Đánh giá tổng quát tình hình tập đoàn EVN - Kinh tế chính trị | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Đánh giá tổng quát tình hình tập đoàn EVN - Kinh tế chính trị | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem !

Thông tin:
18 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đánh giá tổng quát tình hình tập đoàn EVN - Kinh tế chính trị | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Đánh giá tổng quát tình hình tập đoàn EVN - Kinh tế chính trị | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem !

78 39 lượt tải Tải xuống
Tình hình kinh doanh của Tập đoàn Điện lực Việt Nam hiện
nay
Thị Lan Ngọc
QH2021E QTKD CLC 1
Ngành điện được đánh giá là ngành hạ tầng quan trọng thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia. Vì thế, ở nước ta, Đảng, Nhà nước luôn quan
tâm, tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, nguồn lực để đầu tư thích đáng cho ngành
điện với mục tiêu phát triển “điện phải đi trước một bước để phục vụ yêu cầu phát
triển toàn diện kinh tế - xã hội đất nước”. Hiện nay, tại Việt Nam, điện tuy không
còn là ngành độc quyền, nhưng đa phần thị trường vẫn do EVN - Tập đoàn Điện
lực Việt Nam nắm giữ, nên từng bước đi của EVN nhận được rất nhiều sự chú ý.
Dù thế, vẫn rất khó để có được cái nhìn toàn cảnh về tình hình của doanh nghiệp,
nhất là trong giai đoạn đầy biến động do chịu tác động của đại dịch Covid-19. Do
đó, bài viết này sẽ tập trung đánh giá tình trạng hoạt động của Tập đoàn Điện lực
Việt Nam. Bên cạnh những điểm đã đạt được, kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra
rằng trong công tác quản lý còn một số hạn chế nhất định, gây thất thoát và ảnh
hưởng hiệu quả hoạt động của Tập đoàn. Từ những kết quả đó, tác giả đề xuất
những giải pháp tổng thể từ góc độ quản lý nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý tại
tập đoàn.
1.Giới thiệu
Từ khi nước ta chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp (tồn tại trước năm 1986)
sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, vai trò của những
doanh nghiệp nhà nước không hề suy
giảm, mà ngược lại, ngày càng nâng
cao. Trong Hội nghị “Thủ tướng chính
phủ với doanh nghiệp nhà nước” diễn
ra vào ngày 24/3/2022, Thủ tướng
Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh:
"Những gì doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp FDI chưa làm được,
chưa
có điều kiện để làm hoặc ở những nơi
khó khăn thì doanh nghiệp nhà nước
phải xốc vác, tiên phong". Và EVN –
Tập đoàn Điện lực Việt Nam luôn là
một trong những đơn vị đi đầu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ nêu trên, với
mục tiêu đưa điện "vượt núi, cưỡi
sóng" thắp sáng mọi miền Tổ quốc.
Thành lập từ năm 2006, EVN là Công
ty TNHH một thành viên do Nhà nước
làm chủ sở hữu, với cấu trúc doanh
nghiệp gồm Công ty mẹ là Tổng công
ty Điện lực Việt Nam, 17 công ty con
và 29 công ty liên kết, chủ yếu đều hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất kinh
1
doanh bán điện. Sau hơn 15 năm hoạt
động, Tập đoàn đã đạt được nhiều
thành công nổi bật như 14 lần liên tiếp
lọt vào top 10 doanh nghiệp dẫn đầu
trong danh sách 500 doanh nghiệp lớn
nhất Việt Nam, lợi nhuận hợp nhất đạt
kỷ lục hơn 15.300 tỷ vào năm 2020,…
Tuy nhiên, thực tế hoạt động tại tập
đoàn còn nhiều đặc thù riêng như quản
trị tài chính chưa tốt, hệ thống kiểm
soát nội bộ sơ sài,…Do đó, Tập đoàn
Điện lực Việt Nam cần có giải pháp
kiểm soát các vấn đề cố hữu trên. Tác
giả muốn thông qua bài viết phân tích,
đánh giá thực trạng hoạt động tại EVN,
từ đó chỉ ra những hạn chế và nguyên
nhân, cuối cùng đề xuất giải pháp phù
hợp.
2. Đánh giá
2.1 Môi trường kinh doanh
2.1.1 Môi trường
Trước hết, tác giả sẽ lập mô hình
PEST để tập trung phân tích sự ảnh
hưởng của các yếu tố vĩ mô tới môi
trường kinh doanh của EVN.
Đầu tiên, về môi trường chính trị,
điều kiện tiên quyết trong việc phát
triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia,
cũng như việc tạo lập và triển khai
chiến lược của các doanh nghiệp Việt
Nam nói chung và doanh nghiệp trong
ngành điện nói riêng. Việt Nam chỉ có
một đảng duy nhất kiểm soát cả nước
là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Với cơ
chế một đảng, Việt Nam đang cho thấy
sự
ổn định trong cơ chế chính trị, mang lại
lợi thế to lớn so với các nước trên thế
giới. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam
còn can thiệp rất sâu vào việc điều tiết
thị trường điện. Trước Luật Điện lực
năm 2004, EVN độc quyền toàn bộ quy
trình sản xuất kinh doanh điện. Nhưng
từ năm 2004 đến nay, Chính phủ đã
ban hành rất nhiều quyết định nhằm cải
cách, xóa bỏ độc quyền ngành điện.
Dù vậy, EVN vẫn giữ lợi thế cạnh
tranh lớn kể cả khi thị trường có sự
tham gia thêm của các doanh nghiệp tư
nhân và nước ngoài nhờ môi trường
văn hóa – xã hội tại Việt Nam. Người
Việt thường chỉ dùng những gì mình
cảm thấy quen thuộc, yên tâm về uy tín
và chất lượng, nên để các bên mới
tham gia thuyết phục khách hàng thay
đổi sẽ rất khó khăn. Ngoài ra, hiện
nước ta vẫn có quy mô tăng trưởng dân
số tương đối nhanh, dân số năm 2021
của cả nước ước tính 98,51 triệu người,
tăng 922,7 nghìn người, tương đương
tăng 0,95% so với năm 2020. Điều này
giúp dung lượng thị trường ngành điện
liên tục được mở rộng, tạo thêm cơ hội
tiêu thụ và tăng thêm doanh thu.
Tiếp theo là về môi trường kinh
tế. Chính phủ Việt Nam đang rất tích
cực phát triển kinh tế, cải thiện GDP
bình quân đầu người, qua nhiều năm nỗ
lực này cũng đã đạt được một số thành
công bước đầu. Theo ước tính của Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), GDP danh nghĩa
của Việt Nam trong năm 2021 là
khoảng 381 tỷ USD, đứng thứ 5 trong
khu vực và thứ 41 trên thế giới, GDP
2
sản lượng điện toàn hệ thống năm 2021
Nhiệt điện thanThủy điện Năng lượng tái tạo Tua bin khí
Nguồnồ khác
10.25% 0.87%
12.27
%
45.99
%
30.62
%
bình quân đầu người đạt khoảng 3.743
USD. Tuy nhiên, vào cuối năm 2019,
sự bùng phát của dịch Covid đã khiến
nhiều doanh nghiệp lớn nhỏ đã phải
tạm ngừng hoạt động kinh doanh hoặc
thậm chí giải thể. Nhiều người bị cắt
giảm lương, thậm chí thất nghiệp
khiến nhu cầu phụ tải hệ thống điện
toàn quốc giảm, dẫn tới giá điện cũng
buộc phải giảm theo nghị quyết hỗ trợ
giảm giá, giảm tiền điện của Chính
phủ. Do đó, tình hình sản xuất kinh
doanh của các đơn vị trong ngành điện
nói chung, cũng như EVN nói riêng
trong những năm tới được dự báo gặp
nhiều khó khăn.
Cuối cùng, với sự phát triển của
khoa học – kỹ thuật, môi trường công
nghệ ngày càng thể hiện tầm quan
trọng của mình trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Những năm gần đây,
Việt Nam đang tập trung vào việc phát
triển công nghệ, tạo ra lực lượng lao
động công nghệ, các chính sách thu hút
nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích
mọi người tham gia khởi nghiệp. Theo
Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến
năm 2020, lĩnh vực công nghệ thông
tin thu hút 700 công ty, gồm 220 công
ty nước ngoài, chủ yếu tập trung ở các
thành phố lớn. Việt Nam hiện đã thành
công cung cấp một số dịch vụ công
nghệ thông tin như công nghệ giáo dục,
gia công phần mềm, thương mại điện
tử, trí tuệ nhân tạo,… Không nằm
ngoài cuộc cách mạng ấy, ngành điện
cũng đang nỗ lực ứng dụng thật nhiều
thành tựu mới về các loại máy móc
trang thiết bị như triển khai ứng dụng
trên diện rộng các loại dây dẫn chịu
nhiệt, xây dựng các đường dây nhiều
mạch cùng hoặc khác cấp điện áp, ứng
dụng UAV và công nghệ trí tuệ nhân
tạo nhằm nâng cao hiệu quả công tác
vận hành,... Bản thân Bộ Khoa học và
Công nghệ và Bộ Công Thương đều
tập trung nguồn lực nghiên cứu cách
cải tiến công tác quản lý để ngành điện
hoạt động ngày càng tiết kiệm, hiệu
quả.
Nhìn chung, ngành điện được dự
báo sẽ gặp nhiều thách thức trong thời
gian tới, vì sự xuất hiện của hàng loạt
vấn đề vĩ mô, điển hình như sự bùng nổ
của dịch Covid-19.
2.1.2. Môi trường ngành
Nguồn: Tập đoàn Điện lực Việt Nam
3
Giờ tác giả sẽ tập trung phân tích
sang các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt
động kinh doanh trong nội bộ ngành
điện.
Yếu tố đáng quan tâm đầu tiên là
cung cấp. Nhìn vào cơ cấu đóng góp
trong ngành điện toàn hệ thống năm
2021, có thể thấy Nhiệt điện than và
Thủy điện chiếm tỷ trọng áp đảo so với
các nguồn khác, nên nhà cung cấp chi
phối hoạt động của ngành điện sẽ là
bên cung ứng than và nước - hai yếu tố
chính để sản xuất 2 nguồn điện trên.
Nhưng, một vấn đề với thủy điện là
sản lượng điện sản xuất phụ thuộc
hoàn toàn vào lượng nước đổ vào
các hồ chứa, do đó yếu tố thời tiết
khách quan ảnh hưởng trực tiếp tới
việc cung cấp nguồn điện năng. Mà
gần đây, do những tác động xấu
của môi trường dẫn đến biến đổi về
khí hậu trên phạm vi toàn cầu, mùa
mưa và mùa khô của Việt Nam
ngày càng diễn ra bất thường, khó
đoán hơn, khiến việc kiểm soát
chính xác lượng nước cần thiết để
hoạt động gần như là không thể.
Còn đối với các nhà máy nhiệt điện
than, áp lực lớn nhất nhà cung cấp
phải đối mặt là giá sản phẩm đầu
vào, bởi nó chiếm tới gần 70%
trong giá vốn. Nhưng giá than gần
đây đang biến động rất lớn, khiến
hiệu quả đầu tư dự án chịu nhiều
ảnh hưởng.
Yếu tố đáng quan tâm tiếp theo là
khách hàng - những người trực tiếp tiêu
thụ điện năng. Ngành Điện xuất hiện
tại Việt Nam khá muộn, cuối thế kỷ 19
năng lượng điện mới được người Pháp
đưa vào sản xuất và kinh doanh ở Việt
Nam, và phải tới năm 1894, mới xuất
hiện thành phố đầu tiên được thắp sáng
bằng đèn điện, thông qua dự án Nhà
đèn Vườn hoa ở Hải Phòng. Tuy nhiên,
không vì vậy mà nhu cầu tiêu thụ điện
tại nước ta thấp, thậm chí, cho tới hiện
nay, sau 130 năm, nhu cầu tiêu thụ điện
tại Việt Nam vẫn luôn tăng trưởng
không ngừng, đạt tốc độ tăng trung
bình 10.8% từ năm 2013 đến hết năm
2019, và được dự báo sẽ tiếp tục tăng
nhanh trong thời gian tới. Thực tế,
chưa bao giờ ở Việt Nam lượng cung
điện vượt quá lượng cầu, nên các công
ty trong ngành không phải lo ngại về
cầu tiêu thụ.
Tiếp theo, ta sẽ bàn tới những đối
thủ cạnh tranh của EVN. Phải biết
rằng, muốn gia nhập ngành Điện không
dễ dàng khi các doanh nghiệp cần phải
chuẩn bị sẵn nguồn vốn đầu tư rất lớn,
các thủ tục hành lang pháp lý gia nhập
ngành, lựa chọn vị trí địa lý cũng như
tìm kiếm nguồn nhiên liệu đáp ứng đòi
hỏi khắt khe của ngành điện là rất khó
khăn. Hiện nay, bên cạnh EVN, đã có
thêm 5 Tổng Công ty điện lực trực tiếp
tham gia mua điện trên thị trường giao
ngay cũng như ký hợp đồng song
phương với các nhà máy điện, nhưng
EVN vẫn là đơn vị vận hành hệ thống
điện độc quyền của Việt Nam. Vì thế,
sự cạnh tranh trong nội bộ ngành điện
Việt Nam không thật sự mạnh mẽ bởi
cơ chế kiểm soát sản lượng và giá hoàn
toàn thuộc về EVN.
4
Cuối cùng, về vấn đề sản phẩm
thay thế. Trên thực tế, vẫn chưa có
năng lượng nào thay thế điện năng, do
vậy áp lực từ sản phẩm thay thế của
ngành là thấp. Tuy nhiên, trước sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, trong tương lai, rất có khả năng
những năng lượng mới sẽ được nghiên
cứu ra để thay thế điện năng.
Tóm lại, EVN đang có một môi
trường ngành tương đối thuận lợi để
phát triển, nhưng Tập đoàn vẫn cần
chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho những sự
thay đổi, biến động bất ngờ từ nhà cung
cấp.
2.2 Môi trường doanh nghiệp
Sau khi phân tích về môi trường
kinh doanh, tác giả lập ma trận SWOT
để đánh giá những điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội, và thách thức của Tập đoàn
hiện thời.
2.2.1 Điểm mạnh
Một điểm mạnh lớn của EVN là
đã thành công tái cơ cấu để sở hữu một
bộ máy tổ chức tiên tiến, tinh gọn.
EVN là Tập đoàn kinh tế nhà nước đầu
tiên ban hành bộ Quy chế quản trị áp
dụng chung trong toàn Tập đoàn; đồng
thời, thiết lập hệ thống kiểm soát nội
bộ thông suốt từ Công ty mẹ EVN tới
các doanh nghiệp thành viên, góp phần
quan trọng phòng ngừa rủi ro, nâng cao
hiệu quả công tác quản trị trong toàn
Tập đoàn. Tập đoàn cũng ban hành bộ
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp thành viên theo
phương pháp thẻ điểm cân bằng
(Balanced Scorecard) trong quản trị
doanh nghiệp, làm cơ sở đánh giá hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp và
người quản lý doanh nghiệp; kiện toàn
mô hình quản trị công ty đại chúng đối
với các Công ty Cổ phần đại chúng và
chưa đại chúng trong Tập đoàn theo
quy định của Nghị định số
71/2017/NĐ-CP. Ngoài ra, EVN đã ký
kết các hợp đồng ủy quyền Người đại
diện quản lý phần vốn của EVN, Tổng
công ty thuộc EVN tại các doanh
nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên
kết. Đây là một căn cứ pháp lý quan
trọng ràng buộc các quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của Người đại diện; qua
đó gắn trách nhiệm pháp lý của Người
đại diện, Người quản lý doanh nghiệp
với kết quả, hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp
liên kết. Công ty mẹ - EVN cùng các
doanh nghiệp thành viên đã thực hiện
công bố thông tin đầy đủ, kịp thời theo
đúng quy định. Đặc biệt, năm 2018,
EVN đã được tổ chức tư vấn quốc tế
Fitch Rating đánh giá xếp hạng tín
nhiệm quốc tế ở mức xếp hạng BB,
ngang bằng với mức tín nhiệm quốc
gia, và được đánh giá là một trong các
doanh nghiệp nhà nước hàng đầu về
minh bạch thông tin.
Nhưng điểm mạnh lớn nhất của
EVN phải nói tới việc sở hữu cơ sở hạ
tầng tương đối hoàn thiện. Về mảng
sản xuất điện, cả 6 nhà máy điện lớn
và quan trọng nhất tại Việt Nam theo
5
Quyết định số 2012/QĐ-TTg (ngày
24/10/2016) của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt danh mục nhà máy điện lớn,
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh gồm
Thủy điện Sơn La, Thủy điện Hòa
Bình; Thủy điện Lai Châu, Thủy điện
Ialy, Thủy điện Trị An, Thủy điện
Tuyên Quang đều thuộc quyền sở hữu
của EVN. Ngoài 6 cái tên kể trên,
EVN cùng các công ty con của mình
còn sở hữu hàng chục nhà máy sản
xuất điện lớn nhỏ khác dọc khắp cả
nước, đặc biệt, trong đó có nhiều nhà
máy sản xuất điện bằng nguồn năng
lượng tái tạo như gió hay năng lượng
mặt trời, rất phù hợp với định hướng
phát triển ngành công nghiệp trong dài
hạn của Đảng và Nhà nước. Còn về
mảng phân phối, và bán điện, EVN sở
hữu lợi thế tuyệt đối nhờ hệ thống lưới
điện quốc gia đã vươn tới mọi miền đất
nước với trên 8.500 km đường dây 500
kV, gần
20.000 km đường dây 220 kV, hơn
23.000 km đường dây 110 kV và 33
TBA 500 kV, 137 TBA 220 kV, 886
TBA 110 kV. Nhờ sẵn có nguồn lực
lớn như vậy nên cả Tập đoàn Điện lực
Việt Nam rất dễ phát triển theo hướng
đồng bộ, thống nhất để ngày càng nâng
cao, khẳng định vị thế độc tôn trong
ngành Điện.
Sự nhanh nhạy trong việc ứng
dụng công nghệ thông tin cũng là một
điểm sáng trong hoạt động của EVN.
Từ năm 2018 đến nay, hệ thống công
nghệ thông tin của Tập đoàn đã có
những bước dịch chuyển tích cực về cả
phạm vi và chất lượng.
Trong lĩnh vực kinh doanh – dịch
vụ khách hàng, các dịch vụ điện
tiếp tục phát triển và được đa dạng
hóa hình thức cung cấp. Năm
Trung tâm Chăm sóc khách hàng
của EVN được trang bị nhiều công
cụ công nghệ thông tin hỗ trợ như
hệ thống CRM, ICCRating,
Chatbot, các trang Web, App
chăm sóc khách hàng... Ngoài ra,
từ tháng 12/2019, EVN đã cung
cấp các dịch vụ cấp điện qua lưới
trung/hạ áp và thanh toán tiền điện
trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia,
tạo sự thuận lợi cho khách hàng và
tăng cường tính minh bạch trong
các giao dịch.
Trong lĩnh vực kỹ thuật – sản xuất,
các đơn vị trong EVN đã triển khai
và sử dụng hệ thống phần mềm
Quản lý kỹ thuật (PMIS) với các
chức năng chính như: quản lý dữ
liệu về lý lịch, tình trạng thiết bị,
quá trình vận hành, bảo dưỡng, sửa
chữa, thí nghiệm định kỳ; giúp cho
đơn vị quản lý tổng quan về hệ
thống lưới, nhà máy điện. Đến
tháng 12/2020 đã cập nhật dữ liệu
hơn 82% trạm, máy biến áp từ
trung thế trở lên trên PMIS. Ngoài
ra, EVN còn có nhiều các ứng dụng
khác đã được xây dựng và đưa vào
sử dụng như: Các hệ thống dự báo
phụ tải và tính toán hệ thống điện;
Hệ thống Quản lý độ tin cậy cung
6
cấp điện OMS; ứng dụng tin học
hóa sửa chữa bảo dưỡng thiết bị
theo phương pháp tiên tiến như
RCM /CBM. Một số đơn vị như
Tổng công ty Điện lực miền Trung,
Tổng công ty Điện lực TP. Hồ Chí
Minh đã ứng dụng công nghệ di
động trong công tác kiểm tra, sửa
chữa bằng cách xây dựng ứng dụng
hiện trường trên di động kết nối với
PMIS, CMIS và ghi nhận kết quả
dưới dạng điện tử và hình ảnh kỹ
thuật số.
Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng,
EVN đã tiến hành ứng dụng phần
mềm quản lý chuyên dụng IMIS
tại tại 239 đơn vị trong Tập đoàn.
Phần mềm bao gồm 10 phân hệ và
26 chức năng chính, quản lý thông
tin toàn bộ dự án đầu tư xây dựng
và quá trình thực hiện từ giai đoạn
chuẩn bị đầu tư đến kết thúc đầu
tư. Trong năm 2020, EVN đã triển
khai tiện ích ứng dụng di động
trong công tác giám sát thi công và
tích hợp công nghệ định vị tọa độ
cho các hình ảnh giám sát và cũng
đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI)
trong lĩnh vực thị giác máy tính để
kiểm tra hình ảnh hiện trường trên
chương trình IMIS.
Trong lĩnh vực quản trị, EVN là
một trong những đơn vị đầu tiên tại
Việt Nam xây dựng hệ thống Quản
lý nguồn lực doanh nghiệp (ERP).
Đến nay, hệ thống này đã cơ bản
hoàn thành đầy đủ 16 phân hệ
trong
lĩnh vực tài chính và được áp dụng
thống nhất trong toàn EVN. Tập
đoàn cũng đã hướng tới xây dựng
văn phòng điện tử với đa dạng hệ
thống phục vụ như: Hệ thống Quản
lý văn bản; Hệ thống Hội nghị
truyền hình; Cổng thông tin
EVNPortal; Hệ thống trục liên
thông văn bản kết nối và luân
chuyển văn bản điện tử trong toàn
Tập đoàn, kết nối Trục liên thông
văn bản của Uỷ ban Quản lý vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp và Trục
liên thông văn bản Quốc gia,…
2.2.2 Điểm yếu
Bên cạnh những điểm đã đạt
được, công tác quản lý của EVN vẫn
bộc lộ một số mặt hạn chế.
Đáng kể nhất phải nhắc tới vấn đề
quản trị tài chính. Gánh nặng nợ của
EVN đang ở mức cao, với tỷ lệ nợ trên
vốn chủ sở hữu trung bình là 2.3 lần.
EVN hiện vay nợ hơn 369.163 tỷ đồng,
nhưng lại không thực hiện tốt việc
quản lý dòng tiền, giữ tới hơn 50 nghìn
tỷ các khoản tiền và tương đương tiền
thay vì xoay vòng vốn. Các hoạt động
đầu tư trong những năm gần đây của
tập đoàn đều lỗ, con số lợi nhuận đầu
tư sau quý II/2021 là -2.599 nghìn tỷ
đồng, còn của năm 2020 là -5.586
nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, trong những
năm gần đây EVN phụ thuộc rất nhiều
vào việc tăng giá bán lẻ điện để cải
thiện biên lợi nhuận gộp, đây rõ ràng
không phải một phương án hợp lý, bởi
7
tăng giá điện sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
lạm phát, do điện là đầu vào của rất
nhiều ngành sản xuất. Một điểm đáng
lo ngại nữa trong bức tranh tài chính
của EVN là Tập đoàn đang sử dụng
nguồn vốn không hiệu quả. Công tác
lập kế hoạch mua sắm vật tư, thiết bị
của EVN chưa thực hợp lý, dẫn đến
tình trạng tồn kho vượt định mức. Theo
báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm
2021, giá trị hàng tồn kho của EVN
hiện đã vượt mốc 28 triệu tỷ, tăng thêm
hơn 1 triệu tỷ so với mốc đầu kỳ, trong
đó, riêng tiền nguyên vật liệu đã hơn
25 triệu tỷ. Chưa kể tới, EVN cũng bộc
lộ rõ khó khăn trong việc kiểm soát
công nợ với khách hàng. Báo cáo tài
chính 6 tháng đầu năm 2021 cho thấy
chỉ tiêu dự phòng phải thu ngắn hạn
khó đòi của EVN đạt tới 352.942 tỷ,
chiếm khoảng 5% tổng số dư phải thu
ngắn hạn của khách hàng. Với đặc thù
ngành buộc Tập đoàn phải tiếp súc với
nhiều đơn vị khách hàng trải rộng khắp
cả nước, việc công ty không đôn đốc
xử lý công nợ kịp thời sẽ dễ dẫn đến
tình trạng thất thoát tài sản và nguồn
vốn nhà nước. Mặt khác, EVN cũng
đang gặp ngày càng nhiều khó khăn
trong quá trình huy động vốn. EVN bị
hạn chế về tài chính do nguồn vốn
trong nước hạn hẹp, nhưng Tập đoàn
lại không có khả năng tiếp cận trực tiếp
với các thị trường vốn quốc tế để có
nguồn vay chi phí thấp. Lý do là bởi
Việt Nam không còn được tiếp cận
nguồn vốn ưu đãi dành cho các nước
thu nhập thấp từ các ngân hàng phát
triển đa phương do thành tích tăng
trưởng mạnh mẽ của mình, nhưng cũng
chưa được các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm xếp vào mức đầu tư do những
điểm yếu về cơ cấu của hệ thống ngân
hàng.
Hệ thống kiểm soát nội bộ của
Tập đoàn cũng còn nhiều tồn tại.
Thứ nhất, về môi trường kiểm
soát. Nhà quản trị cấp cao của Tập
đoàn cùng nhà quản trị cấp cao tại các
công ty thành viên thuộc Tập đoàn đã
có những thay đổi đáng kể về phương
châm quản lý và phong cách điều
hành. Các chính sách và thủ tục kiểm
soát luôn được quan tâm đúng mức và
đã phát huy những tác dụng tích cực
trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của Tập đoàn. Tuy nhiên, trong thực
tiễn hoạt động, còn nhiều điểm chưa
hợp lý do nhận thức của các tổ chức,
cá nhân đại diện quyền và nghĩa vụ của
chủ sở hữu Nhà nước tại Tập đoàn
Điện lực Việt Nam nói chung và nhận
thức của nhà quản trị cấp cao tại Tập
đoàn cùng nhà quản trị cấp cao tại các
đơn vị thành viên thuộc Tập đoàn nói
riêng về hệ thống kiểm soát nội bộ là
chưa thật đầy đủ.
Về cơ cấu tổ chức, do Tập đoàn đã
và đang thực hiện tương đối thành
công quá trình tái cơ cấu nên cơ
cấu tổ chức và hoạt động của Công
ty mẹ và các công ty thành viên
của Tập đoàn được xây dựng theo
mô hình thống nhất, giúp các đơn
vị
8
chủ động và tự chủ trong hoạt
động của mình, chỉ còn một vấn đề
là Công ty mẹ Tập đoàn và hầu hết
các công ty thành viên chưa tổ
chức riêng bộ phận thực hiện chức
năng phân tích đánh giá rủi ro làm
cơ sở thiết lập các thủ tục kiểm
soát nội bộ.
Về chính sách nhân sự, các chính
sách liên quan đến việc tuyển dụng,
đào tạo, bổ nhiệm, đánh giá, sa
thải, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật
cán bộ, nhân viên được Tập đoàn
chỉ đạo cho các đơn vị thành viên
nghiên cứu các quy định của pháp
luật hiện hành, cụ thể hoá các thành
các qui định của doanh nghiệp và
tổ chức thực hiện một cách triệt để
đảm bảo quyền lợi của người lao
động. Tiếc rằng, vẫn còn một số
lượng nhỏ các đơn vị thành viên
thuộc Tập đoàn chưa có các quy
định cụ thể về việc tuyển dụng, đào
tạo, đánh giá, đề bạt, khen thưởng
và kỷ luật nhân viên. Tiêu chuẩn
đánh giá nhân viên của công ty mẹ
và các công ty thành viên còn
mang tính chất định tính. Việc đào
tạo nhân viên liên quan đến lĩnh
vực quản lý nhân viên chưa được
quan tâm đúng mức.
Về công tác kế hoạch. Vì quan
niệm của nhà quản lý về vai trò và
tác dụng của các loại kế hoạch có
sự không đồng đều, Công ty mẹ
và các đơn vị thành viên chưa
quan tâm đúng mức đến công tác
tập
huấn, đào tạo cán bộ làm công việc
lập kế hoạch, nên dù ban lãnh đạo
Tập đoàn cũng như ban lãnh đạo
các công ty thành viên luôn nỗ lực
xây dựng hệ thống kế hoạch sản
xuất kinh doanh tương đối chi tiết,
đồng bộ, vẫn thường xuyên phải
điều chỉnh cho sát với thực tế.
Về Ban kiểm soát, Ban kiểm soát
trực thuộc hội đồng thành viên tại
công ty mẹ, các kiểm sát viên tại
Công ty TNHH một thành viên và
Ban kiểm soát tại công ty cổ phần
đã bước đầu khẳng định được vị trí
vai trò của mình trong việc kiểm
soát mọi mặt hoạt động của doanh
nghiệp, nhưng bản thân họ lại chưa
xây dựng được được chương trình,
kế hoạch hoạt động mang tính
thống nhất hàng năm.
Thứ hai, về công tác đánh giá rủi
ro, hoạt động nhận dạng và đánh giá
các rủi ro dù chưa được thực hiện trên
tất cả các hoạt động, nhưng cũng đã bắt
đầu được thực hiện rải rác. Tập đoàn và
các đơn vị thành viên đã bước đầu
nhận thức được tầm quan trọng của
công tác đánh giá rủi ro đối với quá
trình hoạt động của mình, tuy nhiên lại
chưa tổ chức được một bộ phận riêng
biệt để thực hiện chức năng này. Việc
thiết lập các chính sách và thủ tục kiểm
soát cũng không dựa trên cơ sở xác
định và đánh giá rủi ro bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp.
9
Thứ ba, về hệ thống thông tin. Tại
công ty mẹ, nhiều phần mềm chưa
được hoàn thành và vẫn đang trong giai
đoạn thí điểm. Tại các công ty thành
viên, nhiều công ty chưa xây dựng
được hệ thống mạng nội bộ để truyền
đạt thông tin. Bù lại, một điểm đáng
ghi nhận là Tập đoàn đã bước đầu triển
khai thành công ứng dụng Hệ thống
hoạch định nguồn lực nguồn lực ERP
để quản trị các hoạt động của mình,
đây có thể coi là bước đột phá của
EVN.
Thứ tư, về các thủ tục kiểm soát.
Ngoài việc thành công thiết kế và thực
hiện các quy chế, chính sách, các bước
và thủ tục kiểm soát cơ bản nhằm đảm
bảo các mục tiêu của hệ thống kiểm
soát nội bộ, thủ tục kiểm soát của Tập
đoàn còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc
phân công phân nhiệm còn chưa rõ
ràng. Về nguyên tắc ủy quyền và phê
chuẩn, tại nhiều đơn vị thành viên Tập
đoàn, việc ủy quyền còn thực hiện
bằng miệng chứ chưa quy định thành
văn bản nên rất dễ xảy ra tình trạng
lạm quyền để tư lợi cá nhân. Về
nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nhìn chung
tại Tập đoàn và các đơn vị thành viên
vẫn có tình trạng một người kiêm
nhiệm nhiều công việc để tiết kiệm chi
phí. Đối với kiểm soát một số hoạt
động cơ bản, việc kiểm soát người đại
diện tại Tập đoàn cũng còn nhiều hạn
chế cần phải khắc phục, cũng chưa có
quy định về kiểm soát vốn thích hợp tại
Tập đoàn, còn nhiều kẽ hở về kiểm
soát vốn với
công ty liên kết mà Tập đoàn nắm giữ
dưới 50% vốn điều lệ.
Thứ năm, về hệ thống giám sát, có
thể nói các nhà quản lý và lãnh đạo tại
Tập đoàn chưa thực sự quan tâm nhiều
đến hoạt động giám sát thường xuyên
và giám sát định kỳ tại Tập đoàn. Bước
tiến chỉ tới gần đây khi Tập đoàn bước
đầu thành công thiết kế, xây dựng được
cơ chế giám sát thường xuyên và định
kỳ thông qua việc xem xét các báo cáo
của kiểm soát viên nhằm phát hiện các
rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt
động của Tập đoàn, từ đó đưa ra các
kiến nghị có tính khả thi.
2.2.3 hội
Dù Tập đoàn còn tồn đọng một số
yếu điểm như đã nêu trên, điều ấy
không có nghĩa là EVN không có
những cơ hội để mở rộng thị trường,
phát triển kinh doanh.
Chính phủ Việt Nam đang cho
thấy tham vọng táo báo về chuyển dịch
năng lượng, điều này được thể hiện rất
rõ trong việc ban hành Quy hoạch điện
quốc gia sắp tới đây (QHĐ 8). Việc
thay đổi trong cơ cấu nguồn điện, tập
trung phát triển năng lượng tái tạo bên
cạnh các nguồn điện sử dụng LNG (khí
thiên nhiên được hóa lỏng khi làm lạnh
sâu đến âm 162
o
C sau khi đã loại bỏ
các tạp chất) thay vì nhiệt điện than
mang lại cho EVN rất nhiều cơ hội
phát triển.
10
EVN sẽ tiếp tục bổ sung thêm các
nguồn năng lượng tái tạo vào danh
mục nguồn điện của mình, do đó, việc
tập trung đầu tư mở rộng lưới điện sẽ
phục vụ cho chính lợi ích của tập đoàn.
Một hệ thống truyền tải đáng tin cậy
không chỉ giúp tối ưu hoá các nguồn
năng lượng tái tạo có tính biến đổi
trong danh mục nguồn điện mà còn rất
quan trọng để giảm chi phí mua điện
cho EVN. Theo dự báo, sau khi Việt
Nam chuyển sang cơ chế đấu giá điện
mặt trời và điện gió, khả năng để EVN
đạt được mức giá mua điện cạnh tranh
nhất sẽ phụ thuộc vào niềm tin của các
nhà phát triển dự án rằng rủi ro điều độ
được giảm thiểu và thiết kế lưới điện
trong tương lai sẽ hỗ trợ tích hợp các
loại năng lượng tái tạo có giá cạnh
tranh. Trong tình huống tốt nhất, nếu
quy hoạch tốt và xác định được các dự
án hấp dẫn sẽ có thể huy động vốn từ
các nguồn tín dụng xanh mới. Điều này
sẽ cho phép EVN và dự án đối tác công
tư (PPP) khai thác được các nguồn vốn
mới với điều khoản cạnh tranh quốc tế
phục vụ cho việc mở rộng, nâng cấp hạ
tầng lưới điện đang rất cần thiết hiện
nay.
Một cơ hội nữa được ghi nhận
trong QHĐ 8 là khả năng tận dụng một
cách có chiến lược đường dây kết nối
điện sẵn có với Lào và Trung Quốc để
nhập khẩu điện bổ sung. Việc nhập
khẩu điện giá rẻ có thể giúp giảm bớt
áp lực mở rộng công suất nguồn điện
cho EVN, và quan trọng hơn, điều này
sẽ giúp Việt Nam tránh được nguy cơ
mắc kẹt sớm với các nguồn công suất
chạy nền, ví dụ các dự án điện chạy
LNG, trong khi vẫn đảm bảo được các
mục tiêu cấp điện trung hạn.
2.2.4 Thách thức
Bên cạnh những cơ hội, Tập đoàn
cũng đang phải đối mặt với không ít
thách thức.
Đảng và Chính phủ đang rất nỗ
lực thay đổi cơ cấu ngành Điện Việt
Nam. Từ năm 2013, Quyết định
63/2013/QĐ-TTg của Chính phủ đã
nhấn mạnh, mục tiêu cuối cùng của
Chính phủ là thực hiện thị trường bán
lẻ điện cạnh tranh hoàn chỉnh, các
khách hàng sử dụng điện sẽ được lựa
chọn, thay đổi đơn vị bán lẻ điện; đồng
thời thoả thuận, thống nhất với đơn vị
bán lẻ điện về mức giá bán điện. Để
hiện thực hóa điều này, Chính phủ
đang liên tục quan sát và ban hành rất
nhiều nghị quyết định hướng chiến
lược phát triển năng lượng quốc gia,
mới nhất là Nghị quyết số 55/NQ-TW
ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ
Chính trị về định hướng Chiến lược
phát triển năng lượng quốc gia đến năm
2030, tầm nhìn tới năm 2045. Điều này
đồng nghĩa với việc sắp tới EVN sẽ
phải đối đầu với thị trường cạnh tranh
quyết liệt hơn nhiều với lượng lớn đối
thủ gia tăng nhanh.
Một thách thức khác tới từ nguyên
liệu đầu vào. Tính đến cuối tháng
10/2021, nhiệt điện than vẫn đang
11
chiếm phần lớn nhất trong tổng sản
lượng toàn hệ thống (48.1%), và được
coi là nguồn năng lượng quan trọng
nhất trong sản xuất điện tại EVN, theo
sau đó là thủy điện với 28.6%.
Tuy nhiên, do biến đổi khí hậu,
thời tiết tại Việt Nam những năm gần
đây diễn biến ngày càng khó lường,
mùa khô kéo dài bất thường khiến
nhiều nhà máy thủy điện buộc phải
hoạt động cầm chừng. Khi ấy, để đảm
bảo cung cấp điện ổn định trên toàn hệ
thống, EVN sẽ lại phải tiếp tục huy
động tối đa nguồn điện than.
Nhưng, sau một thời gian tương
đối ổn định, việc Nga tiến hành các
chiến dịch quân sự đặc biệt nhằm vào
Ukraine vào tháng 3/2022 đã khiến một
cuộc khủng hoảng năng lượng diễn ra
trên diện rộng, trong đó, giá than ghi
nhận mức tăng cao nhất. Theo dữ liệu
của TE, giá than ngày 30/5 ghi nhận ở
mức 401 USD/tấn, tăng 33,76% so với
tháng trước và 237,26% so với cùng kỳ
năm ngoái. Thậm chí, theo dự đoán của
Rystad Energy, giá than có thể vượt
mốc 500 USD/tấn trong năm 2022 vì
giá các loại nhiên liệu khác tăng cao,
buộc các nước phải chuyển sang sử
dụng than. Tuy rằng giá than ở Việt
Nam không đồng pha hoàn toàn với giá
than thế giới do chính sách quản lý giá
ở Việt Nam với chỉ 2 đơn vị được phép
khai thác và bán than trong nước là Tập
đoàn Than Khoáng sản Việt Nam và
Tổng Công ty Đông Bắc, nhưng khi giá
than thế giới được đẩy lên mức kỷ lục
như vậy, giá than trong nước cũng
không tránh khỏi biến động. Theo các
chuyên gia, giá than trong nước năm
nay sẽ tiếp tục tăng ít nhất từ 10 – 15%,
sau khi đã tăng 20 -30% trong 6 tháng
đầu năm.
3. Kiến nghị giải pháp
Từ những gì đã phân tích được,
tác giả xin đề xuất một số giải pháp để
Tập đoàn có thể giải quyết những vấn
đề tồn đọng, và chuẩn bị để đối đầu với
những thử thách trong tương lai.
Trước tiên, về vấn đề quản trị tài
chính. Tập đoàn cần tìm cách sử dụng
nguồn tiền nhàn rỗi một cách hiệu quả,
đầu tư cần phải thẩm định dự án thật
cẩn thận, nên tập trung vốn vào các
ngành thế mạnh để tăng lợi nhuận thay
vì bám víu vào việc tăng giá bán lẻ
điện, và phải tiếp tục đẩy mạnh đầu tư
vào công nghệ, để nâng cao năng suất
lao động, giảm tỷ lệ tổn thất điện năng.
Ngoài ra, EVN cần chỉ đạo các đơn vị
chấn chỉnh, hoàn thiện công tác quản
lý hàng tồn kho, công tác mua sắm tài
sản, vật tư, thiết bị, tập trung vào việc
xây dựng kế hoạch mua sắm vật tư sát
với thực tế tránh tình trạng vật tư bị ứ
đọng, chậm luân chuyển; tăng cường
kiểm soát định mức vật tư hàng tồn
kho tránh lãng phí nguồn vốn của các
tổng công ty, đảm bảo mức dự trữ hàng
tồn kho sản xuất kinh doanh điện nằm
trong mức quy định của các tổng công
ty. Vấn đề quản lý công nợ cũng phải
được siết chặt. Tập đoàn nên tập trung
12
xây dựng chính sách bán hàng rõ ràng,
đồng thời thiết lập chính sách chi trả
nợ cụ thể, nếu cần thiết, thậm chí xây
dựng riêng một ban liên lạc để nhắc
nhở, đốc thúc khách hàng trả nợ. Còn
để giải quyết vấn đề vay vốn, EVN có
thể nhờ đến các nhà đầu tư nước ngoài
qua các Nhà máy điện độc lập. Bằng
việc tìm đến các nhà tài trợ dự án,
những người có khả năng tiếp cận các
điều khoản tín dụng tăng cường nhờ
các tổ chức tín dụng xuất khẩu, các nhà
tài trợ dự án đã cung cấp những khoản
vốn cần thiết để đổi lấy lợi nhuận thu
được từ việc phát triển dự án và giảm
thiểu rủi ro thông qua các thỏa thuận
mua bán điện dài hạn.
Tiếp theo là vấn đề kiện toàn hệ
thống kiểm soát nội bộ. EVN nên bắt
đầu từ việc bồi dưỡng, nâng cao nhận
thức bộ phận quản lý và lãnh đạo của
Tập đoàn về tầm quan trọng của công
tác tài chính doanh nghiệp và đánh giá
kết quả hoạt động của hệ thống kiểm
soát nội bộ. Cơ cấu tổ chức, nhân sự
phải tinh gọn, giao “đúng người, đúng
việc”, áp dụng các phương thức quản
trị tiên tiến trên thế giới để nâng cao tối
đa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lãnh
đạo Tập đoàn cần bố trí đủ nhân sự vào
làm việc tại Ban kiểm soát và kiểm
soát viên doanh nghiệp ngay lập tức,
đồng thời, cần thành lập thêm bộ phận
kiểm toán nội bộ tại công ty mẹ cũng
như trong tất cả các đơn vị thành viên,
qua đó tiến hành kiểm tra và đánh giá
thường xuyên về toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp, tính hiệu quả của việc
thiết kế và vận hành các chính sách.
Công tác lập kế hoạch cũng cần đảm
bảo dung hòa và kết hợp được kế
hoạch của công ty mẹ với kế hoạch của
các công ty thành viên, tốt nhất nên
thành lập một bộ phận đánh giá rủi ro
riêng hoặc giao cho một bộ phận nào
đó trong Tập đoàn đánh giá rủi ro
trước.
Cuối cùng là phương án để Tập
đoàn đối phó với các thách thức. Về
vấn đề đối thủ tiềm năng trong tương
lai, như đã phân tích, nhờ thời gian dài
là đơn vị độc quyền trong ngành điện,
EVN đã và đang là lựa chọn hàng đầu
của đa phần người dân, cũng như
doanh nghiệp tại Việt Nam về vấn đề
cung ứng điện. Vì thế, chỉ cần tập
trung củng cố hệ thống và chất lượng
dịch vụ thật tốt, sẽ không khó để EVN
tiếp tục giữ vị thế độc tôn trên thị
trường.
Nhưng việc giá nguyên liệu đầu vào,
đặc biệt là giá than tăng lại là một bài
toán khó giải hơn nhiều, bởi tính tới
tháng 10/2021, nhiệt điện than vẫn
đang chiếm tới 48,1% tổng sản lượng
điện sản xuất toàn hệ thống. Có lẽ, giải
pháp duy nhất cho tình huống này là
EVN nên tập trung chuyển đổi cơ cấu
sang sản xuất điện bằng năng lượng tái
tạo, vừa tiết kiệm chi phí, lại thân thiện
với môi trường.
4. Kết lun
Mục tiêu chính của nghiên cứu
này là đánh giá tình trạng hoạt động
của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Trên
13
cở sở các hệ thống dữ liệu, thông tin,
số liệu thu thập được, tác giả đã tiến
hành đánh giá doanh nghiệp dựa trên
ma trận PEST, SWOT để thấy rõ được
các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
thách thức trong môi trường kinh
doanh của doanh nghiệp. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra vấn đề quản trị tài
chính, và hệ thống kiểm soát nội bộ là
hai yếu điểm nhất khiến hoạt động của
EVN chưa đạt hiệu quả tối đa, và dự
báo tương lai, Tập đoàn có thể sẽ phải
trải qua một quãng thời gian khó khăn
do giá nguyên liệu tăng mạnh. Qua đó,
tác giả đề xuất một số giải pháp khắc
phục những hạn chế, và những bước
cần chuyển bị để đối đầu với những
thử thách trong tương lai. Bằng đề tài
này, tác giả muốn áp dụng những
kiến thức tri thức kinh doanh đã
được học vào việc đóng góp cho sự
thành công và phát triển bền vững của
Tập đoàn Điện lực Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo
Delloite (2021), Báo cáo tài chính
hợp nhất giữa niên độ đã được soát xét
của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
Bộ Công Thương, Quy hoạch điện
VIII
Quốc hội (2004), Luật điện lực số
28/2004/QH 11
Bộ Chính Trị (2020), Nghị quyết
số 55/NQ-TW về định hướng Chiến
lược phát triển năng lượng quốc gia
đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045
Thủ tướng Chính phủ (2016),
Quyết định số 2012/QĐ-TTg phê duyệt
danh mục nhà máy điện lớn, có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh
https://www.evn.com.vn/d6/news/
Tong-quan-ve-Tap-doan-Dien-luc-Viet-
Nam-2-3-877.aspx
https://m.hvtc.edu.vn/Portals/0/file
s/T22017/TT%20_Nguyen%20Thanh
%20Thuy_T.Viet.pdf
http://elb.lic.neu.edu.vn/bitstream/
DL_123456789/6507/1/TT.THS.5041.p
df
https://timviec365.vn/blog/tai-
lieu-van-hoa-doanh-nghiep-evn-
new15282.html
http://cdmt.vn/vanhoacepc/baiduth
i/13.pdf
https://www.evn.com.vn/d6/news/
Thu-tuong-phe-duyet-Chien-luoc-phat-
trien-EVN-den-nam-2030-tam-nhin-
den-nam-2045-2-10-27740.aspx
https://www.evn.com.vn/UserFile/
User/tcdl/Chien%20luoc%20phat
%20trien%20cong%20nghe%20dien
%20cua%20EVN.pdf
https://www.evn.com.vn/d6/news/
So-tay-dien-tu-Chien-luoc-phat-trien-
Tap-doan-Dien-luc-Viet-Nam-6-12-
29681.aspx
https://www.evn.com.vn/d6/news/
Infographic-Chien-luoc-phat-trien-Tap-
doan-Dien-luc-Viet-Nam-den-nam-
2030-tam-nhin-2045-6-12-29748.aspx
https://www.evn.com.vn/userfile/
User/tcdl/files/2021/7/BCTCcongtyme.
pdf
https://www.evn.com.vn/d6/news/
So-do-to-chuc-bo-may-quan-ly-va-
14
dieu-hanh-Tap-doan-Dien-luc- Viet-
Nam-2-11-1133.aspx
https://cafef.vn/gdp-binh-quan-
dau-nguoi-viet-nam-xep-thu-bao-
nhieu-the-gioi-
20220609100032798.chn
15
| 1/18

Preview text:

Tình hình kinh doanh của Tập đoàn Điện lực Việt Nam hiện

nay

Thị Lan Ngọc

QH2021E QTKD CLC 1

Ngành điện được đánh giá là ngành hạ tầng quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia. Vì thế, ở nước ta, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, nguồn lực để đầu tư thích đáng cho ngành điện với mục tiêu phát triển “điện phải đi trước một bước để phục vụ yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội đất nước”. Hiện nay, tại Việt Nam, điện tuy không còn là ngành độc quyền, nhưng đa phần thị trường vẫn do EVN - Tập đoàn Điện lực Việt Nam nắm giữ, nên từng bước đi của EVN nhận được rất nhiều sự chú ý.

Dù thế, vẫn rất khó để có được cái nhìn toàn cảnh về tình hình của doanh nghiệp, nhất là trong giai đoạn đầy biến động do chịu tác động của đại dịch Covid-19. Do đó, bài viết này sẽ tập trung đánh giá tình trạng hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Bên cạnh những điểm đã đạt được, kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng trong công tác quản lý còn một số hạn chế nhất định, gây thất thoát và ảnh hưởng hiệu quả hoạt động của Tập đoàn. Từ những kết quả đó, tác giả đề xuất những giải pháp tổng thể từ góc độ quản lý nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý tại tập đoàn.

Giới thiệu

Từ khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp (tồn tại trước năm 1986) sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của những doanh nghiệp nhà nước không hề suy giảm, mà ngược lại, ngày càng nâng cao. Trong Hội nghị “Thủ tướng chính phủ với doanh nghiệp nhà nước” diễn ra vào ngày 24/3/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: "Những gì doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI chưa làm được, chưa

có điều kiện để làm hoặc ở những nơi khó khăn thì doanh nghiệp nhà nước phải xốc vác, tiên phong". Và EVN – Tập đoàn Điện lực Việt Nam luôn là một trong những đơn vị đi đầu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nêu trên, với mục tiêu đưa điện "vượt núi, cưỡi sóng" thắp sáng mọi miền Tổ quốc.

Thành lập từ năm 2006, EVN là Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, với cấu trúc doanh nghiệp gồm Công ty mẹ là Tổng công ty Điện lực Việt Nam, 17 công ty con và 29 công ty liên kết, chủ yếu đều hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh

1

doanh bán điện. Sau hơn 15 năm hoạt động, Tập đoàn đã đạt được nhiều thành công nổi bật như 14 lần liên tiếp lọt vào top 10 doanh nghiệp dẫn đầu trong danh sách 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, lợi nhuận hợp nhất đạt kỷ lục hơn 15.300 tỷ vào năm 2020,… Tuy nhiên, thực tế hoạt động tại tập đoàn còn nhiều đặc thù riêng như quản trị tài chính chưa tốt, hệ thống kiểm soát nội bộ sơ sài,…Do đó, Tập đoàn Điện lực Việt Nam cần có giải pháp kiểm soát các vấn đề cố hữu trên. Tác giả muốn thông qua bài viết phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tại EVN, từ đó chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân, cuối cùng đề xuất giải pháp phù hợp.

  1. Đánh giá
    1. Môi trường kinh doanh
      1. Môi trường

Trước hết, tác giả sẽ lập mô hình PEST để tập trung phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô tới môi trường kinh doanh của EVN.

Đầu tiên, về môi trường chính trị, điều kiện tiên quyết trong việc phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, cũng như việc tạo lập và triển khai chiến lược của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp trong ngành điện nói riêng. Việt Nam chỉ có một đảng duy nhất kiểm soát cả nước là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Với cơ chế một đảng, Việt Nam đang cho thấy sự

ổn định trong cơ chế chính trị, mang lại lợi thế to lớn so với các nước trên thế giới. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam còn can thiệp rất sâu vào việc điều tiết thị trường điện. Trước Luật Điện lực năm 2004, EVN độc quyền toàn bộ quy trình sản xuất kinh doanh điện. Nhưng từ năm 2004 đến nay, Chính phủ đã ban hành rất nhiều quyết định nhằm cải cách, xóa bỏ độc quyền ngành điện.

Dù vậy, EVN vẫn giữ lợi thế cạnh tranh lớn kể cả khi thị trường có sự tham gia thêm của các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài nhờ môi trường văn hóa – xã hội tại Việt Nam. Người Việt thường chỉ dùng những gì mình cảm thấy quen thuộc, yên tâm về uy tín và chất lượng, nên để các bên mới tham gia thuyết phục khách hàng thay đổi sẽ rất khó khăn. Ngoài ra, hiện nước ta vẫn có quy mô tăng trưởng dân số tương đối nhanh, dân số năm 2021 của cả nước ước tính 98,51 triệu người, tăng 922,7 nghìn người, tương đương tăng 0,95% so với năm 2020. Điều này giúp dung lượng thị trường ngành điện liên tục được mở rộng, tạo thêm cơ hội tiêu thụ và tăng thêm doanh thu.

Tiếp theo là về môi trường kinh tế. Chính phủ Việt Nam đang rất tích cực phát triển kinh tế, cải thiện GDP bình quân đầu người, qua nhiều năm nỗ lực này cũng đã đạt được một số thành công bước đầu. Theo ước tính của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), GDP danh nghĩa của Việt Nam trong năm 2021 là khoảng 381 tỷ USD, đứng thứ 5 trong khu vực và thứ 41 trên thế giới, GDP

2

bình quân đầu người đạt khoảng 3.743 USD. Tuy nhiên, vào cuối năm 2019, sự bùng phát của dịch Covid đã khiến nhiều doanh nghiệp lớn nhỏ đã phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh hoặc thậm chí giải thể. Nhiều người bị cắt giảm lương, thậm chí thất nghiệp khiến nhu cầu phụ tải hệ thống điện toàn quốc giảm, dẫn tới giá điện cũng buộc phải giảm theo nghị quyết hỗ trợ giảm giá, giảm tiền điện của Chính phủ. Do đó, tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong ngành điện nói chung, cũng như EVN nói riêng trong những năm tới được dự báo gặp nhiều khó khăn.

Cuối cùng, với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, môi trường công nghệ ngày càng thể hiện tầm quan trọng của mình trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những năm gần đây, Việt Nam đang tập trung vào việc phát triển công nghệ, tạo ra lực lượng lao động công nghệ, các chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích mọi người tham gia khởi nghiệp. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến năm 2020, lĩnh vực công nghệ thông tin thu hút 700 công ty, gồm 220 công ty nước ngoài, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Việt Nam hiện đã thành công cung cấp một số dịch vụ công nghệ thông tin như công nghệ giáo dục, gia công phần mềm, thương mại điện tử, trí tuệ nhân tạo,… Không nằm ngoài cuộc cách mạng ấy, ngành điện cũng đang nỗ lực ứng dụng thật nhiều

thành tựu mới về các loại máy móc trang thiết bị như triển khai ứng dụng trên diện rộng các loại dây dẫn chịu nhiệt, xây dựng các đường dây nhiều mạch cùng hoặc khác cấp điện áp, ứng dụng UAV và công nghệ trí tuệ nhân tạo nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận hành,... Bản thân Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Công Thương đều tập trung nguồn lực nghiên cứu cách cải tiến công tác quản lý để ngành điện hoạt động ngày càng tiết kiệm, hiệu quả.

Nhìn chung, ngành điện được dự báo sẽ gặp nhiều thách thức trong thời gian tới, vì sự xuất hiện của hàng loạt vấn đề vĩ mô, điển hình như sự bùng nổ của dịch Covid-19.

2.1.2. Môi trường ngành

sản lượng điện toàn hệ thống năm 2021

Nhiệt điện than Thủy điện Năng lượng tái tạo Tua bin khí Nguồnồ khác

10.25% 0.87%

12.27%

45.99%

30.62%

Nguồn: Tập đoàn Điện lực Việt Nam

3

Giờ tác giả sẽ tập trung phân tích sang các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh trong nội bộ ngành điện.

Yếu tố đáng quan tâm đầu tiên là cung cấp. Nhìn vào cơ cấu đóng góp trong ngành điện toàn hệ thống năm 2021, có thể thấy Nhiệt điện than và Thủy điện chiếm tỷ trọng áp đảo so với các nguồn khác, nên nhà cung cấp chi phối hoạt động của ngành điện sẽ là bên cung ứng than và nước - hai yếu tố chính để sản xuất 2 nguồn điện trên.

  • Nhưng, một vấn đề với thủy điện là sản lượng điện sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào lượng nước đổ vào các hồ chứa, do đó yếu tố thời tiết khách quan ảnh hưởng trực tiếp tới việc cung cấp nguồn điện năng. Mà gần đây, do những tác động xấu của môi trường dẫn đến biến đổi về khí hậu trên phạm vi toàn cầu, mùa mưa và mùa khô của Việt Nam ngày càng diễn ra bất thường, khó đoán hơn, khiến việc kiểm soát chính xác lượng nước cần thiết để hoạt động gần như là không thể.
  • Còn đối với các nhà máy nhiệt điện than, áp lực lớn nhất nhà cung cấp phải đối mặt là giá sản phẩm đầu vào, bởi nó chiếm tới gần 70% trong giá vốn. Nhưng giá than gần đây đang biến động rất lớn, khiến hiệu quả đầu tư dự án chịu nhiều ảnh hưởng.

Yếu tố đáng quan tâm tiếp theo là khách hàng - những người trực tiếp tiêu

thụ điện năng. Ngành Điện xuất hiện tại Việt Nam khá muộn, cuối thế kỷ 19 năng lượng điện mới được người Pháp đưa vào sản xuất và kinh doanh ở Việt Nam, và phải tới năm 1894, mới xuất hiện thành phố đầu tiên được thắp sáng bằng đèn điện, thông qua dự án Nhà đèn Vườn hoa ở Hải Phòng. Tuy nhiên, không vì vậy mà nhu cầu tiêu thụ điện tại nước ta thấp, thậm chí, cho tới hiện nay, sau 130 năm, nhu cầu tiêu thụ điện tại Việt Nam vẫn luôn tăng trưởng không ngừng, đạt tốc độ tăng trung bình 10.8% từ năm 2013 đến hết năm 2019, và được dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới. Thực tế, chưa bao giờ ở Việt Nam lượng cung điện vượt quá lượng cầu, nên các công ty trong ngành không phải lo ngại về cầu tiêu thụ.

Tiếp theo, ta sẽ bàn tới những đối thủ cạnh tranh của EVN. Phải biết rằng, muốn gia nhập ngành Điện không dễ dàng khi các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị sẵn nguồn vốn đầu tư rất lớn, các thủ tục hành lang pháp lý gia nhập ngành, lựa chọn vị trí địa lý cũng như tìm kiếm nguồn nhiên liệu đáp ứng đòi hỏi khắt khe của ngành điện là rất khó khăn. Hiện nay, bên cạnh EVN, đã có thêm 5 Tổng Công ty điện lực trực tiếp tham gia mua điện trên thị trường giao ngay cũng như ký hợp đồng song phương với các nhà máy điện, nhưng EVN vẫn là đơn vị vận hành hệ thống điện độc quyền của Việt Nam. Vì thế, sự cạnh tranh trong nội bộ ngành điện Việt Nam không thật sự mạnh mẽ bởi cơ chế kiểm soát sản lượng và giá hoàn toàn thuộc về EVN.

4

Cuối cùng, về vấn đề sản phẩm thay thế. Trên thực tế, vẫn chưa có năng lượng nào thay thế điện năng, do vậy áp lực từ sản phẩm thay thế của ngành là thấp. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, trong tương lai, rất có khả năng những năng lượng mới sẽ được nghiên cứu ra để thay thế điện năng.

Tóm lại, EVN đang có một môi trường ngành tương đối thuận lợi để phát triển, nhưng Tập đoàn vẫn cần chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho những sự thay đổi, biến động bất ngờ từ nhà cung cấp.

Môi trường doanh nghiệp

Sau khi phân tích về môi trường kinh doanh, tác giả lập ma trận SWOT để đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, và thách thức của Tập đoàn hiện thời.

Điểm mạnh

Một điểm mạnh lớn của EVN là đã thành công tái cơ cấu để sở hữu một bộ máy tổ chức tiên tiến, tinh gọn.

EVN là Tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tiên ban hành bộ Quy chế quản trị áp dụng chung trong toàn Tập đoàn; đồng thời, thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ thông suốt từ Công ty mẹ EVN tới các doanh nghiệp thành viên, góp phần quan trọng phòng ngừa rủi ro, nâng cao hiệu quả công tác quản trị trong toàn Tập đoàn. Tập đoàn cũng ban hành bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thành viên theo

phương pháp thẻ điểm cân bằng (Balanced Scorecard) trong quản trị doanh nghiệp, làm cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp; kiện toàn mô hình quản trị công ty đại chúng đối với các Công ty Cổ phần đại chúng và chưa đại chúng trong Tập đoàn theo quy định của Nghị định số 71/2017/NĐ-CP. Ngoài ra, EVN đã ký kết các hợp đồng ủy quyền Người đại diện quản lý phần vốn của EVN, Tổng công ty thuộc EVN tại các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết. Đây là một căn cứ pháp lý quan trọng ràng buộc các quyền, nghĩa vụ và

trách nhiệm của Người đại diện; qua đó gắn trách nhiệm pháp lý của Người đại diện, Người quản lý doanh nghiệp với kết quả, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết. Công ty mẹ - EVN cùng các doanh nghiệp thành viên đã thực hiện công bố thông tin đầy đủ, kịp thời theo đúng quy định. Đặc biệt, năm 2018, EVN đã được tổ chức tư vấn quốc tế Fitch Rating đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc tế ở mức xếp hạng BB, ngang bằng với mức tín nhiệm quốc gia, và được đánh giá là một trong các doanh nghiệp nhà nước hàng đầu về minh bạch thông tin.

Nhưng điểm mạnh lớn nhất của EVN phải nói tới việc sở hữu cơ sở hạ tầng tương đối hoàn thiện. Về mảng sản xuất điện, cả 6 nhà máy điện lớn và quan trọng nhất tại Việt Nam theo

5

Quyết định số 2012/QĐ-TTg (ngày 24/10/2016) của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục nhà máy điện lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh gồm Thủy điện Sơn La, Thủy điện Hòa Bình; Thủy điện Lai Châu, Thủy điện Ialy, Thủy điện Trị An, Thủy điện Tuyên Quang đều thuộc quyền sở hữu của EVN. Ngoài 6 cái tên kể trên, EVN cùng các công ty con của mình còn sở hữu hàng chục nhà máy sản xuất điện lớn nhỏ khác dọc khắp cả nước, đặc biệt, trong đó có nhiều nhà máy sản xuất điện bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hay năng lượng mặt trời, rất phù hợp với định hướng phát triển ngành công nghiệp trong dài hạn của Đảng và Nhà nước. Còn về mảng phân phối, và bán điện, EVN sở hữu lợi thế tuyệt đối nhờ hệ thống lưới điện quốc gia đã vươn tới mọi miền đất nước với trên 8.500 km đường dây 500 kV, gần

20.000 km đường dây 220 kV, hơn

23.000 km đường dây 110 kV và 33

TBA 500 kV, 137 TBA 220 kV, 886

TBA 110 kV. Nhờ sẵn có nguồn lực lớn như vậy nên cả Tập đoàn Điện lực Việt Nam rất dễ phát triển theo hướng đồng bộ, thống nhất để ngày càng nâng cao, khẳng định vị thế độc tôn trong ngành Điện.

Sự nhanh nhạy trong việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng là một điểm sáng trong hoạt động của EVN. Từ năm 2018 đến nay, hệ thống công nghệ thông tin của Tập đoàn đã có

những bước dịch chuyển tích cực về cả phạm vi và chất lượng.

  • Trong lĩnh vực kinh doanh – dịch vụ khách hàng, các dịch vụ điện tiếp tục phát triển và được đa dạng hóa hình thức cung cấp. Năm Trung tâm Chăm sóc khách hàng của EVN được trang bị nhiều công cụ công nghệ thông tin hỗ trợ như hệ thống CRM, ICCRating, Chatbot, các trang Web, App chăm sóc khách hàng... Ngoài ra, từ tháng 12/2019, EVN đã cung cấp các dịch vụ cấp điện qua lưới trung/hạ áp và thanh toán tiền điện trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia, tạo sự thuận lợi cho khách hàng và tăng cường tính minh bạch trong các giao dịch.
  • Trong lĩnh vực kỹ thuật – sản xuất, các đơn vị trong EVN đã triển khai và sử dụng hệ thống phần mềm Quản lý kỹ thuật (PMIS) với các chức năng chính như: quản lý dữ liệu về lý lịch, tình trạng thiết bị, quá trình vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa, thí nghiệm định kỳ; giúp cho đơn vị quản lý tổng quan về hệ thống lưới, nhà máy điện. Đến tháng 12/2020 đã cập nhật dữ liệu hơn 82% trạm, máy biến áp từ trung thế trở lên trên PMIS. Ngoài ra, EVN còn có nhiều các ứng dụng khác đã được xây dựng và đưa vào sử dụng như: Các hệ thống dự báo phụ tải và tính toán hệ thống điện; Hệ thống Quản lý độ tin cậy cung

6

cấp điện OMS; ứng dụng tin học hóa sửa chữa bảo dưỡng thiết bị theo phương pháp tiên tiến như RCM /CBM. Một số đơn vị như Tổng công ty Điện lực miền Trung, Tổng công ty Điện lực TP. Hồ Chí Minh đã ứng dụng công nghệ di động trong công tác kiểm tra, sửa chữa bằng cách xây dựng ứng dụng hiện trường trên di động kết nối với PMIS, CMIS và ghi nhận kết quả dưới dạng điện tử và hình ảnh kỹ thuật số.

  • Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, EVN đã tiến hành ứng dụng phần mềm quản lý chuyên dụng IMIS tại tại 239 đơn vị trong Tập đoàn.

Phần mềm bao gồm 10 phân hệ và 26 chức năng chính, quản lý thông tin toàn bộ dự án đầu tư xây dựng và quá trình thực hiện từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến kết thúc đầu tư. Trong năm 2020, EVN đã triển khai tiện ích ứng dụng di động trong công tác giám sát thi công và tích hợp công nghệ định vị tọa độ cho các hình ảnh giám sát và cũng đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong lĩnh vực thị giác máy tính để kiểm tra hình ảnh hiện trường trên chương trình IMIS.

  • Trong lĩnh vực quản trị, EVN là một trong những đơn vị đầu tiên tại Việt Nam xây dựng hệ thống Quản lý nguồn lực doanh nghiệp (ERP). Đến nay, hệ thống này đã cơ bản hoàn thành đầy đủ 16 phân hệ trong

lĩnh vực tài chính và được áp dụng thống nhất trong toàn EVN. Tập đoàn cũng đã hướng tới xây dựng văn phòng điện tử với đa dạng hệ thống phục vụ như: Hệ thống Quản lý văn bản; Hệ thống Hội nghị truyền hình; Cổng thông tin EVNPortal; Hệ thống trục liên thông văn bản kết nối và luân chuyển văn bản điện tử trong toàn Tập đoàn, kết nối Trục liên thông văn bản của Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và Trục liên thông văn bản Quốc gia,…

Điểm yếu

Bên cạnh những điểm đã đạt được, công tác quản lý của EVN vẫn bộc lộ một số mặt hạn chế.

Đáng kể nhất phải nhắc tới vấn đề quản trị tài chính. Gánh nặng nợ của EVN đang ở mức cao, với tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu trung bình là 2.3 lần.

EVN hiện vay nợ hơn 369.163 tỷ đồng, nhưng lại không thực hiện tốt việc quản lý dòng tiền, giữ tới hơn 50 nghìn tỷ các khoản tiền và tương đương tiền thay vì xoay vòng vốn. Các hoạt động đầu tư trong những năm gần đây của tập đoàn đều lỗ, con số lợi nhuận đầu tư sau quý II/2021 là -2.599 nghìn tỷ đồng, còn của năm 2020 là -5.586 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, trong những năm gần đây EVN phụ thuộc rất nhiều vào việc tăng giá bán lẻ điện để cải thiện biên lợi nhuận gộp, đây rõ ràng không phải một phương án hợp lý, bởi

7

tăng giá điện sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lạm phát, do điện là đầu vào của rất nhiều ngành sản xuất. Một điểm đáng lo ngại nữa trong bức tranh tài chính của EVN là Tập đoàn đang sử dụng nguồn vốn không hiệu quả. Công tác lập kế hoạch mua sắm vật tư, thiết bị của EVN chưa thực hợp lý, dẫn đến tình trạng tồn kho vượt định mức. Theo báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2021, giá trị hàng tồn kho của EVN hiện đã vượt mốc 28 triệu tỷ, tăng thêm hơn 1 triệu tỷ so với mốc đầu kỳ, trong đó, riêng tiền nguyên vật liệu đã hơn 25 triệu tỷ. Chưa kể tới, EVN cũng bộc lộ rõ khó khăn trong việc kiểm soát công nợ với khách hàng. Báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2021 cho thấy chỉ tiêu dự phòng phải thu ngắn hạn khó đòi của EVN đạt tới 352.942 tỷ, chiếm khoảng 5% tổng số dư phải thu ngắn hạn của khách hàng. Với đặc thù ngành buộc Tập đoàn phải tiếp súc với nhiều đơn vị khách hàng trải rộng khắp cả nước, việc công ty không đôn đốc xử lý công nợ kịp thời sẽ dễ dẫn đến tình trạng thất thoát tài sản và nguồn vốn nhà nước. Mặt khác, EVN cũng đang gặp ngày càng nhiều khó khăn trong quá trình huy động vốn. EVN bị hạn chế về tài chính do nguồn vốn trong nước hạn hẹp, nhưng Tập đoàn lại không có khả năng tiếp cận trực tiếp với các thị trường vốn quốc tế để có nguồn vay chi phí thấp. Lý do là bởi Việt Nam không còn được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi dành cho các nước thu nhập thấp từ các ngân hàng phát

triển đa phương do thành tích tăng trưởng mạnh mẽ của mình, nhưng cũng chưa được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm xếp vào mức đầu tư do những điểm yếu về cơ cấu của hệ thống ngân hàng.

Hệ thống kiểm soát nội bộ của Tập đoàn cũng còn nhiều tồn tại.

Thứ nhất, về môi trường kiểm soát. Nhà quản trị cấp cao của Tập đoàn cùng nhà quản trị cấp cao tại các công ty thành viên thuộc Tập đoàn đã có những thay đổi đáng kể về phương châm quản lý và phong cách điều hành. Các chính sách và thủ tục kiểm soát luôn được quan tâm đúng mức và đã phát huy những tác dụng tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động, còn nhiều điểm chưa hợp lý do nhận thức của các tổ chức, cá nhân đại diện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam nói chung và nhận thức của nhà quản trị cấp cao tại Tập đoàn cùng nhà quản trị cấp cao tại các đơn vị thành viên thuộc Tập đoàn nói riêng về hệ thống kiểm soát nội bộ là chưa thật đầy đủ.

  • Về cơ cấu tổ chức, do Tập đoàn đã và đang thực hiện tương đối thành công quá trình tái cơ cấu nên cơ cấu tổ chức và hoạt động của Công ty mẹ và các công ty thành viên của Tập đoàn được xây dựng theo mô hình thống nhất, giúp các đơn vị

8

chủ động và tự chủ trong hoạt động của mình, chỉ còn một vấn đề là Công ty mẹ Tập đoàn và hầu hết các công ty thành viên chưa tổ chức riêng bộ phận thực hiện chức năng phân tích đánh giá rủi ro làm cơ sở thiết lập các thủ tục kiểm soát nội bộ.

  • Về chính sách nhân sự, các chính sách liên quan đến việc tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm, đánh giá, sa thải, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật cán bộ, nhân viên được Tập đoàn chỉ đạo cho các đơn vị thành viên nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể hoá các thành các qui định của doanh nghiệp và tổ chức thực hiện một cách triệt để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Tiếc rằng, vẫn còn một số lượng nhỏ các đơn vị thành viên thuộc Tập đoàn chưa có các quy định cụ thể về việc tuyển dụng, đào tạo, đánh giá, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật nhân viên. Tiêu chuẩn đánh giá nhân viên của công ty mẹ và các công ty thành viên còn mang tính chất định tính. Việc đào tạo nhân viên liên quan đến lĩnh vực quản lý nhân viên chưa được quan tâm đúng mức.
  • Về công tác kế hoạch. Vì quan niệm của nhà quản lý về vai trò và tác dụng của các loại kế hoạch có sự không đồng đều, Công ty mẹ và các đơn vị thành viên chưa quan tâm đúng mức đến công tác tập

huấn, đào tạo cán bộ làm công việc lập kế hoạch, nên dù ban lãnh đạo Tập đoàn cũng như ban lãnh đạo các công ty thành viên luôn nỗ lực xây dựng hệ thống kế hoạch sản xuất kinh doanh tương đối chi tiết, đồng bộ, vẫn thường xuyên phải điều chỉnh cho sát với thực tế.

  • Về Ban kiểm soát, Ban kiểm soát trực thuộc hội đồng thành viên tại công ty mẹ, các kiểm sát viên tại Công ty TNHH một thành viên và Ban kiểm soát tại công ty cổ phần đã bước đầu khẳng định được vị trí vai trò của mình trong việc kiểm soát mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp, nhưng bản thân họ lại chưa xây dựng được được chương trình, kế hoạch hoạt động mang tính thống nhất hàng năm.

Thứ hai, về công tác đánh giá rủi ro, hoạt động nhận dạng và đánh giá các rủi ro dù chưa được thực hiện trên tất cả các hoạt động, nhưng cũng đã bắt đầu được thực hiện rải rác. Tập đoàn và các đơn vị thành viên đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng của công tác đánh giá rủi ro đối với quá trình hoạt động của mình, tuy nhiên lại chưa tổ chức được một bộ phận riêng biệt để thực hiện chức năng này. Việc thiết lập các chính sách và thủ tục kiểm soát cũng không dựa trên cơ sở xác định và đánh giá rủi ro bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.

9

Thứ ba, về hệ thống thông tin. Tại công ty mẹ, nhiều phần mềm chưa được hoàn thành và vẫn đang trong giai đoạn thí điểm. Tại các công ty thành viên, nhiều công ty chưa xây dựng được hệ thống mạng nội bộ để truyền đạt thông tin. Bù lại, một điểm đáng ghi nhận là Tập đoàn đã bước đầu triển khai thành công ứng dụng Hệ thống hoạch định nguồn lực nguồn lực ERP để quản trị các hoạt động của mình, đây có thể coi là bước đột phá của EVN.

Thứ tư, về các thủ tục kiểm soát. Ngoài việc thành công thiết kế và thực hiện các quy chế, chính sách, các bước và thủ tục kiểm soát cơ bản nhằm đảm bảo các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ, thủ tục kiểm soát của Tập đoàn còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc phân công phân nhiệm còn chưa rõ ràng. Về nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn, tại nhiều đơn vị thành viên Tập đoàn, việc ủy quyền còn thực hiện bằng miệng chứ chưa quy định thành văn bản nên rất dễ xảy ra tình trạng lạm quyền để tư lợi cá nhân. Về nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nhìn chung tại Tập đoàn và các đơn vị thành viên vẫn có tình trạng một người kiêm nhiệm nhiều công việc để tiết kiệm chi phí. Đối với kiểm soát một số hoạt động cơ bản, việc kiểm soát người đại diện tại Tập đoàn cũng còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục, cũng chưa có quy định về kiểm soát vốn thích hợp tại Tập đoàn, còn nhiều kẽ hở về kiểm soát vốn với

công ty liên kết mà Tập đoàn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ.

Thứ năm, về hệ thống giám sát, có thể nói các nhà quản lý và lãnh đạo tại Tập đoàn chưa thực sự quan tâm nhiều đến hoạt động giám sát thường xuyên và giám sát định kỳ tại Tập đoàn. Bước tiến chỉ tới gần đây khi Tập đoàn bước đầu thành công thiết kế, xây dựng được cơ chế giám sát thường xuyên và định kỳ thông qua việc xem xét các báo cáo của kiểm soát viên nhằm phát hiện các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của Tập đoàn, từ đó đưa ra các kiến nghị có tính khả thi.

Cơ hội

Dù Tập đoàn còn tồn đọng một số yếu điểm như đã nêu trên, điều ấy không có nghĩa là EVN không có những cơ hội để mở rộng thị trường, phát triển kinh doanh.

Chính phủ Việt Nam đang cho thấy tham vọng táo báo về chuyển dịch năng lượng, điều này được thể hiện rất rõ trong việc ban hành Quy hoạch điện quốc gia sắp tới đây (QHĐ 8). Việc thay đổi trong cơ cấu nguồn điện, tập trung phát triển năng lượng tái tạo bên cạnh các nguồn điện sử dụng LNG (khí thiên nhiên được hóa lỏng khi làm lạnh sâu đến âm 162oC sau khi đã loại bỏ các tạp chất) thay vì nhiệt điện than mang lại cho EVN rất nhiều cơ hội phát triển.

10

EVN sẽ tiếp tục bổ sung thêm các nguồn năng lượng tái tạo vào danh mục nguồn điện của mình, do đó, việc tập trung đầu tư mở rộng lưới điện sẽ phục vụ cho chính lợi ích của tập đoàn. Một hệ thống truyền tải đáng tin cậy không chỉ giúp tối ưu hoá các nguồn năng lượng tái tạo có tính biến đổi trong danh mục nguồn điện mà còn rất quan trọng để giảm chi phí mua điện cho EVN. Theo dự báo, sau khi Việt Nam chuyển sang cơ chế đấu giá điện mặt trời và điện gió, khả năng để EVN đạt được mức giá mua điện cạnh tranh nhất sẽ phụ thuộc vào niềm tin của các nhà phát triển dự án rằng rủi ro điều độ được giảm thiểu và thiết kế lưới điện trong tương lai sẽ hỗ trợ tích hợp các loại năng lượng tái tạo có giá cạnh tranh. Trong tình huống tốt nhất, nếu quy hoạch tốt và xác định được các dự án hấp dẫn sẽ có thể huy động vốn từ các nguồn tín dụng xanh mới. Điều này sẽ cho phép EVN và dự án đối tác công tư (PPP) khai thác được các nguồn vốn mới với điều khoản cạnh tranh quốc tế phục vụ cho việc mở rộng, nâng cấp hạ tầng lưới điện đang rất cần thiết hiện nay.

Một cơ hội nữa được ghi nhận trong QHĐ 8 là khả năng tận dụng một cách có chiến lược đường dây kết nối điện sẵn có với Lào và Trung Quốc để nhập khẩu điện bổ sung. Việc nhập khẩu điện giá rẻ có thể giúp giảm bớt áp lực mở rộng công suất nguồn điện cho EVN, và quan trọng hơn, điều này

sẽ giúp Việt Nam tránh được nguy cơ mắc kẹt sớm với các nguồn công suất chạy nền, ví dụ các dự án điện chạy LNG, trong khi vẫn đảm bảo được các mục tiêu cấp điện trung hạn.

Thách thức

Bên cạnh những cơ hội, Tập đoàn cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức.

Đảng và Chính phủ đang rất nỗ lực thay đổi cơ cấu ngành Điện Việt Nam. Từ năm 2013, Quyết định 63/2013/QĐ-TTg của Chính phủ đã nhấn mạnh, mục tiêu cuối cùng của Chính phủ là thực hiện thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn chỉnh, các khách hàng sử dụng điện sẽ được lựa chọn, thay đổi đơn vị bán lẻ điện; đồng thời thoả thuận, thống nhất với đơn vị bán lẻ điện về mức giá bán điện. Để hiện thực hóa điều này, Chính phủ đang liên tục quan sát và ban hành rất nhiều nghị quyết định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, mới nhất là Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045. Điều này đồng nghĩa với việc sắp tới EVN sẽ phải đối đầu với thị trường cạnh tranh quyết liệt hơn nhiều với lượng lớn đối thủ gia tăng nhanh.

Một thách thức khác tới từ nguyên liệu đầu vào. Tính đến cuối tháng 10/2021, nhiệt điện than vẫn đang

11

chiếm phần lớn nhất trong tổng sản lượng toàn hệ thống (48.1%), và được coi là nguồn năng lượng quan trọng nhất trong sản xuất điện tại EVN, theo sau đó là thủy điện với 28.6%.

Tuy nhiên, do biến đổi khí hậu, thời tiết tại Việt Nam những năm gần đây diễn biến ngày càng khó lường, mùa khô kéo dài bất thường khiến nhiều nhà máy thủy điện buộc phải hoạt động cầm chừng. Khi ấy, để đảm bảo cung cấp điện ổn định trên toàn hệ thống, EVN sẽ lại phải tiếp tục huy động tối đa nguồn điện than.

Nhưng, sau một thời gian tương đối ổn định, việc Nga tiến hành các chiến dịch quân sự đặc biệt nhằm vào Ukraine vào tháng 3/2022 đã khiến một cuộc khủng hoảng năng lượng diễn ra trên diện rộng, trong đó, giá than ghi nhận mức tăng cao nhất. Theo dữ liệu của TE, giá than ngày 30/5 ghi nhận ở mức 401 USD/tấn, tăng 33,76% so với tháng trước và 237,26% so với cùng kỳ năm ngoái. Thậm chí, theo dự đoán của Rystad Energy, giá than có thể vượt mốc 500 USD/tấn trong năm 2022 vì giá các loại nhiên liệu khác tăng cao, buộc các nước phải chuyển sang sử dụng than. Tuy rằng giá than ở Việt Nam không đồng pha hoàn toàn với giá than thế giới do chính sách quản lý giá ở Việt Nam với chỉ 2 đơn vị được phép khai thác và bán than trong nước là Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc, nhưng khi giá than thế giới được đẩy lên mức kỷ lục

như vậy, giá than trong nước cũng không tránh khỏi biến động. Theo các chuyên gia, giá than trong nước năm nay sẽ tiếp tục tăng ít nhất từ 10 – 15%, sau khi đã tăng 20 -30% trong 6 tháng đầu năm.

Kiến nghị giải pháp

Từ những gì đã phân tích được, tác giả xin đề xuất một số giải pháp để Tập đoàn có thể giải quyết những vấn đề tồn đọng, và chuẩn bị để đối đầu với những thử thách trong tương lai.

Trước tiên, về vấn đề quản trị tài chính. Tập đoàn cần tìm cách sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi một cách hiệu quả, đầu tư cần phải thẩm định dự án thật cẩn thận, nên tập trung vốn vào các ngành thế mạnh để tăng lợi nhuận thay vì bám víu vào việc tăng giá bán lẻ điện, và phải tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ, để nâng cao năng suất lao động, giảm tỷ lệ tổn thất điện năng. Ngoài ra, EVN cần chỉ đạo các đơn vị chấn chỉnh, hoàn thiện công tác quản lý hàng tồn kho, công tác mua sắm tài sản, vật tư, thiết bị, tập trung vào việc xây dựng kế hoạch mua sắm vật tư sát với thực tế tránh tình trạng vật tư bị ứ đọng, chậm luân chuyển; tăng cường kiểm soát định mức vật tư hàng tồn kho tránh lãng phí nguồn vốn của các tổng công ty, đảm bảo mức dự trữ hàng tồn kho sản xuất kinh doanh điện nằm trong mức quy định của các tổng công ty. Vấn đề quản lý công nợ cũng phải được siết chặt. Tập đoàn nên tập trung

12

xây dựng chính sách bán hàng rõ ràng, đồng thời thiết lập chính sách chi trả nợ cụ thể, nếu cần thiết, thậm chí xây dựng riêng một ban liên lạc để nhắc nhở, đốc thúc khách hàng trả nợ. Còn để giải quyết vấn đề vay vốn, EVN có thể nhờ đến các nhà đầu tư nước ngoài qua các Nhà máy điện độc lập. Bằng việc tìm đến các nhà tài trợ dự án, những người có khả năng tiếp cận các điều khoản tín dụng tăng cường nhờ các tổ chức tín dụng xuất khẩu, các nhà tài trợ dự án đã cung cấp những khoản vốn cần thiết để đổi lấy lợi nhuận thu được từ việc phát triển dự án và giảm thiểu rủi ro thông qua các thỏa thuận mua bán điện dài hạn.

Tiếp theo là vấn đề kiện toàn hệ thống kiểm soát nội bộ. EVN nên bắt đầu từ việc bồi dưỡng, nâng cao nhận thức bộ phận quản lý và lãnh đạo của Tập đoàn về tầm quan trọng của công tác tài chính doanh nghiệp và đánh giá kết quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Cơ cấu tổ chức, nhân sự phải tinh gọn, giao “đúng người, đúng việc”, áp dụng các phương thức quản trị tiên tiến trên thế giới để nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lãnh đạo Tập đoàn cần bố trí đủ nhân sự vào làm việc tại Ban kiểm soát và kiểm soát viên doanh nghiệp ngay lập tức, đồng thời, cần thành lập thêm bộ phận kiểm toán nội bộ tại công ty mẹ cũng như trong tất cả các đơn vị thành viên, qua đó tiến hành kiểm tra và đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của

doanh nghiệp, tính hiệu quả của việc thiết kế và vận hành các chính sách. Công tác lập kế hoạch cũng cần đảm bảo dung hòa và kết hợp được kế hoạch của công ty mẹ với kế hoạch của các công ty thành viên, tốt nhất nên thành lập một bộ phận đánh giá rủi ro riêng hoặc giao cho một bộ phận nào đó trong Tập đoàn đánh giá rủi ro trước.

Cuối cùng là phương án để Tập đoàn đối phó với các thách thức. Về vấn đề đối thủ tiềm năng trong tương lai, như đã phân tích, nhờ thời gian dài là đơn vị độc quyền trong ngành điện, EVN đã và đang là lựa chọn hàng đầu của đa phần người dân, cũng như doanh nghiệp tại Việt Nam về vấn đề cung ứng điện. Vì thế, chỉ cần tập trung củng cố hệ thống và chất lượng dịch vụ thật tốt, sẽ không khó để EVN tiếp tục giữ vị thế độc tôn trên thị trường.

Nhưng việc giá nguyên liệu đầu vào, đặc biệt là giá than tăng lại là một bài toán khó giải hơn nhiều, bởi tính tới tháng 10/2021, nhiệt điện than vẫn đang chiếm tới 48,1% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống. Có lẽ, giải pháp duy nhất cho tình huống này là EVN nên tập trung chuyển đổi cơ cấu sang sản xuất điện bằng năng lượng tái tạo, vừa tiết kiệm chi phí, lại thân thiện với môi trường.

Kết luận

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là đánh giá tình trạng hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Trên

13

cở sở các hệ thống dữ liệu, thông tin, số liệu thu thập được, tác giả đã tiến hành đánh giá doanh nghiệp dựa trên ma trận PEST, SWOT để thấy rõ được các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra vấn đề quản trị tài chính, và hệ thống kiểm soát nội bộ là hai yếu điểm nhất khiến hoạt động của EVN chưa đạt hiệu quả tối đa, và dự báo tương lai, Tập đoàn có thể sẽ phải trải qua một quãng thời gian khó khăn do giá nguyên liệu tăng mạnh. Qua đó, tác giả đề xuất một số giải pháp khắc phục những hạn chế, và những bước cần chuyển bị để đối đầu với những thử thách trong tương lai. Bằng đề tài này, tác giả muốn áp dụng những kiến thức và tri thức kinh doanh đã được học vào việc đóng góp cho sự thành công và phát triển bền vững của Tập đoàn Điện lực Việt Nam./.

Tài liệu tham khảo

Delloite (2021), Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ đã được soát xét của Tập đoàn Điện lực Việt Nam

Bộ Công Thương, Quy hoạch điện

VIII

Quốc hội (2004), Luật điện lực số 28/2004/QH 11

Bộ Chính Trị (2020), Nghị quyết số 55/NQ-TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045

Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 2012/QĐ-TTg phê duyệt danh mục nhà máy điện lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh

https://www.evn.com.vn/d6/news/ Tong-quan-ve-Tap-doan-Dien-luc-Viet-

Nam-2-3-877.aspx https://m.hvtc.edu.vn/Portals/0/file

s/T22017/TT%20_Nguyen%20Thanh

%20Thuy_T.Viet.pdf http://elb.lic.neu.edu.vn/bitstream/

DL_123456789/6507/1/TT.THS.5041.p

df

https://timviec365.vn/blog/tai- lieu-van-hoa-doanh-nghiep-evn- new15282.html

http://cdmt.vn/vanhoacepc/baiduth i/13.pdf

https://www.evn.com.vn/d6/news/ Thu-tuong-phe-duyet-Chien-luoc-phat- trien-EVN-den-nam-2030-tam-nhin- den-nam-2045-2-10-27740.aspx

https://www.evn.com.vn/UserFile/ User/tcdl/Chien%20luoc%20phat

%20trien%20cong%20nghe%20dien

%20cua%20EVN.pdf https://www.evn.com.vn/d6/news/

So-tay-dien-tu-Chien-luoc-phat-trien- Tap-doan-Dien-luc-Viet-Nam-6-12- 29681.aspx

https://www.evn.com.vn/d6/news/ Infographic-Chien-luoc-phat-trien-Tap- doan-Dien-luc-Viet-Nam-den-nam- 2030-tam-nhin-2045-6-12-29748.aspx

https://www.evn.com.vn/userfile/ User/tcdl/files/2021/7/BCTCcongtyme. pdf

https://www.evn.com.vn/d6/news/ So-do-to-chuc-bo-may-quan-ly-va-

14

dieu-hanh-Tap-doan-Dien-luc-Viet-

Nam-2-11-1133.aspx https://cafef.vn/gdp-binh-quan-

dau-nguoi-viet-nam-xep-thu-bao- nhieu-the-gioi- 20220609100032798.chn

15