Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi thành công khi và chỉ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân. Tại sao? Liên hệ cách mạng Việt Nam | Tiểu luận cuối kỳ môn chủ nghĩa xã hội khoa học
Như chúng ta đã biết trong mỗi thời kì chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đóng vai trò động lực chủ yếu, là lãnh đạo quá trình chuyển biến. Giai cấp này có sứ mệnh lịch sử, là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, phù hợp với tiến trình khách quan của lịch sử. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA KINH TẾ
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
ĐỀ TÀI: CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ CÓ THỂ
THẮNG LỢI THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
GVHD: PGS.TS: Đoàn Đức Hiếu Sinh viên thực hiện: Họ và tên Mssv Mức độ hoàn thành Nguyễn Triệu Đạt 20132194 A Lê Minh Ngọ 20132073 A Vũ Tấn Phát 20132120 A Nguyễn Thị Cẩm Tú 20132071 A Nguyễn Văn Hoàng 20132205 A
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11, năm 2021 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... .
………………………………………………………………………………………..... . ĐIỂM…............ KÝ TÊN Mục lục
A. MỞ ĐẦU........................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................1
B. NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN.....................................................2
1.1. Khái niệm Đảng Cộng sản................................................2
1.2. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản.................................2
1.3. Vai trò của Đảng Cộng sản và mối quan hệ giữa Đảng
Cộng sản với giai cấp công nhân............................................3
CHƯƠNG 2: GIAI CẤP CÔNG NHÂN.............................................5
2.1. Khái niệm, đặc điểm của giai cấp công nhân................5
2.2. Liên hệ đến giai cấp công nhân Việt Nam.....................8
CHƯƠNG 4: CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ CÓ
THỂ THẮNG LỢI THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN, CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN......12
C. KẾT LUẬN...................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................20 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết trong mỗi thời kì chuyển biến cách mạng
từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác,
cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đóng vai trò
động lực chủ yếu, là lãnh đạo quá trình chuyển biến. Giai cấp này có
sứ mệnh lịch sử, là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, phù hợp
với tiến trình khách quan của lịch sử. Cụ thể ở đây là giai cấp công
nhân đã lãnh đạo quá trình chuyển biến từ hình thái kinh tế tư bản
chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa. Trong nền đại công ngiệp, giai cấp
công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ cho xu hướng
phát triển của phương thức sản xuất tương lai. Và trong các cuộc
đấu tranh, chừng nào và chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra
chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh thì mới đảm bảo
giành được thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của
mình. Nếu không có chính đảng lãnh đạo, giai cấp công nhân chỉ có
thể đấu tranh tự phát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, chứ không phải
là cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh vì mục đích chính trị. Đảng
Cộng sản chính là nhân tố quyết định hàng đầu đảm bảo cho giai
cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giành được
thắng lợi cách mạng, tiến tới con đường chủ nghĩa xã hội. Chính vì
vậy, nhóm chúng em đã quyết định chọn đề tài: “Cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi thành công khi và chỉ khi có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân. Tại sao? Liên
hệ cách mạng Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của nhóm.
2. Mục tiêu nghiên cứu 1
Nghiên cứu nhằm giúp hiểu rõ về Đảng Cộng sản và giai cấp
công nhân. Ngoài ra còn là mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai
cấp công nhân. Từ đó liên hệ đến giai cấp công nhân ở Việt Nam.
Cuối cùng là làm rõ và khẳng định "CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA CHỈ CÓ THỂ THẮNG LỢI THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN". 2 B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN
1.1. Khái niệm Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân, là đội
tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp
công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản bao gồm
những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân và các tầng lớp
nhân dân lao động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của mình. Đảng
Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, không tách rời với giai
cấp công nhân, nhân dân lao động.
1.2. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân
dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. V. I. Lênin
chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác với phong trào công nhân. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy
là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng những con đường
đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian. Ở nhiều nước
thuộc địa, nửa thuộc địa thì Đảng Cộng sản ra đời là kết quả của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Giai cấp công nhân đã ý thức được rằng để đấu tranh giành
chính quyền và xây dựng xã hội mới, họ không có vũ khí nào quan
trọng hơn là tự mình tổ chức một chính Đảng độc lập của mình để 3
lãnh đạo giai cấp chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp tư sản và
chỉ khi có chính đảng của mình, giai cấp công nhân mới có thể hành
động với tư cách là một giai cấp được. Hình thức tổ chức cao nhất
của giai cấp công nhân chính là Đảng Cộng sản. Lênin đã chỉ ra rằng
Đảng cộng sản hình thành trên cơ sở kết hợp giữa lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin và phong trào công nhân. Ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc, sự hình thành Đảng Cộng sản còn là sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước
phong trào giải phóng dân tộc.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân các nước cho
thấy rằng từ sau khi có Đảng Cộng Sản lãnh đạo, giai cấp công nhân
và phong trào công nhân đã chuyển từ hình thức đấu tranh tự phát
sang tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tiên tiến
và thực sự cách mạng. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
được trang bị lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn với
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thì cuộc cách mạng
của giai cấp công nhân có thể đi đến thành công cuối cùng là giành
lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản.
Sự thất bại của cách mạng Pháp 1848-1850 và công xã PARIS
1871 đã chứng minh nếu như không có sự soi sáng của học thuyết
cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin và sự dẫn dắt của
một chính Đảng thật sự cách mạng thì mọi cuộc đấu tranh lật đổ
chính quyền để xây dựng một xã hội mới đều không vươn tới những
thắng lợi cuối cùng. Chỉ đến cách mạng tháng Mười Nga năm 1917,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một Đảng theo học thuyết
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân mới giành được thắng lợi; từ đó cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới, thời đại 4
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của
phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích
kinh tế trong giới hạn của chủ nghĩa tư bản cho phép chuyển sang
cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp tư sản, xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
1.3. Vai trò của Đảng Cộng sản và mối quan hệ giữa Đảng
Cộng sản với giai cấp công nhân
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản không những là tổ chức chính trị cao nhất, đại
biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân
mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Chỉ khi
nào có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có
đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, thể hiện lợi ích của toàn
bộ giai cấp và toàn bộ phong trào thì giai cấp công nhân mới có thể
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Như vậy, Đảng là nhân tố có
vai trò quyết định trong việc thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
Vai trò đó thể hiện ở các mặt như: Đảng giác ngộ giai cấp công
nhân và nhân dân lao động bằng lý luận tiên phong của chủ nghĩa
Mác – Lênin và vận dụng lý luận ấy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi
nước; Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, vạch ra cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động con đường đấu tranh cách mạng đúng
đắn, tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao và giành chính 5
quyền; khi giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền và
toàn xã hội thực hiện đường lối của Đảng đề ra để xây dựng xã hội mới.
Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ
không thể tách rời. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của
Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của Đảng. Ngược lại, Đảng là
chính đảng của giai cấp công nhân, hình thành trên quan điểm lập
trường giai cấp công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham
mưu của giai cấp. Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không
phải là công nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô cho
thấy bài học kinh nghiệm sâu sắc rằng một khi Đảng Cộng sản xa rời
lập trường giai cấp công nhân, không tự đổi mới về trình độ lý luận
chính trị, đội ngũ Đảng viên để lọt những phần tử cơ hội vào trong
hàng ngũ của Đảng gây lũng đoạn làm cho bộ máy Đảng biến chất
thì sớm muộn Đảng ấy cũng sẽ để mất vai trò lãnh đạo cách
mạng.Tuy nhiên, sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước Đông âu không có
nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa xã hội, không phải là
sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới mà nguyên nhân
trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về
đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức, xa rời giai cấp, thiếu tỉnh táo
thanh lọc những phần tử cơ hội, nhất là những phần tử cơ hội về chính trị.
Từ những bài học trên cho thấy, để thể hiện và giữ vững vai
trò lãnh đạo của mình trong việc tổ chức cho giai cấp công nhân
thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử, Đảng Cộng sản phải luôn
luôn giữ vững lập trường giai cấp đồng thời phải thường xuyên tự đổi 6
mới để vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện nâng cao ý chí cách mạng, lập trường giai cấp,
nâng cao toàn diện trình độ kiến thức, trình độ lý luận; kịp thời tổng
kết kinh nghiệm đề ra thực tiễn sâu sắc nhằm đề ra đường lối chiến
lược sách lược đúng đắn, đồng thời phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu quả và sức chiến đấu của Đảng. 7
CHƯƠNG 2: GIAI CẤP CÔNG NHÂN
2.1. Khái niệm, đặc điểm của giai cấp công nhân
2.1.1. Định nghĩa giai cấp công nhân và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Giai cấp công nhân là con đẻ của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể
và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát triển với
những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng
thêm số người vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã
hội rộng lớn, thành giai cấp vô sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết
luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự phát
triển của đại công nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân nền đại
công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong
những giai cấp cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai
cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán
sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ
là những người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động
tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột
nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ
phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc
vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư,
nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa
rằng, “Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện
đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao 8
động của mình đế sống”. Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để biểu
đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai
cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc
dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một
khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ
của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu
cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Căn cứ vào các tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định
nghĩa giai cấp công nhân như sau: “Giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình
phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực
lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản
xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội;
đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến
trong thời đại ngày nay.”
2.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân
Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm
những công việc khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và
Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt
với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác:
Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là
những người lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là
người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản
xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi vì 9
nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện
đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân.
Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân,
chúng ta phải xem xét trong hai trường hợp sau:
- Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những
người vô sản hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm
thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản
bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp công nhân tạo ra bị nhà
tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những người
công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
- Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cầm quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị
bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai
cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ những
tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như vậy họ không còn là
những người vô sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là
nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
2.1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai
phát kiến vĩ đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá
trị thặng dư, đã chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát
triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng
định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng
nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi 10
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Nội dung sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân được biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công
nhân có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động.
Hai là, sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân có
sứ mệnh lịch sử là tổ chức bảo vệ chính quyền chống lại sự chống
phá của các thế lực thù địch và tiến hành tổ chức xây dựng xã hội
mới – xã hội chủ nghĩa. Lênin cho rằng: "Điểm chủ yếu trong học
thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa".
Ba là, giai cấp công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm công
nghiệp ngày càng hiện đại để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cần
thiết cho chủ nghĩa xã hội. Đây là nội dung thường xuyên và được
thực hiện trong suốt các giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân ở mỗi nước.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm:
Một là, địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân trong chủ
nghĩa tư bản. Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, lực lượng sản xuất
là yếu tố động nhất và luôn vận động phát triển do sự thay đổi
không ngừng của công cụ lao động ở trình độ ngày càng cao. Do
không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân buộc
phải bán sức lao động trở thành người làm thuê cho giai cấp tư sản
và bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề. Lao động sống của giai cấp 11
công nhân tạo ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội và đóng vai
trò có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Muốn giải phóng họ khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, giai cấp công nhân
phải đấu tranh xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đó
còn là giải phóng toàn xã hội.
Hai là, đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân: Giai
cấp công nhân có tính tiên phong và tinh thần cách mạng triệt để
nhất; Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao;
Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Ba là, do hai mẫu thuẫn cơ bảnhình thành một cách khách
quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa Tính quy định khách quan cơ bản
nhất và mang ý nghĩa tổng hợp cả về địa vị kinh tế, lẫn địa vị chính
trị – xã hội của giai cấp công nhân đối với sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Xét về kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất mang trình độ xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Về mặt chính trị – xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Hai mâu
thuẫn này không thể giải quyết triệt để trong lòng chủ nghĩa tư bản.
2.2. Liên hệ đến giai cấp công nhân Việt Nam
2.2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử như sau:
Một là, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột,
tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại
khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. 12
Hai là, phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ
và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri
thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào
sản xuấ nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc,
xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
2.2.2. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân Việt Nam
Một là, giai cấp công nhân nước ta tăng nhanh về số lượng, đa
dạng về cơ cấu và ngành nghề.
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ
chế hành chính, tập trung, bao cấp, giai cấp công nhân nước ta có
số lượng không lớn và khá thuần nhất về cơ cấu thành phần và
ngành nghề, công nhân làm việc chủ yếu trong thành phần kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể. Quá trình đổi mới, mở cửa và hội
nhập quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo
bước chuyển quan trọng đối với cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh thành
phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư
nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã hình thành và phát
triển nhanh. Điều đó đã tạo sự chuyển biến trong cơ cấu lao động xã
hội, làm cho lực lượng công nhân - lao động công nghiệp và dịch vụ
phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu. Trong đó, số công
nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, hiện nay,
tổng số công nhân nước ta chiếm khoảng 13% số dân và 24% lực
lượng lao động xã hội, bao gồm số công nhân làm việc trong các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước, đang làm
việc theo hợp đồng ở nước ngoài và số lao động giản đơn trong các 13
cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Số lượng công nhân tăng nhanh
chủ yếu ở các loại hình doanh nghiệp tại những khu công nghiệp
trọng điểm như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Đà
Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai...
Hai là, giai cấp công nhân nước ta đang được trẻ hóa, trình độ
học vấn, chuyên môn nghề nghiệp từng bước được nâng lên.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa,
chủ động hội nhập quốc tế không thể không tiếp nhận những thành
tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại phục vụ hoạt động của
ngành công nghiệp. Điều này, đòi hỏi phải khắc phục triệt để những
hạn chế về tác phong và kỷ luật lao động của thời kỳ thực hiện cơ
chế hành chính, tập trung bao cấp và phải nâng cao trình độ chuyên
môn nghề nghiệp của công nhân. Nếu không, doanh nghiệp và công
nhân không thể tồn tại và phát triển. Đây là đòi hỏi rất cao, yêu cầu
rất lớn và nghiêm ngặt đối với doanh nghiệp và công nhân, cũng là
động lực thúc đẩy trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của
công nhân từng bước được nâng lên. Cùng với đó là việc rèn luyện,
nâng cao tác phong và kỷ luật lao động theo hướng hiện đại và hình
thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức.
Ba là, giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát
huy truyền thống tốt đẹp của giai cấp công nhân Việt Nam trong các
giai đoạn cách mạng trước đây, đa số công nhân tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, đi đầu, năng động, sáng tạo trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai
đoạn cách mạng trước đây, thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ công 14
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là truyền thống tiên phong
cách mạng, kiên trì khắc phục và vượt qua khó khăn, gian khổ,
quyết liệt, năng động, sáng tạo trong sản xuất... Đa số công nhân tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng CNXH.
Bốn là, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước
có xu hướng giảm; sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong
giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc.
Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước có xu
hướng giảm do việc đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước,
nhiều doanh nghiệp chuyển thành doanh nghiệp, công ty cổ phần.
Bên cạnh đó, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong giai
cấp công nhân ngày càng sâu sắc do chênh lệch ngày càng lớn về
thu nhập giữa các bộ phận công nhân. Thu nhập của công nhân
trong khu vực kinh tế nhà nước thường cao và ổn định hơn so với
công nhân trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đặc biệt, sự chênh
lệch về thu nhập và mức sống ngày càng tăng giữa những công
nhân có cổ phần với những công nhân không có cổ phần trong các
doanh nghiệp, công ty cổ phần, giữa những công nhân có trình độ
chuyên môn và tay nghề cao (công nhân trí thức) với những công
nhân có tay nghề và trình độ chuyên môn thấp và lao động giản
đơn. Điều này dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân tầng
xã hội trong giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc.
Năm là, thành phần xuất thân của giai cấp công nhân nước ta
ngày càng đa dạng, nhưng chủ yếu vẫn là từ nông dân.
So với thời kỳ trước đổi mới, thành phần xuất thân của giai cấp
công nhân ngày càng đa dạng hơn, không thuần nhất như trước đây. 15
Tuy nhiên, với đặc điểm của một nước nông nghiệp, thành phần xuất
thân của giai cấp công nhân phần lớn vẫn từ nông dân, trình độ và
chuyên môn nghề nghiệp còn hạn chế và còn chịu sự chi phối bởi tác
phong, lề lối làm việc của người nông dân tiểu nông, chưa thích nghi
với tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp hiện đại. Đa phần chưa
được đào tạo cơ bản và có hệ thống nên trình độ và chuyên môn,
nghề nghiệp hạn chế, năng suất lao động và thu nhập thấp, khoảng
cách giàu nghèo và sự phân tầng xã hội trong giai cấp công nhân gia
tăng. Một bộ phận công nhân còn nhiều hạn chế trong giác ngộ giai
cấp, bản lĩnh chính trị và hiểu biết về chính sách, pháp luật, gây khó
khăn nhất định cho việc phát triển đảng viên là công nhân.
2.2.3. Các tố chất để giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạnh
Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: Kiên quyết, triệt
để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất
trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế
quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm
nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các
tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành
động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.
Có người nói: Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít,
không lãnh đạo được cách mạng.
Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc
tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp.
Giai cấp công nhân có Chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên nền tảng đấu
tranh, họ xây dựng nên Đảng theo Chủ nghĩa Mác-Lênin là Đảng Lao
động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách
mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi 16