11].
Quá trình phân hoá giàu - nghèo giữa
các hộ nông dân nông thôn một quá
trình tự nhiên, diễn ra trong điều kiện phát
triển sản xuất hàng hoá theo chế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa. Trong
chế thị trường, một bộ phận nông dân
giàu lên, trở thành các tiểu chủ, do họ
trình độ, vốn liếng, kỹ năng, kinh nghiệm
sản xuất; một bộ phận khác nghèo đi, trở
thành người làm thuê, hoặc tham gia vào
đội ngũ công nhân công nghiệp. Tuy nhiên,
vấn đề chỗ, Nhà nước cần phải
những chính sách, giải pháp thật đồng bộ để
góp phần nâng cao đời sống, sản xuất của
người nông dân và nhất là giảm bớt sự phân
hoá, chênh lệch nghèo - giàu khu vực
nông thôn.
5. Các xu hướng biến đổi của tầng lớp
trí thức
Một là, xu hướng đa dạng hoá cấu tầng
lớp trí thức. Trong công cuộc đổi mới đất
nước, cấu tầng lớp trí thức nước ta
ngày càng trở nên đa dạng. Bên cạnh ngày
càng nhiều trí thức hoạt động các
ngành khoa học mũi nhọn (như: công nghệ
thông tin, công nghệ điện tử, công nghệ
gien, công nghệ vật liệu mới…) thì còn
một bộ phận không nhỏ trí thức tham gia
trong lĩnh vực lãnh đạo, quản của Đảng,
Nhà nước. Mặt khác, tính đa dạng trong
cấu tầng lớp trí thức còn được thể hiện
chỗ, số trí thức hoạt động các thành phần
kinh tế ngoài khu vực nhà nước đã tăng lên.
nhiều doanh nghiệp, do quá trình hoạt
động hiệu quả, người lao động thu
nhập cao và do đó, sẽ thu hút được những
trí thức giỏi.
Hai là, xu hướng ngày càng tăng về số
lượng chất lượng. Do quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra trong điều
kiện cách mạng khoa học công nghệ xu
thế toàn cầu hoá ở nước ta nên trong những
năm qua tầng lớp trí thức ở Việt Nam cũng
sự phát triển đáng kể cả về lượng cũng
như về chất. Năm 2008, nước ta khoảng
2 triệu người trình độ đại học, cao đẳng
trở lên, trong đó hơn 14.000 tiến
20.000 thạc sĩ. Theo thống kê của Bộ Khoa
học Công nghệ, năm 2012 cả nước
24.300 tiến 101.000 thạc sĩ. Số lượng
tiến sĩ mỗi năm tăng 7%, thạc sĩ là 14% [7].
Về số lượng giáo sư, phó giáo sư, theo số
liệu của Hội đồng Chức danh giáo nhà
nước, từ năm 1976 đến năm 2013, tổng số
giáo sư, phó giáo được công nhận
nước ta 10.453 người; trong đó, giáo
1569 và phó giáo sư 8.884 người [12].
Riêng tính 3 năm từ năm 2014 đến năm
2016, đã xét công nhận đạt tiêu chuẩn
chức danh giáo sư, phó giáo cho 1.869
người [13].
Cùng với sự phát triển về lượng, chất
lượng của tầng lớp trí thức Việt Nam
cũng từng bước được nâng lên. Điều này
được thể hiện nhất công tác đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao về trình độ và năng lực
công tác của đội ngũ trí thức. Trong những
Lê Thị Hồng Nhiên
109
năm qua, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ năng lực công tác cho tầng
lớp trí thức rất được Đảng Nhà nước
quan tâm. Cùng với chính sách mở rộng
quan hệ giao lưu quốc tế, tầng lớp trí
thức Việt Nam không những được tham
gia đào tạo, bồi dưỡng những chương trình
giáo dục trong nước, mà còn điều kiện
tham gia nghiên cứu, học tập, tiếp thu
những chương trình giáo dục ở nước ngoài;
điều đó đã góp phần tích cực đáng
kể trong việc nâng cao chất lượng tthức
Việt Nam.
Ba là, xu hướng thiếu trong tầng lớp trí
thức. Xu hướng thiếu cân đối trong tầng lớp
trí thức nước ta cũng đang một vấn đề
rất đáng quan tâm. Sự thiếu cân đối này thể
trong các lĩnh vực khoa học. Chẳng hạn,
trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn
có đến 70,4% trí thức có trình độ cao đẳng,
đại học trở lên; lĩnh vực kinh doanh, quản
khoảng 24,7%; lĩnh vực khoa học tự
nhiên, kỹ thuật khoảng 25,8% [5,
tr.174]. Sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất
công nghiệp trong điều kiện cách mạng
khoa học công nghệ đòi hỏi cần một số
lượng lớn đội ngũ trí thức các ngành kỹ
thuật. Tuy nhiên, số trí thức trình độ
chuyên môn về khối các ngành khoa học k
thuật rất ít. Tình trạng hàng trăm nghìn
cử nhân thất nghiệp hiện nay không chỉ đơn
thuần phản ánh về bài toán “cung - cầu”
lao động, bài học “thừa thầy thiếu thợ”,
còn cho thấy sự mất cân đối trong tầng lớp
trí thức.
Tình trạng mất cân đối trong tầng lớp trí
thức còn thể hiện ở việc phân bổ chưa đồng
đều giữa các khu vực. Nhìn chung, tuyệt đại
đa số trí thức tập trung tại các đô thị lớn,
nơi công nghiệp các hoạt động dịch vụ
sản xuất phát triển mạnh (như: Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương…)
Khu vực nông thôn, nhất là miền núi, vùng
sâu, vùng xa, đang rất khó khăn trong việc
thu hút trí thức.
6. Quan hệ giữa các giai cấp các
tầng lớp
Sự tác động của kinh tế thị trường hội
nhập quốc tế cùng với những thay đổi
trong chế chính sách của Đảng Nhà
nước Việt Nam thời kỳ đổi mới đã dẫn đến
những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu xã hội -
giai cấp, cũng như trong bản thân mỗi giai
cấp tầng lớp. Mặt khác, do giữa các giai
cấp các tầng lớp vừa sự tương đồng,
vừa sự khác biệt về lợi ích, nên quan hệ
giữa các giai cấp các tầng lớp trong
hội Việt Nam hiện nay là mối quan hệ vừa
hợp tác vừa đấu tranh với nhau. Các giai
cấp, các tầng lớp hợp tác, liên minh với
nhau khi xuất hiện những nhu cầu và lợi ích
chung. Họ đấu tranh với nhau khi xảy ra
mâu thuẫn về lợi ích. Đây chính biểu
hiện tất yếu của xu thế phát triển kinh tế thị
trường. Do tác động của mặt trái của kinh tế
thị trường nhiều nguyên nhân khác, nên
trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp có
không ít những trường hợp cạnh tranh
không lành mạnh. Giữa các giai tầng lúc
còn nảy sinh không ít những hiện tượng
tiêu cực. Chính thế, trong hội vẫn còn
đấu tranh giai cấp.
nước ta hiện nay, Đảng Nhà nước
coi liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức vốn được xem một vấn đề nổi
bật và có tầm quan trọng trong quan hệ giữa
các giai cấp, các tầng lớp nước ta; nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Về điều này, Văn kiện Đại hội Đảng XII
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
110
chỉ rõ: “Đại đoàn kết dân tộc đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam,
động lực nguồn lực to lớn trong xây
dựng bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân đội ngũ trí thức do Đảng lãnh
đạo” [3, tr.68].
7. Kết luận
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những
những chuyển biến sâu sắc trên phương
diện, cấu xã hội - giai cấp. Sự biến đổi
này, một mặt tác động tích cực đến công
cuộc đổi mới đất nước, nhưng mặt khác
cũng đặt ra nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội
cần phải được giải quyết. Đứng trước thực
trạng đó, cần thúc đẩy sự phát triển bền
vững của hội, phát huy những xu hướng
tích cực, đồng thời hạn chế những xu hướng
không mong muốn nảy sinh do sự biến đổi
cơ cấu xã hội giai cấp.
Tài liệu tham khảo
[1] C.Mác Ph.Ăngghen (1995), , Nxb Toàn tập
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Giáo trình Những vấn đề bản của Chủ
nghĩa Mác-Lênin & tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2017.
[5] T Ngọc Tấn (2013), Xu hướng biến đổi
cấu hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[6] Trần Thị Minh Châu, Văn Phúc (2010),
Chính sách hỗ trợ của nhà nước ta đối với
nông dân trong điều kiện hội nhập WTO, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] Quang Thọ (2015), Xây dựng lối sống văn
hoá của công nhân Việt Nam - luận thực
tiễn, Nxb Lao động Hà Nội.
[8] http://www.baomoi.com/ca-nuoc-co-10-756-
hop-tac-xa-dat-doanh-thu-trung-binh-hon-1-ty-
dong/c/21592217.epi
[9] http://www.doanhnhansaigon.vn/chuyen-
lam-an/de-thu-hep-khoang-cach-giau-
ngheo/1061699/
[10] http://www.hdchgsnn.gov.vn/news/detail/
tabid/77/newsid/357/seo/bao-cao-cua-GS-tran-
van-nhung-tai-van-mieu-quoc-tu-giam.
[11] http://www.hdcdgsnn.gov.vn/index.php/ho-t-d-
ng-net-duy-t/thong-bao/730-ba-a-ca-0-ka-t-
qua-xa-t-ca-ng-nh-n-a-t-tia-u-chua-n-cha-c-
danh-gs-pgs0n-m-2017
[12] http://news.zing.vn/so-nguoi-lam-nong-nghiep-
o-vn-cao-hon-11-nuoc-tpp-cong-lai-
post621758.html
[13] http://www.vacvina.org.vn/xem-tin-tuc/
phat-trien-kinh-te-trang-trai.html
[14] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/164238/24-
000-tien-si-viet-nam-dang-lam-gi.html
Lê Thị Hồng Nhiên
111
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
112
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/164238/24- 000-
tien-si-viet-nam-dang-ml
| 1/9

Preview text:

Cơ cấu xã hội - giai cấp
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Lê Thị Hồng Nhiên1
1 Trường Chính trị Phạm Hùng, tỉnh Vĩnh Long. Email: nhientctph@gmail.com
Nhận ngày 3 tháng 7 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 4 tháng 8 năm 2017.
Tóm tắt: Cùng với quá trình đổi mới đất nước, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta cũng biến đổi rất
mạnh mẽ theo hướng chuyển từ cơ cấu “hai giai cấp, một tầng lớp” sang cơ cấu hai giai cấp và
nhiều tầng lớp khác nhau. Các giai cấp và các tầng lớp cũng biến đổi mạnh mẽ. Đảng, Nhà nước,
các tổ chức xã hội định hướng, phát huy những xu hướng tích cực, đồng thời hạn chế những xu
hướng không mong muốn do sự biến đổi của cơ cấu xã hội giai cấp.
Từ khoá: Cơ cấu xã hội - giai cấp, đổi mới, sự biến đổi, Việt Nam.
Phân loại ngành: Chính trị học
Abstract: Together with the process of renovation, the structure of the society and classes in
Vietnam has also changed dramatically from having two classes and one tier to having two classes
and many tiers. Changing strongly are also the classes and tiers themselves. The Party, State and
social organisations have oriented and developed the positive trends, and, at the same time, limited
the unwanted ones caused by the changes of the structure.
Keywords: Structure of the society and classes, renovation, change, Vietnam.
Subject classification: Politics 1. Mở đầu
đổi đó nên xã hội Việt Nam cũng có sự biến
đổi hết sức sâu sắc trên nhiều phương diện,
Việt Nam đã và đang chuyển từ giai đoạn trong đó có sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập cấp. Sự biến đổi này, một mặt tác động tích
trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị cực đến công cuộc đổi mới đất nước, nhưng
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ một mặt khác cũng đặt ra nhiều vấn đề về
xã hội khép sang một xã hội rộng mở (với kinh tế - xã hội cần phải được giải quyết.
phương châm sẵn sàng là bạn với tất cả các Bài viết này đề cập đến sự biến đổi cơ cấu
quốc gia, dân tộc trên thế giới, trên cơ sở xã hội - giai cấp ở Việt Nam trong thời kỳ
bình đẳng và cùng có lợi). Do sự chuyển đổi mới. 104 Lê Thị Hồng Nhiên
2. Cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện nay
hiện đại hoá. Trước đổi mới, số lượng công
nhân nước ta là 7 triệu người, đến năm
Ph.Ăngghen đã từng cho rằng: “Trong mọi 2007 là 9,5 triệu người, năm 2013 tăng lên
thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu gần 11 triệu và hiện nay khoảng 15 triệu
xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất người, chiếm 21% tổng số lao động và 11%
kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở dân số cả nước [4, tr.266]. Sự gia tăng về số
lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời lượng của giai cấp công nhân ở nước ta
đại ấy” [1, tr.21]. Ở Việt Nam trong thời trong những năm qua chủ yếu là do sự phát
kỳ đổi mới vừa qua cũng có sự chuyển đổi triển các ngành công nghiệp của các thành
về cơ cấu xã hội - giai cấp. Đó là sự chuyển phần kinh tế. Kinh tế ngoài nhà nước là khu
đổi từ cơ cấu “hai giai một tầng” (giai cấp vực có số lượng công nhân tăng lên nhanh
công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí chóng, còn ở khu vực kinh tế nhà nước, số
thức) ở giai đoạn bao cấp sang cơ cấu hai lượng công nhân tăng không đáng kể.
giai cấp, nhiều tầng lớp trong thời kỳ
Hai là, xu hướng đa dạng hoá sự phát
đổi mới (giai cấp công nhân, giai cấp nông triển của giai cấp công nhân trong các thành
dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp nhà doanh phần kinh tế. Giai cấp công nhân nước ta
nghiệp, tầng lớp tiểu thương, tầng lớp không những phát triển cả về số lượng và tiểu chủ).
chất lượng, mà còn ngày càng phát triển đa
Các giai tầng (trong đó phải kể đến dạng hơn. Cụ thể, hiện nay giai cấp công
những giai tầng mới) ngày càng năng động nhân Việt Nam đang có mặt trong tất cả các
hơn, sáng tạo và chủ động hơn. Tuy nhiên, thành phần kinh tế; trong số khoảng 15
triệu công nhân có gần 2 triệu công nhân
do giữa các tầng lớp và giai cấp vừa có sự trong các doanh nghiệp nhà nước và 1,6
tương đồng, vừa có những khác biệt nhất triệu công nhân trong các doanh nghiệp có
định về mặt lợi ích, cho nên mối quan hệ vốn đầu tư nước ngoài, số còn lại là trong
giữa các giai tầng trong xã hội Việt Nam các doanh nghiệp tư nhân.
hiện nay là mối quan hệ vừa hợp tác và vừa
Công nhân hoạt động ở các thành phần
đấu tranh với nhau. Khẳng định điều này, kinh tế khác nhau sẽ khác nhau về tính chất
Đảng ta chỉ rõ: “Mối quan hệ giữa các giai lao động, trình độ sản xuất công nghiệp và
cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác về thu nhập. Trên thực tế, tình trạng phân
và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội trong nội
kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây bộ giai cấp công nhân ở nước ta cũng đã và
dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo đang diễn ra rất sâu sắc. Ở một mức độ nhất của Đảng” [2, tr.85].
định, điều này sẽ dẫn đến sự khác biệt về ý
thức làm chủ, trình độ và tác phong công
nghiệp, tinh thần giác ngộ và đoàn kết giai
3. Các xu hướng biến đổi của giai cấp cấp… Đây chính là những yếu tố làm tăng công nhân
thêm quá trình phức tạp và đa dạng hoá
trong giai cấp công nhân ở nước ta.
Một là, xu hướng tăng lên về số lượng cùng
Ba là, xu hướng ngày càng nâng cao về
với sự phát triển của các ngành nghề công trình độ, ý thức lao động và tác phong công 105
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
nghiệp của giai cấp công nhân. Nếu như cầu phát triển lớn; vì thế nên công nhân
trước đổi mới, chỉ có 57,5% công nhân có hoạt động ở khu vực các ngành này sẽ ngày
trình độ phổ thông cơ sở và đa số không càng tăng.
qua đào tạo nghề thì đến năm 2008 đã có
80% công nhân có trình độ trung học cơ sở
và trung học phổ thông; 37% lao động đã 4. Các xu hướng biến đổi của giai cấp
qua đào tạo, trong đó 25% là đào tạo nghề nông dân
[5, tr.156]. Năm 2014, có 70,2% công nhân
có trình độ trung học phổ thông, 26,8% có Một là, xu hướng giảm về số lượng. Cùng
trình độ trung học cơ sở và 3,1% có trình độ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
tiểu học. Công nhân có trình độ trung cấp đất nước, những năm qua giai cấp nông dân
chiếm 17,9%, trình độ cao đẳng chiếm Việt Nam có xu hướng ngày càng giảm.
6,6%, trình độ đại học chiếm 17,4% [9, Năm 2001, cả nước có 24,95 triệu lao động tr.61-62].
nông nghiệp, năm 2007 giảm 1,14 triệu lao
Xu hướng nâng cao trình độ (từ trình độ động và còn 23,81 triệu [5, tr.1167]. Hiện
học vấn đến chuyên môn và trình độ tay nay, Việt Nam có 23 triệu người làm nông
nghề của công nhân) là xu thế khách quan nghiệp [12]. Đây là xu hướng mới và tích
của quá trình phát triển nền kinh tế nhiều cực về chuyển dịch lao động ở nước ta,
thành phần và quá trình hội nhập quốc tế. phản ánh kết quả thực hiện công nghiệp
Xu hướng đó là hệ quả tất yếu vì phát triển hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
những ngành nghề sản xuất đòi hỏi người và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
lao động phải có trình độ và tay nghề cao. của Đảng và Nhà nước.
Đây là động lực quan trọng thúc đẩy người
Trong những năm gần đây, nền sản xuất
lao động tự giác nâng cao trình độ văn hoá, nông nghiệp ở nước ta chuyển mạnh từ nền
trình độ chuyên môn và tay nghề để có thể nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản xuất
đáp ứng được yêu cầu mà các ngành nghề hàng hoá, và theo đó cơ cấu ngành nghề ở sản xuất đặt ra.
nông thôn cũng thay đổi theo chiều hướng
Bốn là, xu hướng ngày càng đa đạng về tích cực và trở nên đa dạng hoá. Đó là giảm
cơ cấu ngành nghề. Sự phát triển không số lượng và tỷ trọng nhóm hộ nông - lâm -
ngừng của khoa học, công nghệ, sự phát thuỷ sản; tăng số lượng và tỷ trọng nhóm hộ
triển của nền kinh tế tri thức và quá trình công nghiệp và dịch vụ. Theo kết quả điều
hợp tác quốc tế làm xuất hiện nhiều ngành tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
nghề mới, trong đó phải kể đến các ngành 2011 của Tổng cục Thống kê, số hộ hoạt
kinh tế công nghiệp mũi nhọn (như: điện, động trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản là
dầu khí, điện tử, tin học, viễn thông, chế tạo 9,53 triệu hộ (chiếm 62,2%), giảm 248
vật liệu mới…). Sự xuất hiện của những nghìn hộ so với năm 2006 (chiếm 71,1%);
ngành nghề này đặt ra yêu cầu cần phải có số hộ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp,
một lực lượng công nhân phù hợp.
xây dựng và dịch vụ là 5,13 triệu, tăng 1,67
Bên cạnh đó, nhiều ngành dịch vụ cũng triệu hộ so với năm 2006. Tính chung trong
phát triển (như: các ngành tài chính, ngân giai đoạn 2001 - 2011, số hộ nông, lâm,
hàng, chuyển giao kỹ thuật, đầu ra cho các thuỷ sản cứ qua 5 năm lại giảm đi khoảng
sản phẩm…). Đây là những ngành có nhu từ 9% đến 10%. 106 Lê Thị Hồng Nhiên
Mặc dù đã đạt được những kết quả rất Minh cho thấy hiệu quả rõ rệt khi doanh thu
tích cực, nhưng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đạt từ 120 - 150 triệu đồng/ha, gấp 2 - 3 lần
ngành, nghề và cơ cấu lao động ở khu vực canh tác theo lối truyền thống. Các mô hình
nông thôn vẫn còn chậm và còn cách xa so trồng hoa - cây cảnh ở Đà Lạt và chè ô long
với yêu cầu quá trình công nghiệp hóa, hiện ở Lâm Đồng (dây chuyền sản xuất khép
đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong 10 kín, cây giống, ươm, chăm sóc, thu hoạch
năm, từ 2001 - 2011, tỷ trọng lao động hoạt trong nhà lưới; hệ thống tưới phun sương,
động trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản mới tưới nhỏ giọt theo tiêu chuẩn Israel) đã cho
giảm được 20%, từ khoảng 80% năm 2001 năng suất và chất lượng sản phẩm hơn hẳn
xuống còn khoảng 60% vào năm 2011, bình cách sản xuất truyền thống, sử dụng màng
quân mỗi năm chỉ giảm được 2%.
phủ. Tại Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Hà
Trong cơ cấu ngành nghề ở nông thôn, Nội nhiều mô hình sản xuất giống cây, chăn
một bộ phận chuyển sang làm nghề thủ nuôi lợn, gà quy mô công nghiệp theo công
công hoặc dịch vụ, cơ khí, chế biến nông nghệ Nhật Bản đã và đang mang lại những
sản, cung ứng vật tư nông nghiệp…; một bộ hiệu quả to lớn, giúp người sản xuất có thu
phận không nhỏ chuyển sang kinh doanh nhập gấp 2, thậm chí gấp nhiều lần, so với
trang trại và kinh tế hợp tác với quy mô lớn. sản xuất quảng canh hộ gia đình truyền
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2008 cả thống. Thực tế này cho thấy, trình độ của
nước có 7.592 hợp tác xã, đến năm 2016 là người nông dân Việt Nam ngày càng nâng
10.756 hợp tác xã [10]. Năm 2008 cả nước cao trong quá trình sản xuất.
có 120.699 trang trại, hiện nay có gần
Ba là, xu hướng tăng vai trò tự chủ của
150.000 trang trại [6]. Kinh tế trang trại và kinh tế hộ gia đình nông dân, tăng sự phân
kinh tế hợp tác phát triển đã góp phần hoá giàu - nghèo ở nông thôn. Cùng với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dẫn tới sự đa phát triển của cơ chế kinh tế thị trường,
dạng hoá cơ cấu ngành nghề trong giai cấp người nông dân được giải phóng khỏi sự áp nông dân ở nước ta.
đặt, ràng buộc của cơ chế quản lý kinh tế
Hai là, xu hướng ngày càng nâng cao về tập trung quan liêu, bao cấp. Họ được
trình độ sản xuất và kinh doanh. Cùng với quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh,
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá được quyền sử dụng ruộng đất lâu dài. Đây
nông nghiệp, nông thôn; người nông dân từ chính là động lực cơ bản nhất để kích thích
chỗ thụ động, thờ ơ với việc học tập, tiếp và phát huy tính năng động, tinh thần sáng
thu trình độ kỹ thuật canh tác đã trở nên tạo của người nông dân, để họ có thể quan
tích cực hơn, chủ động hơn trong quá trình tâm và gắn bó lâu dài hơn với đồng ruộng
sản xuất và kinh doanh. Họ biết ứng dụng cũng như sản xuất ngày càng đạt hiệu quả
kỹ thuật canh tác mới, học hỏi những kinh hơn. Kinh tế hộ đã đóng góp một phần quan
nghiệm sản xuất mới, nghiên cứu thị trọng trong việc ổn định và phát triển kinh
trường, giá cả nhằm nâng cao trình độ sản tế - xã hội ở khu vực nông thôn. Xu hướng
xuất kinh doanh, tăng hiệu quả trên đơn vị này sẽ được tiếp tục khẳng định và ngày sản xuất.
càng phát huy vai trò tốt hơn khi Đảng giải
Những ví dụ về mô hình trồng rau công quyết đồng bộ vấn đề nông dân, nông
nghệ cao trong nhà lưới ở thành phố Hồ Chí nghiệp và nông thôn. 107
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
Song, cùng với xu hướng tăng lên về vai gien, công nghệ vật liệu mới…) thì còn có
trò của kinh tế hộ thì sự phân hoá giàu - một bộ phận không nhỏ trí thức tham gia
nghèo ở khu vực nông thôn cũng ngày càng trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý của Đảng,
diễn ra mạnh mẽ. Theo số liệu điều tra của Nhà nước. Mặt khác, tính đa dạng trong cơ
Tổng cục Thống kê năm 2008, chênh lệch cấu tầng lớp trí thức còn được thể hiện ở
giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm chỗ, số trí thức hoạt động ở các thành phần
có thu nhập thấp nhất ở nông thôn là 6,5 lần kinh tế ngoài khu vực nhà nước đã tăng lên.
[8, tr.117]; con số này tăng lên 7,5 lần vào Ở nhiều doanh nghiệp, do quá trình hoạt
năm 2010. Tương tự, chênh lệch về chi tiêu động có hiệu quả, người lao động có thu
giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm nhập cao và do đó, sẽ thu hút được những
thu nhập thấp nhất cũng tăng từ 3,1 lần trí thức giỏi.
năm 2002 lên 3,5 lần năm 2010 [11].
Hai là, xu hướng ngày càng tăng về số
Quá trình phân hoá giàu - nghèo giữa lượng và chất lượng. Do quá trình công
các hộ nông dân ở nông thôn là một quá nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra trong điều
trình tự nhiên, diễn ra trong điều kiện phát kiện cách mạng khoa học công nghệ và xu
triển sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị thế toàn cầu hoá ở nước ta nên trong những
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong năm qua tầng lớp trí thức ở Việt Nam cũng
cơ chế thị trường, một bộ phận nông dân có sự phát triển đáng kể cả về lượng cũng
giàu lên, trở thành các tiểu chủ, do họ có như về chất. Năm 2008, nước ta có khoảng
trình độ, vốn liếng, kỹ năng, kinh nghiệm 2 triệu người có trình độ đại học, cao đẳng
sản xuất; một bộ phận khác nghèo đi, trở trở lên, trong đó có hơn 14.000 tiến sĩ và
thành người làm thuê, hoặc tham gia vào 20.000 thạc sĩ. Theo thống kê của Bộ Khoa
đội ngũ công nhân công nghiệp. Tuy nhiên, học và Công nghệ, năm 2012 cả nước có
vấn đề là ở chỗ, Nhà nước cần phải có 24.300 tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ. Số lượng
những chính sách, giải pháp thật đồng bộ để tiến sĩ mỗi năm tăng 7%, thạc sĩ là 14% [7].
góp phần nâng cao đời sống, sản xuất của Về số lượng giáo sư, phó giáo sư, theo số
người nông dân và nhất là giảm bớt sự phân liệu của Hội đồng Chức danh giáo sư nhà
hoá, chênh lệch nghèo - giàu ở khu vực nước, từ năm 1976 đến năm 2013, tổng số nông thôn.
giáo sư, phó giáo sư được công nhận ở
nước ta là 10.453 người; trong đó, giáo sư
là 1569 và phó giáo sư là 8.884 người [12].
5. Các xu hướng biến đổi của tầng lớp Riêng tính 3 năm từ năm 2014 đến năm trí thức
2016, đã xét và công nhận đạt tiêu chuẩn
chức danh giáo sư, phó giáo sư cho 1.869
Một là, xu hướng đa dạng hoá cơ cấu tầng người [13].
lớp trí thức. Trong công cuộc đổi mới đất
Cùng với sự phát triển về lượng, chất
nước, cơ cấu tầng lớp trí thức ở nước ta lượng của tầng lớp trí thức ở Việt Nam
ngày càng trở nên đa dạng. Bên cạnh ngày cũng từng bước được nâng lên. Điều này
càng có nhiều trí thức hoạt động ở các được thể hiện rõ nhất ở công tác đào tạo,
ngành khoa học mũi nhọn (như: công nghệ bồi dưỡng, nâng cao về trình độ và năng lực
thông tin, công nghệ điện tử, công nghệ công tác của đội ngũ trí thức. Trong những 108 Lê Thị Hồng Nhiên
năm qua, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nâng thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương…)
cao trình độ và năng lực công tác cho tầng Khu vực nông thôn, nhất là miền núi, vùng
lớp trí thức rất được Đảng và Nhà nước sâu, vùng xa, đang rất khó khăn trong việc
quan tâm. Cùng với chính sách mở rộng thu hút trí thức.
quan hệ và giao lưu quốc tế, tầng lớp trí
thức ở Việt Nam không những được tham
gia đào tạo, bồi dưỡng những chương trình 6. Quan hệ giữa các giai cấp và các
giáo dục trong nước, mà còn có điều kiện tầng lớp
tham gia nghiên cứu, học tập, tiếp thu
những chương trình giáo dục ở nước ngoài; Sự tác động của kinh tế thị trường và hội
điều đó đã góp phần tích cực và đáng nhập quốc tế và cùng với những thay đổi
kể trong việc nâng cao chất lượng trí thức trong cơ chế chính sách của Đảng và Nhà Việt Nam.
nước Việt Nam thời kỳ đổi mới đã dẫn đến
Ba là, xu hướng thiếu trong tầng lớp trí những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu xã hội -
thức. Xu hướng thiếu cân đối trong tầng lớp giai cấp, cũng như trong bản thân mỗi giai
trí thức ở nước ta cũng đang là một vấn đề cấp và tầng lớp. Mặt khác, do giữa các giai
rất đáng quan tâm. Sự thiếu cân đối này thể cấp và các tầng lớp vừa có sự tương đồng,
trong các lĩnh vực khoa học. Chẳng hạn, vừa có sự khác biệt về lợi ích, nên quan hệ
trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn giữa các giai cấp và các tầng lớp trong xã
có đến 70,4% trí thức có trình độ cao đẳng, hội Việt Nam hiện nay là mối quan hệ vừa
đại học trở lên; lĩnh vực kinh doanh, quản hợp tác vừa đấu tranh với nhau. Các giai
lý có khoảng 24,7%; lĩnh vực khoa học tự cấp, các tầng lớp hợp tác, liên minh với
nhiên, kỹ thuật có khoảng 25,8% [5, nhau khi xuất hiện những nhu cầu và lợi ích
tr.174]. Sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất chung. Họ đấu tranh với nhau khi xảy ra
công nghiệp trong điều kiện cách mạng mâu thuẫn về lợi ích. Đây chính là biểu
khoa học công nghệ đòi hỏi cần một số hiện tất yếu của xu thế phát triển kinh tế thị
lượng lớn đội ngũ trí thức ở các ngành kỹ trường. Do tác động của mặt trái của kinh tế
thuật. Tuy nhiên, số trí thức có trình độ thị trường và nhiều nguyên nhân khác, nên
chuyên môn về khối các ngành khoa học kỹ trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp có
thuật là rất ít. Tình trạng hàng trăm nghìn không ít những trường hợp cạnh tranh
cử nhân thất nghiệp hiện nay không chỉ đơn không lành mạnh. Giữa các giai tầng có lúc
thuần phản ánh về bài toán “cung - cầu” còn nảy sinh không ít những hiện tượng
lao động, bài học “thừa thầy thiếu thợ”, mà tiêu cực. Chính vì thế, trong xã hội vẫn còn
còn cho thấy sự mất cân đối trong tầng lớp đấu tranh giai cấp. trí thức.
Ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước
Tình trạng mất cân đối trong tầng lớp trí coi liên minh giữa công nhân với nông dân
thức còn thể hiện ở việc phân bổ chưa đồng và trí thức vốn được xem là một vấn đề nổi
đều giữa các khu vực. Nhìn chung, tuyệt đại bật và có tầm quan trọng trong quan hệ giữa
đa số trí thức tập trung tại các đô thị lớn, các giai cấp, các tầng lớp ở nước ta; là nền
nơi công nghiệp và các hoạt động dịch vụ tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
sản xuất phát triển mạnh (như: Hà Nội, Về điều này, Văn kiện Đại hội Đảng XII 109
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
chỉ rõ: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối [3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện
chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
động lực và nguồn lực to lớn trong xây
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối [4] Giáo trình Những vấn đề cơ bản của Chủ
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
nghĩa Mác-Lênin & tư tưởng Hồ Chí Minh,
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2017.
nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh [5] Tạ Ngọc Tấn (2013), Xu hướng biến đổi cơ
cấu xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, đạo” [3, tr.68]. Hà Nội.
[6] Trần Thị Minh Châu, Vũ Văn Phúc (2010),
Chính sách hỗ trợ của nhà nước ta đối với 7. Kết luận
nông dân trong điều kiện hội nhập WTO, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những [7] Vũ Quang Thọ (2015), Xây dựng lối sống văn
những chuyển biến sâu sắc trên phương
hoá của công nhân Việt Nam - lý luận và thực
diện, cơ cấu xã hội - giai cấp. Sự biến đổi
tiễn, Nxb Lao động Hà Nội.
này, một mặt tác động tích cực đến công [8] http://www.baomoi.com/ca-nuoc-co-10-756-
cuộc đổi mới đất nước, nhưng mặt khác
hop-tac-xa-dat-doanh-thu-trung-binh-hon-1-ty-
cũng đặt ra nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội dong/c/21592217.epi
[9] http://www.doanhnhansaigon.vn/chuyen-
cần phải được giải quyết. Đứng trước thực
lam-an/de-thu-hep-khoang-cach-giau-
trạng đó, cần thúc đẩy sự phát triển bền ngheo/1061699/
vững của xã hội, phát huy những xu hướng [10] http://www.hdchgsnn.gov.vn/news/detail/
tích cực, đồng thời hạn chế những xu hướng
tabid/77/newsid/357/seo/bao-cao-cua-GS-tran-
không mong muốn nảy sinh do sự biến đổi
van-nhung-tai-van-mieu-quoc-tu-giam.
cơ cấu xã hội giai cấp.
[11] http://www.hdcdgsnn.gov.vn/index.php/ho-t-d-
ng-net-duy-t/thong-bao/730-ba-a-ca-0-ka-t-
qua-xa-t-ca-ng-nh-n-a-t-tia-u-chua-n-cha-c-
Tài liệu tham khảo danh-gs-pgs0n-m-2017
[12] http://news.zing.vn/so-nguoi-lam-nong-nghiep-
o-vn-cao-hon-11-nuoc-tpp-cong-lai-
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb post621758.html
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[13] http://www.vacvina.org.vn/xem-tin-tuc/
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện
phat-trien-kinh-te-trang-trai.html
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
[14] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/164238/24-
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
000-tien-si-viet-nam-dang-lam-gi.html 110 Lê Thị Hồng Nhiên 111
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/164238/24- 000- tien-si-viet-nam-dang-ml 112