Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi thành công khi và chỉ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân. Tại sao? Liên hệ cách mạng Việt Nam | Tiểu luận cuối kỳ môn nghĩa xã hội khoa học
Như chúng ta đã biết trong mỗi thời kì chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đóng vai trò động lực chủ yếu, là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, phù hợp với tiến trình khách quan của lịch sử, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ TH Ậ U T TP. HỒ CHÍ MINH KHOA KINH TẾ
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
ĐỀ TÀI: CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ CÓ THỂ THẮNG
LỢI THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
GVHD: PGS.TS: Đoàn Đức Hiếu
Sinh viên thực hiện:
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11, năm 2021 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………………...... ĐIỂM…............ KÝ TÊN Mục lục
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ............................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN ........................................................................... 2
1.1. Khái niệm Đảng Cộng sản.............................................................................. 2
1.2. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản ............................................................... 2
1.3. Vai trò của Đảng Cộng sản và mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai
cấp công nhân ......................................................................................................... 3
CHƯƠNG 2: GIAI CẤP CÔNG NHÂN ................................................................. 5
2.1. Khái niệm, đặc điểm của giai cấp công nhân ............................................... 5
2.2. Liên hệ đến giai cấp công nhân Việt Nam .................................................... 8
CHƯƠNG 4: CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ CÓ THỂ
THẮNG LỢI THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN, CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN ......................................... 12
C. KẾT LUẬN............................................................................................................. 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 20 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết trong mỗi thời kì chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh
tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị
trí trung tâm đóng vai trò động lực chủ yếu, là lãnh đạo quá trình chuyển biến. Giai cấp
này có sứ mệnh lịch sử, là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, phù hợp với tiến
trình khách quan của lịch sử. Cụ thể ở đây là giai cấp công nhân đã lãnh đạo quá trình
chuyển biến từ hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa. Trong nền đại
công ngiệp, giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ cho xu hướng
phát triển của phương thức sản xuất tương lai. Và trong các cuộc đấu tranh, chừng nào
và chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc
đấu tranh thì mới đảm bảo giành được thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ mệnh lịch
sử của mình. Nếu không có chính đảng lãnh đạo, giai cấp công nhân chỉ có thể đấu tranh
tự phát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, chứ không phải là cuộc đấu tranh tự giác, đấu
tranh vì mục đích chính trị. Đảng Cộng sản chính là nhân tố quyết định hàng đầu đảm
bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giành được thắng lợi
cách mạng, tiến tới con đường chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhóm chúng em đã quyết
định chọn đề tài: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi thành công khi
và chỉ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân. Tại sao? Liên hệ
cách mạng Việt Nam” làm ề
đ tài tiểu luận của nhóm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm giúp hiểu rõ về Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân. Ngoài
ra còn là mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân. Từ đó liên hệ đến giai
cấp công nhân ở Việt Nam.
Cuối cùng là làm rõ và khẳng định "CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CHỈ CÓ THỂ THẮNG LỢI THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN". 1 B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN
1.1. Khái niệm Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân, là đội tiên phong, bộ tham
mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi
ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản
bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao
động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của
mình. Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, không tách rời với giai cấp
công nhân, nhân dân lao động.
1.2. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình
thành chính đảng của giai cấp công nhân. V. I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Nhưng trong mỗi nước,
sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo đ ề
i u kiện không gian và thời gian. Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa
thì Đảng Cộng sản ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước.
Giai cấp công nhân đã ý thức được rằng để đấu tranh giành chính quyền và xây
dựng xã hội mới, họ không có vũ khí nào quan trọng hơn là tự mình tổ chức một chính
Đảng độc lập của mình để lãnh đạo giai cấp chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp
tư sản và chỉ khi có chính đảng của mình, giai cấp công nhân mới có thể hành động với
tư cách là một giai cấp được. Hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân chính
là Đảng Cộng sản. Lênin đã chỉ ra rằng Đảng cộng sản hình thành trên cơ sở kết hợp
giữa lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc, sự hình thành Đảng Cộng sản còn là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lênin,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước phong trào giải phóng dân tộc.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân các nước cho thấy rằng từ sau khi
có Đảng Cộng Sản lãnh đạo, giai cấp công nhân và phong trào công nhân đã chuyển từ
hình thức đấu tranh tự phát sang tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp 2
tiên tiến và thực sự cách mạng. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được trang bị
lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn với phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân thì cuộc cách mạng của giai cấp công nhân có thể đi đến thành công cuối
cùng là giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản.
Sự thất bại của cách mạng Pháp 1848-1850 và công xã PARIS 1871 đã chứng
minh nếu như không có sự soi sáng của học thuyết cách mạng và khoa học của Chủ
nghĩa Mác Lênin và sự dẫn dắt của một chính Đảng thật sự cách mạng thì mọi cuộc đấu
tranh lật đổ chính quyền để xây dựng một xã hội mới đều không vươn tới những thắng
lợi cuối cùng. Chỉ đến cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, một Đảng theo học thuyết cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân mới giành được thắng lợi; từ đó cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công nhân
từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của chủ nghĩa tư
bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp tư sản, xóa bỏ
chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
1.3. Vai trò của Đảng Cộng sản và mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản không những là tổ chức chính trị cao nhất, đại biểu tập trung cho
trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân
lao động và dân tộc. Chỉ khi nào có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng
suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, thể hiện lợi ích của toàn bộ giai
cấp và toàn bộ phong trào thì giai cấp công nhân mới có thể hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình. Như vậy, Đảng là nhân tố có vai trò quyết định trong việc thực hiện và
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Vai trò đó thể hiện ở các mặt như: Đảng giác ngộ giai cấp công nhân và nhân
dân lao động bằng lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng lý luận
ấy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước; Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, vạch ra cho giai 3
cấp công nhân và nhân dân lao động con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn, tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao và giành chính quyền; khi giành được chính
quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền và toàn xã hội thực hiện đường lối của Đảng đề ra
để xây dựng xã hội ớ m i.
Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của
Đảng. Ngược lại, Đảng là chính đảng của giai cấp công nhân, hình thành trên quan điểm
lập trường giai cấp công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp.
Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là người giác n ộ
g về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô cho thấy bài học
kinh nghiệm sâu sắc rằng một khi Đảng Cộng sản xa rời lập trường giai cấp công nhân,
không tự đổi mới về trình độ lý luận chính trị, đội ngũ Đảng viên để lọt những phần tử
cơ hội vào trong hàng ngũ của Đảng gây lũng đoạn làm cho bộ máy Đảng biến chất thì
sớm muộn Đảng ấy cũng sẽ để mất vai trò lãnh đạo cách mạng.Tuy nhiên, sự đổ vỡ của
Liên Xô và các nước Đông âu không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa
xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới mà nguyên
nhân trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính
trị, tư tưởng và tổ chức, xa rời giai cấp, thiếu tỉnh táo thanh lọc những phần tử cơ hội,
nhất là những phần tử cơ hội về chính trị.
Từ những bài học trên cho thấy, để thể hiện và giữ vững vai trò lãnh đạo của
mình trong việc tổ chức cho giai cấp công nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch
sử, Đảng Cộng sản phải luôn luôn giữ vững lập trường giai cấp đồng thời phải thường
xuyên tự đổi mới để vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện nâng cao ý chí cách mạng, lập trường giai cấp, nâng cao toàn diện
trình độ kiến thức, trình độ lý luận; kịp thời tổng kết kinh nghiệm đề ra thực tiễn sâu
sắc nhằm đề ra đường lối chiến lược sách lược đúng đắn, đồng thời phải xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu quả và sức chiến đấu của Đảng. 4
CHƯƠNG 2: GIAI CẤP CÔNG NHÂN
2.1. Khái niệm, đặc điểm của giai cấp công nhân
2.1.1. Định nghĩa giai cấp công nhân và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Giai cấp công nhân là con đẻ của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự
phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới
trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô
sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vô sản
hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền
với sự phát triển của đại công nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp
và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp
cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết
tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị
thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tùy
theo cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng
hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng
hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị
thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đ ạ o t.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp
vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của
bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”. Khi sử dụng khái niệm giai
cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt
khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện
đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết ề
đ u biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại,
con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Căn cứ vào các tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp công
nhân như sau: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát
triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát 5
triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao động
cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và
cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên
tiến trong thời đại ngày nay.”
2.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân
Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc khác
nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có hai tiêu chí cơ
bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác:
Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao
động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp hay gián
tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã
hội hóa cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là
sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ
bản của mọi tầng lớp công nhân.
Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta phải
xem xét trong hai trường hợp sau:
- Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản
hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà
tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp công
nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những người
công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
- Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm
quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống
trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu
sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như vậy họ không còn là những người vô sản như
trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội x ã hội chủ nghĩa.
2.1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 6
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại,
đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị t ặ
h ng dư, đã chứng minh một
cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và
cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực
lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người
bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể
nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân được biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch
sử là đấu tranh giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động.
Hai là, sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử
là tổ chức bảo vệ chính quyền chống lại sự chống phá của các thế lực thù địch và tiến
hành tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Lênin cho rằng: "Điểm chủ yếu
trong học thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản
là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa".
Ba là, giai cấp công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm công nghiệp ngày càng
hiện đại để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Đây là
nội dung thường xuyên và được thực hiện trong suốt các giai đoạn cách mạng của giai
cấp công nhân ở mỗi nước.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm:
Một là, địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản.
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và luôn vận
động phát triển do sự thay đổi không ngừng của công cụ lao ộ
đ ng ở trình độ ngày càng
cao. Do không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân buộc phải bán sức
lao động trở thành người làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột nặng
nề. Lao động sống của giai cấp công nhân tạo ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội và
đóng vai trò có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Muốn giải
phóng họ khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, giai cấp công nhân phải đấu tranh xoá bỏ chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đó còn là giải phóng toàn xã hội. 7
Hai là, đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân
có tính tiên phong và tinh thần cách mạng triệt để nhất; Giai cấp công nhân là giai cấp
có ý thức tổ chức kỷ luật cao; Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Ba là, do hai mẫu thuẫn cơ bảnhình thành một cách khách quan trong xã hội tư
bản chủ nghĩa Tính quy định khách quan cơ bản nhất và mang ý nghĩa tổng hợp cả về
địa vị kinh tế, lẫn địa vị chính trị – xã hội ủ
c a giai cấp công nhân đối với sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Xét về kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang
trình độ xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Về mặt chính trị – xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư
sản. Hai mâu thuẫn này không thể giải quyết triệt ể
đ trong lòng chủ nghĩa tư bản.
2.2. Liên hệ đến giai cấp công nhân Việt Nam
2.2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử như sau:
Một là, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng,
giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng
thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hai là, phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính
trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng
lực ứng dụng công nghệ vào sản xuấ nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm
việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới .
2.2.2. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân Việt Nam
Một là, giai cấp công nhân nước ta tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và ngành nghề.
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế hành chính,
tập trung, bao cấp, giai cấp công nhân nước ta có số lượng không lớn và khá thuần nhất
về cơ cấu thành phần và ngành nghề, công nhân làm việc chủ yếu trong thành phần kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, chủ
trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển quan trọng đối với cơ
cấu nền kinh tế. Bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thành phần
kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã hình thành và phát triển nhanh. 8
Điều đó đã tạo sự chuyển biến trong cơ cấu lao động xã hội, làm cho lực lượng công
nhân - lao động công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ
cấu. Trong đó, số công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, hiện nay, tổng số công nhân
nước ta chiếm khoảng 13% số dân và 24% lực lượng lao động xã hội, bao gồm số công
nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước, đang
làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài và số lao động giản đơn trong các cơ quan đảng,
nhà nước, đoàn thể. Số l ợng ư
công nhân tăng nhanh chủ yếu ở các loại hình doanh
nghiệp tại những khu công nghiệp trọng điểm như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai...
Hai là, giai cấp công nhân nước ta đang được trẻ hóa, trình độ học vấn, chuyên
môn nghề nghiệp từng bước được nâng lên.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, chủ động hội nhập
quốc tế không thể không tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ
hiện đại phục vụ hoạt động của ngành công nghiệp. Điều này, đòi hỏi phải khắc phục
triệt để những hạn chế về tác phong và kỷ luật lao động của thời kỳ thực hiện cơ chế
hành chính, tập trung bao cấp và phải nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp của
công nhân. Nếu không, doanh nghiệp và công nhân không thể tồn tại và phát triển. Đây
là đòi hỏi rất cao, yêu cầu rất lớn và nghiêm ngặt đối với doanh nghiệp và công nhân,
cũng là động lực thúc đẩy trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của công nhân
từng bước được nâng lên. Cùng với đó là việc rèn luyện, nâng cao tác phong và kỷ luật
lao động theo hướng hiện đại và hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức.
Ba là, giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây, đa
số công nhân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, đi đầu, năng động, sáng tạo
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ấ đ t nước.
Giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây, thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là truyền thống 9
tiên phong cách mạng, kiên trì khắc phục và vượt qua khó khăn, gian khổ, quyết liệt,
năng động, sáng tạo trong sản xuất... Đa số công nhân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, thắng lợi của mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng CNXH.
Bốn là, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm;
sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc.
Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm do việc
đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp chuyển thành
doanh nghiệp, công ty cổ phần. Bên cạnh đó, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo
trong giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc do chênh lệch ngày càng lớn về thu nhập
giữa các bộ phận công nhân. Thu nhập của công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước
thường cao và ổn định hơn so với công nhân trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đặc
biệt, sự chênh lệch về thu nhập và mức sống ngày càng tăng giữa những công nhân có
cổ phần với những công nhân không có cổ phần trong các doanh nghiệp, công ty cổ
phần, giữa những công nhân có trình độ chuyên môn và tay nghề cao (công nhân trí
thức) với những công nhân có tay nghề và trình độ chuyên môn thấp và lao động giản
đơn. Điều này dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội trong giai cấp
công nhân ngày càng sâu sắc.
Năm là, thành phần xuất thân của giai cấp công nhân nước ta ngày càng đa dạng,
nhưng chủ yếu vẫn là từ nông dân.
So với thời kỳ trước đổi mới, thành phần xuất thân của giai cấp công nhân ngày
càng đa dạng hơn, không thuần nhất như trước đây. Tuy nhiên, với đặc điểm của một
nước nông nghiệp, thành phần xuất thân của giai cấp công nhân phần lớn vẫn từ nông
dân, trình độ và chuyên môn nghề nghiệp còn hạn chế và còn chịu sự chi phối bởi tác
phong, lề lối làm việc của người nông dân tiểu nông, chưa thích nghi với tác phong, kỷ
luật lao động công nghiệp hiện đại. Đa phần chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống
nên trình độ và chuyên môn, nghề nghiệp hạn chế, năng suất lao động và thu nhập thấp,
khoảng cách giàu nghèo và sự phân tầng xã hội trong giai cấp công nhân gia tăng. Một
bộ phận công nhân còn nhiều hạn chế trong giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị và hiểu
biết về chính sách, pháp luật, gây khó khăn nhất định cho việc phát triển đảng viên là công nhân. 10
2.2.3. Các tố chất để giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạnh
Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ
chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm
đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có
thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời,
tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt
chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.
Có người nói: Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được cách mạng.
Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng,
chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có Chủ nghĩa
Mác-Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo Chủ nghĩa Mác-Lênin
là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng,
lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần
tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hóa. Thành thử
đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Mai sau, công nghệ của
ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng tăng thêm.
Tuy hiện nay ở nước ta giai cấp công nhân còn nhỏ, song ở thế giới thì giai cấp
công nhân rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do giai cấp công nhân nắm". 11
CHƯƠNG 4: CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ CÓ THỂ
THẮNG LỢI THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN, CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Giữa Đảng và
giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Giai cấp công nhân là cơ
sở xã hội – giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của Đảng. Ngược lại, Đảng
là chính đảng của giai cấp công nhân, hình thành trên quan điểm lập trường giai cấp
công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp.
Trước khi Đảng cộng sản ra đời, ấ
đ t nước ta đặt dưới sự thống trị của thực dân
Pháp, rất nhiều phong trào đấu tranh yêu nước rất nhiều các tầng lớp khác nhau trong
xã hội như phong trào Cần Vương của các sĩ phu yêu nước, phong trào đấu tranh theo
ý thức hệ của giai cấp tư sản, tiểu tư sản Việt Nam như cuộc đấu tranh của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học … Những phong trào này đã đặt vấn đề giải
phóng đất nước, giành độc lập dân tộc, thức tỉnh dân trí nhưng do ý thức hệ hoặc đã lỗi
thời hoặc mang tính cải lương nên không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của dân tộc, dân
chủ bức thiết của đông đảo nhân dân lao động nước ta cũng như tỏ ra bất cập so với thời
đại - khi mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thành công đã thức tỉnh các
dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng dân tộc bỏ qua chế độ tư bản để tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, sự thất bại của các phong trào yêu nước đó do thiếu
đường lối đúng đắn và một Đảng cách mạng chân chính nên kể từ khi giai cấp công
nhân Việt Nam tổ chức được chính đảng của mình và chuyển phong trào đấu tranh từ
tự phát sang tự giác, lịch sử Việt Nam đã bước sang một trang mới.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra đời đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam. Vừa
mới ra đời, Đảng đã phát động ngay được cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là
Xô-viết Nghệ Tĩnh. Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả nước đấu
tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc, phong kiến. Thành quả lớn nhất của cao trào
cách mạng 1930-1931, mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến đã
không thể nào xóa nổi là ở chỗ, nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo duy nhất
thuộc về Đảng ta; ở chỗ, nó đem lại cho quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. 12
Trong khi khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, khả năng cách mạng
to lớn của công nông, nó cũng chứng tỏ tính chất phiêu lưu, cải lương của giai cấp
phong kiến và tư sản mại bản. Đó là thắng lợi ầ
đ u tiên có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. “Trực tiếp mà nói, không có những trận
chiến đấu rung trời chuyển đất những năm 1930-1931, trong đó công nông đã vung ra
nghị lực cách mạng phi thường của mình, thì không thể có cao trào những năm 1936-
1939”. Đây là “cuộc tổng diễn tập đầu tiên” cho thắng lợi của Cách mạngTháng Tánăm 1945.
Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết
hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận Nhân
dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng coi đây là một cơ hội tốt để đưa cách mạng tiến bước.
Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này là “chống phản động thuộc địa, chống phát xít,
chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”. Cao trào cách mạng 1936-
1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng là thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi với nhiều hình
thức tổ chức và hoạt động linh hoạt, phong phú, kể cả việc lợi dụng các “Viện dân biểu”,
các “Hội đồng quản hạt” do thực dân Pháp lập ra. Đảng đã động viên, giáo dục cho
hàng triệu quần chúng trong các cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp. Sự lãnh đạo của
Đảng thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta,
chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt trong những năm 1940-1945.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp quỳ gối dâng nước ta
cho phát xít Nhật, dân ta một cổ hai tròng. Đảng nhận định đây là thời kỳ mà ách áp
bức, bóc lột và chiến tranh đế quốc làm cho nhân dân ngày càng cách mạng hóa, cách
mạng sẽ bùng nổ. Đảng quyết định lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp rộng rãi các lực
lượng dân tộc dân chủ, đồng thời xây dựng các căn cứ địa và những đơn vị vũ trang đầu
tiên, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật sôi nổi, mạnh mẽ. Khi Nhật hất cẳng
Pháp, Đảng đã tranh thủ thời cơ, chuyển hướng mau lẹ, phát động cao trào kháng Nhật,
cứu nước, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền nhanh
gọn trong cả nước, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa
Đảng ta lên vị trí lãnh đạo, cầm quyền. Đánh giá về cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết: “ ầ
L n này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân 13
tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính qu ề y n toàn quốc”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, khi chính quyền cách mạng còn trứng nước, trước
nguy cơ cực kỳ nghiêm trọng do thù trong giặc ngoài gây ra, tình hình đất nước như
“ngàn cân treo sợi tóc”. Với sự lãnh đạo sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa
mềm dẻo về sách lược, Đảng đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác
ghềnh hiểm trở, lướt sóng đi lên. Lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó
với Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc thì tạm hòa hoãn với Pháp để đuổi
quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai, giành thời gian củng cố lực lượng,
chuẩn bị cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó cho thấy sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta và đã
“được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược lêninnít”.
Sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta còn thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp 1946-1954. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã tiến
hành cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính” và
đã giành được thắng lợi vẻ vang, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang
dội năm châu, chấn động địa cầu, giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện cơ bản để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa không chỉ với nước ta mà còn đối với phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong
lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó
là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời, cũng là một thắng lợi của
các lực lượng hòa bình, dân chủ và XHCN trên thế giới”.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài ba của Đảng, nhân dân cả nước bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 với tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng
và quả cảm, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Giải phóng miền Nam, xây dựng CNXH ở miền Bắc. Với đ ờ
ư ng lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng đã kết
hợp sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, động viên đến mức cao nhất lực
lượng của toàn dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một cuộc kháng chiến
đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên trình độ cao những truyền thống cách mạng và 14
năng lực sáng tạo của Đảng ta, dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH trên đất nước ta.
“Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang
chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế
kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết quả của
quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của quá trình chuẩn bị
đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến sĩ cách mạng. Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành,
đủ sức lãnh đạo cách mạng. Thực tế cho thấy ngay từ khi mới ra đời, Đảng cộng sản
Việt Nam đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc,
thực hiện vai trò lãnh đạo với tinh thần trách nhiệm cao của giai cấp và dân tộc. Sự ra
đời của Đảng cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết.
Đảng đã đề ra cương lĩnh đúng đắn của cách mạng Việt Nam, vạch ra đường lối
đấu tranh cách mạng khác về chất so với những con đường cứu nước do những nhà yêu
nước đương thời vạch ra. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân chỉ sau 19 năm thành lập (1930-1954), khai sinh ra nước Việt nam
Dân chủ cộng hòa, đưa miền Bắc nước ta quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đến tháng 4/1975, sau 45
năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thành công
cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước và đưa cả nước ta quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân Việt
Nam cùng một lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai
cấp cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng 15
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối ớ
v i giai cấp và dân tộc Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi
của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng
(révolution démocratique bourgeoise) và thổ địa cách mạng (révolution agratire) để đi
tới xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";... Làm
cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách
tư bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân".
Qua hơn 30 năm xây dựng đất nước, tiến hành 02 cuộc chiến tranh chống xâm
lược ở biên giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàng khó khăn, trở ngại
để đưa nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội như ngày hôm nay .
Nhìn lại những thành tựu mà đất nước ta đã đạt đ ợc
ư sau hơn 70 năm từ khi có
Đảng lãnh đạo, chúng ta càng tự hào vì có đội tiên phong của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng thẳng thắn nhận ra những
khiếm khuyết, sai lầm mà đã có lúc Đảng ta đã vấp phải trong thời gian khá dài trước
thời kỳ đổi mới. Đảng ta cũng đã sớm nhận thức ra những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết đ ể
i m trước nhân dân, đã sửa chữa và sửa chữa có kết quả, đem lại lòng tin
của nhân dân với Đảng. Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện
vì chủ nghĩa xã hội, với quyết tâm và trí tuệ của toàn Đảng, sự tham gia tích cực của
nhân dân, công cuộc đổi mới ở nước ta trong gần 20 năm qua đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, khẳng định đường lối đổi mới là đúng. Vì vậy, với
cương lĩnh và đường lối đúng đắn, sáng tạo của mình, trong hơn 2/3 thế kỷ, vai trò của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thể hiện rõ qua việc tổ chức, lãnh đạo mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi đó là:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở
ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 16
- Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc bằng chiến thắng 30/41975, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hoà bình, ộ
đ c lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội .
- Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân,
Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới .
Với những thắng lợi giành được thời gian qua, nước ta từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con
đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng
trong khu vực và trên thế giới. Sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện được nhiệm
vụ lịch sử của mình, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này sang thắng lợi
khác là do những nguyên nhân sau đây:
- Một là, Đảng ta có đường lối đúng đắn, đó là sự vận dụng và phát triển sáng
tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối đó là việc giải quyết đúng đắn và kết hợp chặt
chẽ, nhuần nhuyễn các mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, Đảng sinh ra từ một dân tộc có truyền thống yêu nước, đấu tranh bất
khuất, một nhân dân cách mạng, thiết tha với độc lập tự do, sẳn sàng tập họp, đoàn kết thống nhất xung quanh ả Đ ng.
- Ba là, Đảng qua các thời kỳ đấu tranh lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn đều
được tổ chức chặt chẽ trên nguyên tắc tập trung dân chủ, đại đa số Đảng viên trung
thành với lý tưởng cách mạng, một lòng phấn đấu hy sinh vì dân, vì nước.
Tất cả những điều đó có thể khẳng định rằng nếu không có Đảng Cộng sản Việt
Nam thì cách mạng Việt Nam sẽ không đạt được thắng lợi to lớn như đã qua. Giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề chiến lược có tính nguyên tắc,
bởi vậy, cần kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân
ta đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong
quá trình lãnh đạo, Đảng tiếp tục tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý
luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng; không ngừng 17