



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN 
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ  ***         
TIỂU LUẬN THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI 
ĐỀ TÀI: CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ 
NHÀ NƯỚC QUA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM     
Họ và tên sinh viên  :  Nguyễn Mai Lan  Mã sinh viên  :  2356110024  Lớp  : 
Quan hệ chính trị và Truyền  thông quốc tế K43 
Giảng viên hướng dẫn  : 
Nguyễn Thị Hùng Thúy  Bùi Thị Vân       
Hà Nội năm 2024      MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………3 
1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………….3 
2. Tình hình nghiên cứu…………………………………………………….5 
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………….6 
4. Đối tượng, không gian nghiên cứu……………………………………….7 
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………....7 
6. Kết cấu chi tiết của đề tài…………………………………………………8 
NỘI DUNG……………………………………………………………………..11 
Chương I: Tổng quan về công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua 
Đài tiếng nói Việt Nam………………………………………………………11 
1. Khái niệm công tác thông tin đối ngoại…………………………………. 11 
2. Đặc điểm của công tác thông tin đối ngoại……………………………….12 
3. Vị trí, vai trò của công tác thông tin đối ngoại……………………………14 
4. Công tác thông tin đối ngoại qua Đài tiếng nói Việt Nam………………..16 
Chương II: Đặc điểm của công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua 
Đài tiếng nói Việt Nam………………………………………………………..17 
1. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về thông tin đối 
ngoại qua báo chí truyền thông nói chung và qua Đài tiếng nói Việt Nam nói 
riêng……………………………………………………………………….17 
2. Công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói Việt 
Nam……………………………………………………………………….19 
3. Một số khó khăn của công tác thông tin đối ngoại………………………. .22    2       
Chương III: Một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của công 
tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói Việt Nam trong 
bối cảnh hiện nay. Kết luận chung…………………………………………...24 
1. Một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của công tác thông 
tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói Việt Nam trong bối 
cảnh hiện nay………………………………………………………………24 
2. Kết luận chung……………………………………………………………..24 
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………25                              3       
TIỂU LUẬN MÔN THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI 
Công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước thông qua Đài truyền tiếng 
nói Việt Nam      PHẦN THỨ N Ấ H T: MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong “Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt 
Nam”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có đôi lời chia sẻ như sau: “Tiếng nói là thứ 
của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn 
nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp.”. Quả thực là như 
vậy bởi sở dĩ lịch sử của nhân loại chỉ ghi nhận được dân tộc Việt Nam ta và 
dân tộc Do Thái là hai dân tộc duy nhất vẫn giữ được tiếng nói sau hàng trăm 
năm, hàng nghìn năm chịu ách đô hộ của các thế lực ngoại bang xâm lược. 
Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, các phong tục tập quán của người Giao Chỉ 
gần như bị thất truyền hoặc bị ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Trung Quốc, 
đến cả chữ viết cũng bị xóa sổ hoàn toàn dưới sự đàn áp của kẻ thù nhưng ông 
cha ta vẫn giữ được tiếng nói mẹ đẻ của dân tộc và điều này quả thực rất đáng 
quý, đáng trân trọng. Có thể nói, tiếng nói Việt Nam chính là quốc hồn, quốc 
túy của dân tộc Việt Nam, là linh hồn, là máu thịt của người Việt Nam chúng  ta.   
Nhận thức được tầm quan trọng của tiếng Việt từ sớm, chủ tịch Hồ Chí 
Minh đã chỉ thị cho Võ Nguyên Giáp – Bộ trường Bộ Nội vụ lúc bấy giờ, cùng 
Trần Huy Liệu – Bộ trưởng Bộ thông tin truyền thông phục vụ cách mạng, đặc 
biệt gấp rút thành lập một Đài phát thanh quốc gia, đặt tên là Đài tiếng nói 
Việt Nam. Chính sự ra đời của Đài lúc bấy giờ đã góp phần không nhỏ vào  4       
thắng lợi của Cách mạng tháng 8, có tác dụng vô cùng quan trọng về tuyên 
truyền đối nội và đối ngoại. Về đối nội, Đài tiếng nói Việt Nam chính là 
phương tiện thông tin nhanh nhất, rộng khắp nhất để truyền bá những chủ 
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh kịp thời diễn biến tình 
hình trong nước và thế giới, là cầu nối giữa trung ương và địa phương, giữa 
Chính phủ và nhân dân. Về đối ngoại, làn sóng của Đài có thể vượt qua biên 
giới quốc gia, đập tan những luận điệu tuyên tuyền xuyên tạc, bôi xấu Đảng 
của bộ phận phản động, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới 
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, Đài tiếng nói Việt Nam 
có đảm nhận nhiệm vụ hết sức quan trọng là góp phần gìn giữ và làm giàu 
tiếng nói của dân tộc.   
Không chỉ dừng lại ở hai cuộc kháng chiến trường kỳ cứu quốc, Đài 
tiếng nói Việt Nam còn gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng 
và cùng đất nước bước vào kỉ nguyên vươn mình của dân tộc. Tháng 12 năm 
1986, Đảng ta đã tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV với phương 
châm đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế, đổi mới toàn diện để thực hiện mở cửa 
đất nước. Đặc biệt, bối cảnh chiến tranh lạnh sắp đi đến hồi kết, tình hình chính 
trị thế giới lúc bấy giờ có nhiều biến động đã ảnh hưởng đến đường lối đối 
ngoại của Việt Nam. Cụ thể, Đại hội đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn 
diện đất nước, tích cực thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia trên thế 
giới nhằm tranh thủ nhiều điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học 
kỹ thuật, đồng thời tham gia ngày càng rộng rãi vào phân công và hợp tác quốc 
tế trong Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV). Không chỉ vậy, Đảng ta còn chủ 
trương “tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã 
hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc 
tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn 
nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”.  5         
Đến Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cho đối ngoại là 
“tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng 
mở, đa dạng hóa và đa phương hóa, tranh thủ tối đa mặt đồng, hạn chế mặt bất 
đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo 
tinh thần của Đại hội, đất nước ta đã chủ động phá thế bao vây, bình thường 
hóa quan hệ với các nước lớn đồng thời thực hiện chủ trương “muốn là bạn 
với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” nhằm thoát khỏi thế cô lập, bao 
vây, cấm vận. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng năm 1996 đã khẳng định: “Mở 
rộng quan hệ quốc tế phải dựa trên cơ sở độc lập tực hủ, bình đẳng và cùng có 
lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc”. Đến 
Đại hội X năm 2001, Đảng ta lại bổ sung và sửa đổi thêm, gắn quan hệ giữa 
độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc 
tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa…”. Bên cạnh đó,  Nghị quyết số 0 -
8 NQ/TW, ngày 12/7/2003 của Hội nghị Trung ương 8 khóa 
IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, xác định việc giữ 
vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ đối ngoại và củng cố môi 
trường quốc tế hòa bình, ổn định, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc, tích cực, chủ động tiến hành hàng loạt hoạt động đối ngoại dựa trên cơ 
sở đường lối độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, thực hiện hội nhập  khu vực và quốc tế.   
Tóm lại, nhờ vào những chủ trương, chính sách sáng suốt qua các kỳ 
Đại hội, Đảng ta đã thành công gặt hái được nhiều trái ngọt trong ngoại giao 
cũng như trong các công tác thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường nền 
tảng chính trị cho quan hệ song phương và đa phương với các nước, nâng cao 
vị thế của Việt Nam trên trường chính trị quốc tế. Ngoài ra, các chính sách mở 
của và đường lối mới cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thông 
tin quốc tế, tuyên truyền và làm công tác thông tin đối ngoại qua báo chí truyền  6       
thông mà trọng điểm là các kênh, đài phát thanh và truyền hình trực thuộc 
trung ương như VTV và VOV. Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, Đài 
tiếng nói Việt Nam VOV ngày càng nắm giữ trọng trách quan trọng trong công 
tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nó vừa là cánh tay đắc lực giúp 
thực hiện tuyên truyền, phổ biến các đường lối, chính sách, thông tin thời sự 
cho người dân, vừa là vũ khí sắc bén để chống lại các luận điệu xuyên tạc 
chống phá chính quyền của bộ phận phản động và thù địch. Chính vì vậy, việc 
nghiên cứu về đề tài “Công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua 
Đài tiếng nói Việt Nam” là rất thiết yếu và phù hợp với thực tiễn ngày nay. 
2. Tình hình nghiên cứu   
Nhận thức được vai trò của việc thực hiện công tác thông tin đối ngoại 
đối với nền chính trị và xã hội, các quốc gia trên thế giới hiện đã đẩy mạnh 
các hoạt động nghiên cứu về lĩnh vực này trong những năm gần đây và đã đạt 
được nhiều thành tựu mới mẻ, đặc biệt là trong thời buổi xu thế hội nhập đang 
phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, công tác thông tin đối ngoại ở Việt Nam vẫn 
còn là một lĩnh vực khá mới mẻ, và chỉ mới được chú trọng phát triển trong 
các kỳ Đại hội gần đây. Kết hợp với các thành tựu của cuộc cách mạng khoa 
học và công nghệ, cũng như để cho phù hợp với xu hướng của thời đại số, 
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương các kênh, đài, tạp chí, tòa soạn đẩy mạnh 
các bài báo, bài viết liên quan đến công tác thông tin đối ngoại, chẳng hạn như: 
Tạp chí thông tin đối ngoại, Tạp chí Cộng sản, Báo điện tử Vietnam.net, Báo 
lao động, Báo thanh niên, các trang web trực thuộc trung ương và địa 
phương,…Tất nhiên, trong số đó không thể thiếu đi Đài tiếng nói Việt Nam. 
Bên cạnh đó, Đảng ta còn thường xuyên tổ chức các buổi gặp mặt trao đổi, 
thông tin, các hội nghị, hội thảo về công tác thông tin đối ngoại để cho các bên 
tham gia cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm trong ngành. Tuy nhiên, vẫn 
chưa có nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học và các đề tài khoa học thực sự  7       
tập trung về công tác thông tin đối ngoại nói chung và công tác thông tin đối 
ngoại qua một kênh truyền thông nói riêng, mà kênh truyền thông cụ thể ở đây 
là Đài tiếng nói Việt Nam.   
Vậy nên bài tiểu luận này sẽ chú trọng tìm hiểu và làm rõ thêm về công 
tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói Việt Nam, 
cũng như các thông tin trên lĩnh vực đối ngoại, giúp các nhà báo, nhà truyền  thông c 
ó cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về vai trò của thông tin đối ngoại, 
đồng thời có thể nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, phục vụ cho hoạt động đối 
ngoại của Đảng và Nhà nước. 
3. Mục đích – nhiệm vụ nghiên cứu: 
 Mục đích nghiên cứu 
- Tìm hiểu và phân tích vai trò của thông tin đối ngoại. 
- Nâng cao nhận thức về thông tin đối ngoại nói chung và công tác thông 
tin đối ngoại qua Đài tiếng nói Việt Nam. 
- Đề ra một số phương hướn 
g nhằm nâng cao vai trò của thông tin đối 
ngoại, cũng như các giải pháp giúp Đảng và Nhà nước trong công tác thông 
tin đối ngoại qua Đài tiếng nói Việt Nam. 
 Nhiệm vụ nghiên cứu 
- Trình bày khái niệm: thông tin, thông tin đối ngoại, Đài tiếng nói Việt 
Nam và các vấn đề liên quan. 
- Chỉ ra quan điểm, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước về thông 
tin đối ngoại qua báo chí truyền thông nói chung và qua Đài tiếng nói Việt  Nam nói riêng. 
- Phân tích và làm rõ về đặc điểm, thực trạng hiện nay của công tác thông 
tin đối ngoại qua Đài tiếng nói Việt Nam.  8       
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường và phát huy 
hiệu quả cho công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài  tiếng nói Việt Nam. 
4. Đối tượng, không gian nghiên cứu: 
 Đối tượng nghiên cứu 
- Công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói  Việt Nam. 
 Phạm vi nghiên cứu 
- Đài tiếng nói Việt Nam 
5. . Phương pháp nghiên cứu 
 Phương pháp luận 
- Bài luận áp dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp lịch 
sử dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Leenin, tư tưởng Hồ Chí 
Minh và các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, được thực hiện chủ 
yếu trên cơ sở các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo của Đảng và Nhà nước 
về công tác thông tin đối ngoại. 
 Phương pháp nghiên cứu 
- Là một bài tiểu luận cuối kỳ, đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân 
tích tài liệu có sẵn bao gồm sách tham khảo, giáo trình, các đề tài nghiên 
cứu, các tài liệu có liên quan đến thông tin đối ngoại và nghiệp vụ công tác 
thông tin đối ngoại qua báo chí như các trang báo, trang tạp chí, văn bản 
pháp luật. Bên cạnh đó, đề tài còn tham khảo một số bài viết có liên quan 
đến lĩnh vực đang nghiên cứu. 
6. Kết cấu chi tiết của đề tài  9       
Chương I: Tổng quan về công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà 
nước qua Đài tiếng nói Việt Nam 
1. Khái niệm công tác thông tin đối ngoại 
2. Đặc điểm của công tác thông tin đối ngoại 
3. Vị trí, vai trò của công tác thông tin đối ngoại 
4. Công tác thông tin đối ngoại qua Đài tiếng nói Việt Nam 
Chương II: Đặc điểm của công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà 
nước qua Đài tiếng nói Việt Nam 
1. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về thông tin đối 
ngoại qua báo chí truyền thông nói chung và qua Đài tiếng nói Việt Nam  nói riêng 
2. Công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói Việt  Nam  a. Giai đoạn 1945 – 1986 
b. Giai đoạn 1986 đến nay 
3. Một số khó khăn của công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước 
qua Đài Tiếng nói Việt Nam 
Chương III: Một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò 
của công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói 
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Kết luận chung. 
1. Một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của công tác 
thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói Việt Nam  trong bối cảnh hiện nay  2. Kết luận chung    10         
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG 
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA 
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC QUA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM 
1. Khái niệm c ông tác thông tin đối ngoại 
Thông tin đối ngoại là một lĩnh vực mở vậy nên tùy thuộc quá trình tìm tòi và 
nghiên cứu mà mỗi tác giả lại có cho mình một cách hiểu riêng về khái niệm “Thông 
tin đối ngoại” là gì. 
Tác giả Phạm Minh Sơn trong cuốn sách Đối ngoại công chúng cho biết: “Thông 
tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng và đối ngoại của 
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhằm làm cho thế giới hiểu rõ đường lối, chính sách 
của Đảng, Nhà nước, những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, đất 
nước, con người, lịch sử, văn hóa, những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc Việt 
Nam; đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam; làm cho 
nhân dân ta hiểu rõ về thế giới; đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác, 
giúp đỡ của bạn bè quốc tế, sự đồng thuận và đóng góp của đồng bào ta ở nước ngoài 
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. 
Theo quyết định số 79/2010/QĐ-TTg ngày 30/11/2010 của Thủ tướng chính phủ 
ban hành Quy chế quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại thì thông tin đối ngoại là 
“thông tin quảng bá hình ảnh quốc gia, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, dân tộc 
Việt Nam; thông tin về chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của 
Nhà nước Việt Nam ra thế giới và thông tin thế giới về Việt Nam”. 
Tóm lại, có thể hiểu thông tin đối ngoại Việt Nam là hình thức hoạt động trong 
công tác tuyên truyền của Đảng, Nhà nước nhằm làm cho các nước, người nước 
ngoài, người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài có nhận thức, thái  11       
độ hành vi tích cực về Việt Nam, từ đó đồng tình, ủn 
g hộ, hợp tác, giúp đỡ đối với 
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
2. Đặc điểm của công tác thông tin đối ngoại 
a. Công tác thông tin đối ngoại có tính hai chiều, chiều phát tán, truyền bá 
thông tin và chiều tiếp nhận thông tin 
Trong thời đại kỹ thuật số hiện nay, thông tin là một món ăn tinh thần không 
thể thiếu đối với một xã hội ổn định về nền chính trị. Nhỏ thì là việc người dân cập 
nhật tin tức thời sự hàng ngày nhằm phục vụ nhu cầu của đời sống, lớn thì là việc 
Đảng và Nhà nước cập nhật những tình hình, diễn biến trên thế giới để quyết định 
ban hành một chủ trương, đường lối, chính sách ngoại giao nào đó. Bên cạnh việc 
tiếp nhận thông tin của thế giới vào Việt Nam thì công tác thông tin đối ngoại còn 
làm nhiệm vụ truyền tải thông tin của Việt Nam ra bên ngoài thế giới nhằm quảng 
bá và xây dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam phát triển và văn minh trong mắt 
bạn bè quốc tế. Có thể nói, công tác thông tin đối ngoại giống như một bộ phận trung 
chuyển có tính hai chiều, vừa cập nhật cái từ bên ngoài vào, vừa phát tán cái ở bên 
trong ra, là cầu nối quan trọng trong việc kết nối giữa thế giới với Việt Nam. 
b. Công tác thông tin đối ngoại phải đảm bảo tiếp thu chọn lọc những thông 
tin hữu ích, những tinh hoa tri thức của nhân loại, đồng thời phải ngăn 
chặn, đẩy lùi sự xâm nhập của văn hóa độc hại, những ấn phẩm đồi trụy 
trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam và bài trừ giọng điệu xuyên tạc 
của các thế lực thù địch. 
Trong bối cảnh thế giới bước vào thời đại toàn cầu hóa, khu vực hóa, việc du 
nhập các nền văn hóa khác vào đất nước mình là không thể tránh khỏi nếu muốn đuổi 
kịp bước tiến của nhân loại. Mặt khác, không phải tự nhiên mà các quốc gia lớn trên 
thế giới, đặc biệt là Trung Quốc lại nghiêm ngặt trong công tác kiểm duyệt văn hóa, 
thậm chí là kịch liệt phản đối và bài trừ ấn phẩm đồi trụy của nước ngoài. Còn đối  12       
với Việt Nam, trong suốt gần 80 năm kể từ khi thành lập nước cho đến nay, các thế 
lực thù địch và phản động vẫn luôn không ngừng thực hiện âm mưu, ý đồ của mình 
nhằm chống phá Đảng và nhà nước. Công tác thông tin đối ngoại đảm nhận nhiệm 
vụ chống các hoạt động thông tin sai sự thật, bôi nhọ, xuyên tạc về văn hóa, xã hội 
cũng như các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, công tác 
thông tin đối ngoại còn giữ vai trò vô cùng trọng yếu trong các cuộc đấu tranh chính 
trị, tư tưởng liên quan đến các vấn đề dân chủ, dân quyền, tự do ngôn luận,…mà đại 
đa số dễ bị biến chất thành các âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”. Nếu 
không tỉnh táo đề phòng và làm tốt các công tác đối ngoại thì Đảng và Nhà nước sẽ 
vô hình chung rơi vào cạm bẫy của kẻ thù. 
c. Công tác thông tin đối ngoại có nhiệm vụ phổ b ếin đường lối, chủ 
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ra thế giới để bạn bè quốc tế 
có thể hiểu hơn về Việt Nam là một quốc gia thân thiện, yêu chuộng hòa 
bình và sẵn sàng hợp tác phát triển. 
Hoàn thành nhiệm vụ này đồng nghĩa với việc công tác thông tin đối ngoại đã 
thành công trong việc chứng minh các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng 
và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và tiến bộ, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Mác – 
Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chân lý, là nền tảng cực kỳ vững chắc cho 
một xã hội thịnh vượng. Những dẫn chứng tiêu biểu nhất có thể kể đến như Việt Nam 
từ một nước nghèo bị tàn phá bởi chiến tranh đã vươn mình trở thành một ngôi sao 
sáng, một quốc gia có tốc độ phát triển nhanh thuộc top đầu thế giới, là đối tác chiến 
lược toàn diện của nhiều cường quốc như Mỹ, Trung và Nga, cải thiện đời sống của 
nhân dân trở nên ấm no, đủ đầy hơn….Qua đây, các quốc gia trên thế giới sẽ có cái 
nhìn khác về Việt Nam – một quốc gia có tiềm năng phát triển mạnh mẽ để cân nhắc 
đầu tư và rốt vốn. Như vậy, công tác thông tin ở nhiệm vụ này còn tranh thủ sự ủng 
hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để đất nước có thể hợp tác và trao  đổi các thành ự
t u khoa học kĩ thuật, phát triển công nghiệp máy móc.  13       
Ngoài ba đặc điểm đã nếu trên, thông tin đối ngoại còn có một số đặc điểm  khác như: 
- Công tác thông tin đối ngoại thể hiện tính toàn diện do bao gồm việc thông tin về 
tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế như chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã 
hội, an ninh quốc phòng và ngoại giao. 
- Công tác thông tin đối ngoại thể hiện tính chiến lược cao, không chỉ truyền tải thông 
tin mà còn phải phục vụ các mục tiêu chiến lược dài hạn của quốc gia đã đề ra. Thông 
qua thông tin đối ngoại, một quốc gia có thể tăng cường ảnh hưởng, xây dựng uy tính 
và bảo vệ lợi ích quốc gia trên trường quốc tế. 
- Công tác thông tin đối ngoại đặc biệt nhạy cảm với những biến động chính trị trên 
thế giới, đòi hỏi phải chính xác, rõ ràng và kịp thời. Bởi bất kỳ thông tin sai lệch, 
thiếu chính xác nào cũng có thể gây hiểu lầm hoặc làm tổng hại đến quan hệ quốc tế. 
Do đó, việc kiểm tra thông tin là rất quan trọng. 
- Công tác thông tin đối ngoại có tính linh hoạt và sáng tạo cao, đặc biệt trong bối 
cảnh truyền thông ngày càng nở rộ và phát triển các nền tảng mạng xã hội như này 
nay. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới và áp dụng các hình thức truyền 
tải thông tin hiện đại là rất quan trọng để tiếp cận đối tượng.         
3. Vị trí, vai trò của công tác thông tin đối ngoại 
Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại đã chỉ rõ trong Tài liệu hội nghị công 
tác thông tin đối ngoại toàn quốc vào tháng 3 năm 2004 như sau: “Thông tin đối  14       
ngoại là một bộ phận rất quan trọng của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta 
nhằm làm cho các nước, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài đang sinh 
sống và làm việc ở Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước 
ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách và 
thành tựu đổi mới của ta, trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự 
đóng góp của người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ  quốc”. 
Công tác thông tin đối ngoại luôn đóng một vai trò trọng yếu trong sự nghiệp kiến 
thiết đất nước và sự nghiệp chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây cũng là một 
công cụ không thể thiếu trong việc phát triển quan hệ quốc tế, thúc đẩy hình ảnh quốc 
gia, bảo vệ lợi ích của dân tộc, xây dựng uy tín trong lòng cộng đồng quốc tế và đấu 
tranh chống lại sự phá hoại của kẻ thù. 
Về vị trí, công tác thông tin đối ngoại là một công cụ chính trị và ngoại giao quan 
trọng, là một phần không thể thiếu trong chiến lược đối ngoại của mỗi quốc gia, giúp 
truyền tải các thông điệp chính thức từ chính phủ đến các tổ chức, quốc gia trong  cộng đồng quốc tế. Th
 ông qua các chiến lược đối ngoại, nhà nước có thể khẳng định 
quan điểm, chủ trương, đường lối chính trị, chính sách của mình để bảo vệ lợi ích 
quốc gia. Hơn nữa, công tác thông tin đối ngoại còn là một phần không thể thiếu của 
quá trình hội nhập quốc tế bằng việc giúp các quốc gia giao tiếp, hòa nhập và hợp 
tác với nhau. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc chia sẻ thông tin đúng đắn, kịp thời 
sẽ tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng mối quan hệ quốc tế và tham gia vào 
các tổ chức quốc. Cuối cùng, công tác thông tin đối ngoại còn có thể là cầu nối hai 
chiều giữa quốc gia và cộng đồng quốc tế, vừa truyền tải thông tin vừa cập nhật thông 
tin, giao lưu văn hóa, phát triển thương mại, hợp tác về khoa học công nghệ, đồng 
thời thể hiện quan điểm chính trị của mình.  15       
Về vai trò, công tác thông tin đối ngoại là phương tiện hiệu quả nhất để quảng bá 
hình ảnh của đất nước, thúc đẩy quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích 
quốc gia, tăng cường sự hợp tác quốc tế cũng như là góp phần nhỏ vào bảo vệ hòa  bình, an ninh quốc tế. 
4. Công tác thông tin đối ngoại qua Đài tiếng nói Việt Nam 
Đài tiếng nói Việt Nam hay VOV là phát thanh quốc gia trực thuộc Chính phủ 
Việt Nam, được ra đời ngay trong bối cảnh cách mạng tháng 8 năm 1945 vừa mới 
thành công với sứ mệnh đặc biệt là truyền tải thông tin, chính sách, chủ trương, đường 
lối của Đảng và Nhà nước, đồng thời cung cấp các chương trình thông tin thời sự 
trong nước và quốc tế, thông tin văn hóa giáo dục, xã hội để phục vụ công chúng. 
Trong những năm tháng chống Pháp và chống Mỹ, Đài tiếng nói Việt Nam đã làm 
tốt vai trò của một cơ quan ngôn luận hàng đầu, góp phần tuyên truyền, động viên 
tinh thần chiến đấu của nhân dân và quân đội, cũng như đưa tin về tình hình chiến sự 
trong nước ra thế giới, bày tỏ ước muốn hòa bình độc lập nhằm tranh thủ thêm sự 
viện trợ của nước ngoài. Sau khi cùng đất nước bước vào giai đoạn đổi mới cho đến 
nay, Đài tiếng nói Việt Nam đang ngày càng phát triển với nhiều kênh truyền hình 
và phát thanh, bao gồm các kênh quốc gia và các kênh địa phương, các chương trình 
đối ngoại nhiều thứ tiếng nhằm phục vụ đối tượng là người nước ngoài ở Việt Nam 
và người Việt Nam ở nước ngoài, các kênh thông tin trực tuyến, website và các ứng 
dụng di động giúp nhân dân có thể tiếp cận thông tin nhanh chóng và chính xác. 
Hiện nay, Đài tiếng nói Việt Nam vẫn đang làm tốt sứ mệnh và nhiệm vụ công 
tác thông tin đối ngoại của mình. Đài không chỉ là kênh truyền thông nội địa trong 
nước mà còn là phương tiện hiệu quả để truyền tải thông tin về Việt Nam ra thế giới, 
nâng cao hình ảnh quốc gia, quảng bá văn hóa, thúc đẩy ngoại giao và hợp tác quốc 
tế, đồng thời xây dựng uy tín trong lòng cộng đồng quốc tế, thể hiện quan điểm chính 
trị và bảo vệ lợi ích quốc gia.  16           
CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI 
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC QUA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM 
1. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác 
thông tin đối ngoại qua báo chí truyền thông nói chung và qua Đài tiếng 
nói Việt Nam nói riêng 
Ngày 13 tháng 6 năm 1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng Khóa VII đã ra Chỉ thị 
số 11-CT/TW về “Đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại”, đinh hướng 
chỉ đạo hoạt động thông tin đối ngoại của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo 
vệ tổ quốc. Chỉ thị có nêu rõ nhiệm vụ cho các cơ quan báo chí truyền thông là “Cần 
gấp rút tổ chức lại các lực lượng, đồng thời tận dụng tối đa mọi khả ăng và đa dạng 
hóa các phương thức hợp tác quốc tế để tăng cường lực lượng, nâng cao chất lượng 
và hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại”. Trong đó có nhấn mạnh vai trò của 
Đài tiếng nói Việt Nam là: “Đài tiếng nói Việt Nam cần được tăng cường. Tăng công 
suất phát sóng và nghiên cứu hình thức hợp tác để tiếp âm cho một số đối tượng; 
nâng cao chất lượng chương trình phát thanh bằng tiếng nước ngoài của Đài và 
chương trình phát thanh bằng tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài”, “Đài 
tiếng nói Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam có chương trình phát thanh và 
truyền hình hàng ngày bằng tiếng Anh dành cho người nước ngoài đang ở Việt  Nam”… 
Nhìn chung, công tác thông tin đối ngoại đã có nhiều bước phát triển trong vòng 
hơn 20 năm trở lại, nhờ tiến hành có định hướng và tập trung vào những nhiệm vụ 
trọng tâm mà công tác đã thu được nhiều kết quả khả quan theo báo cáo của chỉ thị 
số 10/CT-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2000 như: “Dành ngân sách thích đáng cho các 
hoạt động và dịch vụ thông tin đối ngoại, đổi mới và ngày càng hiện đại hóa hệ thống  17       
thông tin viễn thông và kết nối mạng internet toàn cầu, tạo điều kiện cập nhật thông 
tin về Việt Nam đến mọi nơi trên thế giới. Đội ngũ làm công tác thông tin đối ngoại 
được tăng cường. Cơ sở vật chất kỹ thuật được trang bị thêm. Nhận thức của các 
ngành, các cấp, các địa phương về công tác thông tin đối ngoại có bước chuyển biến  mới”. 
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, công tác thông tin đối ngoại vẫn còn một số 
yếu kém, khuyến điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mà Thông báo số 
188/TB-TW ngày 29 tháng 12 năm 1998 của Thường vụ Bộ Chính trị về công tác 
thông tin đối ngoại đã chỉ rõ: “Chất lượng hiệu quả, tính thuyết phục, mức hấp dẫn 
và tính chiến đấu chưa cao. Đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này còn thiếu và chưa 
đồng đều cả về năng lực và trình độ, chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc tầm quan 
trọng của thông tin đối ngoại trong toàn bộ công tác thông tin đối ngoại của Đảng và 
Nhà nước ta. Việc xác định trách nhiệm của từng ngành, từng cấp trong chỉ đạo, tổ 
chức thực hiện công tác thông tin đối ngoại có nhiều mặt chưa rõ, cho nên quản lý 
và phối hợp các lực lượng trong nước cũng như triển khai ở ngoài nước còn lúng 
túng. Đầu tư phân tán, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả”. Để khắc phục những yếu kém, 
khuyết điểm này, chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2000 đã quán triệt và 
triển khai các phương châm của công tác thông tin đối ngoại như sau: 
- Tất cả các Bộ, ngành, các địa phương, các cấp đều có trách nhiệm chỉ đạo và 
tổchức thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại trong phạm vi quản lý của mình. 
- Công tác thông tin đối ngoại cần được triển khai toàn diện, rộng khắp, song 
cótrọng tâm, trọng điểm, trước hết là đối với các nước láng giềng và trong khuvực, 
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; ưu tiên cung cấp thông tin đúngđịnh hướng 
cho người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống, làm việc, du lịch, họctập và các nhà 
Việt Nam học trên thế giới.  18       
- Tổ chức, phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng làm 
côngtác thông tin đối ngoại: giữa các lực lượng chuyên trách nòng cốt với các cơquan 
đại diện của ta ở nước ngoài, các đoàn ra nước ngoài, người Việt Nam sinhsống và 
làm việc ở nước ngoài, cũng như bạn bè quốc tế; giữa thông tin đốingoại với thông 
tin đối nội; giữa hoạt động thông tin đối ngoại với hoạt độngchính trị, kinh tế, văn 
hóa đối ngoại; giữa ngoại giao Nhà nước với đối ngoạiĐảng, đối ngoại nhân dân; 
giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương; giữacác cơ quan Nhà nước với các  doanh nghiệp.   
Đồng thời, chỉ thị còn phân công về mặt quản lý nhà nước và tổ chức thông  tin đối ngoại: 
- Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan 
cóliên quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại. 
- Bộ Ngoại giao có trách nhiệm chính trong việc theo dõi tình hình và triển 
khaihoạt động thông tin đối ngoại trên địa bàn ngoài nước. 
- Bộ Tài chính bố trí kinh phí cho hoạt động thông tin đối ngoại trong ngân  sáchNhà nước hàng năm. 
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư có kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt 
độngthông tin đối ngoại. 
- Các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp có nhiệm vụ: 
+ Chỉ đạo các cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại; 
+ Tổ chức thực hiện các hoạt động thông tin đối ngoại đối với các đối tượng 
có liên quan ở trong nước và ở nước ngoài. 
2. Công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua Đài tiếng nói Việt  Nam 
 Giai đoạn 1945 – 1986  19       
Ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Đài tiếng nói Việt Nam đã chính 
thức được thành lập vào ngày 7 tháng 9 năm 1945, với tên gọi ban đầu là Đài phát 
thanh Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong 
công tác truyền thông của Đảng và Nhà nước. 
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954, Đài có nhiệm vụ công 
tác thông tin đối ngoại chủ yếu là làm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng 
nhân dân đứng lên đấu tranh, cập nhật tình hình chiến sự của Việt Nam ra thế giới, 
đồng thời thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình và độc lập nhằm tranh thủ sự đồng 
thuận của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước thuộc khối XHCN và các phong 
trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới. 
Đến giai đoạn kháng chiến chống Mỹ 1954 – 1975, Đài tiếng nói Việt Nam 
trở thành lưỡi dao sắc bén trong công tác thông tin đối ngoại, chiến lược ngoại giao 
và tuyên truyền chống Mỹ. Tại thời điểm này, bên cạnh những hoạt động kể trên thì 
Đài còn làm nhiệm vụ là cầu nối thông tin liên lạc giữa hai miền Nam Bắc, cổ vũ và 
động viên tinh thần của đồng bào miền Nam trong việc giữ vững lập trường tư tưởng 
thống nhất đất nước. Không những thế, Đài còn đẩy mạnh phát sóng ra thế giới nhiều 
chương trình bằng nhiều thứ t ế
i ng khác nhau như Anh, Pháp, Trung Quốc, Lào, 
Campuchia….nhằm phục vụ cho các thính giả quốc tế (các công dân yêu chuộng hòa 
bình trên thế giới, các nước anh em khối XHCN, các phong trào giải phóng dân tộc 
ở các nước thuộc địa và các phong trào phản chiến ở phương Tây). Đặc biệt, Đài 
tiếng nói Việt Nam trong giai đoạn này còn có một chương trình phát thanh vô cùng 
đặc thù, đó là chiến tranh tâm lý và chiến tranh thông tin bằng sử dụng giọng đọc 
tiếng Anh của các nữ phát thanh viên để truyền tải những thông điệp tiêu cực, đánh 
vào tâm lý của các lính Mỹ nhằm giảm nhuệ khí và ý chí chiến đấu của bọn họ. Trong 
đó phải kể đến giọng đọc huyền thoại của nữ phát thanh viên Trịnh Thị N ọ g , người 
được quân đội Mỹ đặt biệt danh là Hannah Hanoi.  20