












Preview text:
lOMoAR cPSD| 58702377 ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC LUẬT HUẾ ----- ----- Thảo luận nhóm
Chủ đề: Đảm bảo sự vô tư khách quan của người tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự Học phần:
Tố tụng hình sự
Giảng viên phụ trách: TS. Trần Văn Hải Nhóm thực hiện: Nhóm 6 Lớp: Luật Kinh tế K46C Huế 2023 1 lOMoAR cPSD| 58702377 Thành Viên Nhóm STT Họ và tên Nhiệm vụ 1 Nguyễn Thị Phương Anh Tổng hợp word , word (Nhóm trưởng) 2 Đinh Thị Diễm My Nội dung 3 Nguyễn Ngọc Linh Nội dung 4 Nguyễn Ngô Phương Trinh Nội dung 5 Nguyễn Thị Hồng Phúc Nội dung 6 Phan Thanh Thuỷ Nội dung 7 Hồ Thị Lan Nội dung 8 Nguyễn Thị Ánh Ngọc Nội dung 9 Đỗ Thị Ánh Nguyệt Nội dung 10 Nguyễn Nhật Vũ Nội dung 11 Võ Đức Hậu Powerponit 12 Nguyễn Tuấn Nhật Powerpint lOMoAR cPSD| 58702377 MỤC LỤC
I.Khái niệm , cơ sở pháp lý
........................................................................................4 - Khái niệm
:............................................................................................................4 -Cơ sở pháp
lý.........................................................................................................4 II.
Nội dung của nguyên tắc đảm bảo sự vô tư khách quan của người tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự......................................................4
NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC:...............................................................................4 III.
Thực trạng thực thi nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng
hoặc người tham gia tố tụng hình sự........................................................................7
IV .Hiệu quả thực thi nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố
tụng hoặc người tham gia tố tụng hình
sự:...............................................................8
V. Một số bất cập trong việc nguyên tắc đảm bảo sự vô tư và khách quan của
người tiến hành tố tụng hình sự.............................................................................10
- Đối với nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người THTT hoặc người TGTT
..............................................................................................................................1 0
VI. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
những người tiến hành tố tụng hoặc ngƣời tham gia tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện
nay:..................................................................................................................13
VII. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố
tụng……………………………………….13
VIII. Ý nghĩa của nguyên tắc Đảm bảo sự vô tư khách quan của người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự:.......................................................14
I. Khái niệm , cơ sở pháp lý . - Khái niệm : lOMoAR cPSD| 58702377
-Cơ sở pháp lý : Vô tư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là điều kiện quan
trọng để có một thủ tục tố tụng công bằng, khách quan, là yếu tố nền tảng để củng
cố niềm tin của những người tham gia tố tụng và xã hội đối với hoạt động của cơ
quan và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, là yêu cầu không thể thiếu
được của một Nhà nước pháp quyền.
II. Nội dung của nguyên tắc đảm bảo sự vô tư khách quan của người tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC:
1)Thứ nhất, những người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định
phải giữ sự vô tư khi làm nhiệm vụ của mình trong mọi trường hợp. Họ phải tôn
trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ thật sự
công tâm, khách quan, vô tư, không được để quan hệ, những tình cảm cá nhân chi
phối vào công việc. Không được có thái độ thiên vị hay định kiến đối với bất kì
người tham gia tố tụng nào.
-Để đảm bảo sự vô tư khi tham gia tiến hành tố tụng pháp luật quy định những
người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay đổi tại Điều 49 BLTTHS 2015:
1. Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị
hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo -GIẢI THÍCH:
+ Người thân thích theo quy định tại điểm e Khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015
“Người thân thích của người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng là người có quan hệ với người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng gồm vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột”.
Sức mạnh về mối quan hệ huyết thống sẽ làm cho con người có những xử sự thiên
vị, bảo vệ lẫn nhau khi có ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người thân thích với
mình. Cho nên nếu người tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động giải quyết vụ án
hình sự đối với người thân của mình thì việc họ “vô tình” thiên vị giải quyết hướng
có lợi cho người thân là việc không thể tránh được.
- Ví dụ: A là thẩm phán và cũng là cha hoặc mẹ của C mà C phạm tội cố ý gây
thương tích cho người khác. Khi có người thân thích với bị cáo thì việc đưa ra quyết
định sẽ không tránh khỏi sự thiên vị, ưu tiên. Như vậy, quyết định hình phạt cho bị
can, bị cáo sẽ không công bằng, không minh bạch
2. Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó; GIẢI THÍCH: lOMoAR cPSD| 58702377 -
Người bào chữa (Khoản 2 Điều 72 BLTTHS 2015) thực hiện chức năng gỡtội
trong tố tụng hình sự, khi tham gia tố tụng họ có trách nhiệm đưa ra những chứng
cứ gỡ tội để bào chữa cho người bị tạm giữu, bị can, bị cáo. Trong khi đó, trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng là phải xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ không coi nhẹ mặt nào, buộc tội cũng như gỡ tội. Vì vậy,
người bào chữ không thể đảm bảo tính khách quan, vô tư trong tiến hành tố tụng -
Người chứng, người giám định, người phiên dịch là những người tham gia tố
tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Ba đối tượng trên nhằm cung cấp
chứng cứ cho vụ án, đưa ra kết luận giám định theo yêu cầu của giám định của cơ
quan có thẩm quyền hay làm trung gian giao tiếp giữa người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng để hỗ trợ người tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh
sự thật của vụ án. Chính vì vậy, nếu họ vừa là người đánh giá các thông tin, tài liệu
do mình đưa ra thì rất khó khách quan. Do đó họ không thể là người tiến hành tố tụng
3. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm
nhiệm vụ. GIẢI THÍCH :
-Theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, trường hợp “Có căn cứ rõ ràng khác
để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ là ngoài các trường hợp
được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 49 BLTTHS thì trong các trường hợp khác
(như trong quan hệ tình cảm, quan hệ thông gia, quan hệ công tác, quan hệ kinh tế,...)
có căn cứ rõ ràng để có thể khẳng định là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
-Ví dụ: Hội thẩm là anh em kết nghĩa của bị can, bị cáo; Thẩm phán là con rể của
bị cáo; người bị hại là Thủ trưởng cơ quan, nơi vợ của Thẩm phán làm việc,... Mà
có căn cứ rõ ràng chứng minh là trong cuộc sống giữa họ có mối quan hệ tình cảm
thân thiết với nhau, có mối quan hệ về kinh tế,...
Cũng được coi là có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi
làm nhiệm vụ nếu trong cùng một phiên tòa xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký tòa án là người thân thích với nhau
=> Như vậy, hướng dẫ của Hội đồng thẩm phán đã đưa ra một số trường hợp có
thể dẫ dến sự không vô tư khi thực hiện nhiệm vụ của người tiến hành tố tụng tuy
nhiên cũng không thể liệt kê hết tất cả trường hợp trên xảy ra trong cuộc sống. Trên
cơ sở hướng dẫn có thể thấy rằng những nhân tố dẫn đến sự không vô tu của người
tiến hành tố tụng là nhân tố tình cảm, vật chất, tinh thần của người khác tác động
đến người tiến hành tố tụng làm họ có những hành vi, quyết định có lợi hoặc bất lợi
cho người tham gia tố tụng lOMoAR cPSD| 58702377
2) Thứ 2, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là điều kiện cần thiết để thực
hiện một số các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng hình sự như nguyên tắc bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật; xác định sự thật của vụ án; bảo đảm quyền bào chữa của
người bị giam giữ; bị can; bị cáo; nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật..Có thể nói nguyên tắc này là đòi hỏi pháp lý chi phối mọi
hoạt động của những người tiến hành tố tụng -
Việc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực
hiện. Có đảm bảo được sự vô tư trong quá trình tố tụng thì mới bảo đảm được sự
minh bạch, công ông và đúng đắn của pháp luật đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống
tội phạm được kiên quyết, triệt để kịp thời, góp phần vào việc giáo dục kẻ phạm tội,
đồng thời ngăn chặn việc làm oan người vô tội và ngăn ngữa việc hạn chế quyền dân
chủ của công dân một cách trái pháp luật -
Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng cũng sẽ
tạo tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
của công dân trước pháp luật. Không có sự phân biệt nam nữ, dân tộc tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần xã hội... Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật,
pháp luật không có quy định riêng cho từng công dân cụ thể, tài sàn và địa vị xã hội
không mang lại đặc quyền trước Tòa án và pháp luật, mọi người đều có quyền như
nhau khi tham gia tố tụng hình sự. Do đó nguyên tắc vô tư trong tố tụng được thực
hiện tốt bởi người tham gia hoặc tiến hành đã góp phần vào việc nâng cao tính đúng
đắn và khách quan của pháp luật mang bảo đảm được quyền cơ bản của công được
quy định trong hiến pháp
=> Nguyên tắc này cũng có ảnh hưởng lớn trong việc thực hiện nguyên tắc xác
định sự thật vụ án. Để không làm oan người vô tội và không để lọt tội phạm thì
những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng phải có cái nhìn khách quan vô
tư. Một chút thiếu khách quan cũng có thể đưa vụ án đi theo chiều hướng khác không
đúng như nó đã diễn ra.
III. Thực trạng thực thi nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố
tụng hoặc người tham gia tố tụng hình sự.
-Thực trạng việc thực thi nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố
tụng hoặc người tham gia tố tụng tuy không được các cơ quan có thẩm quyền xây
dựng thành tiêu chí thống kê, nhưng thông qua số kiệu thống kê của ngành Tòa án
và Viện kiểm sát hằng năm về tình trạng hủy án, sửa án với sự phân loại do nguyên
nhân khách quan và chủ quan phần nào phản ánh thực trạng đó. lOMoAR cPSD| 58702377
-Việc vụ án bị hủy, sửa hằng năm không nhiều, việc bị hủy và sửa bản án do nguyên
nhân chủ quan có chiều hướng giảm từng năm và trong số các nguyên nhân chủ quan
dẫn đến bản án bị hủy và sửa bản án có nguyên nhân vi phạm pháp luật TTHS nghiêm
trọng bao gồm cả nguyên nhân do vi phạm nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những
người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng.
-Việc thực thi pháp luật về nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng
hoặc người tham gia tố tụng được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tương đối
nghiêm chỉnh. Tuy nhiên độ tin cậy vào kết quả cần phải có sự đối chiếu so sánh với
những tài liệu khác mới có thể xác nhận để có nhận xét chính xách về tình hình thực
thi nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng hình sự.
-Ví dụ : Ông Đào Quốc Túy vừa được Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tuyên
vô tội lần thứ hai trong vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đều do cùng một Kiểm
sát viên thực hiện quyền công tố. Ông Đào Quốc Túy khởi tố năm 1996 về hai tội “
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với 14
hành vi. Năm 2003, vụa án này đã được Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh đưa ra
xét xử lần đầu và Hội đồng xét xử đã tuyên Túy không phạm tội “ Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” và “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Vụ án sau đó được cấp
phúc thẩm xử hủy án do vi phạm tố tụng, giao hồ sơ cho cơ quan điều tra làm lại.
Sau quá trình điều tra, vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố.
Lãnh đạo Viện kiểm sát tiếp tục phân công Kiểm sát viên, người đã từng ngồi công
tố tại phiên tòa sơ thẩm lần trước THTT. Lần sơ thẩm thứ hai này, vị Kiểm sát này
cũng đã giữ nguyên quan điểm buộc tội đối với Túy, nhưng Hội đồng xét xử vẫn tuyên vô tội.
-Thực tiễn từ vụ án trên cho thấy khi áp dụng thì nội dung của các quy định ảnh
hưởng đến nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
IV .Hiệu quả thực thi nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành
tố tụng hoặc người tham gia tố tụng hình sự:
-Việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là điều kiện cần thiết để thực hiện một số
nguyên tắc cơ bản khác của TTHS, như các nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự; bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước PL;
xác định sự thật của vụ án; bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội; nguyên
tắc của Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và tuân theo pháp luật,…
-Nguyên tắc sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng đảm bảo sự công bằng và minh bạch. Tăng cường niềm tin của người
tham gia vào hệ thống pháp luật và đảm bảo rằng quyết định được đưa ra dựa trên
chứng cứ và luật lệ, không phụ thuộc vào ảnh hưởng các cá nhân hay thù địch. lOMoAR cPSD| 58702377
-Đảm bảo một nền tư pháp độc lập, vô tư như vậy giúp đảm bảo sự phân chia, kiểm
soát quyền lực giữa quyền tư pháp với quyền lập pháp và hành pháp. Từ đó đảm bảo
có được một nền tư pháp công minh, không phân biệt đối xử, tuân thủ tính thượng
tôn của pháp luật, bảo vệ các quyền và tự do chính đáng của con người.
-Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng. Khi đó mọi Thẩm Phán cũng như những người có liên quan
sẽ hành xử một cách khách quan, đưa ra các quyết định của mình dựa trên những sự
kiện có thật và các quy định pháp luật mà không có bất kì một định kiến cá nhân,
hay một sự thiên vị nào gây bất lợi về các vấn đề cũng như các bên có liên quan
trong vụ việc, từ đó loại bỏ tất cả những nghi ngờ có căn cứ về sự vô tư của họ.
-Đảm bảo việc xét xử diễn ra đúng nguyên tắc, đúng quy định, xét xử đúng người ,
đúng tội và đảm bảo nghiêm minh. Vụ việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm; góp
phần tạo sự thống nhất trong nội bộ.
-Đảm bảo tính khách quan và công bằng trong việc đưa ra quyết định; trách được
các quyết định, bản án oan sai, lạm quyền.
-Đảm bảo được quyền của các đối tượng tham gia tụng; quá trình xét xử diễn ra vô
tư và chính xác qua đó tác động đến việc xác lập một chuẩn mực mới trong quan hệ
xã hội, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp, tạo dựng niềm
tin vào nền công lý, vào bộ máy nhà nước.
-Đảm bảo, thực hiện đúng theo nguyên tắc và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự thể hiện đúng quy định về tố tụng và các nguyên tắc đạo đức trong
việc tiến hành tố tụng. Ngoài ra , hiệu quả của nguyên tắc này giúp góp phần các cơ
quan tiến hành tố tụng, truy tố, xét xử khách quan, đúng người đúng tội, đúng với
pháp luật, thực hiện công khai và minh bạch.
-Sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định chịu tác
động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nên bên cạnh việc giáo dục, nâng cao
đạo đức đối với họ cần có cơ chế pháp lý để ngăn ngừa cụ thể , rõ ràng trong luật
TTHS, làm cơ sở pháp lý cho việc ngăn ngừa việc không vô tư của người THTT.
- Trong giai đoạn xét xử , nguyên tắc bảo đảm sự vô tư cua những người tiến hành
tố tụng hoặc người tham gia tố tụng đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký, Tòa án,
Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định phải thật sự vô tư khi thực hiện
nhiệm vụ của mình , không thiên vị , đồng thời họ trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ mà họ phát hiện ra những hiện tượng thiên vị , hay không minh bạch thì họ phải
kiên quyết đấu tranh, yêu cầu họ phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi qua
đó thấy được hiệu quả của nguyên tắc vô tư của những người tham gia tố tụng, người lOMoAR cPSD| 58702377
có thẩm quyền tham gia tố tụng đã phát huy được tính minh bạch, công bằng cho xã
hội , tạo được niềm tin cho quần thể nhân dân.
Ví dụ: Kiểm sát viên, tham gia phiên tòa phát hiện Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là
người thân thích với người bị hại thì phải thông báo cho người Thẩm phán này từ
chối tham gia tố tụng hoặc báo cho người có thẩm quyền để thay đổi. Qua ví dụ này
thể hiện tính công bằng, đảm bảo được quyền của các đối tượng tham gia tố tụng.
V. Một số bất cập trong việc nguyên tắc đảm bảo sự vô tư và khách quan của
người tiến hành tố tụng hình sự.
- Đối với nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người THTT hoặc người TGTT
Những bất cập của Bộ luật TTHS 2015 về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những
người THTT hoặc người TGTT .Những qui định trên của Bộ luật TTHS 2015 cũng
như ở những văn bản pháp luật khác đã tạo ra được cơ chế bảo đảm sự vô tư của
người THTT, người giám định, người phiên dịch làm cơ sở cho việc THTT khách
quan trong quá trình giải quyết vụ án. Những đóng góp cho việc thực hiện mục đích,
nhiệm vụ của TTHS là không thể phủ nhận, đặc biệt đối với mục đích xét xử công
bằng trong TTHS. Tuy nhiên khi áp dụng còn bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết
cần hoàn thiện các qui phạm pháp luật về nguyên tắc này nhằm bảo đảm hơn nữa
tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự . Đó là những vấn đề sau:
+ Thứ nhất, một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng còn chưa đầy đủ, do đó chưa bảo đảm cơ sở
pháp lý vững chắc cho các chủ thể này trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Ví dụ: Theo khoản 1 Điều 457và Điều 458 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và hủy
bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Trong khi nhiệm vụ, quyền hạn này được Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định cụ thể cho Viện trưởng Viện kiểm sát tại điểm l khoản
2 Điều 41 và Chánh án Tòa án tại điểm c khoản 2 Điều 44 thì khoản 2 Điều 36 của
Bộ luật Tố tụng hình sự lại không quy định nhiệm vụ, quyền hạn này cho Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
+Thứ hai, Điều 51 BLTTHS 2015 quy định: "Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải từ
chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp: Trường
hợp quy định tại Điều 49 của Bộ luật này; Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với
tư cách là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án".
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề này vẫn đang còn một số vướng mắc, tồn tại: lOMoAR cPSD| 58702377
Thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên trong trường hợp án bị hủy để điều tra lại theo
quy định tại khoản 1 Điều 358 và Điều 391 BLTTHS 2015. Theo quy định của Điều
53 và Điều 54 BLTTHS 2015, khi bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm bị hủy để điều tra
lại thì khi xét xử sơ thẩm lại Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đều bị thay đổi.
Tuy nhiên, trên thực tế và quy định của BLTTHS 2015, khi một vụ án bị hủy để điều
tra lại thì Điều tra viên và Kiểm sát viên đã điều tra, kiểm sát điều tra hoặc thực hành
quyền công tố vụ án đó lại không bị thay đổi.
Ví dụ: Điều tra viên một vụ án cướp tài sản mà người bị hại là thầy giáo đã dạy Điều
tra viên đó; Thẩm phán xét xử vụ án tham ô tài sản mà bị cáo là em ruột của vợ…Vì
vậy, theo tác giả, việc quy định phải thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên trong
trường hợp hủy án để điều tra lại là hết sức cần thiết để bảo đảm tính khách quan của
vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
+Thứ ba, thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên trong trường hợp trả hồ sơ điều tra
bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015.
Điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 quy định vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng được như sau: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án”.
Một vấn đề được đặt ra là khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung do việc khởi tố, điều
tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì Điều tra viên, Kiểm sát viên
điều tra, kiểm sát điều tra hoặc Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vụ án đó có
bị thay đổi? Vấn đề này, BLTTHS 2015 không có quy định.
Ví dụ: Có vụ án Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung, sau đó tạm đình
chỉ vụ án hoặc vì năng lực, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên quá yếu nhưng
không chịu thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên dẫn đến vụ án kéo dài, hồ sơ trả đi
trả lại nhiều lần không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng, mà
còn gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.
+ Thứ tư, hiện nay quyền khởi tố vụ án hình sự được quy định tại khoản 4 điều 153,
đoạn 3 khoản 2 điều 154 BLTTHS. Theo đó, “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố
hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa
mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm” (khoản 4 Điều 153). “Trong thời hạn 24 giờ lOMoAR cPSD| 58702377
kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Tòa án phải gửi quyết định đó kèm
theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp” (đoạn 3 khoản 2 điều 154).
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, quy định trên hiện không còn phù hợp. Lý do, việc ra
quyết định khởi tố vụ án thuộc chức năng của cơ quan điều tra và công tố. Tòa án là
cơ quan xét xử, nếu ra quyết định khởi tố vụ án hình sự sẽ ảnh hưởng đến tính khách
quan trong quá trình xét xử vụ án đó. Do đó, cần xem xét bỏ quyền khởi tố vụ án
của Tòa án và việc này cần thực hiện theo quy định tại Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, việc sửa đổi và bãi bỏ nói trên có thể thực hiện ngay trong phạm vi
luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Tổ chức TAND năm 2014.
- Đối với vô tư và khách quan của người tiến hành tố tụng hình sự:
+Trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, còn tồn tại một số bất cập trong việc đảm
bảo sự vô tư và khách quan của người tiến hành tố tụng hình sự. Dưới đây là một số
chi tiết về những bất cập này: 1.
Thiếu độc lập và không phụ thuộc: Một yếu tố quan trọng để đảm bảo sự vô
tư và khách quan trong tố tụng hình sự là độc lập và không phụ thuộc của người tiến
hành. Tuy nhiên, trong thực tế, có thể có sự can thiệp của các yếu tố chính trị, quyền
lực hoặc xã hội vào quyết định tố tụng, dẫn đến thiếu vô tư và khách quan. 2.
Thiếu khả năng kiểm soát thông tin: Các bất cập trong việc kiểm soát thông
tin có thể ảnh hưởng đến độc lập và khách quan của quy trình tố tụng. Ví dụ, việc
thông tin bị rò rỉ hoặc không được truyền đạt chính xác có thể gây ra thông tin không
chính xác hoặc thiếu minh bạch trong quy trình tố tụng. 3.
Thiếu đảm bảo quyền biện hộ: Một yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo sự
vô tư và khách quan trong tố tụng hình sự là quyền tự do biện hộ. Tuy nhiên, việc
không đảm bảo quyền này có thể làm giảm sự công bằng và khách quan trong việc
thu thập và trình bày chứng cứ và quan điểm biện hộ. 4.
Thiếu truy cập công bằng vào tư liệu và thông tin: Việc không đảm bảo truy
cập công bằng vào tư liệu và thông tin có thể tạo ra bất cập trong quy trình tố tụng.
Nếu một bên không có đủ tài nguyên và quyền truy cập vào tư liệu và thông tin quan
trọng, đó có thể làm giảm khả năng vô tư và khách quan. 5.
Thiếu đảm bảo quyền tự do báo chí: Sự tự do và độc lập của báo chí cũng là
mộtyếu tố quan trọng trong việc đảm bảo sự vô tư và khách quan trong tố tụng hình
sự. Tuy nhiên, nếu tự do báo chí bị hạn chế hoặc không được tôn trọng, thông tin
được truyền đạt có thể không chính xác hoặc bị mất cân đối, dẫn đến sự không vô
tư và khách quan trong tố tụng. 6.
Thiếu đảm bảo quyền phản ánh của công dân: Sự tham gia và phản ánh của
côngdân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự vô tư và khách quan lOMoAR cPSD| 58702377
trong tố tụng hình sự. Nếu quyền này không được đảm bảo và tôn trọng, sự tham gia
và phản ánh của công dân có thể bị hạn chế, dẫn đến sự không công bằng và thiếu
vô tư trong quy trình tố tụng.
Những bất cập này cần được giải quyết bằng cách thực hiện cải cách pháp luật, đảm
bảo độc lập và không phụ thuộc, tăng cường kiểm soát thông tin, đảm bảo quyền tự
do biện hộ và quyền truy cập công bằng vào tư liệu và thông tin, tôn trọng tự do báo
chí và quyền phản ánh của công dân. Điều này đồng thời đảm bảo sự vô tư và khách
quan của người tiến hành tố tụng hình sự trong hệ thống tư pháp Việt Nam.
VII. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng
a. Nâng cao năng lực, trách nhiệm cho người THTT và người TGTT -
Sự không vô tư của người THTT và người TGTT phụ thuộc vào trình độ và
trách nhiệm của họ khi giải quyết vụ án phải được giải quyết bằng những biện pháp mang tính lâu dài. -
Trong nhiều trường hợp do những hạn chế về trình độ của những cán bộ làm
côngtác điều tra, truy tố, xét xử mà đã dẫn đến những vi phạm những qui định của
nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người THTT hoặc người TGTT. Nó có thể
là việc không xác định đ ợc những tình tiết khách quan của vụ án hình sự, không ƣ
nắm vững những quy định TTHS dẫn đến vi phạm thủ tục tố tụng, không nắm vững
những quy định của Bộ luật TTHS. Thực tế cho thấy, những hạn chế về trình độ của
những người THTT là nguyên nhân dẫn đến phần lớn những vi phạm nguyên tắc
bảo đảm sự vô tư của những người THTT hoặc người TGTT. -
Cho đến nay, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án đang hết sức cố gắng
nâng cao trình độ của những ng ời THTT trong cơ quan mình. Trong thực tế đây ƣ
là một trong những công việc hết sức khó khăn và nặng nề mà việc giải quyết một
cách triệt để không phải trong một sớm một chiều. Điều này một lần nữa lại tạo thêm
sức ép rất lớn đến việc không ngừng nâng cao chất l ợng giải quyết vụ án ƣ của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Bên cạnh những hạn chế về trình độ, trong
đội ngũ cán bộ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án về cơ bản là trong
sạch, chí công, vô t , vẫn còn tồn tại nhiều phần tử thoái hoá biến chất, cố ƣ tình bẻ
cong pháp luật, làm mất uy tín chung của hệ thống tư pháp và tạo ra những hậu quả
vô cùng nghiêm trọng. Trong thực tế, việc truy tố và đưa ra xét xử những cán bộ của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn của
mình để đạt đ ợc những mục đích cá nhân, trục lợi, làm giàu bất ƣ chính... là một
thực tế hết sức đau lòng mà trong những năm qua hệ thống tư pháp đã và đang nghiêm khắc khắc phục. lOMoAR cPSD| 58702377
-Để khắc phục những hạn chế nói trên nhằm nâng cao chất lượng người THTT cần
tập trung vào một số công việc sau:
+ Xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh. Đây cũng là một
trong những biện pháp quán triệt và thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước. Tiếp tục cải cách tư pháp là một yêu cầu cấp bách, là sự đòi hỏi của nhân dân
đối với mỗi cán bộ tư pháp phải mẫu mực tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, thể hiện
tính dân chủ, công khai, đại diện cho công lý của chế độ, phải thật sự trong sạch,
công minh. Quán triệt đường lối chỉ đạo nói trên, công cuộc đổi mới về chất lượng
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án
phải được tiến hành một cách toàn diện.
VIII. Ý nghĩa của nguyên tắc Đảm bảo sự vô tư khách quan của người tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự:
-Đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn, chính xác, công bằng.Sự
vô tư khách quan của người tiến hành tố tụng là cơ sở để họ thu thập, đánh giá chứng
cứ một cách khách quan, toàn diện, chính xác, không thiên vị, không bỏ sót các tình
tiết quan trọng của vụ án. Từ đó, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn,
chính xác, công bằng, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. -
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng và xã hội
đốivới hoạt động của cơ quan và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. -
Tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án hình sự khách quan, công bằng, đúng
pháp luật, đảm bảo công lý pháp quyền. -
Củng cố niềm tin của nhân dân và xã hội vào hoạt động của cơ quan tố tụng
hình sự, góp phần nâng cao uy tín và chất lượng của công tác tố tụng hình sự. -
Phản ánh tinh thần pháp chế của Nhà nước pháp quyền, thể hiện sự tôn trọng
sự thật, pháp luật và nhân phẩm con người.
-Ngăn chặn Lạm dụng Quyền Lực: Ngăn chặn việc sử dụng quyền lực để chi phối
quy trình tư pháp và đảm bảo tính độc lập của người tiến hành tố tụng.
Hiệu quả của Hệ thống Pháp luật: Tăng cường hiệu quả của hệ thống pháp luật bằng
cách giữ cho quy trình tư pháp không bị nhòa lẫn và ảnh hưởng từ các yếu tố cá nhân.
Tuân thủ Quy trình Pháp luật: Khuyến khích sự tuân thủ cao độ với quy định của
pháp luật, giúp duy trì tính chất chính thức và hợp pháp của các quyết định tư pháp.