













Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58886076 CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM 
Câu 1: Chức năng, cấu trúc của văn hóa 
-Khái niệm văn hóa…. (giáo trình 17)  Chức năng 
- Văn hóa gồm có 4 chức năng: 
+ Chức năng tổ chức xh: Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện chức năng tổ chức xã 
hội. Một cộng đồng từ khi sinh ra, văn hóa tạo nên nét riêng biệt, nhìn vào văn hóa để biết sự ổn 
định của cộng đồng đó. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện chức năng tổ chức xã 
hội, Chẳng hạn như, cộng đồng người Việt từ khi hình thành, chính những nét văn hóa đã tạo nên 
nét riêng biệt cho người Việt được thể hiện ở giọng nói, chữ viết,.. Từ ngàn đời nay, người Việt 
vẫn luôn giữ gìn, kế thừa, tiếp tục phát huy nền văn hóa đó để giữ vững tính ổn định cho xã hội. 
Nhìn vào văn hóa để biết được sự ổn định của cộng đồng. 
+ Chức năng điều chỉnh xã hội: xem xét, điều chỉnh giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân 
bằng, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng 
các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội. Ví dụ như 1 phong tục cổ truyền của 
người Việt là Đốt vàng mã đang được xem xét có nên bỏ hay không? Đây là phong tục xuất phát 
từ nguồn gốc của vàng mã, tục lễ tuẫn tán của người xưa. Mặc dù phong tục về mặt nguồn gốc là 
tính nhân văn, là một cách thức để con người bày tỏ hiếu đễ đối với tổ tiên và thần linh, những đối 
với xã hội ngày nay, đất chật người đông thì rất dễ xảy ra những rủi ro như cháy nhà, ô nhiễm 
không khí, ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến vệ sinh, môi trường sống,… Phong tục này đã 
không còn phù hợp với xã hội hiện nay, do đó cần xém xét và có sự điều chỉnh 
+ Chức năng giao tiếp: Tính nhân sinh của văn hóa tạo ra chức năng giao tiếp. Chính vì là một sợi 
dây vô hình kết nối con người với con người nên văn hóa có khả năng “giao tiếp”. Đó là lý do mà 
văn hóa chỉ được dùng với xã hội loài người, vì chỉ có con người mới có thể giao tiếp với nhau 
thông qua hệ thống ngôn ngữ và ký hiệu. Trong đó, hệ thống ngôn ngữ và ký hiệu chính là các sản 
phẩm của văn hóa. Nói cách khác, văn hóa tạo ra môi trường giao tiếp cho con người. Nhờ có văn 
hóa mà con người có thể giao tiếp với nhau bằng lời nói, cử chỉ, hành động,… để truyền đạt thông 
tin cho nhau. Từ đó, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. 
+ Chức năng giáo dục: Văn hóa có tính lịch sử, vì thế mà nó có chức năng giáo dục. Lý do là bởi 
văn hóa có năng lực thông tin hoàn hảo. Sự truyền đạt thông tin này được thể hiện thông qua sự 
quan sát, bắt chước hành vi và được mã hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật 
phát,.. Thế hệ sau quan sát và bắt chước hành vi của thế hệ trước, sự tích lũy này diễn ra từng ngày, 
sự chuyển giao cứ thế được thực hiện. Chính vì thế mà văn hóa luôn gắn liền với những chuẩn 
mực đạo đức, người có văn hóa tức là người được tiếp nhận giáo dục, biến những giá trị mình thu 
nạp trở thành giá trị của riêng bản thân, văn hóa khi ấy được nâng cấp lên trở thành bản sắc của 
mỗi con người. Chẳng hạn như tại sao người ta lại lên án tình trạng loạn luân? Là tình trạng giao 
cấu giữa những người cùng dòng máu trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời,,.. 
Theo nghiên cứu cho thấy, nếu như diễn ra tình trạng đó thì sẽ dẫn đến sự biến đổi, rối loạn và suy 
thoái về NST, có thể gây ra tình trạng khuyết tật phát triển trí tuệ và dị tật bẩm sinh như hở hàm      lOMoAR cPSD| 58886076
ếch,.. Do đó, mỗi người cần ý thức được những hành động nào là hợp với văn hóa, đạo đức, hành 
động nào là không phù hợp với văn hóa đạo đức, để từ đó giúp cho nền văn hóa của xã hội ngày 
càng được nâng cao và phát triển.  Cấu trúc 
Văn hóa không phải là 1 tập hợp của những hiện tượng rời rạc mà là 1 khái niệm mang tính hệ 
thống. Trong đó, các yếu tố có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau tạo thành 1 chỉnh thể hoàn 
chỉnh, gọi là thành tố. Cấu trúc tạo nên tính chỉnh thể, tính hệ thống cho văn hóa. Văn hóa được 
cấu thành từ 3 yếu tố: Văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể và văn hóa xã hội. Trong đó, - Văn hóa  vật thể bao gồm: 
+ văn hóa ẩm thực: chẳng hạn như vào ngày Tết cổ truyền của Việt Nam sẽ xuất hiện những nồi 
bánh tét, bánh chưng, bánh giầy,.. 
+ văn hóa cư trú: Hình ảnh nhà sàn được xem là nét đặc trưng văn hóa của đồng bào dân tộc miền  núi như Thái, Mường,.. 
+ văn hóa sản xuất: nền văn hóa sản xuất chủ yếu của các dân tộc Việt Nam là làm nông nghiệp, 
mà cụ thể là trồng lúa nước 
+ tập quán đi lại: tập quán đi lại của người Việt khá phong phú: đi bộ, đi thuyền, đi bằng xe gắn  máy,.… 
- Văn hóa phi vật thể gồm: 
+ phong tục tập quán: Chẳng hạn như người Êđê có một phong tục đặc sắc là Tục nối dây. Theo 
như quy định của phong tục này, sau khi người chồng trong gia đình không may qua đời thì người 
vợ được phép cưới người anh, người em hay người cháu trong gia đình, họ hàng của người chồng. 
Ngoài ra, nếu như người vợ mất sớm thì người chồng cũng phải được cử hành hôn lễ với người vợ 
mới là em gái, cháu gái của người vợ. Cộng đồng dân tộc Ê Đê trước đây sống biệt lập ở những 
vùng núi cao, cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên và luôn phải đối phó với thiên tai, 
dịch bệnh, nên đồng bào có tục nối dây để duy trì nòi giống, sức lao động, bảo vệ buôn làng. 
+ Tín ngưỡng tôn giáo: Ví dụ người Việt, người Hoa thờ các vị thần Quan Công, Thần Tài. Người 
Chăm thờ các vị thần như Po Nagar, Po Rome,... Về tôn giáo, lấy ví dụ về Đạo Hồi là tôn giáo của 
một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15 tại vương quốc Chăm Pa ở 
miền Trung Việt Nam, sau đó theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới vùng An Giang, Tây  Ninh vào thế kỷ 19. 
 + Lễ hội: Chẳng hạn như ở vùng Tây bắc Việt Nam có một số lễ hội tiêu biểu được tổ chức hằng 
năm như: Lễ hội hoa ban, Lễ hội cầu an bản Mường, Lễ hội Lồng Tồng,… 
+ Nghệ thuật: Việt Nam có rất nhiều loại hình nghệ thuật văn hóa dân gian đặc sắc như: Các vở 
chèo, Đờn ca tài tử, Ca trù, Tuồng, Hát xoan, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Múa rối nước, Hát Then,… 
+ Ngôn ngữ: ví dụ như tiếng Việt, cũng gọi là tiếng Việt Nam hay Việt ngữ là ngôn ngữ của người 
Việt và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam 
cùng với hơn 4 triệu người Việt kiều.      lOMoAR cPSD| 58886076
SO SÁNH VĂN HÓA VÀ VĂN MINH 
Khái niệm: Khái niệm “văn hóa” là thuật ngữ chỉ cách chúng ta suy nghĩ, cư xử và hành động. Còn 
văn minh đề cập đến quá trình mà một khu vực hoặc xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển là tổ 
chức tiên tiến của con người. 
Mức độ rộng lớn: Nền văn minh được đánh giá là lớn hơn nhiều so với một nền văn hóa. Vì văn 
minh là một tập hợp phức tạp được tạo thành từ nhiều thứ trong đó một khía cạnh là văn hóa. Văn 
hóa không thể nói là tiến bộ. Nền văn minh luôn trong tình trạng tiến bộ.. 
Thời gian phát triển: Theo các nhà xã hội học của thế kỷ 19, văn hóa phát triển sớm hơn và nền 
văn minh được tạo ra sau đó. Văn minh là một nhà nước phát triển văn hóa rất tiên tiến. Văn hóa 
tồn tại trong một nền văn minh. Một nền văn minh có thể được tạo thành từ một số nền văn hóa. 
Sự ràng buộc: Văn hóa có thể tự tồn tại nhưng văn minh thì không. Có văn hóa mới tạo ra văn 
minh và không có chiều ngược lại. 
Phương thức tồn tại: Văn hóa có thể tồn tại ở cả hai dạng hữu hình và vô hình. Một nền văn minh  ít nhiều hữu hình. 
Di truyền/tính kế thừa: Văn hóa có thể được học hỏi và truyền qua phương tiện nói và giao tiếp từ 
thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng văn minh thì không vì tính phức tạp của nó. 
Phạm vi phản ánh: Văn hóa thể hiện nhiều hơn trong Tôn giáo, nghệ thuật, khiêu vũ, văn học, 
phong tục, đạo đức, âm nhạc, triết học, v.v. Còn văn minh thì thể hiện ở Luật, hành chính, cơ sở 
hạ tầng, kiến trúc, sắp xếp xã hội, v.v. 
Mức độ thể hiện: Văn hóa thể hiện mức độ hoàn thiện bên trong lớn nhất, và vì vậy nó là nội tại. 
Còn văn minh là thể hiện những hình thức bên ngoài, tức là nó là sự thể hiện của công nghệ hiện 
đại, sản phẩm, thiết bị, cơ sở hạ tầng, v.v.  VÙNG VĂN HÓA 
Là vùng lãnh thổ có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có 
mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế, giữa họ đã 
diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng 
chung thể hiện trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, phân biệt được 
với các vùng văn hóa khác.  VÙNG VĂN HÓA TÂY BẮC  - giáo trình (225) 
- Địa hình: Địa hình Tây Bắc núi cao và chia cắt sâu, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy 
theohướng Tây Bắc-Đông Nam. Dãy Hoàng Liên Sơn dài tới 180 km, rộng 30 km, với một số 
đỉnh núi cao trên từ 2800 đến 3000 m. Dãy núi Sông Mã dài 500 km, có những đỉnh cao trên  1800 m. 
Giữa hai dãy núi này là vùng đồi núi thấp lưu vực sông Đà (còn gọi là địa máng sông Đà). Ngoài 
sông Đà là sông lớn, vùng Tây Bắc chỉ có sông nhỏ và suối gồm cả thượng lưu sông Mã. Trong      lOMoAR cPSD| 58886076
địa máng sông Đà còn có một dãy cao nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ đến Thanh Hóa, và 
có thể chia nhỏ thành các cao nguyên Tà Phình, Mộc Châu, Nà Sản. Cũng có các lòng chảo như 
Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh. 
- Khí hậu vùng núi mảnh đất này là khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa. Chếđộ 
gió mùa có sự tương phản rõ rệt: mùa hè và mùa đông. 
- Chủ thể: văn hóa Thái (với những yếu tố tiếp biến từ văn hóa ĐNÁ) nổi lên như một sắc tháiđại 
diện cho văn hóa Tấy Bắc. 
- Phân bố dân cư: vùng rẻo cao(đỉnh núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữMông 
- Dao, Tạng Miến,với phương thức lao động sản xuất chủ yếu là phát nương làm rẫy, phụ thuộc 
rất nhiều vào thiên nhiên; vùng rẻo giữa (sườn núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm 
ngôn ngữ Môn - Khmer, phương thức lao động sản xuất chính là trồng lúa cạn, chăn nuôi gia súc 
và một số nghề thủ công; còn ở vùng thung lũng, chân núi là nơi sinh sống của các dân tộc thuộc 
nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Thái - Kadai, điều kiện tự nhien thuận lợi hơn để phát triển nông 
nghiệp và các ngành nghề khác. sự khác biệt về điều kiện sinh sống và phương thức lao động sản 
xuất cũng gây ra sự khác biệt văn hóa rất lớn, mặc dù văn hóa chủ thể và đặc trưng là văn hóa  dân tộc Thái. 
*Đời sống văn hóa vật chất xã hội: 
- Sống theo các bản, mường; Bản nào ở chân núi đá thì hay dùng mạch nước ngầm làm nước ăn,gọi 
là “Mỏ nước” (Bó nặm). Chẳng hạn như: Bản Cát Cát là một làng dân tộc người Mông thuộc 
tỉnh Lào Cai, Bản Tả Phìn là nơi cư trú của đa số đồng bào người Dao và H’Mông thuộc Sapa,  Lào Cai,… 
“Các bản Thái thường quần tụ ven suối chân đồi. Những ngôi nhà sàn bình dị ấm cúng, khói lam 
thơm thoảng gió đồng, lách cách tiếng thoi đua, đâu đây da diết một điệu khèn câu khắp, lốc cốc 
tiếng mõ trâu đàn về bản... Tất cả làm nên một vẻ đẹp trong sáng đậm tình như một bức tranh sơn 
thủy, dân dã nguyên sơ của một nền văn hóa.” (Trần Vân Hạc, 2007, “Nhà sàn của người Thái 
Tây Bắc”, Báo Nhân dân điện tử) 
- Văn hóa thung lũng Thái nổi tiếng với hệ thống tưới tiêu theo lối “mương – phai – lái – lịn” 
- Tập quán đi lại: Đây là vùng có giao thông đi lại khó khăn, xe máy chỉ dùng khoảng 3 - 4 nămlà 
đã hư hỏng nặng, nên người dân ở đây đi bộ là chủ yếu, hoặc đi bằng những con thuyền độc mộc. 
Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã, hay sông Lam... đã biết đóng thuyền và sử 
dụng thuyền vận chuyển, lưu thông bằng thuyền trên sông suối lớn. 
- Cấu trúc xã hội: Không gian bản, mường 
- Vị trí: thường nằm ở ven đồi, chân núi, nhìn ra cánh đồng, ở đấy có ít nhất 1 dòng suối to, nhỏtùy  nơi 
- Cấu trúc: Bản làng – nương rẫy; nương – suối; nhà sàn, chợ,.. 
*Luật tục, hương ước:      lOMoAR cPSD| 58886076
- Tín ngưỡng: các dân tộc trong vùng đều có tín ngưỡng “mọi vật có linh hồn” (animisme), mộtloại 
tín ngưỡng mà mọi dân tộc trên hành tinh đều trải qua. Có đủ loại “hồn” và các loại thần. Thần 
sông núi, suối khe, đá, cây, súc vật, các lực lượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa, gió. Các bộ 
phân trên thân thể con người cũng có hồn. Nếu như người Kinh cho rằng có ba hồn bảy vía (nam) 
và ba hồn chín vía (nữ) thì người Thái có đến 80 hồn, như hồn tóc, hồn lông mày mũi, trán,… 
- Tôn giáo: Hiện nay, ở khu vực Tây Bắc có sự hiện diện của các tôn giáo lớn, như: Phật giáo,Công 
giáo, Tin lành và khoảng 20 hiện tượng tôn giáo mới. Chẳng hạn như: Viêc xuất hiệ n tíṇ đồ vùng 
Công giáo Tây Bắc là do công cuôc truyền giáo của các giáo sĩ thuộc Hộ i thừa sai Paris.̣ Ngay 
từ ban đầu viêc ưu tiên truyền giáo cho người dân tộ c thiểu số không phải là lựa chọn ưụ tiên 
của các linh mục người Pháp. Nhà thờ đá Sapa được xây dựng vào năm 1935 (đầu thế kỉ XX). 
Công trình này được chính những kiến trúc sư người Pháp, thiết kế và dựng lên. Đây là công 
trình được coi là dấu ấn duy nhất còn vẹn toàn của người Pháp ở trên mảnh đất Sapa. 
- Lễ hội: lễ hội truyền thống là dịp để con người vui chơi, giải trí, giao lưu cộng cảm, trao 
truyềnnhững đạo lý, tình cảm, mỹ tục và những khát vọng cao đẹp. Gồm có phần lễ, phần hội. 
Chẳng hạn như Lễ hội cầu an bản Mường: Đây là lễ hội của đồng bào dân tộc Thái ở Mai Châu, 
Thuận Châu, Mộc Châu và đồng bào dân tộc Mường. Đây là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng 
rất quan trọng đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc. Lễ hội được tổ chức vào cuối 
tháng Giêng, đầu tháng Hai âm lịch hằng năm. Lễ hội này được gắn với tục giết trâu và tạ thần 
linh được thể hiện qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng… Nội dung của lễ hội có nhiều hoạt 
động liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh, mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của 
cả cộng đồng trong năm diễn ra lễ hội. Chính vì thế mà lễ hội này được tổ chức rất trọng thể, thu 
hút đông đảo nhân dân trong vùng. 
- Tập quán ăn uống: đặc điểm chung nhất trong thành phần thức ăn của các dân tộc vùng TâyBắc 
là tất cả các món ăn đều được chế biến từ nguồn nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên đó gạo tẻ, gạo 
nếp; các loại thịt như thịt trâu, thịt bò, cá, gà và một nguyrn liệu đặc biệt không nơi nào có là hoa 
ban. Ngoài ra dân tộc ở đây còn sử dụng rêu để chế biến ra món ăn 
- Trang phục: có nhiều lớp, khá dày để chống chọi với cái lạnh của vùng Tây Bắc, nhưng cũngrất 
giản dị, độc đáo, màu sắc, đầy phong vị tự do. Chẳng hạn như: Áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang 
sức vàng bạc, khăn vấn đầu là những yếu tố cấu thành nên bộ trang phục hoàn chỉnh của người 
Dao. Trang phục của người phụ nữ dân tộc Mường có điểm nhấn nằm ở cạp váy, với những nét 
hoa văn rực rỡ nổi lên, thể hiện sự khéo léo tinh tế của người dệt.  * Văn hóa tinh thần 
- Có các tác phẩm thơ ca, tục ngữ, thành ngữ, đồng dao được lưu truyền dưới hình thức 
truyềnmiệng, thậm chí có cả những truyện thoe dài hàng ngàn câu như Tiễn dặn người iu (Thái), 
Tiếng hát làm dâu (H’mông), Vườn hoa – Núi cói (Mường),.. 
- Có thể xem nghệ thuật múa dân tộc là một nét đặc trựng của vùng Tây Bắc. Ví dụ như Xòe làđặc 
sản nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc…. giáo trình (237)      lOMoAR cPSD| 58886076
- Âm nhạc cũng là sở thích chung của hầu hết các dân tộc Tây Bắc. Hễ nhạc cụ hơi có lưỡi gàbằng 
tre, bằng đồng hay bằng bạc, nếu sưu tầm và gộp chung lại thì có đến vài chục loại hình thuộc hệ 
nhạc cụ này. Nhiều loại đã được cả nước biết đến như Pí pặp, khèn bè Thái, sáo,..  VÙNG VĂN HÓA VIỆT BẮC  - giáo trình (239) 
- Địa hình: Địa hình Việt Bắc có cấu trúc theo kiểu cánh cung, tụ lại ở Tam Đảo, các cánh cungnày 
mở ra ở phía Bắc và Đông Bắc và phần hướng lồi ra biển, thứ tự từ trong ra biển là các canh 
cung: sông Gâm, Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn và Đông Triều. Các dãy núi đều thuộc loại có độ 
cao trung bình và thấp. Một số núi có độ cao là Tây Côn Lĩnh (2431m), Kiều Liên Ti (2403m)  và Pu Ta Ca (2274m). 
- Khí hậu: Tuy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm nhưng vì địa hình cao, lại có nhiềudãy 
núi hình cánh cung mở ra ở phía bắc, chụm đầu về Tam Đảo, vào mùa Đông có gió Bắc thổi 
mạnh, rất lạnh, còn mùa hè mát mẻ, do đó vùng này có khí hậu cận nhiệt ẩm. 
- Chủ thể: cư dân Tày – Nùng 
*Đời sống vật chất xh 
- chủ yếu sống ở các bản. Bản là một công xã nông thôn đường lối lấy đơn vị nhà làm cơ sở. 
Nókhông làm chức năng về mặt sản xuất mà chỉ là một cộng đồng về mặt xã hội. 
- tập quán đi lại: Đây là vùng có giao thông đi lại khó khăn, xe máy chỉ dùng khoảng 3 - 4 năm 
làđã hư hỏng nặng, nên người dân ở đây đi bộ là chủ yếu, hoặc đi bằng những con thuyền độc 
mộc. Phương tiện vận chuyển của các cư dân này chủ yếu là: dậu, xoỏng, cuôi,…dùng để gánh. 
- Cấu trúc xã hội: Không gian bản, các bản đều có miếu thờ thổ công, mà nhiều nơi gọi là thổ 
địa(thổ tỉ), thành hoàng (thâm theng), chợ, chùa,… 
- Vị trí: các bản ven đường, cạnh sông suối hay thung lũng- Cấu trúc nhà ở: Người Tày- Nùng có  2 loại nhà chính: 
+ Nhà sàn: Dạng nhà phổ biến, gồm 2 loại là: Sàn 2 mái và sàn 4 mái. Nếu là nhà sàn 4 mái thì 
2 mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn 2 mái chính. Cầu thang lên xuống bằng tre, số bậc bao giờ 
cũng lẻ, không dùng bậc chẵn. 
+ Nhà đất: Loại nhà xuất hiện nhiều, về qui mô, kết cấu, bố cục có nhiều thay đổi so với nhà sàn. 
-Tính chất: có những thiết chế xã hội như xã, tổng, châu hay huyện và thay đổi theo các thể chế 
chính trị, thi hành theo lệnh của NN.  *Luật tục, hương ước 
- Tín ngưỡng: tính ngưỡng dẫn gian của cư dân Tày – Nùng hướng đến niềm tin của con ngườitới 
thần bản mệnh, trời-đất, tổ tiên, thần núi, thần sông, thần đất,..Ngoài ra còn có các vua, có Giàng  then.      lOMoAR cPSD| 58886076
- Tôn giáo: Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của ngườidân 
Việt Bắc. Ví dụ về một số chùa ở Việt Bắc như: chùa Hang, chùa Diên Khánh, chùa Linh  Quang,… 
- Tập quán ăn uống: tuỳ theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và khẩu vị của cưdân 
Việt Bắc có hương vị riêng. Việc chế biến món ăn của cư dân Tày Nùng một mặt có những sáng 
tạo, một mặt tiếp thu kỹ thuật chế biến của tộc lân cận như Hoa, Việt.v.v…. Thức ăn chính là gạo 
tẻ, nhưng việc chế biến món ăn từ gạo nếp được chú trọng hơn. Trong ngày tết, cốm và các loại 
xôi màu là những món ăn đặc biệt hấp dẫn. 
- Trang phục: Trang phục có tính thống nhất, được phân biệt theo giới tính, địa vị, lứa tuổi, 
theonhóm địa phương. Có nhiều lớp, khá dày để chống chọi với cái lạnh của vùng Tây Bắc, 
nhưng cũng rất giản dị, độc đáo, màu sắc, đầy phong vị tự do  *Văn hóa tinh thần 
- Giáo dục: Tầng lớp trí thức Tày-Nùng hình thành từ rất sớm. Nhất là sau khi hòa bình lập lại,giáo 
dục Việt Bắc đã và đang được chú trọng và phát triển. Mới đây, Đảng và NN ta đã tổ chức trường 
Đại học Thái Nguyên nhằm đẩy mạnh việc đào tạo trí thức, cán bộ khoa học cho Việt Bắc 
- Về chữ viết: Đảng và NN ta đã giúp người dân Việt Bắc xây dựng hệ thống chữ viết theo lốichữ 
Quốc ngữ, bằng chữ cái Latinh. Nét đặc biệt đáng chú ý là đã có nhiều nhà văn viết văn bằng chữ 
dân tộc như: tác giả Hoàng Đức Hậu (tác phẩm Trai gái gặp nhau, lên đồng,..), Nông Quốc Chấn 
(Dọn về làng,..),… (giáo trình 246) 
- Lễ hội: rất phong phú, đa dạng. Chẳng hạn như ngày hội của toàn cộng đồng là hội Lồng Tồng(hội 
xuống đồng), diễn ra gồm 2 phần: Lễ và hội. Nghi lễ chính là rước thần đình và thần nông ra nơi 
mở hội ở ngoài đồng. Một bữa ăn được tổ chức ngay tại đây. Phần hội căn bản là các trò chơi 
như đánh quay, đánh yến, tung còn, ảo thuật,..Về bản chất, hội Lồng tồng là một sinh hoạt văn  hóa 
VÙNG VĂN HÓA CHÂU THỔ BẮC BỘ  -giáo trình (252) 
- Địa hình: châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ dồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằngphẳng, 
dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn 
vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi 
thấp úng, có núi những vẫn là vùng trũng,… 
- Khí hậu: dạng khí hậu 4 mùa tương đối rõ nét, hơn nữ khí hậu vùng này lại rất thất thường, 
giómùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm 
- Kinh đô NN Đại Cồ Việt: Kinh đô đầu tiên của NN phong kiến, trung ương tập quyền ở ViệtNam 
và là kinh đô dưới 3 triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý 
- Một công trình vĩ đại ở vùng châu thổ Bắc Bộ không thể không nhắc đến là con đê sông Hồng.Nếu 
như ở Nam Bộ, Kênh Vĩnh Tế được xem là công trình thủy lợi quan trọng bậc nhất, là công trình      lOMoAR cPSD| 58886076
vĩ đại của quân và dân vùng biên giới Việt – Campuchia, thì ở Bắc bộ, con đê sông Hồng chính 
là niềm tự hào, là công trình lao động vĩ đại của người dân nơi đây. 
- Chủ thể: văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. 
* Đời sống vật chất xh 
- Người dân sống quần tụ thành làng, mỗi làng có 1 ngành nghề riêng biệt: có làng trồng hoamàu, 
làng trồng lúa, có làng ở gần sống thì làm ngư nghiệp , làng nghề thủ công,… 
- Tập quán đi lại: ghe, xuồng. đây là vùng có nhiều con sông nhỏ nên đi bằng các phương tiên 
đóđể thích nghi với tự nhiên. 
- Cấu trúc xã hội: không gian làng 
- vị trí: bên lũy tre làng, bờ sông 
- Cấu trúc: Cổng làng – cây đa; sân đình – bến nước (giếng nước, ao); chùa, chợ, làng 
- Tính chất: khép kín, tính cộng đồng, tính tự trị 
- hành chính: tự quản lý: theo lệ làng, hướng ước, tập quán pháp. Đồng thời cũng thi hành theocác 
chủ trương, chính sách của NN 
- Đình làng: thiết chê văn hóa, tín ngưỡng tổng hợp “tín ngưỡng, hành chính, văn hóa”*Luật tục  hương ước: 
Xây dựng – điều khoản 
Thi hành – hội đồng Cộng Đồng  Kiểm soát – tập thể 
- Hương ước cũng quy định chặt chẽ về sản xuất và bảo vệ môi trường, coi “việc nhà nông là cái 
gốc lớn” của làng. Hương ước khuyến khích mọi người, mọi nhà tận dụng đất đai sản xuất, quy 
định thể lệ việc đào kênh mương, đắp và tu bổ đê điều, bảo vệ công cụ sản xuất, nhất là “con 
trâu là đầu cơ nghiệp”,…. Chẳng hạn như điều 73 Hương ước làng Vân Trì, nay thuộc huyện 
Đông Anh quy định: “Trước khi làm lễ vấn danh tục gọi là ăn hỏi, bố mẹ hai bên ohair đến tường 
Hội đồng để Hương hội biết xét 2 người định lấy nhau ấy tuổi hợp lệ ko và có điều kiện gì ngăn 
trở ko, rồi yết thị ra tại đình cùng hội sở trong 15 ngày cho ai nấy đều biết. Nếu hợp lệ và ko có 
gì ngăn trở thì nhà giai mới được làm lễ vấn danh kết hôn”… 
-Nghi lễ: Tín ngưỡng thời thành hoàng; lễ hội: gồm phần lễ và phần hội, mục đích chủ yếu là để 
giao lưu, vui chơi, giải trí 
- Mỗi làng đều có các chùa. Ví dụ như chùa Dâu (Bắc Ninh), chùa Hương (Hà Nội), chùa  TâyPhương (Hà Nội) 
- Tập quán ăn uống: cơm+cá+rau, rất đậm gia vị, đa dạng phong phú các loại nước chấm, chủyếu 
là màu xanh của rau. Để thích ứng với khí hậu ở châu thổ Bắc Bộ, người dân ở đây có chú ý tăng 
thành phần thịt và mỡ, nhất là vào mùa đông lạnh để giữ nhiệt cho cơ thể      lOMoAR cPSD| 58886076
- Trang phục: cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn thích ứng với thiên 
nhiênchâu thổ Bắc Bộ đó là màu nâu. Trang phục giữ ấm, giữ được nhiệt tốt. 
- Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa vật thể tồn tại ở khắp các địa phương: Đền, đình, 
miếuchùa,.. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoai; đền Hùng, khu 
vực Cổ Loa, Hoa Lư, chùa Hương,..  *Văn hóa tinh thần; 
- Tín ngưỡng phồn thực: thờ Thành Hoàng, thờ Mẫu, thờ các ông tổ nghề,.. 
- Tôn giáo: tư tưởng triết học đạo giáo, nho giáo, phật giáo dân gian,… 
- Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như 1 loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm.Chẳng 
hạn như truyện trạng ở bắc Bộ: truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lớn; truyền thuyết như Sơn tinh thủy 
tinh, truyền thuyết Vua Hùng,… Văn học nghệ thuật với nhiều tác giả và tác phầm nối tiếng như: 
Nguyễn Trãi (tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo,..), Nguyễn Du (tác phẩm Truyện Kiều,…), Hồ Xuân 
Hương (tác phẩm Bánh trôi nước, Cảnh thu,..) Tất cả đều trưởng thành và gắn bó với vùng văn  hóa này 
- Nghệ thuật biểu diễn dân gian khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét: hát quan họ, hátxoan, 
hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo,.. 
- Lễ hội: lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ có thể ví như 1 bảo tàng văn hóa tổng hợp, lưu giữ khánhiều 
các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân. Chẳng hạn như Lễ tế “Hạt Lúa Thần” được diễn 
ra vào ngày mồng 1 tháng Giêng và ngày mồng 10 tháng 10 Âm lịch hàng năm. Tế “Hạt Lúa 
Thần” để xin “Thần Lúa” luôn ở lại với con người; không “tức giận bỏ đi” để con người đỡ phải 
làm lụng vất vả mà vẫn có đủ lúa gạo để duy trì cuộc sống sinh tồn ổn định và phát triển. Hay 
như Lễ hội Đền Hùng diễn ra từ ngày 06 đến hết ngày 10 tháng 03 Âm lịch (năm 2022 nhằm 
ngày 10 tháng 4). Việc tế lễ được tổ chức long trọng vào ngày chính hội (10/3), bắt đầu bằng lễ 
dâng hương có đại diện của nhà nước tại đền Thượng là nơi xưa kia vua Hùng tế trời đất. Đồ để 
tế lễ ngoài mâm ngũ quả ra còn có cả bánh chưng, bánh dày để gợi nhớ về sự tích Lang Liêu, 
cũng nhắc nhở công ơn vua Hùng ngày xưa đã dạy nhân dân trồng lúa.  VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ 
Vùng văn hóa trung bộ bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, 
Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Do vị thế địa 
lý – lịch sử, Trung Bộ đã trở thành trạm trung chuyển, là nơi dừng dân của người Việt trước khi 
tiến về phía Nam mở cõi. Nơi đây đã diễn ra sự giao lưu trực tiếp giữa người Việt và người Chăm, 
người Việt đã tiếp nhận di sản văn hóa Chàm (cả vật thể và phi vật thể) và Việt hóa để trowe thành 
của mình. Sự tiếp biến văn hóa này đã khiến văn hóa của người Việt Trung Bộ thay đổi cho với 
của người Việt Bắc Bộ. Điều kiện tự nhiên, môi trường đã làm cho vùng đát này hình thành 1 nền 
văn hóa biển bên cạnh nền văn hóa nông nghiệp. 
-Địa hình: Đây là dải đồng bằng hẹp nằm xen với các dãy núi ăn lan ra biển Đông. Ở phía bắc, đb 
nằm kẹp giữa biển Đông ở phía đông và dãy Trường Sơn ở phía tây; còn ở đoạn phía nam thì đb 
nằm kẹp giữa biển Đông ở phía đông và Tây Nguyên ở phía Tây. Nhiều nơi ăn sát ra tận biển và      lOMoAR cPSD| 58886076
chia cắt đb thành những đoạn tách biệt bởi nhiều đèo: đèo Ngang, đèo Hải Vân,… Dưới chân đèo 
có nhiều con sông lớn nhỏ chảy ra biển Đông. 
- Khí hậu: Khí hậu nhiệt đới khô hay khí hậu xavan. Có thể nói khí hậu vùng Trung Bộ khắcnghiệt  nhất nước ta. 
- Thủy lợi: người Chăm đã để lại hệ thống thủy lợi mương đập trên đất Phú – Khánh, Ninh –Bình 
Thuận, kỹ thuật làm ruộng muối ở Sa Huỳnh,.. 
- Chủ thể: Văn hóa Chăm – Việt 
* Đời sống văn hóa, vật chất xã hội 
- Sống thành các xóm, làng. Người dân ở đây có các hoạt động kinh tế như: trồng trọt, chăn 
nuôi,thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ,… đặc biệt là đánh bắt thủy hải sản 
- Tập quán đi lại: ghe, thuyền, nhất là ghe bầu 
- Cấu trúc xã hội: không gian xóm, làng, xã 
- Vị trí: ven núi, sát biển 
- Tính chất: Mỗi làng có 1 người đứng đầu, quản lý chung và có những hương ước riêng khácnhau. 
Song, vẫn chịu sự quản lý của Đảng và NN 
- Kiến trúc: hệ thống đền tháp được xây dựng bằng gạch kiên cố, trải qua hàng bao thế kỷ vẫnđứng 
vững như: tháp Ngà (Bình Định), tháp Nhạn (Phú Yên), tháp Bà (Nha Trang),… Ngoài ra còn có 
hệ thống thành lũy, kinh thành như: Châu Sa (Quảng Ngãi), Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng  Nam),… 
* Luật tục, hương ước 
- Mang sắc thái đặc thù và địa phương rõ rệt, do vậy nó rất đa dạng phong phú. Mỗi làng có 1 luật 
tục - hương ước riêng, kết cấu và nội dung hoàn toàn khác nhau. Ví dụ như, Tại làng Siêu Quần, 
xã Phong Bình, huyện Phong Điền (tỉnh Thừa Thiên Huế) có quy định, ai chặt hoặc đào bán lộc 
vừng trong làng sẽ bị phạt 500.000 đồng, nêu tên trên loa phát thanh xã, đồng thời phải có mâm 
trâu, cầu rượu đưa ra đình làng tạ lỗi với dân làng. 
- Tập quán ăn uống: bữa ăn của cư dân Việt Trung Bộ nghiêng về các hải sản đồ biển. Sử dụngnhiều 
chất cay (để làm mất mùi tanh và quân bình âm dương với các thức ăn thủy sản) trong bữa ăn 
- Trang phục: giản dị, khiêm tốn, màu sắc tươi sáng, chất liệu mỏng, nhẹ  * Văn hóa tinh thần 
- Tín ngưỡng: thờ Pô Inư Nagar, đã được việt hóa thành Thiên Y A Na thánh mẫu, tín ngưỡngthờ 
Mẫu, thờ cá Ông, thờ cúng tổ tiên ngoài ra còn có các bà Dàng, bà Bô Bô, bà Cố Hỷ,.. Ở Ninh 
Thuận còn thờ các ông vua Chăm như Pô Klaung Garai, Pô Rômê,… 
- Tôn giáo: Phật giáo, Hồi giáo, Chăm Bàlamôn,…      lOMoAR cPSD| 58886076
- Lễ hội: Các lễ hội phổ biến ở vùng này là: Lễ tế thành hoàng, tế tiền hiền, tế tổ sư, lễ hội cầungư, 
lễ hội cá ông,…Ngoài ra còn có các lễ hội nổi tiếng như lễ hội Rjia Nugar (người Chăm – Ninh 
Thuận), lễ Nghinh ông (Đà Nẵng),… Ví dụ như Lễ Cầu ngư. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày, từ 
mùng 10 tháng Giêng đến 12 tháng Giêng âm lịch. Ngày mùng 10 thanh niên tổ chức các trò chơi 
thi bơi, chèo thuyền thúng, kéo dây, nhảy bao bố, nấu cơm thi... Ban đêm làng mời các đoàn hát 
bội, ca Huế về biểu diễn phục vụ nhân dân. Ngày 11, từ 5 giờ sáng bắt đầu cúng tế ở đình làng 
và am miếu. Ngày 12 làm lễ chính cầu an, tưởng niệm các vị tiền nhân tại đình làng và đua trải 
trên phá Tam Giang. Sau đó, khai hội diễn trò "cầu ngư" ngay trước sân đình, gồm các tiết mục 
như đẩy thuyền ra khơi, câu cá, bủa lưới, mua bán thủy, hải sản... Ý nghĩa: cầu nguyện năm mới 
"sóng yên biển lặng", làm ăn thịnh vượng, có thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn trong 
nghề sông nước, biển cả, ngày đêm đối mặt với đầu sóng ngọn gió để ngày về tôm cá đầy khoang. 
- Nghệ thuật: hát ru con, hò (hò mái nhì, hò mái ô,..), đặc biệt có loại hình ca Huế, ca Quảng, hát 
Tuồng, hát vọng cổ,… Ngoài ra còn có các điệu múa: chèo cạn, múa bã trạo,… 
VÙNG VĂN HÓA TRƯỜNG SƠN – TÂY NGUYÊN  -giáo trình (267) 
- địa hình: Tây Nguyên là vùng sơn nguyên, xen cài giữa các dãy núi cao, trung bình với các 
caonguyên đất đỏ. Địa hình Tây Nguyên khá đa dạng, ngoài những núi cao thung lũng sâu hiểm 
trở còn có những cao nguyên, bình sơn nguyên lớn, những miền trũng và đồng bằng khá rộng, là 
những thung lũng giữa núi và những dải bồi tích các sông lớn. Địa hình núi cao, bao bọc cả 3 
mặt bắc, đông và nam của vùng. 
- Khí hậu: Ở đây hình thành một kiểu khí hậu đặc trưng được gọi là khá hậu nhiệt đới gió mùacao 
nguyên gồm 2 mùa nóng khô và mùa mưa 
- Chủ thể: văn hóa dân gian Tây Nguyên, văn hóa rừng 
* Đời sống văn hóa vật chất 
- Nét sống nương rẫy, sống trong các thôn làng, buôn (plây). Có truyền thống canh tác nương 
rẫytrên vùng đất khô, ngoài ra còn có chăn nuôi, trồng trọt, thủ công nghiệp, trao đổi mua bán 
- Tập quán đi lại: chủ yếu là đi bộ, đi xe máy,…, vận chuyển bằng voi, cái gùi trên lưng 
- Cấu trúc xã hội: không gian buôn làng, mỗi buôn làng có 1 người quản lí chung 
- Vị trí: ở những nơi bằng phẳng, ven đường, ven sông 
- Tính chất: Khép kín, tính tự trị, tính cộng đồng, tự quản lý, mỗi buôn làng có một luật tụchương 
ước riêng, vận hành theo quy định chặt chẽ của luật tục. 
- Trang phục: y phục thuộc loại choàng quấn, có nhiều hoa văn, họa tiết trang trí, màu sắc sặc 
sỡ.Ví dụ dân tộc Bana, nam giới gồm khố, áo, khăn và thắt lưng, khăn có trang trí hoa văn hình 
học, lông chim,.. Nữ là váy áo, khăn đội đầu, áo được may bằng vải sợi bông tự dệt… 
- Tập quán ăn uống: Người Tây Nguyên thường sử dụng các vât dụng như ống tre, nứa, bương,̣ 
vầu, lá chuối, bếp than củi,... để tạo ra món ăn, tân dụng nguồn nguyên liệ u từ núi rừng.̣      lOMoAR cPSD| 58886076
- Kiến trúc: Người Tây Nguyên có nền nghệ thuật tạo hình và kiến trúc mang sắc thái riêng, kháđộc 
đáo: những ngôi nhà rông (có dáng mái cao vút hình lưỡi rìu, cầu thang lên xuống, trang trí nhiều 
hoa văn), Nhà mồ (được trang trí bằng những hình khối, những tượng gỗ,..),.. 
* Luật tục, hương ước: 
- Cơ cấu xh của các dân tộc Tây Nguyên là cơ cấu công xã láng giềng kiểu buôn bon, plây (làng) 
được điều hành theo luật tục, gia đình theo chế độ mẫu hệ. Ví dụ Bộ luật Ê đê với 236 điều, Người 
Ê đê rất coi trọng việc vợ chồng kết hôn, ăn ở bền vững, không đc bỏ nhau nên Chương V, điều 
109 qui định: Đã lấy vợ thì phải ở với vợ cho đến chết; đã cầm cần mời rượu thì phải vào cuộc 
cho đến khi rượu nhạt, đã đánh cồng thì phải đánh cho đến khi người ta giữ tay lại. 
* Đời sống văn hóa tinh thần 
- Tín ngưỡng: Người Tây Nguyên quan niệm mọi vật xung quanh con người đều có Yang 
(hồn,thần): thần cây (yang Chi), thần cỏ (yang Chê), thần mọi vật (yang Joh),.. Các yang dưới sự 
cai quản của thần N’đu 
- Tôn giáo: Những năm qua, số lượng tín đồ các tôn giáo ở Tây Nguyên tăng nhanh theo tốc độtăng 
dân số. Trong đó chủ yếu là Công giáo, Phật giáo, đạo Tin Lành và đạo Cao Đài với tổng số 
khoảng 2.301.884 tín đồ, chiếm 34,7% dân số, đó là chưa kể những người theo các tín ngưỡng 
truyền thống khác. Hiện nay, đạo Tin Lành là tôn giáo có tỷ lệ tín đồ là đồng bào DTTS cao nhất 
trong các tôn giáo ở Tây Nguyên. Phật giáo ở Tây Nguyên phát triển tín đồ phật tử chủ yếu trong 
đồng bào Kinh (khoảng trên 600.000 phật tử), tỷ lệ đồng bào DTTS theo đạo Phật rất ít so với sự 
phát triển và hoằng pháp chung của Phật giáo ở các vùng miền cả nước. Đạo Cao Đài bắt đầu 
được truyền bá lên Tây Nguyên từ năm 1938 cùng với chính sách khai thác Tây Nguyên của thực 
dân Pháp. Tiếp đó, giáo hội Cao Đài các hệ phái Tây Ninh, Ban Chỉnh đạo đã cử chức sắc lên 
Tây Nguyên truyền đạo và xây dựng cơ sở. 
- Lễ hội: rất đa dạng, phong phú: Lễ đâm trâu, lễ Rửa gùi, lễ vào mùa, lễ bỏ mã, lễ gieo giống, 
lễĐậy nắp vựa thóc,… trong đó, lễ bỏ mã là lễ hội lớn và tiêu biểu nhất của các dân tộc Tây 
Nguyên. Lễ bỏ mả có hai phần: cúng tại nhà và ngoài mả, kéo dài hai đến ba ngày. Các gia đình 
có người chết phải chuẩn bị đồ cúng lễ rồi báo tin cho họ hàng, cả buôn làng tới dự. Trước lễ bỏ 
mả cả tháng đã có hàng chục người chặt gỗ, đẽo tượng, làm nhà mồ. Bà H’Thiêng (68 tuổi, huyện 
Cư Mgar) cho biết: “Mâm cúng làm lễ không bắt buộc, tùy từng nhà. Nếu giàu có thì trâu, bò, 
heo, gà, rượu cần, cây nêu. Nếu nghèo thì phải có heo, gà, rượu cần. Ngoài ra, còn có tượng gỗ. 
Người chết già thì tạc hình nhân ngồi chống cằm ngụ ý già yếu, hay ngồi hút thuốc hàm ý suy 
tư, cũng có khi ngồi gảy đàn T’ninh. Còn trẻ em thì tạc hai đứa bé ôm nhau đùa giỡn, thanh niên 
thì tạc tượng đứng...”. 
- Nghệ thuật: âm nhạc Tây Nguyên độc đáo, giàu bản sắc, giàu âm thanh tự nhiên: âm nhạc 
cồngchiêng Tây nguyên,..; nhạc cụ đa dạng, dùng những chất liệu tự nhiên: Cồng chiêng, đàn tơ 
rưng nước, klong – pút,…; Có nhiều hình thức múa: múa nghi lễ, múa từng giới, múa chung nam 
nữ,..; Hình thức lời nói vần trong tự sự dân gian rất phát triển như: Gà như lá rụng tháng tám/Heo 
như dưa hấu tháng năm (người Ê đê). Các thần thoại: Quả Bầu mẹ, Quả trứng thần kỳ sinh ra  loài người,..      lOMoAR cPSD| 58886076 VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ  -Giáo trình 282, 283 
- địa lý: giáo trình 283 
- khí hậu: giáo trình 283 
- Chủ thể: văn hóa vùng đất mới (có nhiều dân ngụ cư chung sống với nhau như Chăm, Hoa,..),văn  minh kênh rạch 
- Kênh Vĩnh Tế: Kinh Vĩnh Tế là một con kênh chảy qua địa phận hai tỉnh An Giang và KiênGiang, 
thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Kênh Vĩnh Tế cùng với Kênh Nhà Lê là những kênh đào 
lớn nhất trong lịch sử Việt Nam thời quân chủ. Được xem là công trình thủy lợi quan trọng bậc 
nhất, là công trình vĩ đại của quân và dân vùng biên giới Việt – Campuchia. 
*Đời sống văn hóa vật chất: 
- Sống theo làng xóm, ấp, không bền chặt và chặt chẽ. Làm nông nghiệp đặc biệt là trồng lúanước, 
trồng trọt, chăn nuôi, mua bán,.. 
- Tập quán đi lại: xuồng ba lá, ghe,.. 
- Cấu trúc xã hội: Sống theo làng, ấp 
- Vị trí: dọc theo bờ kênh, ruộng lúa 
- Tính chất: quan hệ cộng đồng không chặt chẽ, chủ yếu là quan hệ cá nhân 
- Tập quán ăn uống: giản dị,đa dạng các loại nước chấm, ưa ăn mặn, nhiều món kho 
- Trang phục: màu sắc đa dạng, vải may là vải mộc. Nữ là bộ bà ba đen, tấm khăn rằn, nam cũngnhư 
nữ. Hiện nay, bộ bà ba được may với kiểu dáng hiện đại hơn, màu sắc tươi tắn hơn - Kiến trúc: 
mô hình nhà bè, nhà lá miền tây,.. 
- Chợ nổi là 1 nét đặc trưng văn hóa độc đáo của người dân Nam Bộ, là một loại hình chợ 
thườngxuất hiện tại vùng sông nước được coi là tuyến giao thông chính. Nơi cả người bán và 
người mua đều dùng ghe/thuyền làm phương tiện vận tải và di chuyển. Địa điểm có chợ nổi 
thường tại các khúc sông không rộng quá mà cũng không hẹp quá. Khúc sông phải tương đối 
rộng, không cạn quá mà cũng không sâu quá. Nếu sông sâu quá, lớn quá thì không thể neo đậu 
ghe, xuồng một cách dễ dàng và rất nguy hiểm. 
* Luật tục, hương ước: 
-Luật tục: Luật tục của các DTTS ở Tây Nguyên như Êđê, M’nông, Gia rai, Xêđăng… có sức sống 
mãnh liệt, không chỉ trong quá khứ mà cả trong hiện tại, ăn sâu trong tiềm thức của đồng bào các 
dân tộc, trong cuộc sống buôn làng, tạo nên tính cố kết cộng đồng ở vùng Tây Nguyên hết sức bền 
chặt. Lấy cụ thể đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống gia đình. Đây là 
những điều đồng bào đã tự dặn nhau từ hàng trăm năm nay. Mặc dù được hình thành và phát triển 
trong điều kiện xã hội lạc hậu, chậm phát triển nhưng những quy định trong luật tục đã phản ánh      lOMoAR cPSD| 58886076
khá chính xác bản chất quan hệ hôn nhân và gia đình, đã điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ này 
một cách bền vững, ngăn chặn được những yếu tố tiêu cực làm ảnh hưởng tới đời sống hôn nhân, 
gia đình. Chẳng hạn như Luật M’nông quy định rõ, ngoài các lễ vật khác, trước khi đi rước rể“bên 
nhà gái nướng một heo và một ché/trao cho cha mẹ chồng cơm nếp và một dây hạt cườm/ khi về 
đến nhà chồng một heo một rượu.… 
- Tín ngưỡng, tôn giáo: các tôn giáo như Phật, Gia tô, Islam kết hợp với các tín ngưỡng dân gian 
để hình thành các đạo mới như: đạo Ngồi, đạo Đi Chậm, đạo Nằm,.. Người dân Nam Bộ dễ đi vào 
khía cạnh mê tín, dị đoan. Bên cạnh các tôn giáo lớn từ ngoài du nhập vào còn có các tín ngưỡng 
địa phương như: Cao Đài, Hòa Hảo, đạo Dừa,… Các tín ngưỡng dân gian như: thờ tổ tiên, thổ 
thần, Tứ Phủ, thờ cây, thờ đá,… Khía cạnh đáng lưu ý của tôn giáo tín ngưỡng Nam Bộ… (giáo  trình 290,291)  * Đời sống tinh thần 
- Giáo dục: ảnh hưởng của Nho học và đội ngũ trí thức Nho học ở Nam Bộ ngày càng được 
pháttriển mạnh mẽ. Nam Bộ là nới đầu tiên gieo mầm và phát triển chữ Quốc ngữ 
- Lễ hội: Lễ năm mới, lễ chào mặt trăng, Lễ Đức Phật, Lễ Ok Om-bok,..Trong đó, lễ hội bà chúa 
Xứ ở Châu Đốc rất nổi tiếng, thu hút hàng triệu khách về hành hương. Lễ được cử hành vào ngày 
26/4 hàng năm, nghi lễ linh thiêng nhất là lễ Mộc Dục (lễ tắm bà) tiến hàng vào 12 giờ đêm ngày 
24 tháng 4 lễ này được 2 nữ đồng trinh tiến hành trong màng che kín, còn hàng trăm phụ nữ khác 
tay cầm hoa huệ trắng đứng ngoài đọc kinh cầu. Quần áo bà thay ra, được xé nát, phân phát cho 
mọi người mang về lấy khước. 
- Nghệ thuật: nhiều thể loại dân gian: vè (vè con trâu, vè con cút,..), hò (hò mái dài, hò máicụt,..), 
đồng dao, lý (lý ngựa ô, lý con cua,..),..; Âm nhạc :cải lương, hát bội, ca hát tài tử, truyện thơ và 
hình thức diễn xướng nói thơ (Phạm Công – Cúc Hoa, Lâm Danh – Xuân Nương,..) ,… có sự 
giao thoa, đan cài, hội tụ giữa nhiều văn hóa âm nhạc các dân tộc khác nhau như nhạc rỗi bóng 
của người Việt ĐBSCL với nhạc múa bóng của người Chăm hay nhạc arak của người Khơ me,…