Đại hội Đại biểu VI của Đảng – Đại hội đổi mới toàn diện đất nước | Bài tiểu luận học phần học phần Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Trường Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những những thành tựu đạt được sau 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định những thành tựu, đồng thời đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình và phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976 – 1986). Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hoá sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

Môn:

Lịch sử ĐCSVN 60 tài liệu

Thông tin:
11 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đại hội Đại biểu VI của Đảng – Đại hội đổi mới toàn diện đất nước | Bài tiểu luận học phần học phần Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Trường Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những những thành tựu đạt được sau 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định những thành tựu, đồng thời đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình và phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976 – 1986). Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hoá sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

58 29 lượt tải Tải xuống
1
TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
HỌ TÊN: VI THẾ DUY
LỚP: QL26.19
MÃ SINH VIÊN: 2621221321
GVHD: NGUYỄN THỊ HẠNH
CHỦ ĐỀ:
Đại hội VI và những đóng góp của Đh VI. Chứng minh
bằng một thành công cụ thể của ĐH VI.
2
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU PHẦN NỘI DUNG 1, Hoàn cảnh lịch
sử Đại hội Đại biểu VI của Đảng 2, Nội dung cơ bản
của Đại hội 3, Những đóng góp của ĐH VI
4. Chứng minh một thành công cụ thể của ĐH IV.
KẾT LUẬN
3
LỜI NÓI ĐẦU
Đã hơn 20 năm kể từ Đại hội VI (15 – 18/6/1986) của Đảng, công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước đã có sự chuyển biến rõ rệt, vượt qua tình trạng khó
khăn, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nhiệp hóa - hiện đại hóa, thế và lực
được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao. Nước ta không còn là một nước
nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Nước ta từ quan liêu bao cấp đã trở thành
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu VI đã thay đổi cơ bản phương thức phát triển của đất nước, mở
đầu cho hàng loạt những đổi mới toàn diện sau này trên tất cả các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp, văn hóa, xã hội… Việc gia nhập WTO là thách thức nhưng
cũng là cơ hội lớn để nước ta phát triển, nó cũng khẳng định được những thay
đổi đúng hướng của Đảng mà Đại hội Đảng VI đã mở đầu cho công cuộc đổi
mới này.
Đại hội nhận định, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V là những năm
đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Tuy đạt được những thành tựu quan
trọng, nhưng tình hình kinh tế - xã hội đang gặp khó khăn gay gắt; mất cân đối
lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,… Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, Đại hội nhấn mạnh, trong những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá
tình hình cụ thể về các mặt của đất nước có nhiều thiếu sót, dẫn đến nhiều sai
lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi. Đó là những sai lầm nghiêm trọng
kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện, nhất là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
Nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử to lớn của Đại hội VI với sự đổi
mới và phát triển của đất nước, em đã chọn đề tài “Đại hội Đại biểu VI của
Đảng – Đại hội đổi mới toàn diện đất nước” cho tiểu luận của mình. Tiểu luận sẽ
phân tích rõ hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản cũng như ý nghĩa lịch sử của
Đại hội để làm rõ sự tiến bộ, đúng đắn trong đường lối mà Đảng ta đã đề ra
trong Đại hội, đồng thời nêu bật những tác động to lớn của đường lối đó trong
công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên tiểu luận của em vẫn còn nhiều thiếu sót, hy
vọng nhận được sự góp ý để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân
thành cảm ơn cô.
PHẦN NỘI DUNG
1, Hoàn cảnh lịch sử Đại hội Đại biểu VI của Đảng
Đại hội VI của Đảng diễn ra giữa bối cảnh có nhiều chuyển biến trong tìnhhình
thế giới và trong nước:
4
Thế giới:
- Các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách chốngphá hệ
thốngxã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Mặt khác, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, cả Liên Xô và TrungQuốc
đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và họ đang bước vào cáicách,
cải tổ với các hình thức và mức độ khác nhau, có nước thành công, cónước thất
bại. Bối cảnh đó cho Đảng ta những bài học để định hướng được conđường đổi
mới đúng đắn nhất cho nước nhà.
Trong nước:
- Đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội:sản
xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạtđược;
tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao độngchưa
có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếuthốn.
Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sảnxuất của
xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốcdoanh bị
suy yếu.
- Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức, lực lượng vũ trang gặp
nhiều khó khăn.
- Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm; quầnchúng
giảmlòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nhìn
tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hìnhkinh tế - xã
hội, ổn định đời sống nhân dân. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là
những sai lầm nghiêm trọngvề chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược
và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước: Xác định mục tiêu và bước đi
không sát thực tế nước ta, không coi trọng khôi phục kinh tế làm nhiệm vụ cấp
bách; nông nghiệp vẫn chưathực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xoá bỏ ngay các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng năm năm; chưa biết kết hợp
kế hoạch hoá với quan hệ hàng hoá - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong
lĩnh vực phân phối, lưu thông. Những sai lầm nói trên chỉ là sai lầm nghiêm
trọng về chủ trương, chínhsách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Sai lầm của đợt tổng cải cách giá – lương - tiền cuối năm 1985 làm chokinh tế
nước ta càng trở nên khó khăn (tháng 12/1986, giá bán lẻ hàng tăng84,53%).
Chúng ta không thực hiện được mục tiêu để ra là cơ bản ổn định tìnhhình kinh tế
xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền
kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làmcho trong
Đảng và ngoài xã hội có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực trạng
của ba vấn đề lớn: cơ cấu sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ cấuquản lý
5
kinh tế. Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu khách quan có tính sống còn đối
với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển được tình thế, tạo ra sự chuyển
biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy là phải đổi mới tư
duy.Thực trạng đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết
là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn
định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng đểtiến
lên.Trước tình hình đó, Đại hội Đại biểu lần thứ VI của Đảng đã được diễn ra từ
ngày 15 đến ngày 18/12/1986 tại Hà Nội (Đại hội nội bộ từ ngày 05
đến14/12/1986). Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng
viêncả nước và 32 đoàn đại biểu của đảng và tổ chức quốc tế.
2, Nội dung cơ bản của Đại hội
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự thật, Đại
hội đã đánh giá đúng mức những những thành tựu đạt được sau 10 năm xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định những thành tựu, đồng thời đi sâu phân
tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình và phê bình những sai lầm,
khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976 – 1986).
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần
cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hoá sinh hoạt chính trị
của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội.
− Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai lầm về kinh tế là
bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng quản lý kinh tế, xã
hội, 5 không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư
tưởngvừa tả khuynh vừa hữu khuynh.
− Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng“lấy dân
làm gốc”.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện
mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Báo cáo xác định nhiệm
vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đấu
6
tranh là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền
đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa
trong chặng đường tiếp theo.
− Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng, Đại hội
nêu rõ Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và
công tác.
− Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn
lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa
XHCN trong chặng đường tiếp theo.
3, Những đóng góp của ĐH VI
"Một, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "Lấy dân
làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Hai, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Ba, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại trong điều kiện mới. Bốn, phải chăm lo xây dựng đảng ngang tầm với
một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa".
Về nhiệm vụ chiến lược cách mạng, Đại hội khẳng định: "Toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp
tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp
phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội".
Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định: "Nhiệm vụ bao trùm,
mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định
mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho
việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo".
Trong khi đặt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội lên hàng đầu, Đại hội vẫn
khẳng định phải "đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh
của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch,
bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc".
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện thành
công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà quan trọng là:
7
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu...
2. Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với
những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất...
3. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
4. Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.
5. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các chính
sách xã hội.
6. Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước.
7. Tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.
8. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
9. Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh
đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.
10. Nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành của bộ máy đảng và nhà nước.
Ban Chấp hành Trung ương phải chỉ đạo tiến hành trong toàn Đảng và toàn xã
hội "Cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức
đảng; làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước; đẩy lùi
và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và thực
hiện công bằng xã hội".
Chấp hành Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI, trên lĩnh vực kinh tế, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng triển khai cùng một lúc bốn mặt hoạt động có liên
hệ khăng khít với nhau: xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn; tiếp
tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; đổi mới
tổ chức cán bộ.
Vấn đề nóng bỏng và cấp bách nhất là lưu thông phân phối. Vì vậy, Hội nghị lần
thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương, họp trong tháng 4-1987, đã quyết định
phương hướng giải quyết vấn đề đó là phải nắm vững mục tiêu giảm tỷ lệ bội
chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về
đời sống của nhân dân trên cơ sở xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp,
chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nâng
cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy khả năng tích cực của
các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức sản
xuất.
8
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một yêu cầu bức thiết, một bộ phận cấu thành
quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế của Đảng. Hội
nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương, tháng 8-1987, đã quyết nghị:
"Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế". Hội nghị nhấn mạnh mục đích
của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là phải tạo ra động lực mạnh mẽ giải phóng
mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển kinh tế
hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng, hiệu quả
ngày càng cao, trước mắt nhằm phục vụ ba chương trình kinh tế lớn, từng bước
thực hiện "bốn giảm", thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế -
hội, tạo tiền đề để tiến lên.
4. Chứng minh một thành công cụ thể của ĐH IV.
Tuy nhiên, việc thực hiện công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết điểm, đặc
biệt là không gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế, do đó kế hoạch chưa thực sự
xuất phát từ thực tế lao động sản xuất, thiếu tính khả thi. Đảng vạch rõ: “về tổ
chức thực hiện, khuyết điểm, sai lầm của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế,
không nhạy bén với cuộc sống; là bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong quản
lý kinh tế”. Trong khi đó, cơ chế quản lý quan liêu bao cấp vẫn tiếp tục được
duy trì đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền sản xuất, nhất là trong việc phân phối,
lưu thông. Nhà nước đóng vai trò điều tiết giá cả nên đã không kích thích được
sản xuất kinh doanh phát triển. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với đặc điểm
“tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động”, kết hợp
với nguyên tắc “phân phối theo lao động” đã làm cho chế độ phân phối mang
tính bình quân, do đó không kích thích được sự nhiệt tình và khả năng tìm tòi
sáng tạo của người lao động.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế được đề ra tại Đại hội IV, Đảng đã có sự
chuyển hướng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ chủ trương ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng được đề ra tại Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra
nhiệm vụ tập trung cao độ lực lượng cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một
bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp… Sự chuyển hướng này có ý nghĩa rất
lớn đối với việc giải quyết tình trạng thiếu lương thực, khai thác một cách triệt
để hơn các nguồn lực trong nước, đồng thời sẽ tạo ra được những điều kiện và
tiền đề cần thiết cho những bước đi tiếp theo.
Trong những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, đất nước ta lại phải đương đầu
với 2 cuộc xung đột ở biên giới phía Bắc và cuộc xung đột biên giới phía Tây
Nam . Tình hình đó ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc khôi phục và phát triển
kinh tế ở nước ta. Nền kinh tế đất nước vốn đã gặp rất nhiều khó khăn nay lại
phải đương đầu với những kẻ thù mới khiến tình hình ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế trong 5 năm (1976-1980) chưa thu hẹp
9
được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát
triển chậm trong khi số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được
tiêu dùng xã hội, lương thực và các hàng tiêu dùng đều thiếu…
Trên cơ sở đường lối chung, Báo cáo vạch ra đường lối kinh tế: “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, đưa nền kinh tế nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả
nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung
ương vừa phát triển kinh tế địa phương, két hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế
với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước
xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng
thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập
chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa có kinh tế công – nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học
kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc”.
Đó là nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp gay go phức tạp nhằm giải
quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa con
đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh là quá
trình thực hiện kết hợp cải tạo với xây dựng, chính trị với kinh tế, hoà bình với
bạo lực, thuyết phục với cưỡng bách, giáo dục với hành chính…
Muốn đưa vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện
quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính
vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động. Trong đó, nắm vững chuyên chính vô sản là nắm vững đường lối của
Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện và phát huy
quyền làm chủ của tập thể nhân dân lao động, xây dựng nhà nước vững mạnh để
tiến hành ba cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật và tư tưởng
văn hoá, xóa bỏ chế độ bóc lột, đập tan sự phản kháng của kẻ thù. Xây dựng chế
độ làm chủ tập thể là xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân
lao động, có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân
lãnh đạo.
Báo cáo đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch pháy triển kinh tế và
văn hoá (1976-1980) nhằm 2 mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là bảo đảm nhu
cầu của đời sống nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
10
nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức thực hiện các nhiệm vụ: phát triển vượt bậc
về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết một cách vững chắc nhu cầu
của cả nước về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng, xây dựng
thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, mở mang giao
thông vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật; sử dụng hết lực
lượng lao động; hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng
cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cải tiến mạnh mẽ công tác
thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng; tăng nhanh nguồn xuất khẩu; phát
triển giáo dục, văn hoá, y tế, cải cách giáo dục, đào tạo cán bộ, thanh toán hậu
quả của chủ nghĩa thực dân mới; xây dựng một hệ thống mới về quản lý kinh tế
trong cả nước.
Trong 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, công tác kế hoạch hoá đã có
những bước tiến lớn có tác dụng tích cực đến quá trình sản xuất của các cơ sở
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Công tác kế hoạch hoá đã chuyển từ kế
hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng là chủ yếu. Do đó, đã tạo được tính
độc lập, tự chủ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Khác với cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế quản lý
mới này đặc biệt chú ý và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá – tiền tệ: “Việc
sử dụng quan hệ hàng hoá – tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi
hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh
tế tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng”.
Cơ cế quản lý mới này có tác dụng rất lớn đối với quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Cuộc cải cách giá, chuyển từ hệ thống định giá hành chính sang
cơ chế thị trường đã góp phần không nhỏ vào việc điều hoà cung cầu và giảm
bớt chênh lệch về giá hàng hoá giữa các vùng trong nước nhờ giá cả phản ánh
đúng giá trị và quan hệ cung cầu, do đó đã thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát
triển. Sau 5 năm thực hiện cơ chế mới, “hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng
tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi”
Tuy nhiên, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới
các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là ảnh hưởng tới các hợp tác xã
thuộc lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xuất hiện hiện tượng tư nhân hoá
các hợp tác xã. Tới năm 1991, khoảng 20% hợp tác xã, trong đó có những đơn
vị chỉ là kinh tế tập thể về hình thức, cá thể hoặc chyển sang hoạt động dưới
dạng tư nhân, ngay cả kinh tế nhà nước cũng vậy, mới chỉ gần một phần ba các
xí nghiệp quốc doanh vươn lên trong kinh doanh và thích ứng được với cơ chế
mới. Trong khi đó, cơ chế quản lý mới do mới hình thành nên còn nhiều hạn
chế, còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách đảm bảo sản xuất, kinh doanh đúng
hướng, chậm tổng kết để đề ra chương trình tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế có
hệ thống.
11
KẾT LUẬN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội kế thừa và quyết tâm
đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã mở ra một
bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước sang
một giai đoạn phát triển mới.
Thực hiện quyết định của Đại hội lần thứ VI về việc xây dựng một Cương lĩnh
hoàn chỉnh cho toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ
quá độ và trên cơ sở đó sẽ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến
lược phát triển khoa học - kỹ thuật, từ đầu năm 1987 đến giữa năm 1990, Tiểu
ban dự thảo Cương lĩnh đã soạn thảo Cương lĩnh sau khi được Bộ Chính trị
nhiều lần thảo luận, góp ý kiến... Tháng 8-1990, Hội nghị lần thứ chín của Ban
Chấp hành Trung ương thảo luận về bản Dự thảo Cương lĩnh xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ và bản Dự thảo Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000 và phương hướng chủ yếu kế
hoạch năm năm (1991 - 1995). Hội nghị quyết định công bố Dự thảo các văn
kiện đó để lấy ý kiến toàn Đảng và toàn dân trước khi trình Đại hội lần thứ VII
của Đảng. Hội nghị bàn Một số vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, với tư tưởng
chỉ đạo là kiên định thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; nêu
cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đi đôi với mở rộng quan hệ quốc
tế; xây dựng ý chí làm cho dân giàu, nước mạnh, chủ động có những phương án
khác nhau để thích ứng với tình hình mới; nêu cao ý thức tiết kiệm xây dựng đất
nước; thống nhất ý chí và hành động, nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, giữ vững
kỷ cương, tôn trọng luật pháp trong các hoạt động kinh tế - xã hội.
| 1/11

Preview text:

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG HỌ VÀ TÊN: VI THẾ DUY LỚP: QL26.19 MÃ SINH VIÊN: 2621221321 GVHD: NGUYỄN THỊ HẠNH CHỦ ĐỀ:
Đại hội VI và những đóng góp của Đh VI. Chứng minh
bằng một thành công cụ thể của ĐH VI. 1 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU PHẦN NỘI DUNG 1, Hoàn cảnh lịch
sử Đại hội Đại biểu VI của Đảng 2, Nội dung cơ bản
của Đại hội 3, Những đóng góp của ĐH VI
4. Chứng minh một thành công cụ thể của ĐH IV. KẾT LUẬN 2 LỜI NÓI ĐẦU
Đã hơn 20 năm kể từ Đại hội VI (15 – 18/6/1986) của Đảng, công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước đã có sự chuyển biến rõ rệt, vượt qua tình trạng khó
khăn, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nhiệp hóa - hiện đại hóa, thế và lực
được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao. Nước ta không còn là một nước
nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Nước ta từ quan liêu bao cấp đã trở thành
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu VI đã thay đổi cơ bản phương thức phát triển của đất nước, mở
đầu cho hàng loạt những đổi mới toàn diện sau này trên tất cả các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp, văn hóa, xã hội… Việc gia nhập WTO là thách thức nhưng
cũng là cơ hội lớn để nước ta phát triển, nó cũng khẳng định được những thay
đổi đúng hướng của Đảng mà Đại hội Đảng VI đã mở đầu cho công cuộc đổi mới này.
Đại hội nhận định, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V là những năm
đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Tuy đạt được những thành tựu quan
trọng, nhưng tình hình kinh tế - xã hội đang gặp khó khăn gay gắt; mất cân đối
lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,… Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, Đại hội nhấn mạnh, trong những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá
tình hình cụ thể về các mặt của đất nước có nhiều thiếu sót, dẫn đến nhiều sai
lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi. Đó là những sai lầm nghiêm trọng
kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện, nhất là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
Nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử to lớn của Đại hội VI với sự đổi
mới và phát triển của đất nước, em đã chọn đề tài “Đại hội Đại biểu VI của
Đảng – Đại hội đổi mới toàn diện đất nước” cho tiểu luận của mình. Tiểu luận sẽ
phân tích rõ hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản cũng như ý nghĩa lịch sử của
Đại hội để làm rõ sự tiến bộ, đúng đắn trong đường lối mà Đảng ta đã đề ra
trong Đại hội, đồng thời nêu bật những tác động to lớn của đường lối đó trong
công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên tiểu luận của em vẫn còn nhiều thiếu sót, hy
vọng nhận được sự góp ý để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô. PHẦN NỘI DUNG
1, Hoàn cảnh lịch sử Đại hội Đại biểu VI của Đảng
Đại hội VI của Đảng diễn ra giữa bối cảnh có nhiều chuyển biến trong tìnhhình
thế giới và trong nước: 3 Thế giới: -
Các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách chốngphá hệ
thốngxã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. -
Mặt khác, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, cả Liên Xô và TrungQuốc
đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và họ đang bước vào cáicách,
cải tổ với các hình thức và mức độ khác nhau, có nước thành công, cónước thất
bại. Bối cảnh đó cho Đảng ta những bài học để định hướng được conđường đổi
mới đúng đắn nhất cho nước nhà. Trong nước: -
Đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội:sản
xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạtđược;
tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao độngchưa
có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếuthốn.
Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sảnxuất của
xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốcdoanh bị suy yếu. -
Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức, lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn. -
Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm; quầnchúng
giảmlòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nhìn
tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hìnhkinh tế - xã
hội, ổn định đời sống nhân dân. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là
những sai lầm nghiêm trọngvề chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược
và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước: Xác định mục tiêu và bước đi
không sát thực tế nước ta, không coi trọng khôi phục kinh tế làm nhiệm vụ cấp
bách; nông nghiệp vẫn chưathực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xoá bỏ ngay các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng năm năm; chưa biết kết hợp
kế hoạch hoá với quan hệ hàng hoá - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong
lĩnh vực phân phối, lưu thông. Những sai lầm nói trên chỉ là sai lầm nghiêm
trọng về chủ trương, chínhsách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Sai lầm của đợt tổng cải cách giá – lương - tiền cuối năm 1985 làm chokinh tế
nước ta càng trở nên khó khăn (tháng 12/1986, giá bán lẻ hàng tăng84,53%).
Chúng ta không thực hiện được mục tiêu để ra là cơ bản ổn định tìnhhình kinh tế
xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền
kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làmcho trong
Đảng và ngoài xã hội có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực trạng
của ba vấn đề lớn: cơ cấu sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ cấuquản lý 4
kinh tế. Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu khách quan có tính sống còn đối
với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển được tình thế, tạo ra sự chuyển
biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy là phải đổi mới tư
duy.Thực trạng đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết
là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn
định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng đểtiến
lên.Trước tình hình đó, Đại hội Đại biểu lần thứ VI của Đảng đã được diễn ra từ
ngày 15 đến ngày 18/12/1986 tại Hà Nội (Đại hội nội bộ từ ngày 05
đến14/12/1986). Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng
viêncả nước và 32 đoàn đại biểu của đảng và tổ chức quốc tế.
2, Nội dung cơ bản của Đại hội
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự thật, Đại
hội đã đánh giá đúng mức những những thành tựu đạt được sau 10 năm xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định những thành tựu, đồng thời đi sâu phân
tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình và phê bình những sai lầm,
khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976 – 1986).
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần
cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hoá sinh hoạt chính trị
của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội.
− Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai lầm về kinh tế là
bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng quản lý kinh tế, xã
hội, 5 không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư
tưởngvừa tả khuynh vừa hữu khuynh.
− Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng“lấy dân làm gốc”.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Báo cáo xác định nhiệm
vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đấu 5
tranh là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền
đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa
trong chặng đường tiếp theo.
− Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng, Đại hội
nêu rõ Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
− Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn
lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa
XHCN trong chặng đường tiếp theo.
3, Những đóng góp của ĐH VI
"Một, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "Lấy dân
làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Hai, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Ba, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại trong điều kiện mới. Bốn, phải chăm lo xây dựng đảng ngang tầm với
một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa".
Về nhiệm vụ chiến lược cách mạng, Đại hội khẳng định: "Toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp
tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp
phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội".
Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định: "Nhiệm vụ bao trùm,
mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định
mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho
việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo".
Trong khi đặt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội lên hàng đầu, Đại hội vẫn
khẳng định phải "đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh
của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch,
bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc".
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện thành
công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà quan trọng là: 6
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu...
2. Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với
những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất...
3. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
4. Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.
5. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các chính sách xã hội.
6. Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước.
7. Tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.
8. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
9. Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh
đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.
10. Nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành của bộ máy đảng và nhà nước.
Ban Chấp hành Trung ương phải chỉ đạo tiến hành trong toàn Đảng và toàn xã
hội "Cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức
đảng; làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước; đẩy lùi
và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và thực
hiện công bằng xã hội".
Chấp hành Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI, trên lĩnh vực kinh tế, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng triển khai cùng một lúc bốn mặt hoạt động có liên
hệ khăng khít với nhau: xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn; tiếp
tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; đổi mới tổ chức cán bộ.
Vấn đề nóng bỏng và cấp bách nhất là lưu thông phân phối. Vì vậy, Hội nghị lần
thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương, họp trong tháng 4-1987, đã quyết định
phương hướng giải quyết vấn đề đó là phải nắm vững mục tiêu giảm tỷ lệ bội
chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về
đời sống của nhân dân trên cơ sở xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp,
chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nâng
cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy khả năng tích cực của
các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức sản xuất. 7
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một yêu cầu bức thiết, một bộ phận cấu thành
quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế của Đảng. Hội
nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương, tháng 8-1987, đã quyết nghị:
"Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế". Hội nghị nhấn mạnh mục đích
của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là phải tạo ra động lực mạnh mẽ giải phóng
mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển kinh tế
hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng, hiệu quả
ngày càng cao, trước mắt nhằm phục vụ ba chương trình kinh tế lớn, từng bước
thực hiện "bốn giảm", thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế - xã
hội, tạo tiền đề để tiến lên.
4. Chứng minh một thành công cụ thể của ĐH IV.
Tuy nhiên, việc thực hiện công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết điểm, đặc
biệt là không gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế, do đó kế hoạch chưa thực sự
xuất phát từ thực tế lao động sản xuất, thiếu tính khả thi. Đảng vạch rõ: “về tổ
chức thực hiện, khuyết điểm, sai lầm của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế,
không nhạy bén với cuộc sống; là bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong quản
lý kinh tế”. Trong khi đó, cơ chế quản lý quan liêu bao cấp vẫn tiếp tục được
duy trì đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền sản xuất, nhất là trong việc phân phối,
lưu thông. Nhà nước đóng vai trò điều tiết giá cả nên đã không kích thích được
sản xuất kinh doanh phát triển. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với đặc điểm
“tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động”, kết hợp
với nguyên tắc “phân phối theo lao động” đã làm cho chế độ phân phối mang
tính bình quân, do đó không kích thích được sự nhiệt tình và khả năng tìm tòi
sáng tạo của người lao động.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế được đề ra tại Đại hội IV, Đảng đã có sự
chuyển hướng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ chủ trương ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng được đề ra tại Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra
nhiệm vụ tập trung cao độ lực lượng cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một
bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp… Sự chuyển hướng này có ý nghĩa rất
lớn đối với việc giải quyết tình trạng thiếu lương thực, khai thác một cách triệt
để hơn các nguồn lực trong nước, đồng thời sẽ tạo ra được những điều kiện và
tiền đề cần thiết cho những bước đi tiếp theo.
Trong những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, đất nước ta lại phải đương đầu
với 2 cuộc xung đột ở biên giới phía Bắc và cuộc xung đột biên giới phía Tây
Nam . Tình hình đó ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc khôi phục và phát triển
kinh tế ở nước ta. Nền kinh tế đất nước vốn đã gặp rất nhiều khó khăn nay lại
phải đương đầu với những kẻ thù mới khiến tình hình ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế trong 5 năm (1976-1980) chưa thu hẹp 8
được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát
triển chậm trong khi số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được
tiêu dùng xã hội, lương thực và các hàng tiêu dùng đều thiếu…
Trên cơ sở đường lối chung, Báo cáo vạch ra đường lối kinh tế: “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, đưa nền kinh tế nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả
nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung
ương vừa phát triển kinh tế địa phương, két hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế
với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước
xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng
thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập
chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa có kinh tế công – nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học
kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc”.
Đó là nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp gay go phức tạp nhằm giải
quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa con
đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh là quá
trình thực hiện kết hợp cải tạo với xây dựng, chính trị với kinh tế, hoà bình với
bạo lực, thuyết phục với cưỡng bách, giáo dục với hành chính…
Muốn đưa vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện
quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính
vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động. Trong đó, nắm vững chuyên chính vô sản là nắm vững đường lối của
Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện và phát huy
quyền làm chủ của tập thể nhân dân lao động, xây dựng nhà nước vững mạnh để
tiến hành ba cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật và tư tưởng
văn hoá, xóa bỏ chế độ bóc lột, đập tan sự phản kháng của kẻ thù. Xây dựng chế
độ làm chủ tập thể là xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân
lao động, có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Báo cáo đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch pháy triển kinh tế và
văn hoá (1976-1980) nhằm 2 mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là bảo đảm nhu
cầu của đời sống nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ 9
nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức thực hiện các nhiệm vụ: phát triển vượt bậc
về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết một cách vững chắc nhu cầu
của cả nước về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng, xây dựng
thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, mở mang giao
thông vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật; sử dụng hết lực
lượng lao động; hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng
cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cải tiến mạnh mẽ công tác
thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng; tăng nhanh nguồn xuất khẩu; phát
triển giáo dục, văn hoá, y tế, cải cách giáo dục, đào tạo cán bộ, thanh toán hậu
quả của chủ nghĩa thực dân mới; xây dựng một hệ thống mới về quản lý kinh tế trong cả nước.
Trong 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, công tác kế hoạch hoá đã có
những bước tiến lớn có tác dụng tích cực đến quá trình sản xuất của các cơ sở
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Công tác kế hoạch hoá đã chuyển từ kế
hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng là chủ yếu. Do đó, đã tạo được tính
độc lập, tự chủ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Khác với cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế quản lý
mới này đặc biệt chú ý và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá – tiền tệ: “Việc
sử dụng quan hệ hàng hoá – tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi
hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh
tế tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng”.
Cơ cế quản lý mới này có tác dụng rất lớn đối với quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Cuộc cải cách giá, chuyển từ hệ thống định giá hành chính sang
cơ chế thị trường đã góp phần không nhỏ vào việc điều hoà cung cầu và giảm
bớt chênh lệch về giá hàng hoá giữa các vùng trong nước nhờ giá cả phản ánh
đúng giá trị và quan hệ cung cầu, do đó đã thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát
triển. Sau 5 năm thực hiện cơ chế mới, “hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng
tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi”
Tuy nhiên, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới
các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là ảnh hưởng tới các hợp tác xã
thuộc lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xuất hiện hiện tượng tư nhân hoá
các hợp tác xã. Tới năm 1991, khoảng 20% hợp tác xã, trong đó có những đơn
vị chỉ là kinh tế tập thể về hình thức, cá thể hoặc chyển sang hoạt động dưới
dạng tư nhân, ngay cả kinh tế nhà nước cũng vậy, mới chỉ gần một phần ba các
xí nghiệp quốc doanh vươn lên trong kinh doanh và thích ứng được với cơ chế
mới. Trong khi đó, cơ chế quản lý mới do mới hình thành nên còn nhiều hạn
chế, còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách đảm bảo sản xuất, kinh doanh đúng
hướng, chậm tổng kết để đề ra chương trình tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế có hệ thống. 10 KẾT LUẬN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội kế thừa và quyết tâm
đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã mở ra một
bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước sang
một giai đoạn phát triển mới.
Thực hiện quyết định của Đại hội lần thứ VI về việc xây dựng một Cương lĩnh
hoàn chỉnh cho toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ
quá độ và trên cơ sở đó sẽ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến
lược phát triển khoa học - kỹ thuật, từ đầu năm 1987 đến giữa năm 1990, Tiểu
ban dự thảo Cương lĩnh đã soạn thảo Cương lĩnh sau khi được Bộ Chính trị
nhiều lần thảo luận, góp ý kiến... Tháng 8-1990, Hội nghị lần thứ chín của Ban
Chấp hành Trung ương thảo luận về bản Dự thảo Cương lĩnh xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ và bản Dự thảo Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000 và phương hướng chủ yếu kế
hoạch năm năm (1991 - 1995). Hội nghị quyết định công bố Dự thảo các văn
kiện đó để lấy ý kiến toàn Đảng và toàn dân trước khi trình Đại hội lần thứ VII
của Đảng. Hội nghị bàn Một số vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, với tư tưởng
chỉ đạo là kiên định thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; nêu
cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đi đôi với mở rộng quan hệ quốc
tế; xây dựng ý chí làm cho dân giàu, nước mạnh, chủ động có những phương án
khác nhau để thích ứng với tình hình mới; nêu cao ý thức tiết kiệm xây dựng đất
nước; thống nhất ý chí và hành động, nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, giữ vững
kỷ cương, tôn trọng luật pháp trong các hoạt động kinh tế - xã hội. 11