Đất nước và người miền trung của tác giả Nguyễn Du môn Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Đất nước và người miền trung của tác giả Nguyễn Du môn Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

31
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2023-0004
Social Sciences, 2023, Volume 68, Issue 1, pp. 31- 40
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
ĐẤT VÀ NGƯỜI MI N TRUNG TRONG SÁNG TÁC C A NGUY N MINH CHÂU
Hoàng Th Thu Giang Minh Tâm
*
và Vũ Thị
Khoa Sư phạ Trường Đạm, i h c H Long
Tóm t t . Bài vi t p trung vào hai n t N i mi n Trung trong sáng tác ết ội dung: Đấ gườ
Nguy n Minh Châu t mi n Trung kh c nghi t, nh c nh vì s i ti t, vì là cái . Đấ n ỏi đá, vì th ế
rn c a chi n tranh v i tình yêu và s nâng niu, trân tr ng, Nguy ế ”. Nhưng ễn Minh Châu đã
tìm th y s m ch t tr c a m t này. nên thơ, đậ tình cũng như v đẹp hùng vĩ, tráng l ảnh đ
Trên m y, t i mi n Trung t a sáng v i v p kiên trì, nh n n i, ảnh đất “gương mặ ngườ đẹ
ngh l ng. Không ch th i mi n Trung còn r t chung tình: Chung tình ực phi thườ ế, ngư
với đấ ới ngườ ồn người đã khuất, chung tình v i (k c vi linh h t). Và, trong gian kh, khó
khăn, ngườ ẫn vươni min Trung v lên vi trí tu sáng to khát vng sng mãnh lit.
Luôn đau đáu, khao khát đi tìm ủa con ngườht ngc n giu trong b sâu tâm hn c i,
Nguy n Minh Châu, qua các trang vi t v i mi n Trung c c và làm ế ngườ ủa mình, đã tìm đư
sáng lên nh ng h t ng c quý y.
T khóa : đất và người, min Trung, Nguyn Minh Châu.
1. Mở đầu
B u c m bút t nh n B c hòa bình (truy n ng u tay - ắt đầ ững năm miề n đầ Sau m t bu i t p
1960) và xu t hi ng M (ti u thuy - 1967), cho t ện trên văn đàn từ những năm chố ết C a sông i
sáng tác cu i cùng (truy n v a Phiên ch Giát - 1989), v p k cới hơn 3 thậ m bút, v i nh ng tác
ph m giàu giá tr ng và ngh thu t, Nguy trí tư tưở ễn Minh Châu được đánh giá là nhà văn có vị
quan tr i s c Vi t Nam hi c bi t, t sau m c 1975, ông thu c s ọng trong đờ ống văn họ ện đại, đặ
nh [1; 11]. Chính vì v y, t lâu, Nguy n Minh ững nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất
Châu và nh ng sáng tác c ng tìm hi u c a nhi u công trình phê bình ủa ông đã trở thành đối tượ
nghiên c c. ứu văn họ
Trong hành trình nghiên c u dài lâu v i m nhà văn “đi tiên phong trong công cuộc đổ i
văn họ ần đổ ới văn họ ệt để” ấn đề “con ngườc, th hin tinh th i m c hết sc tri này [2; 57], v i
vùng đấ ều đã đượt min Trung trong các sáng tác ca Nguyn Minh Châu ít nhi c mt s nhà
nghiên c c nh, trong bài viứu đề ập đến. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạ ết Nhng ngày cu i cùng g p
Nguy n Minh Châu đăng trên ạp chí Văn nghệ quân độ 3, năm 1989 đã khẳng địT i, s nh viết v
con ngườ ảnh đấ “đất làm ăn”i m t min Trung s trường, ca Nguyn Minh Châu
[1;544]. Các nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan, Nguyễn Văn Hạnh, Trung Trung Đỉnh cũng đã
ch ra con ngườ ảnh đấi m t min Trung chính mng hin thc quen thuc trong sáng tác
Nguy n Minh Châu. Còn H a Di u Thúy, trong bài vi ết Hình tượng người ph n trong sáng
tác c a Nguy n Minh Châu [3] đăng trên T ọc Đạ ọc Sư p ội đã chỉp chí Khoa h i h hm Hà N ra
điểm chung nh i ph n n Minh Châu là s r n r i, kho kho n, ững ngườ trong văn Nguyễ
phn ln trong s đó là phụ n min Trung. Trongi viết Đề tài chiến tranh qua mt s tác phm
Ngày nh n bài: 5/1/2023. Ngày s a bài: 22/1/2023. Ngày nh 7/2/2023. ận đăng:
Tác gi liên h : Hoàng Th a ch e-mail: hoangthithugiang@daihochalong.edu.vn Thu Giang. Đị
Hoàng Th Thu Giang Minh Tâm
*
và Vũ Thị
32
văn xuôi 1945 đếvit Nam t n 1975 [4] c a Nguy n Th Thanh, đặc bit, trong bài Thiên nhiên
trong sáng tác Nguy n Minh Châu [5] c a Ph m Th H trên T p chí ồng Vân đều được đăng
Khoa h i h m Hà N i, các tác gi t mi n Trung ọc Đạ ọc Sư phạ đã khẳng định thiên nhiên vùng đ
thườ ng hin di n trong sáng tác c a Nguyn Minh Châu. th th y nhiu nhà nghiên cứu đã
nh n ra, ch ra s g n máu th t c a Nguy n Minh Châu v i mi n Trung. Tuy nhiên, nh ng
nghiên c u, công b n v n Trung trong các sáng có liên quan đế ấn đề “con người và vùng đất mi
tác c a Nguy n Minh Châu m i ch d ng l m t vài nh c ho m i ận định lượ c ột phương
di n, ph ng c trong sáng tác Nguy n Minh Châu. Vì v y, bài vi t này t p trung ạm vi đối tượ th ế
phân tích, đánh giá khái quát Đất ngườ hai ni dung: i min Trung trong sáng tác ca
Nguy n Minh Châu.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Dải đất miền Trung trong văn Nguyễn Minh Châu
2.1.1. Dải đất khắc khổ, nhọc nhằn
T i, mi n Trung v n là m bao đờ ảnh đất được yêu thương và đồng cm nhiều hơn các vùng
đấ ế t khác. Có l vì nó đấ đất đai, khó t khó. Khó th i ti t nên khúc ru t miền Trung được
g i là d t c a s kh c kh và nh c nh a hình c a mi n Trung không r ng ải đấ ằn. Đị ộng dài như đồ
b ng sông H ng b ng sông C u Long mà nh h p theo chi Tây. Phóng t ồng hay đồ ều Đông m
mt th i, núi, ấy đồ m i một đèo, một đèo, lạ ột đèo (H Xuân Hương). Đã nhỏ hp v chiu
ngang còn b chia c t b khó chi u . B ởi dãy Trường Sơn nên khí hậu nơi đây tht ắt đầu bước
vào vùng này th c m nh n ngay th gió Lào khô, nóng, th i ti t mà m t tr th ế i “ưu ái”
mc l p áo l m n lên: chung quanh mùi r c tranh ngai ngái v a ỗi ngày. Đất nơi đây hiệ i
“dư âm ken két đầ ền rĩ củy r a nhng chiếc xe cút kít [6; 544]. Đó là sự ám nh ca Qu vi th
đấ ỳ”t gan l như thách thức con người trong Người đàn trên chuyến tàu tc hành: Lưỡi
cu c bp xu ng c m thy hai cánh tay tê dại như muốn văng theo cán cuố ặt đấc, còn m t vn gan
lì, ch s t m m t chút [6; 113]. t th n c c: c l ng ch y nh m đất đế ổng đầ ững đá.
Viên bé ch là m u và l c gianh ột hòn đá kì lưng, hòn to cũng ngang cái đầ ại còn cơ man là rễ
[6; 544].
Trong hàng lo t tác ph m, t u thuy u tay (1967) t i t p truy n cu i cùng ti ết đầ C a sông
C lau (1989), có th y Nguy i d th ễn Minh Châu luôn trĩu nặng yêu thương vớ ải đất ấy, nơi đất
đai ph ếu nước, nhưng mưa to lạ ất nhanh, nơi con người lao độn ln khô cn, thi i ngp lt r ng
cc nh n c n An: ng, ọc, lam lũ nhưng đói nghèo vẫ đeo bám. Đó là làng chài Hiề “Đi đến cẳ
không g p m i, m t bóng nhà, không nghe m t ti ng chó, ch y một bóng ngườ ế th c đc
mt gi ng cây lá c c a nó không bao gi chín g i qu m t sát [7; 779], ng, có khía qu
q hương vùng biể nh trong n Ngh Mảnh đất nh yêu: Vùng ca bin làng tôi c
chng kho n.(...) c ng bing vài ba gi p, tr t l i v l i b má i đấ n đ t l ó nhng con só n vài ba
giáp, th m ch hai m i, m i l m gi p m t ch n t m th í ươ ườ ă á ới đ â i thă vùng c a bi n qu t i m ê ô t
ln [7; 776].
Trong c m nh n c a Quy ( Mảnh đất tình yêu), dải đấ ấy như “đã nghiềt n nát nh ng con
ngườ i ra r i v t lại theo cái hình thù đã có từ ngàn đờ i c a [7; 576]. B t v ởi lam lũ, vấ ả, đói
nghèo c đeo bám người min Trung t nhng năm tháng chiến tranh ti tn những ngày đất nưc
đã hòa bình, thống nht. Và Nguyn Minh Châu là m t trong nh ững nhà n đầu tiên can đảm t
chân cuc s ng u t ối đó: “Quê tôiQunh H i, thôn K Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn. D
d i l m. Dân L ạch Thơi nhiều nơi sợ vì ch có u ống rượu và đánh nhau. Rượu say, ng luôn bãi
bin. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi nht chng v . C làng m ngh chài lưới, ch ng
h c hành gì c . Tôi còn nh ông Điềm m u, c i tru ng n ng n ng, quỗi khi say rượ n v t lên vai,
đi vào trong xóm, lấ ần đánh chó. Gặp ai cũng chửy qu i tuốt. Nhưng vớ phi mt m bán bánh đa
ch làng còn d d i h ơn. Mụ tut váy ra, lấy váy đánh vào mặt. Lão Điềm phải thua. Có người
Đất và người min Trung trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu
33
uống rưu say, l y m nh thu tinh (dùng để co tinh nhng thanh giang ch l t) r ch ngang bng,
ru t s ra. Tr con chúng i l y r đựng ru t cho ông ta, bu c l i r ồi đưa đi bệnh vi Ông ta n.
chế t [9; 429].
vùng đấ mưa nguồ ấy con người, cái đói nghèo, cái t mà nng n n c níu và bám cht l
cơ cự ọ. Người đàn bà “ ấu xí và đau khổ”c mãi không chu buông tha cho h x trong Chi c thuyế n
ngoài xa hin lên v t m t m i sau mi “gương mặ ột đêm thc tr i, tái ngắng kéo lướ ắt dường
như đang buồ ữa cơm của gia đình người đàn bà “xương n ngủ” [6; 128]. Và b y trin miên vi
rng lu c ch m mu i . Áp l c cu c s ng khi i tr nên bi n ch t, khi n nh ng ông ến con ngườ ế ế
ch ng - tr c t c nên bủa gia đình trở o lc, tr thành nhng hung thn trong m t v con. Hình
nh gã ch ng c u xí vủa người đàn bà xấ ừa đánh vợ va th h ng h n ken ộc, hai hàm răng nghiế
két và ti ng r mày ch c ám c ng c h ế a ết đi cho ông nhờ” ảnh người đọ [6; 129]. Và tưở
v i s ng c i, khi n Hu trong - m i ph n ẫn đè nặng lên đờ ủa con ngườ ế Khách quê ra ột ngườ
v n thu c v a nh n l p lánh khi v v i lão Khúng thì l i t bi n mình thành nơi củ ững ánh điệ ế
một cái máy đẻ theo quan nim nhi v c nhi t [6; 580], v y quanh ều người để đượ ều đấ
năm nào đủ ếng ăn. Trên mảnh đấ ỏi nhưng vàn khó khăn và mi t khó này, luôn gng g
tai ương dường như luôn sẵn sàng n khi n cu c s i miập đế ế ống ngườ ền Trung như luôn gánh trên
vai hai ch nh c nh n .
2.1.2. Cái rốn của bom đạn chiến tranh, của đau thương, mất mát
Vùng đấ ền Trung đã khiến con người nơi đây vốn đã nht khc kh mi c nhn li càng tr
nên nh c nh thành cái r n c n chi n tranh. Không ph i ngày m t ngày ằn hơn khi trở ủa bom đạ ế
hai, m t tháng, m t n ăm mà suố ều dài đằng đẵng hơn 30 năm chiến tranh, bom đạt chi n gic thù
không ng t này. Hình cái r n c n chi n tranh n ừng trt lên đấ ảnh vùng đất ủa bom đạ ế ấy đã hiệ
lên đầ giai đoạn trước 1975 giai đoạy ám nh trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu c n
h u chi n, b c l ế niềm đau và tình yêu quặ ắt mà ông dành cho vùng đất quê hương. n th
Trong , t t ,... D i línhấu chân ngườ Hành quân, Chi n d ch bao vâyế i Đất gi i phóng
Nguy ng d y s tàn kh c c a nh ng cu c gi c ném bom oanh t c d c tuyễn Minh Châu đã dự ến
đườ ng huyết m c biạch Trường Sơn, đặ t nh ng tr t Quận đánh trên mảnh đấ ng Trị. Đây
hình nh chi a Khe Sanh m t mù b n pháo và ch c h y di t mang tên màu da cam ến đị ởi đạ ất độ
Chúng r i thu c hóa hốc độ c dùng máy bay B.52 r i bom theo li r i thm ,các cánh
rừng chung quanh đã quang đi tng vt, tng vt c tranh b thiêu cháy, các chân lèn đá
d c khe su phát quang, máy bay trinh sát các lo n l t ngày ối đã bị ại lượn đi lượ ại thăm suố
đêm. Ban đêm tùng chùm pháo sáng liên tiếp treo lử ầu sương thăm thẳng trong b m trng
rng tr ng núi [8,27]. Ngay c khi chi a s kh c li t, b o tàn ến tranh đã đi qua, tàn củ
bom đạn gic thù trút xu ng m t này v n hi ảnh đấ ện lên đầ ảnh trong văn họy ám c thi hu chiến
ca Nguyn Minh Châu. C t quãng l đi m i thy m t vài h n r i. Sau bom sâu đế ợn ngườ
hàng ch y, m i chân r t n - nh ng v t n t rục năm không cày cấ ặt đất dướ ắn như gang nứ ế ng
như những con đường giao thông hào và h t lên m bom, dây thép gai và mìn, bàn chân đặ ặt đất
v y th n tr ng và th nh tho ng i khi n cho mình ph i gi t b i lên ẫn rón rén đầ đâu đó lạ ế ắn ngườ
m t ti ng n , ch y m t chi trùm m t chi ế lát sau đã th ếc cáng đi qua, trên đòn cáng phủ ếc
chi u hay t [6; 721]. Nh ng di ch ng chi l t này khi n Qu ế ấm chăn” ến tranh để ại trên đấ ế
(Người đàn bà trên chuyến tàu tc hành) ám nh mãi không dt: Chúng tôi v đến ngã ba to
độ” vào m t bu i chiu. Tri v m vừa mưa dầ a mù, m t th đùng đục như sữa bánh đổ
xu ng t v a múc lên, màu vàng vàng b c kín l y c m y thân cây đấ ột vùng đất bát ngát lô lô đầ
đổ h bom [6; 98]. p các vùng v c gi“Tôi đã đi khắ ừa đượ i phóng cht hp, đâu trời cũng
trong xanh, tr i c t,... trong khi y, m t c s i màu thu xanh ngăn ngắ ặt đấ ạm đen bở ốc sng để
li [6; 109]. Còn L c ( ) - C lau người tưởng như đã tử trn trong chi n dế ịch năm nào, sau
nhi v ng l c ngôi m n ám nh b i tiều năm trở ề, khi đứ ặng người trướ mang tên mình cũng vẫ ếng
khóc nhi ng súng c i mi n Trung, b i s sinh c i, cều khi to hơn cả tiế ủa ngườ hi ủa con ngườ a
Hoàng Th Thu Giang Minh Tâm
*
và Vũ Thị
34
vùng đấ ủa con người nơi t này. c sau mi trn “đại hng thuỷ” B52 ca gic, cuc sng c
đây “y như vừa mi b u [10, 113]. ắt đầ
Đọc Min Cháy, D i lính n tàu tấu chân ngườ , Người đàn trên chuyế c hành C, lau...
độ ếc gith th y nhiu m t c i s i miủa đờ ống ngườ n Trung trong chi n tranh, t tình yêu đến
tình ngườ ức tranh thiên nhiên hoang sơ đế ận mưa bom bão đại, t b n nhng tr n mà gic M trút
lên đất này, và để ểu, thương cảm hơn vớ ải đấ ới 72 nghĩa trang liệt sĩ, hi i d t tuy nh hp mà có t
hơn 60 nghìn ngôi mộ tên, không tên đang yên vị ữa ngườ . Phi rt lâu n i ta mi th xoa
d t s khịu, làm vơi bớ c li t, tàn b o mà chi ến tranh đã gây nên cho khc ruột min Trung này.
2.1.3. Mang vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ lại cũng rất nên thơ, trữ tình
Tình yêu l n Nguy n Minh Châu dành cho d t mi n Trung không ch hi n ải đấ th
nh ng trang truy n ám nh khi ông vi t v s c kh , nh c nh ế kh ằn, đau thương của vùng đất
này mà còn th hi n nh m ch t tr tình khi ông ch m kh c hình nh thiên nhiên ững áng văn đậ
nơi đây. Đó dãy Trường Sơn trong hùng vĩ, tráng lD i línhấu chân ngườ - mt mnh ghép
không th thi u n u nh n thiên nhiên mi n Trung. Cây v n cao, r ng v ế ế ắc đế ẫn xanh, con người
ngày ngày v c chân trên m ng tr : t v ng n dẫn bướ ảnh đất đó, khoả ời đó M ù i đá ựng đứng đầy
v ng l ng, chim k u v n h t c ng kh ng, ch c n v n n i nhau ch y d i d c s ê ượ ó ũ ô ó i đá à i đá à ông
ô ũ í Đấm l y m t cái thung l ng m c mọc độ t th c mlau đang trổ t tr i hoa t m nh t [6; 490]. t
min n Minh Châu luôn hi n lên c hai m i l p Trung trong văn Nguyễ ặt tưởng như có phần đố
như vậ ằn nhưng vẫ ất nên thơ. Vẻ nên thơ của vùng đấy - nhc nh n r t chang chang nng gió y
trong thơ Hàn Mặc T là: làn n ng ng , “khói tan, nhng mái nhà tranh l m t m
vàng”, còn trong văn Nguyễn Minh Châu, nó Hoa lau phơ pht trên nn xanh uyn chuyn
ca r ng lau, th n c â ây lau c i r p xu ng t t, l ừng đợ á xanh loáng lên dưới ánh mt tr i r i tr
màu s m huy n b í trong v v n ti ng lô à ế á chm nhau x o x [6; 493]. S tinh t , nh y c m cà c ế a
Nguy u khi n các tác ph m c a ông không ch là nh ng ễn Minh Châu sau này cũng chính là điề ế
thước phim t chân đờ ống con ngườ ứa đự ức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng i s i mà còn ch ng b
l li cũng rất nên thơ, trữ tình.
Mang c c i con mi n Trung, su i Nguy n Minh Châu luôn nâng niu m ủa ngườ ốt đờ t
tình yêu v t r ới đất. Dù cho đó là thứ đấ tre đầy khô cng, thì nó vn là m t bao dung, nuôi ảnh đấ
dưỡng con ngư ủa ngườ ấy, đấ ảnh đấi. Trong ánh mt c i ngh t min Trung không ch m t
của hai màu đen trắ ững thướ ến tranh mà đó còn là mảnh đấng vi nh c phim khói la chi t rt tr
tình, nên thơ vớ ững bóng trưa xéo xuố ặt đấi màu xanh cây lá, vi nh ng m t, vi màu hoa lau tím
nh t ánh lên tít t p phía chân tr i.
2.2. Người miền Trung trong văn Nguyễn Minh Châu
Nguy n Minh Châu t ng tuyên b Thiên ch c c t ng : ủa nhà văn là suốt đời đi tìm hạ c n
gi u trong b sâu tâm h i . T l i, th ồn con ngườ văn nghiệp mà ông để thấy, ông đã dành
ph n l làm sáng lên nh ng h t ng c trong tâm h c bi t là ớn đời văn của mình để ồn con người, đặ
tâm h i mi n Trung. S ng trên m t kh c kh , nh c nh n, ch u nhiồn ngườ ảnh đấ ều đau thương,
mất mát, nhưng con ngườ n Trung trong văn Nguyễi mi n Minh Châu luôn bng sáng nhng
ph m ch ất đáng quý.
2.2.1. Gan góc, kiên trì, nhẫn nại, nghị lực sống phi thường
Nhân v t trung tâm trong sáng tác c a Nguy n Minh Châu c 1975 (ti giai đoạn trướ u
thuy p truy n ng n , u thuyết C a sông, t Nhng vùng tr i khác nhau ti ết D i línhấu chân ngườ )
hình tượng người nh. Đượ ện, trưở quân độc rèn luy ng thành t i, d hiu ti sao Nguyn
Minh Châu s ng v i s ng c n v y. Qua nh am tườ đờ ủa người lính đế ững hình tượng như
Bân, Lân (ti u thuy ); Huy ng Ng t, Lãm, ết C a sông ện đội trưở ạn, Vũ, Khai, Nguyệ Lê, Sơn,
Thoa, Yên,... (t p truy n ng n ); ng, Khuê, L , Thái Nhng vùng tr i khác nhau Kinh, Lượ
Văn,... (tiểu thuyết Dấu chân người lính), th thy Nguy c hễn Minh Châu đã khắ ọa được
Đất và người min Trung trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu
35
nh n hình c i chi ng, v a c , sin ng l i v a sững đường nét điể ủa ngườ ến sĩ cách mạ th h độ c
khái quát l n. M c ph n l i lính trong sáng tác th ng M c a Nguy n Minh ớn ngườ i ch
Châu là nh i con c t mi n Trung n h mang m u s chung cững ngườ ủa vùng đấ nhưng về cơ bả a
ngườ i lính c H trong văn học cách mng Vit Nam giai n chi n tranh. H mang trong đoạ ế
mình ph m ch i di n cho khí phách c a dân t c, gi ng nhau tinh th t anh hùng, đ ần căm thù
gi c và s n sàng chi u, hi c. h , ý th ến đấ sinh vì quê hương, T qu ức cá nhân đã hoà vào với
ý th c c ng, cu i c a m i ng i g n li n v i s ph n c a dân t c, v n m nh c ộng đồ ộc đờ ườ ủa đất
nướ ế bướ c: M i th h c vào cu c chi u vến đấ i m t dáng cầm sng khác nhau… Ngày xưa,
nh i lính nông dân c m kh chi u cho T qu ng th i cho mững ngườ ẩu sng để ến đấ ốc đồ ảnh vườn
và mái nhà c a mình. Hôm nay, nh i chi t d i r ng ững ngườ ến sĩ mà Thái Văn đã đi theo h su
Trường Sơn, họ giã gia đình, trườ ống tương lai đẹp đẽ t ng hc và t giã mt cuc s hết sc ...
H t b cái trái h ng h c u ạnh phc đã ồng trong vườn nhà mình để ầm sng đi chiến đấ
[8;371]. V i mi n Trung trong sáng tác Nguyới đặc điểm này, con ngườ ễn Minh Châu giai đoạn
trước 1975 chưa mang màu sắc riêng bi t.
Nhưng từ sau 1975, v i hàng lo t tác ph m cùng s ng nhân v o (trong các ti lượ ật đông đả u
thuyết Min cháy, L a t ng ngôi nhà, nh Những người t trong r ng ra, Mảnh đất tình yêu; các
t p truy n Người đàn trên chuyến tàu t c hành, B n quê, Chi c thuy ế ế n ngoài xa; các truyn
va Phiên ch Giát, C lau ), có không ít nhân v i con c a nhật là ngườ ững vùng đất khác thì
ch t ngư i mi n Trung v i nh ng ph m ch t đặc trưng: gan góc, kiên trì, nh n n i, ngh l c
sống phi thường đã trở nên đặc biệt đậm nét và ta sáng trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu.
Đọc văn Nguyễ giai đoạn sau 1975, độn Minh Châu c gi thm thía thc tế có quá nhiu
cái khó ngườ ồng gánh trên đôi vai, từ đó thấ ại sao con nơi đây i min Trung phi g u hiu t
ph i m nh m n v y - m đế nh m n b đế ất thường. Con người ta thường c gng mnh m mt
ho c m t s t qua nh ng bão giông b a vây, còn v i i mi n Trung, giai đoạn nào đó để vượ ngườ
h m nh m nh n n i c i, t i khác. Qua các sáng tác th i h u chi n, cuộc đờ đời này sang đờ ế
Nguy n Minh Châu giúp ta hi u ra r ng chính s sàng l c d d c a m t vùng thiên nhiên i
kh c nghi t v n, s i ti u ki n s ng kh c nghi t và d ới đất đai khô cằ ỏi đá, thờ ết ẩm ương, điề đội
đã tôi luyệ ững con ngườn nên nh i mi n Trung s ắt đá” c v th cht và tinh th n.
S i kh c nghi t c t mi c nên nh khó khăn, sự đào thả ủa vùng đấ ền Trung đã tạ ững con người
mang v p c a chí khí. Quy trong y trong chính ngôi làng chài đẹ M nh t tình yêu đấ đã nhìn thấ
Hiền An yêu thương Tĩnh củ ững con ngườ vùng bin Ngh a mình nh i vi mu s chung:
M ói con s ng như v y dù đã ô ô x n tảy đế l i, tâu đờ khi ng t i ch , vưa đẻ n r ch m ết v t
thươ â ng r t sâu vào t m khm c a ông t i, l m h n l n trong t nh c ch con ng ng t i cô à ê í á ười ô ô ái
đứ ô ô í”c tính kiên nh y vẫn đầ v ng nhưng vn kh ng h bao gi nh t ch [7; 777]. Người min
Trung b n mùa bán m v n kiên trì v t c t m ra c khoai ặt cho đất, bán lưng cho tri ục đấ
ht lúa, nh ng lò n u mu i v l ẫn đỏ ửa thâu đêm. ai đó đã so sánh con người nơi đây như
những ‘con tràng - c mit mài, không qu , cho ản ngày đêm, nắng mưa se cát, làm t
ngày mai i b t tr p m t h i mi n Trung v còn l i nh yêu cuộc đờ đấ i cướ ết thì ngườ n
cu c s ng hai bàn tay không ngng làm l ng [7; 812]. Trướ ổ, ngưc bão giông, gian kh i
min Trung v u c ng viên nhau ti p t c bám tr v t, ẫn đan tay, chung lưng đ ật cùng độ ế ới đấ
quyết làm cho đất n hoa.
Nhn xét v i x Ngh , nhà nghiên c ng Thai Mai có vi Các nhà vi t phong ngườ ứu Đặ ết: ế
th ngày xưa cho rằng con người x Ngh can đảm đến suấ ần đế ều lĩnh, kiên t, c n li
quyết đế ện đế ẽ, đây nn kkhan tn ti n... gỗ” [11; 142]. l g mu s chung ca
ngư i mi n Trung. Qu thật, con người nơi đây dường như đã đánh cược mng s ng ca
mình, ần cù, chăm chc vi thiên nhiên d di bng s c , s thích ng nhanh nhy
ngh l ng. ực phi thườ
Hoàng Th Thu Giang Minh Tâm
*
và Vũ Thị
36
Thường thì vùn t nào tg đấ ạo nên con người đó. Đất đai tươi tốt, con người ng sẽ tràn đầ y
s c s ống và ngược lại. Điều kin s ng kh c nghi ệt đã đc nên người min Trung se s t. V con
ngườ i mi n Trung, nhà nghiên c u Nguy ễn Đăng Mạnh c m nh n: h cht phác, c c m ch, l c
lưỡng, như mọc lên t s ỏi đá, nh sóng gió, bão táp mà luyện thành xương sắt, da đồng [1; 544].
Và nhng đặc điểm đó của người mi n Trung m t ln nữa được th hiện sinh động, đậm nét trong
thế gii ngh thu t c a Nguy n Minh Châu. Trong ng h ồi tưởng ca Qu (Người đàn trên
chuyến tàu t c hành ) hình nh nh: ng ông già đầu b c, nh ng em b é giơ cao chiếc cuc r t n ng
b xung cánh đồng đất r n nh ư gang [6; 164], hình nh b àn tay người m “đầy nh ng v t chai ế
s o t bao đời [6; 164] khiến độc gi không khỏi xót xa. Định trong Khách quê ra đã nhìn
ngm thật lâu đôi bàn tay củ ắt Hoè đểa lão ch ri phi c m thán: ng còn là hình thù c a m Ch t
cái bàn tay con ngư ữa! Hai bàn tay lão đầi n y nhng ch n i u n i c c, các ngón v n v o và b c
m t l p da gi ống như thứ v cây và c bàn tay lão gi ống y như một toà r cây va mới đào dưới
đất lên [6; 607]. Đó là những đôi bàn tay của lao động c n lao, tuy thô ráp, th m chí x ấu xí như
m t t m da tr âu... [6; 164] nhưng lại nhng đôi bàn tay vàng góp s c ki n thi ế ết mảnh đất
min Trung t đói nghèo m rạ vươn lên mnh m như ngày hôm nay.
Sc s ng c ủa con người nơi đây thật diệu. Âu cũng bởi h không s la chn khi
đứ ng gia b t trốn phương tám hướng đấ i mà ch có đất khô đang rữa ra tng m ng, là nng gió
rát da và nh ng tr n bão bi n mi n Trung tr thành cái r n c a nh ng bi k ch thiên nhiên. Ch ế
còn m t cách duy nh t là ti p t c s ng, ch p nh n kh c s ng ế ốn khó mà vươn lên. Nếu như đượ
mt cu i khác, m t m t khác, l h s nhàn h u th , l ộc đờ ảnh đấ hơn chăng? Nhưng nế ế
ngườ i mi n Trung s không khi i ta kính tr n vến ngườ ọng đau đáu niềm thương yêu đế y.
Trên m i n i mi n Trung mi m c m t, th m chí ảnh đất này, đờ ối đời, ngườ ệt mài đổ hôi, nướ
máu c t n hoa. Kiên trì, nh n n i ngh l c tuy không ph i là ph m ch t riêng ủa mình cho đấ
c i mi ng ph m ch ng tr c c a ủa ngườ ền Trung nhưng quả thực, đó nhữ ất thườ con người
nơi đây. Lão Khng (Khách quê ra ) đã tranh ch p v i r ng t c chân không ch ừng bướ
tr giá b ng m hôi c bng máu [6; 516]. Điểm, ch Khơi (Mảnh đất tình yêu) hay
người đàn bà làng chài trong Chi c thuy n ngoài xaế cũng mang những phm cht y, luôn mang
trong mình ngh l c s ng. ống kiên cườ
th y, trong th i ngh thu t c a Nguy n Minh Châu (ch y u trong th gi th ế gi ế ế i
nhân v a ông thu n sau 1975), các nhân v i miật văn xuôi củ c giai đoạ ật (mà đa phần ngườ n
Trung), tuy m i m t s c v u khi c gi i loài kiêu sa ỗi ngườ riêng nhưng đề ến độ nghĩ tớ sen đá nở
trên nh t khô c n. ững vùng đấ
2.2.2. Chung tình
Người miền Trung “mình đồng da sắt” nhưng trái tim của h vn luôn chy mt dòng máu
chung tình tình c”. Đó là thứ m gi i v i, gi i v t, gi i vữa ngườ ới ngườ ữa ngườ ới đấ ữa ngườ i linh
h n. Trong m i hoàn c nh nh v n luôn t n t i nh ng th i kh c gian lao, người nơi đây
quy t li t nh t. ế
2.2.2.1. Chung tình với đất
L t gánh c v i sóng bi n nh ng trớn lên trên vùng đ hai đầu đất nướ n mưa gào gió
gi t, dù vi t v m t nào thì c n Trung v n luôn n hi ế nh đấ hơi thở a mi hi ện trong trang văn
Nguy n Minh Châu. l làng nh H i, thôn K ch Quèn Đó à Qu Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạ nơi ông
sinh ra, d d bình yên l t Qu ng Tr n i lm cũng m”. Đó mảnh đấ nơi ông gắ
máu th ng thú nh n thì Cái m t Qu ng Tr gịt, như ông t : ảnh đấ ần như tôi si nó, hình
như trong con ngườ ảnh đấ ạm đến đấi tôi và m t y có chung mt si dây thn kinh mà h c ch y
thì c i tôi rung lên ; 469]. a sông , ng con ngườ [9 Đó còn bao ngôi làng, bao c nh
vùng tr i khác nhau d i lính Nguy n Minh Châu t p d ấu chân ngườ ừng đi qua trên khắ i
đấ đật min Trung này. T t c nhng v o nên mùng đất đó đã tạ t ch t mi n Trung m nét trong
văn Nguyễn Minh Châu: S chung tình v ới quê hương, xứ ới vùng đấ x, v t mà h sinh ra.
Đất và người min Trung trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu
37
Trên m t nh c i v n bám l i. Hảnh đấ nhn ấy, con ngườ tr “quý đất như quý con, còn
hơn cả con ;132]. Trong m m n n i ph i c [6 ắt người phương khác, có thể ảnh đất này không đế
sng c chết bám tr n v y, i nh t r đế nhưng, vớ ững con người đã chôn rau cắ n nơi này thì
khác: , , h n tranh, m i lúc ra vùng giáp ran ng b ng, “Ừ cũng lạ ồi còn đang chiế h để xuống đồ
ph ng b hoang, chung quan n b t, mình v n th y ti c, v n ải đi qua những cánh đ h chân các đồ ế
thy xót ru n sau ngày hoà bình m i càng th y ti c t ng t t b hoang - t ng ột nhưng chỉ đế ế ấc đấ
tất đất bao nhiêu người đã phải r máu để đã nhìn giành ly [6; 542]. Nguyn Minh Châu
thy, ch ra m i liên h thiêng liêng gi n bó, chung ữa người đất nơi này. Họ yêu thương, gắ
tình v y th t kh c nghi t. Quy trong ới vùng đất này, dù vùng đất Mảnh đất tình yêu tin tưởng:
ê ế à ê àTình y u c ôa t i s như m t ch t k t dí nh c a m t nảnh đấ y. Tình y u c ôa t i s gi b n chân
Hoa l i v i c i m t v a gi u thi n ki n v a gi u l ng bao dung n y [7; 1003]. M hôi, á ảnh đấ à ê ế à ò à
nướ c m t c máu trên m t thđã đổ ảnh đấ i la ấy nhưng Quy vẫn nhìn thy sâu bên trong
lp n t n kia s p , lòng bao dung c i v i v ủa thiên nhiên đố ới con người. Còn đố i
Khúng trong thì gi cái g c, h nhà mình ch nên s ng v tKhách quê ra “để ới cái hòn đấ
[6;518] Ngay c nh - v c a Khúng ng h n, khi v v. ững người tha phương, như Huệ ch i
mảnh đấ , cũng sự ện đết min Trung bão táp này gn b n mc: chừng như đấ ột ngườy là m i
đàn bà đã quyết tâm đoạn tuyt vi gc gác thành phố” [ 523]. 6;
Ngay c n chung tình v t: Có m t chuy : m người đã khuất cũng vẫ ới đấ ện cũng lạ ột anh đi
bi n g p bão, ch , c trôi quanh co theo con L ết ngoài khơi xa, xác trôi v ạch Thơi vào đến
t in c a nhà mình m i d ng l [7; 429]. Câu chuy n ph n huy ền bí, nhưng nó nói lên một
s tht r i mi c bi t g n bó v t r n c a mình. Khi còn s ng ằng ngườ ền Trung đặ ới nơi chôn rau c
và c n mu n v l i v t m hít hà th gió bi t c khi đã chết đi, vẫ ới đấ ẹ, để ển, mùi đấ ủa quê hương,
ca yêu thương.
Cũng chính tình yêu với đấ ới quê hương nên khi giặc xâm lăng, cũng như mọt, v i
ngườ i Vi c trên khệt yêu nướ p lãnh th hình ch S, người min Trung b t khut, kiên trung
chi i gi c thù: Hàng ch i, bao nhiêu th giến đấu đánh đuổ ục năm nay cũng như t ngàn đờ c
ngoại xâm đến đây đều b t g c trong cái làng quê hi n lành m t màu xanh y [7; 858]. chế
Dũng (Khách quê ra) s n sàng buông cu c cày, cm sng lên đường đánh giặc. Bi tình yêu vi
đất nước, quê hương luôn thường tr c trong h b i h , ý thức được: Dù ch là vài cái mả, nhưng
địa hình đó vô cùng lợi hi cho bên nào chiếm được [6; 455]. Vi h, đất chính là máu tht.
2.2.2.2. Chung tình với người
Con ngu i mi n Trung chung tình v n ng tình v i. ng nh ới đất và cũng rất ới ngườ Cuc s c
nh t l t nhiên, t trong l ch s i miằn, như cây tre vươn lên từ đá sỏi, như mộ dài lâu, ngườ n
Trung đã luôn ện vào nhau để ững năm thángb vượt lên. Trong nh chiến tranh, sbn y
càng b c l đậm nét, khi người dân nơi đây giang rộng cánh tay ca mình bao bc, ch che
nh i chi tình yêu T qu x d c n v nh ững ngườ ến sĩ, c ọc Trường Sơn đi cứu nướ mà đế i m
đấ t này. Theo tiếng g i c a T qu c, b Quy ( sMảnh đất tình yêu) đã tới nơi đây, ông
không th s c trên m y n u n a r ống sót đượ ảnh đất ế hư: Gi ốn địch lc nào cũng đầy đe doạ
nguy hi i và tình c m cách m ng trong lòng m tôi ông ngo i tôi ểm, cái tình thương ngườ
th ,… m chí ch thiếu h t ụt đi mộ thì s không bao gi b tôi tìm đượ ốn nương náu và tấc ch t
nhiên s không bao gi i [ 646]. M ( ) n sàng ôm tôi trên đờ 7; Điểm Mảnh đất tình yêu đã sẵ
tr n l n cấy viên đạ a k che chthù để n cho cán b chi . Và Thai (ến sĩ C lau) rđã mở ng vòng
tay cưu mang những ngườ ừng Trường Sơn vàoi làm cách mng trong nhng cánh r nhng ngày
gian khó nh t.
Trọng nghĩa, trọng tình cũng là một đặc điểm ni b t c ủa người mi n Trung . Ông ngo i Quy
(Mảnh đất tình yêu) luôn đau đáu mong một ngày: tr v v i v con và bà con trong thôn m
từng làm ăn bên nhau ngày xưa 901]. Đ [ 7; nh (Khách quê ra) luôn cm th y còn mc nn
Hoàng Th Thu Giang Minh Tâm
*
và Vũ Thị
38
n v i Khúng v i b m Khúng nói chung v i nh ững người rut làng [ b6; 542] i
những ân tình mà anh đã nhận được t những con người ch t phác, m c m ạc nơi đây.
Ngườ i Vit Nam v i sốn có đờ ng tâm linh mnh m. Vi nh i còn ững người đã khuất, ngườ
sng v ng theo, có s k t n i tâm linh, g n b n tâm tình. V i mi n Trung, s ẫn luôn hướ ế ới ngườ
g n k t gi a hai th gi a. l b i trên m t nh c nh n, ế ế ới âm dương càng nét hơn nữ ảnh đấ
gian khó, cái r n c n chi i dân, chi ng trong quá ủa bom đạ ến tranh này, bao ngườ ến sĩ đã ngã xuố
trình lao độ ấc đấng và bo v T quc. Trong mi t t, mi cành cây, ngn c, mi con sông, con
su ế i ca d t miải đấ n Trung gy gu c này có bi t bao linh h n trú ng . Vi c m quan, ni m tin
như vậy, nên trướ ạch Hãn, Dương (cực dòng Th u binh Thành C, nhà báo tnh Khánh
Hòa) tha thi t nh n gế i: Đò xuôi Thạ ẹ/ Đáy sông còn đó bạch Hãn xin chèo nh n tôi nm/
tuổi 20 thành sóng nướ bãi mãi ngàn năm ời ngườc, V yên b (L i bên sông). Và các nhân vt
ca Nguy ng s gễn Minh Châu cũng có nhữ n kết thiêng liêng v i nh ng linh h ồn như vậy. Phi
Phi trong Tôi ch thi t m t chút n i tình c l n l n C lau: ế ắm xương của ngườ ủa tôi đang bị
v [ 513]. Quy trong ng l ng khi cới đất đây” 6; Mảnh đất tình yêu đứ m nh n th y người cha đã
hi sinh c a mình, m trong n m m c xanh i d y tâm tình cùng ông ngo i: đang nằ như đang ngồ
ếTôi c l ng tai nghe th xem ông tôi nói v i b tôi nh c mững gì nhưng chỉ nghe đượ y ti ng
nhí, g n gi g i loài cá c a ông lão B . Tôi bi ngôn ng nói chuy ống như ngôn ngữ ết đó là thứ n
v i ch t [7; 855]. Dù s ng hay ch t, tr n thới ngườ ế ế ế hay cõi hư vô, dòng máu nóng ấm vn luôn
chy trôi i l t kia. N i s ng b o v gi i c a nh m n ng thì dướ ớp đấ ếu ngườ thế ững hơi thở
nh p t c tr ng trách c a h b o v c a T qu c. ững người đã tử trận cũng đang tiế ‘long mạch
Nguy n âm n hi n trong cu c s ng c i mi Minh Châu đã cho thấy hơi thở dương hiể ủa ngườ n
Trung. Trong ngày gi n c a làng chài Hi n An ( ), Phan c m nh c: tr Mảnh đất tình yêu ận đượ
Sáng ngày ra va m m y kh ng, tha ma, ngắt, làng đã đầ ắp người đã chết…Từ ắp đố n
ngang kéo lên hàng trăm hàng ngàn vị ủa làng lũ lượt đi trên đườ khách c ng làng [ 1008]. Có 7;
l, nh ng c m th y không ch ức tâm linh như vậ m ột vài cá nhân mà đó là linh cảm thường
thy trong tâm th c c ủa hàng ngàn con người min Trung.
2.2.3. Giàu trí tuệ và khát vọng
Trên d t miải đấ ền Trung, nhìn ra trước m t là bi n, là sông, là phá, ngo nh ra sau là núi non
điệp trùng. Đ đất đai không màu mỡ, thiên nhiên, mưa gió chiu kin sng khc nghit, ng my
thu n hòa, v i mi n Trung v n c t n hoa. Trên ậy nhưng ngườ vươn lên, vẫn làm cho đấ min
đấ ế t cháy, mi t chền đấ t, mi t giao tranhền đấ , mi t nhiền đấ m ch i miất độc, ngườ n Trung vn
sống đượ ối đờc và ta sáng nhng giá tr. Đời n i, h đã gây dựng đượ ộng đồc c ng nhà ca
thôn xóm m cúng, cu c s i b t di t c i v i nh i ống lâu đ ủa con ngườ ững con sóng đờ
hình đầy nghit ngã [ 858]. 7;
Điề ếu gì, ph m ch t c i mi ủa ngườ n Trung giúp t o ra giá tr y? N u ch gan góc,
kiên trì, nh n n i, ngh l c,... thì chưa đủ. Điề con ngườu ct yếu chính là: khi óc, là trí tu i và
khát vọng vươn lên của con người nơi đây.
Lao động là u luôn điề thường trực trong suy nghĩ của ngưi min Trung. B i ch có lao động
m i th giúp h c i t o cu c s ng, gây d ựng nên cơ nghiệp. Trong lao động, h không ch
những người mi t mài, c n m ẫn, chăm chỉ mà còn b c l m ch t trí tu ph khát v ng l n . Đó
chính là cm nhn ca Quy (M nh đ t tình yêu) khi nghĩ về làng mình: Làng tôi, cái làng đánh
lâu đờ ời ông bà đếi t th n gi, bao gi cũng có những người lái thuyn tài gi i, mang trong mình
t t c ng khát v ng và trí khôn c a c nh ng để đi chinh phụ c bin cả” [ 1098]. Kinh nghi7; m
và trí tu lao động được ông ngo i Quy - v ng lão c a làng th n khi d a cháu trư hi ặn đứ
trai mà ông yêu thương: Ngh làm ăn của dân bin mình ngh đấu trí, đấu lc vi ông tr i.
Thò tay vào cái r n b để dò tìm cái miếng ăn đâu phải là m t vi c d , đâu có th bt chp Tri
Đất được [ 878]. Cu c s7; ống đã dạy người miền Trung, người vùng bi n Ngh Tĩnh nhiều
nướ c m t ấy, gip con người sng c n ph ải tinh khôn hơn. Kiếm l y mi ếng ăn không hề đơn giả n,
Đất và người min Trung trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu
39
tìm ch trú ng trong những đêm biển động cũng không phải chuyn qua loa. c n y mCh sẩ t
chút s không ai có th tr v v i mt chi c thuyế n lành ln. T trong cu c s ng g n vi biển như
vy, con người min Trung có s trưng thành trong trí tu đ nuôi dưỡng khát v ng mang l i m
no, hnh phúc, s ng thcườ nh cho quê hương, đất nước.
Trí tu là m t trong nh ng ph m ch t quan tr i mi ọng gip ngườ ền Trung vượt qua bom đạn
chi n tranh kh c li t. Nh s t nh táo nhanh nh y c a m ông ngo i cha c a Quế
(Mảnh đất tình yêu) đượ “đi ngoài đường làng hay bước cu sng khi mà: c vào các ngõ xóm
đề u giáp mt lính, không M thì nguỵ, không thì cũng chỉ đi m, ho c tai mt c a chúng cài vào
trong dân [7; 793]. Hoà - i yêu c a Qu trong ngườ Người đàn bà trên chuyến tàu tc hành đã
t trận nhưng vẫn luôn hin lên vi mt v đẹp đầy trí tu mi khi Qu nh đến: Hoá ra th i
nào cũng có những con người như anh ấy, tp trung trí tu và tài năng trác tuyệt ca nhân dân và
mang trong lòng t t c khát v ng cháy b ng c a nhân dân ; 129]. [6
Khi đất nước đã hòa bình, thố ại đượ ắc nét trong lao động nht, phm cht y l c bc l s ng,
sn xu t, g n v i khát v ng h i sinh, phát tri c. L c ( ) ển quê hương, đất nướ C lau luôn mang
trong mình ng n l a khát v ng v m t cu c s ng t khát v ốt đẹp hơn, ọng thay đổi quê hương từ
một vùng đất hoang sơ, nghèo nàn, chó ăn đá ăn sỏ ột nông trười tr thành m ng rng ln:
Làng xóm nay mai s không còn k giàu người nghèo, bướ nhà nào cũng no đủc chân vào , ai
cn gì có th c n y, m v i nhau vui vọi người ăn ở , t t ế trên tình đồng chí vi nhau [6; 546].
Phan ( ng khát v ng m t ngày không xa anh th khôi phMảnh đất tình yêu) lại nuôi dưỡ c
truy n th ng làng ngh c m m: Cái ni m vui th c s c a no làm nướ ấm chưa đến nhưng niềm
vui đầy mong manh c v ng no u hé ra [ 957]. a hi ấm đang bắt đầ 6;
Ngườ i min Trung trong sáng tác c a Nguyn Minh Châu không ch hin lên vi v ngoài
cn cù, bt khu t, v i ngh l c s ng, tr n ng tình còn là nh ống phi thườ g nghĩa trọ ững người
con s ng có trách nhi m v kh c , h v n sáng ng i v p trí ới quê hương. Trong sự ực trăm bề đẹ
tu cùng khát v ng, xây d ng và ki n thi t d t kh c nghi y. Nguy n Minh Châu ọng lao độ ế ế ải đấ t
đã gieo vào lòng độ ấn tượ ếng nói đầ vươn c gi sc hp dn, s ng và ti y t hào v sc mnh, s
lên m nh m t trong cái khó, cái kh tìm ra giá tr c c a cu c s ng c để đích th ủa con người
nơi đây.
3. K t lu n ế
hai mi n Nam - B c, mi n Trung v n luôn ng i sáng v p c a m t n n “đòn gánh” đẹ
văn hoá độ ản. Vùng đấ ải bao đau thương, mc b t y khc kh, nhc nhn, phi nếm tr t mát
nhưng vẫ ời, ni đồ nên thơ, trữ ẫn mãi hùng n luôn ngi sc xanh ca bin tr i, vn c nh, v
tráng l i mi ng, nh n n i s ng v i ngh lệ. Trên vùng đất ấy, ngườ ền Trung kiên trì lao độ c
phi thườ ới đấ ới ngường. Chung tình v t, chung tình v i, mang trong mình khát vng sng mãnh
li t v i trí tu, tinh thn sáng t i miạo, ngườ ền Trung vượt lên gian khó để phát trin. Qua nhng
trang vi ng, hàm súc, giàu nh nh, giá tr nâng t c c a Nguy n Minh ết đ ầm người đọ
Châu, đất người min Trung to sáng trong chiu rng không gian chiu dài thi gian,
gieo yêu thương trong lòng người.
TÀI LI U THAM KHO
[1] , 2001. Nxb - Nhiều tác gi Nguyễn Minh Châu, tài năng sáng tạo nghệ thuật. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
[2] - Nhâm Thìn ( 2009. Nguyễn Văn Long đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975,
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy. Nxb Giáo dục.
[3] , 2013. . Hoả Diệu Thuý Hình tượng người phụ nữ trong ng tác của Nguyễn Minh Châu
Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, số 58, trang 49-56.
Hoàng Th Thu Giang Minh Tâm
*
và Vũ Thị
40
[4] , 2007. Nguyễn Thị Thanh Đề tài chiến tranh qua một số tác phẩm văn xuôi việt Nam từ
1945 đến 1975. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, -25. số 02, trang 22
[5] , 2010. Phạm Thị Hồng Vân Thiên nhiên trong sáng tác Nguyễn Minh Châu. Luận văn
Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
[6] , 1999 . Nxb Nguyễn Minh Châu . - Nguyễn Minh Châu tuyển tập truyện ngắn Văn học,
Nội.
[7] Nguyễn Minh Châu, 2001. Nguyễn Minh Châu toàn tập - . Nxb tập 2 Văn học, Hà Nội.
[8] Nguyễn Minh Châu, 2004. Dấu chân người lính. Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[9] , 2007. . Nxb Nguyễn Trọng Hoàn Nguyễn Minh Châu về tác gia tác phẩm- Giáo dục,
Hà Nội.
[10] , 2011. Nhiều tác giả Nguyễn Minh Châu – tác phẩm và lời bình . Nxb Văn học, Hà Nội.
[11] , 1988. Trần Đình Hượu Chí Dũng Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
ABSTRACT
Land and central people in Nguyen Minh Chau’s compositions
Hoang Thi Thu Giang and Vu Thi Minh Tam
*
Faculty of Pedagogy, Ha Long University
The article focuses on two main points: Land and Central people in Nguyen Minh Chau's
compositions. This Central regional land is harsh and hard because of rocks weather, and ,
especially it is the navel of war . With his love and respect for the land, Nguyen Minh Chau
has found its poetic, lyrical nature as well as its majestic and magnificent beauty. Also, on this
land, the face of the Central people shines with the beauty of perseverance, patience, and
extraordinary energy. People the Central region have a loyal personality: loyal to the land and in
loyal to people, even to the souls of the sacrificed). Even though, people in this land are full of
creation, intelligence, and a strong desire to live despite hardships and difficulties. Nguyen
Minh Chau is always in pain, longing to find the pearl hidden in the depths of the human soul
through his written works about the Central people. As a result, he found such precious pearls
and brightened them.
Keywords: land and people, central region, Nguyen Minh Chau.
| 1/10

Preview text:

HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2023-0004
Social Sciences, 2023, Volume 68, Issue 1, pp. 31-40
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
ĐẤT VÀ NGƯỜI MIN TRUNG TRONG SÁNG TÁC CA NGUYN MINH CHÂU Hoàng Thị Thu Giang* Minh và Vũ Thị Tâm
Khoa Sư phạm, Trường Đại hc H Long
Tóm tt. Bài viết tập trung vào hai nội dung: Đất và Người miền Trung trong sáng tác
Nguyễn Minh Châu. Đất miền Trung khắc nghiệt, nhọc nhằn v
ì sỏi đá, vì thời tiết, vì là “cái
rốn của chiến tranh”. Nhưng với tình yêu và sự nâng niu, trân trọng, Nguyễn Minh Châu đã
tìm thấy sự nên thơ, đậm chất trữ tình cũng như vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của mảnh đất này.
Trên mảnh đất ấy, “gương mặt” người miền Trung tỏa sáng với vẻ đẹp kiên trì, nhẫn nại,
nghị lực phi thường. Không chỉ có thế, người miền Trung còn rất chung tình: Chung tình
với đất, chung tình với người (kể cả với linh hồn người đã khuất). Và, trong gian khổ, khó
khăn, người miền Trung vẫn vươn lên với trí tuệ sáng tạo và khát vọng sống mãnh liệt.
Luôn đau đáu, khao khát đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người”,
Nguyễn Minh Châu, qua các trang viết về người miền Trung của mình, đã tìm được và làm
sáng lên những hạt ngọc quý ấy.
T khóa: đất và người, miền Trung, Nguyễn Minh Châu. 1. Mở đầu
Bắt đầu cầm bút từ những năm miền Bắc hòa bình (truyện ngắn đầu tay Sau mt bui tp -
1960) và xuất hiện trên văn đàn từ những năm chống Mỹ (tiểu thuyết Ca sông - 1967), cho tới
sáng tác cuối cùng (truyện vừa Phiên ch Giát - 1989), với hơn 3 thập kỉ cầm bút, với những tác
phẩm giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu được đánh giá là nhà văn có vị trí
quan trọng trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt, từ sau mốc 1975, ông “thuộc số
những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” [1; 11]. Chính vì vậy, từ lâu, Nguyễn Minh
Châu và những sáng tác của ông đã trở thành đối tượng tìm hiểu của nhiều công trình phê bình nghiên cứu văn học.
Trong hành trình nghiên cứu dài lâu về nhà văn “đi tiên phong trong công cuộc đổi mới
văn học, thể hiện tinh thần đổi mới văn học hết sức triệt để” này [2; 57], vấn đề “con người và
vùng đất miền Trung trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu” ít nhiều đã được một số nhà
nghiên cứu đề cập đến. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, trong bài viết Nhng ngày cui cùng gp
Nguyn Minh Châu đăng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 3, năm 1989 đã khẳng định viết về
con người và mảnh đất miền Trung “là sở trường”, “đất làm ăn” của Nguyễn Minh Châu
[1;544]. Các nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan, Nguyễn Văn Hạnh, Trung Trung Đỉnh cũng đã
chỉ ra con người và mảnh đất miền Trung chính là mảng hiện thực quen thuộc trong sáng tác
Nguyễn Minh Châu. Còn Hỏa Diệu Thúy, trong bài viết Hình tượng người ph n trong sáng
tác ca Nguyn Minh Châu [3] đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội đã chỉ ra
điểm chung ở những người phụ nữ trong văn Nguyễn Minh Châu là sự rắn rỏi, khoẻ khoắn, mà
phần lớn trong số đó là phụ nữ miền Trung. Trong bài viết Đề tài chiến tranh qua mt s tác phm
Ngày nhận bài: 5/1/2023. Ngày sửa bài: 22/1/2023. Ngày nhận đăng: 7/2/2023.
Tác giả liên hệ: Hoàng Thị Thu Giang. Địa chỉ e-mail: hoangthithugiang@daihochalong.edu.vn 31
Hoàng Thị Thu Giang* và Vũ Thị Minh Tâm
văn xuôi vit Nam t 1945 đến 1975 [4] của Nguyễn Thị Thanh, đặc biệt, trong bài Thiên nhiên
trong sáng tác Nguyn Minh Châu [5] của Phạm Thị Hồng Vân đều được đăng trên Tạp chí
Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, các tác giả đã khẳng định thiên nhiên vùng đất miền Trung
thường hiện diện trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Có thể thấy nhiều nhà nghiên cứu đã
nhận ra, chỉ ra sự gắn bó máu thịt của Nguyễn Minh Châu với miền Trung. Tuy nhiên, những
nghiên cứu, công bố có liên quan đến vấn đề “con người và vùng đất miền Trung trong các sáng
tác của Nguyễn Minh Châu” mới chỉ dừng lại ở một vài nhận định sơ lược hoặc ở một phương
diện, phạm vi đối tượng cụ thể trong sáng tác Nguyễn Minh Châu. Vì vậy, bài viết này tập trung
phân tích, đánh giá khái quát ở hai nội dung: Đất và người miền Trung trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Dải đất miền Trung trong văn Nguyễn Minh Châu
2.1.1. Dải đất khắc khổ, nhọc nhằn
Từ bao đời, miền Trung vẫn là mảnh đất được yêu thương và đồng cảm nhiều hơn các vùng
đất khác. Có lẽ vì nó là đất khó. Khó ở đất đai, khó ở thời tiết nên khúc ruột miền Trung được
gọi là dải đất của sự khắc khổ và nhọc nhằn. Địa hình của miền Trung không rộng dài như đồng
bằng sông Hồng hay đồng bằng sông Cửu Long mà nhỏ hẹp theo chiều Đông – Tây. Phóng tầm
mắt là thấy đồi, núi, “một đèo, một đèo, lại một đèo” (Hồ Xuân Hương). Đã nhỏ hẹp về chiều
ngang còn bị chia cắt bởi dãy Trường Sơn nên khí hậu nơi đây thật “khó chiều”. Bắt đầu bước
vào vùng này là có thể cảm nhận ngay thứ gió Lào khô, nóng, thứ thời tiết mà mặt trời “ưu ái”
mặc “lớp áo lửa” mỗi ngày. Đất nơi đây hiện lên: “chung quanh mùi rễ cỏ tranh ngai ngái” với
“dư âm ken két đầy rền rĩ của những chiếc xe cút kít” [6; 544]. Đó là sự ám ảnh của Quỳ với thứ
đất “gan lỳ” như thách thức con người trong Người đàn bà trên chuyến tàu tc hành: “Lưỡi
cuốc bập xuống cảm thấy hai cánh tay tê dại như muốn văng theo cán cuốc, còn mặt đất vẫn gan
lì, chỉ sứt mẻ một tí chút” [6; 113]. Là “một thứ đất đến kì cục: cứ lổng chổng đầy những đá.
Viên bé chỉ là một hòn đá kì lưng, hòn to cũng ngang cái đầu và lại còn cơ man là rễ cỏ gianh” [6; 544].
Trong hàng loạt tác phẩm, từ tiểu thuyết đầu tay Ca sông (1967) tới tập truyện cuối cùng
C lau (1989), có thể thấy Nguyễn Minh Châu luôn trĩu nặng yêu thương với dải đất ấy, nơi đất
đai phần lớn khô cằn, thiếu nước, nhưng mưa to lại ngập lụt rất nhanh, nơi con người lao động
cực nhọc, lam lũ nhưng đói nghèo vẫn cứ đeo bám. Đó là làng chài Hiền An: “Đi đến rũ cẳng,
không g ặp một bóng người, một bóng nhà, không nghe một tiếng gà chó, chỉ thấy mọc độc
một giống cây lá cứng, có khía và quả của nó không bao giờ chín gọi là quả mật sát” [7; 779],
là quê hương vùng biển Nghệ Tĩnh trong Mảnh đất tình yêu: “Vùng cửa biển làng tôi cứ
chừng khoảng vài ba giáp, trời đất lại vẽ lại bản đồ một lần.(...) có những con sóng biển vài ba
giáp, thậm chí hai mươi, mười lăm giáp mới đặt chân tới thăm th vùng cửa biển quê tôi một lần” [7; 776].
Trong cảm nhận của Quy (Mảnh đất tình yêu), dải đất ấy như “đã nghiền nát những con
người ra rồi vắt lại theo cái hình thù đã có từ ngàn đời của nó” [7; 576]. Bởi lam lũ, vất vả, đói
nghèo cứ đeo bám người miền Trung từ những năm tháng chiến tranh tới tận những ngày đất nước
đã hòa bình, thống nhất. Và Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn đầu tiên can đảm tả
chân cuộc sống u tối đó: “Quê tôi là Quỳnh Hải, thôn Kẻ Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn. Dữ
dội lắm. Dân Lạch Thơi nhiều nơi sợ vì chỉ có uống rượu và đánh nhau. Rượu say, ngủ luôn ở bãi
biển. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi “nhặt” chồng về. Cả làng làm nghề chài lưới, chẳng
học hành gì cả. Tôi còn nhớ ông Điềm mỗi khi say rượu, cởi truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai,
đi vào trong xóm, lấy quần đánh chó. Gặp ai cũng chửi tuốt. Nhưng vớ phải một mụ bán bánh đa ở c ợ
h làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy ra, lấy váy đánh vào mặt. Lão Điềm phải thua. Có người 32
Đất và người min Trung trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu
uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh (dùng để cạo tinh những thanh giang chẻ lạt) rạch ngang bụng,
ruột sổ ra. Trẻ con chúng tôi lấy rổ đựng ruột cho ông ta, buộc lại rồi đưa đi bệnh viện .Ông ta chết” [9; 429].
Ở vùng đất mà “nắng nẻ mưa nguồn” cứ níu và bám chặt lấy con người, cái đói nghèo, cái
cơ cực mãi không chịu buông tha cho họ. Người đàn bà “xấu xí và đau khổ” trong Chiếc thuyn
ngoài xa hiện lên với “gương mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường
như đang buồn ngủ” [6; 128]. Và bữa cơm của gia đình người đàn bà ấy triền miên với “xương
rồng luộc chấm muối”. Áp lực cuộc sống khiến con người trở nên biến chất, khiến những ông chồng - t ụ
r cột của gia đình trở nên bạo lực, trở thành những hung thần trong mắt vợ con. Hình
ảnh gã chồng của người đàn bà xấu xí vừa đánh vợ “vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
két” và tiếng rủa “mày chết đi cho ông nhờ” cứ ám ảnh người đọc [6; 129]. Và tư tưởng cổ hủ
vẫn đè nặng lên đời sống của con người, khiến Huệ trong Khách quê ra - một người phụ nữ
vốn thuộc về nơi của những ánh điện lấp lánh khi về với lão Khúng thì lại tự biến mình thành
một cái máy đẻ theo quan niệm “nhiều người để vỡ được nhiều đất” [6; 580], vậy mà quanh
năm nào có đủ miếng ăn. Trên mảnh đất khó này, dù luôn gắng gỏi nhưng vô vàn khó khăn và
tai ương dường như luôn sẵn sàng ập đến khiến cuộc sống người miền Trung như luôn gánh trên
vai hai chữ “nhọc nhằn”.
2.1.2. Cái rốn của bom đạn chiến tranh, của đau thương, mất mát
Vùng đất khắc khổ miền Trung đã khiến con người nơi đây vốn đã nhọc nhằn lại càng trở
nên nhọc nhằn hơn khi trở thành cái rốn của bom đạn chiến tranh. Không phải ngày một ngày
hai, một tháng, một năm mà suốt chiều dài đằng đẵng hơn 30 năm chiến tranh, bom đạn giặc thù
không ngừng trt lên đất này. Hình ảnh vùng đất “cái rốn của bom đạn chiến tranh” ấy đã hiện
lên đầy ám ảnh trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở cả giai đoạn trước 1975 và giai đoạn
hậu chiến, bộc lộ niềm đau và tình yêu quặn thắt mà ông dành cho vùng đất quê hương.
Trong Dấu chân người lính, từ Hành quân, Chiến dch bao vây tới Đất gii phóng,...
Nguyễn Minh Châu đã dựng dậy sự tàn khốc của những cuộc giặc ném bom oanh tạc dọc tuyến
đường huyết mạch Trường Sơn, đặc biệt là những trận đánh trên mảnh đất Quảng Trị. Đây là
hình ảnh chiến địa Khe Sanh mịt mù bởi đạn pháo và chất độc hủy diệt mang tên “màu da cam
“Chúng rải thuốc độc hóa học và dùng máy bay B.52 rải bom theo lối “rải thảm”,… các cánh
rừng chung quanh đã quang đi từng vạt, từng vạt cỏ tranh bị thiêu cháy, ở các chân lèn đá và
dọc khe suối đã bị phát quang, máy bay trinh sát các loại lượn đi lượn lại thăm dò suốt ngày
đêm. Ban đêm tùng chùm pháo sáng liên tiếp treo lơ lửng trong bầu sương thăm thẳm trắng
rừng trắng núi” [8,27]. Ngay cả khi chiến tranh đã đi qua, tàn dư của sự khốc liệt, bạo tàn mà
bom đạn giặc thù trút xuống mảnh đất này vẫn hiện lên đầy ám ảnh trong văn học thời hậu chiến
của Nguyễn Minh Châu. “Cứ đi một quãng lại thấy một vài hố bom sâu đến rợn người. Sau
hàng chục năm không cày cấy, mặt đất dưới chân rắn như gang và nứt nẻ - những vết nứt rộng
như những con đường giao thông hào và hố bom, dây thép gai và mìn, bàn chân đặt lên mặt đất
vẫn rón rén đầy thận trọng và thỉnh thoảng ở đâu đó lại khiến cho mình phải giật bắn người lên
vì một tiếng nổ, chỉ lát sau đã thấy một chiếc cáng đi qua, trên đòn cáng phủ trùm một chiếc
chiếu hay tấm chăn” [6; 721]. Những di chứng mà chiến tranh để lại trên đất này khiến Quỳ
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) ám ảnh mãi không dứt: “Chúng tôi về đến ngã ba “toạ
độ” vào một buổi chiều. Trời vừa mưa dầm vừa có mù, một thứ mù đùng đục như sữa bánh đổ
xuống đất vừa múc lên, màu vàng vàng bọc kín lấy cả một vùng đất bát ngát lô lô đầy thân cây
đổ và hố bom” [6; 98]. “Tôi đã đi khắp các vùng vừa được giải phóng chật hẹp, ở đâu trời cũng
trong xanh, trời cứ xanh ngăn ngắt,... trong khi ấy, mặt đất cứ sạm đen bởi màu thuốc sng để
lại” [6; 109]. Còn Lực (C lau) - người tưởng như đã tử trận trong chiến dịch năm nào, sau
nhiều năm trở về, khi đứng lặng người trước ngôi mộ mang tên mình cũng vẫn ám ảnh bởi tiếng
khóc nhiều khi to hơn cả tiếng súng của người miền Trung, bởi sự hi sinh của con người, của 33
Hoàng Thị Thu Giang* và Vũ Thị Minh Tâm
vùng đất này. Và cứ sau mỗi trận “đại hồng thuỷ” B52 của giặc, cuộc sống của con người nơi
đây “y như vừa mới bắt đầu” [10, 113].
Đọc Min Cháy, Dấu chân người lính, Người đàn bà trên chuyến tàu tc hành, C lau...
độc giả có thể thấy nhiều mặt của đời sống người miền Trung trong chiến tranh, từ tình yêu đến
tình người, từ bức tranh thiên nhiên hoang sơ đến những trận mưa bom bão đạn mà giặc Mỹ trút
lên đất này, và để h ể
i u, thương cảm hơn với dải đất tuy nhỏ hẹp mà có tới 72 nghĩa trang liệt sĩ,
hơn 60 nghìn ngôi mộ có tên, không tên đang yên vị. Phải rất lâu nữa người ta mới có thể xoa
dịu, làm vơi bớt sự khốc liệt, tàn bạo mà chiến tranh đã gây nên cho khc ruột miền Trung này.
2.1.3. Mang vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ lại cũng rất nên thơ, trữ tình
Tình yêu lớn mà Nguyễn Minh Châu dành cho dải đất miền Trung không chỉ thể hiện ở
những trang truyện ám ảnh khi ông viết về sự khắc khổ, nhọc nhằn, đau thương của vùng đất
này mà còn thể hiện ở những áng văn đậm chất trữ tình khi ông chạm khắc hình ảnh thiên nhiên
nơi đây. Đó là dãy Trường Sơn trong Dấu chân người lính hùng vĩ, tráng lệ - một mảnh ghép
không thể thiếu nếu nhắc đến thiên nhiên miền Trung. Cây vẫn cao, rừng vẫn xanh, con người
ngày ngày vẫn bước chân trên mảnh đất đó, khoảng trời đó: “Một vùng ni đá dựng đứng đầy
vắng lặng, chim kêu vượn hót cũng không, chỉ có ni đá và ni đá nối nhau chạy dài dọc sông
ôm lấy một cái thung lũng mọc độc một thứ cỏ lau đang trổ một trời hoa tím nhạt” [6; 490]. Đất
miền Trung trong văn Nguyễn Minh Châu luôn hiện lên ở cả hai mặt tưởng như có phần đối lập
như vậy - nhọc nhằn nhưng vẫn rất nên thơ. Vẻ nên thơ của vùng đất chang chang nắng gió ấy
trong thơ Hàn Mặc Tử là: “làn nng ng, “khói mơ tan”, là những “mái nhà tranh lm tm
vàng”, còn trong văn Nguyễn Minh Châu, nó là “Hoa lau phơ phất trên nền xanh uyển chuyển
của rừng lau, thân cây lau ci rạp xuống từng đợt, lá xanh loáng lên dưới ánh mặt trời rồi trở
màu sẫm huyền bí trong vô vàn tiếng lá chạm nhau xào xạc” [6; 493]. Sự tinh tế, nhạy cảm của
Nguyễn Minh Châu sau này cũng chính là điều khiến các tác phẩm của ông không chỉ là những
thước phim tả chân đời sống con người mà còn chứa đựng bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng
lệ lại cũng rất nên thơ, trữ tình.
Mang kí ức của người con miền Trung, suốt đời Nguyễn Minh Châu luôn nâng niu một
tình yêu với đất. Dù cho đó là thứ đất rễ tre đầy khô cứng, thì nó vẫn là mảnh đất bao dung, nuôi
dưỡng con người. Trong ánh mắt của người nghệ sĩ ấy, đất miền Trung không chỉ là mảnh đất
của hai màu đen trắng với những thước phim khói lửa chiến tranh mà đó còn là mảnh đất rất trữ
tình, nên thơ với màu xanh cây lá, với những bóng trưa xéo xuống mặt đất, với màu hoa lau tím
nhạt ánh lên tít tắp phía chân trời.
2.2. Người miền Trung trong văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu từng tuyên bố: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Từ văn nghiệp mà ông để lại, có thể thấy, ông đã dành
phần lớn đời văn của mình để làm sáng lên những hạt ngọc trong tâm hồn con người, đặc biệt là
tâm hồn người miền Trung. Sống trên mảnh đất khắc khổ, nhọc nhằn, chịu nhiều đau thương,
mất mát, nhưng con người miền Trung trong văn Nguyễn Minh Châu luôn bừng sáng những phẩm chất đáng quý.
2.2.1. Gan góc, kiên trì, nhẫn nại, nghị lực sống phi thường
Nhân vật trung tâm trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn trước 1975 (tiểu
thuyết Ca sông, tập truyện ngắn Nhng vùng tri khác nhau, tiểu thuyết Dấu chân người lính)
là hình tượng người lính. Được rèn luyện, trưởng thành từ quân đội, dễ hiểu tại sao Nguyễn
Minh Châu có sự am tường về đời sống của người lính đến vậy. Qua những hình tượng như
Bân, Lân (tiểu thuyết Ca sông); Huyện đội trưởng Ngạn, Vũ, Khai, Nguyệt, Lãm, Lê, Sơn,
Thoa, Yên,... (tập truyện ngắn Nhng vùng tri khác nhau); Kinh, Lượng, Khuê, Lữ, Thái
Văn,... (tiểu thuyết Dấu chân người lính), có thể thấy Nguyễn Minh Châu đã khắc họa được 34
Đất và người min Trung trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu
những đường nét điển hình của người chiến sĩ cách mạng, vừa cụ thể, sinh động lại vừa có sức
khái quát lớn. Mặc dù phần lớn người lính trong sáng tác thời kì chống Mỹ của Nguyễn Minh
Châu là những người con của vùng đất miền Trung nhưng về cơ bản họ mang mẫu số chung của
người lính cụ Hồ trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn chiến tranh. Họ mang trong
mình phẩm chất anh hùng, đại diện cho khí phách của dân tộc, giống nhau ở tinh thần căm thù
giặc và sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì quê hương, Tổ quốc. Ở họ, ý thức cá nhân đã hoà vào với
ý thức cộng đồng, cuộc đời của mỗi người gắn liền với số phận của dân tộc, vận mệnh của đất
nước: “Mỗi thế hệ bước vào cuộc chiến đấu với một dáng cầm sng khác nhau… Ngày xưa,
những người lính nông dân cầm khẩu sng để chiến đấu cho Tổ quốc đồng thời cho mảnh vườn
và mái nhà của mình. Hôm nay, những người chiến sĩ mà Thái Văn đã đi theo họ suốt dải rừng
Trường Sơn, họ từ giã gia đình, trường học và từ giã một cuộc sống tương lai đẹp đẽ hết sức ...
Họ từ bỏ cái trái hạnh phc đã ửng hồng trong vườn nhà mình để cầm sng đi chiến đấu”
[8;371]. Với đặc điểm này, con người miền Trung trong sáng tác Nguyễn Minh Châu giai đoạn
trước 1975 chưa mang màu sắc riêng biệt.
Nhưng từ sau 1975, với hàng loạt tác phẩm cùng số lượng nhân vật đông đảo (trong các tiểu
thuyết Min cháy, La t nhng ngôi nhà, Những người t trong rng ra, Mảnh đất tình yêu; các
tập truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tc hành, Bến quê, Chiếc thuyn ngoài xa; các truyện
vừa Phiên ch Giát, C lau), dù có không ít nhân vật là người con của những vùng đất khác thì “c ấ h t” ng ờ
ư i miền Trung với những phẩm chất đặc trưng: gan góc, kiên trì, nhẫn nại, nghị lực
sống phi thường đã trở nên đặc biệt đậm nét và tỏa sáng trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Đọc văn Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sau 1975, độc giả thấm thía thực tế có quá nhiều
cái khó mà người miền Trung phải gồng gánh trên đôi vai, từ đó thấu hiểu tại sao con nơi đây
phải mạnh mẽ đến vậy - mạnh mẽ đến bất thường. Con người ta thường cố gắng mạnh mẽ ở một
hoặc một số giai đoạn nào đó để vượt qua những bão giông bủa vây, còn với người miền Trung,
họ mạnh mẽ và nhẫn nại cả cuộc đời, từ đời này sang đời khác. Qua các sáng tác thời hậu chiến,
Nguyễn Minh Châu giúp ta hiểu ra rằng chính sự “sàng lọc dữ dội” của một vùng thiên nhiên
khắc nghiệt với đất đai khô cằn, sỏi đá, thời tiết ẩm ương, điều kiện sống khắc nghiệt và dữ đội
đã tôi luyện nên những con người miền Trung “sắt đá” cả về thể chất và tinh thần.
Sự khó khăn, sự đào thải khắc nghiệt của vùng đất miền Trung đã tạc nên những con người
mang vẻ đẹp của chí khí. Quy trong Mnh đất tình yêu đã nhìn thấy trong chính ngôi làng chài
Hiền An yêu thương ở vùng biển Nghệ Tĩnh của mình những con người với mẫu số chung:
“Mỗi con sóng như vậy dù đã xảy đến từ lâu đời, từ khi ông tôi chưa đẻ, vẫn rạch một vết
thương rất sâu vào tâm khảm của ông tôi, làm hằn lên ở trong tính cách con người ông tôi cái
đức tính kiên nhẫn đầy vô vọng nhưng vẫn không hề bao giờ nhụt chí” [7; 777]. Người miền
Trung bốn mùa “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” vẫn kiên trì vắt cục đất làm ra củ khoai
hạt lúa, những lò nấu muối vẫn đỏ lửa thâu đêm. Có ai đó đã so sánh con người nơi đây như
những ‘con dã tràng” - cứ miệt mài, không quản ngày đêm, nắng mưa se cát, làm tổ, dù cho
ngày mai “cuộc đời có bị đất trời cướp mất hết” thì người miền Trung vẫn “còn lại tình yêu
cuộc sống và hai bàn tay không ngừng làm lụng” [7; 812]. Trước bão giông, gian khổ, người
miền Trung vẫn đan tay, chung lưng đấu cật cùng động viên nhau tiếp tục bám trụ với đất,
quyết làm cho đất nở hoa.
Nhận xét về người xứ Nghệ, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai có viết: “Các nhà viết phong
thổ ngày xưa cho rằng con người xứ Nghệ can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên
quyết đến khô khan và tằn tiện đến... cá gỗ” [11; 142]. Có lẽ, đây cũng là mẫu số chung của
người miền Trung. Quả thật, con người nơi đây dường như đã đánh cược mạng sống của
mình, cá cược với thiên nhiên dữ dội bằng sự cần cù, chăm chỉ, sự thích ứng nhanh nhạy và nghị lực phi thường. 35
Hoàng Thị Thu Giang* và Vũ Thị Minh Tâm
Thường thì vùng đất nào tạo nên con người đó. Đất đai tươi tốt, con người cũng sẽ tràn đầy
sức sống và ngược lại. Điều kiện sống khắc nghiệt đã đc nên người miền Trung se sắt. Về con
người miền Trung, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cảm nhận: “họ chất phác, cục mịch, lực
lưỡng, như mọc lên từ sỏi đá, nhờ sóng gió, bão táp mà luyện thành xương sắt, da đồng” [1; 544].
Và những đặc điểm đó của người miền Trung một lần nữa được thể hiện sinh động, đậm nét trong
thế giới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Trong dòng hồi tưởng của Quỳ (Người đàn bà trên
chuyến tàu tc hành) hình ảnh: “những ông già đầu bạc, những em bé giơ cao chiếc cuốc rất nặng
bổ xuống cánh đồng đất rắn như gang” [6; 164], hình ảnh bàn tay người mẹ “đầy những vết chai
sẹo từ bao đời” [6; 164] khiến độc giả không khỏi xót xa. Định trong Khách ở quê ra đã nhìn
ngắm thật lâu đôi bàn tay của lão chắt Hoè để rồi phải cảm thán: “Chẳng còn là hình thù của một
cái bàn tay con người nữa! Hai bàn tay lão đầy những chỗ nổi u nổi cục, các ngón vặn vẹo và bọc
một lớp da giống như thứ vỏ cây và cả bàn tay lão giống y như một toà rễ cây vừa mới đào dưới
đất lên” [6; 607]. Đó là những đôi bàn tay của lao động cần lao, tuy thô ráp, thậm chí xấu xí như
“một tấm da trâu...” [6; 164] nhưng lại là những đôi bàn tay vàng góp sức kiến thiết mảnh đất
miền Trung từ đói nghèo rơm rạ vươn lên mạnh mẽ như ngày hôm nay.
Sức sống của con người nơi đây thật kì diệu. Âu cũng bởi họ không có sự lựa chọn khi
đứng giữa bốn phương tám hướng đất trời mà chỉ có đất khô đang rữa ra từng mảng, là nắng gió
rát da và những trận bão biến miền Trung trở thành “cái rốn” của những bi kịch thiên nhiên. Chỉ
còn một cách duy nhất là tiếp tục sống, chấp nhận khốn khó mà vươn lên. Nếu như được sống ở
một cuộc đời khác, một mảnh đất khác, có lẽ họ sẽ nhàn hạ hơn chăng? Nhưng nếu thế, có lẽ
người miền Trung sẽ không khiến người ta kính trọng và đau đáu niềm thương yêu đến vậy.
Trên mảnh đất này, đời nối đời, người miền Trung miệt mài đổ mồ hôi, nước mắt, thậm chí là
máu của mình cho đất nở hoa. Kiên trì, nhẫn nại và nghị lực tuy không phải là phẩm chất riêng
có của người miền Trung nhưng quả thực, đó là những phẩm chất thường trực của con người
nơi đây. Lão Khng (Khách quê ra) đã “tranh chấp với rừng từng bước chân” và “không chỉ
trả giá bằng mồ hôi mà cả bằng máu” [6; 516]. Bà Điểm, chị Khơi (Mảnh đất tình yêu) hay
người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyn ngoài xa cũng mang những phẩm chất ấy, luôn mang
trong mình nghị lực sống kiên cường.
Có thể thấy, trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu (chủ yếu là trong thế giới
nhân vật văn xuôi của ông thuộc giai đoạn sau 1975), các nhân vật (mà đa phần là người miền
Trung), tuy mỗi người một sắc vẻ riêng nhưng đều khiến độc giả nghĩ tới loài sen đá nở kiêu sa
trên những vùng đất khô cằn. 2.2.2. Chung tình
Người miền Trung “mình đồng da sắt” nhưng trái tim của họ vẫn luôn chảy một dòng máu
“chung tình”. Đó là thứ tình cảm giữa người với người, giữa người với đất, giữa người với linh
hồn. Trong mọi hoàn cảnh tình người nơi đây vẫn luôn tồn tại dù ở những thời khắc gian lao, quyết liệt nhất.
2.2.2.1. Chung tình với đất
Lớn lên trên vùng đất “gánh” hai đầu đất nước với sóng biển và những trận mưa gào gió
giật, dù có viết về mảnh đất nào thì hơi thở của miền Trung vẫn luôn hiển hiện trong trang văn Nguyễn Minh Châu. Đ
ó là làng Quỳnh Hải, thôn Kẻ Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn nơi ông
sinh ra, “dữ dội lắm” mà cũng “bình yên lắm”. Đó là mảnh đất Quảng Trị nơi ông có gắn bó
máu thịt, mà như ông từng thú nhận thì: “Cái mảnh đất Quảng Trị gần như tôi si mê nó, hình
như trong con người tôi và mảnh đất ấy có chung một sợi dây thần kinh mà hễ cứ chạm đến đấy
thì cả con người tôi rung lên” [9; 469]. Đó còn là bao ngôi làng, bao “cửa sông”, là “những
vùng trời khác nhau” mà “dấu chân người lính” Nguyễn Minh Châu từng đi qua trên khắp dải
đất miền Trung này. Tất cả những vùng đất đó đã tạo nên một “chất miền Trung” đậm nét trong
văn Nguyễn Minh Châu: Sự chung tình với quê hương, xứ xở, với vùng đất mà họ sinh ra. 36
Đất và người min Trung trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu
Trên mảnh đất nhọc nhằn ấy, con người vẫn bám trụ ở lại. Họ “quý đất như quý con, còn
hơn cả con” [6;132]. Trong mắt người phương khác, có thể mảnh đất này không đến nỗi phải cố
sống cố chết bám trụ đến vậy, nhưng, với những con người đã chôn rau cắt rốn ở nơi này thì
khác: “Ừ, cũng lạ, hồi còn đang chiến tranh, mỗi lúc ra vùng giáp ranh để xuống đồng bằng,
phải đi qua những cánh đồng bỏ hoang, chung quanh chân các đồn bốt, mình vẫn thấy tiếc, vẫn
thấy xót ruột nhưng chỉ đến sau ngày hoà bình mới càng thấy tiếc từng tấc đất bỏ hoang - từng
tất đất mà bao nhiêu người đã phải rỏ máu để giành lấy [6; 542]”. Nguyễn Minh Châu đã nhìn
thấy, chỉ ra mối liên hệ thiêng liêng giữa người và đất nơi này. Họ yêu thương, gắn bó, chung
tình với vùng đất này, dù vùng đất ấy thật khắc nghiệt. Quy trong Mảnh đất tình yêu tin tưởng:
“Tình yêu của tôi sẽ như một chất kết dính của mảnh đất này. Tình yêu của tôi sẽ giữ bàn chân
Hoa lại với cái mảnh đất vừa giàu thiên kiến vừa giàu lòng bao dung này” [7; 1003]. Mồ hôi,
nước mắt và cả máu đã đổ trên mảnh đất thổi lửa ấy nhưng Quy vẫn nhìn thấy ở sâu bên trong
lớp nứt nẻ kia là sự ấp ủ, là lòng bao dung của thiên nhiên đối với con người. Còn đối với
Khúng trong Khách quê ra thì “để giữ cái gốc, họ nhà mình chỉ nên sống với cái hòn đất”
[6;518]. Ngay cả những người tha phương, như Huệ - vợ của Khúng chẳng hạn, khi về với
mảnh đất miền Trung bão táp này, cũng có sự gắn bện đến mức: “chừng như đấy là một người
đàn bà đã quyết tâm đoạn tuyệt với gốc gác thành phố” [6 ;523].
Ngay cả người đã khuất cũng vẫn chung tình với đất: “Có một chuyện cũng lạ: một anh đi
biển gặp bão, chết ngoài khơi xa, xác trôi về, cứ trôi quanh co theo con Lạch Thơi mà vào đến
tận cửa nhà mình mới dừng lại” [7; 429]. Câu chuyện có phần huyền bí, nhưng nó nói lên một
sự thật rằng người miền Trung đặc biệt gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Khi còn sống
và cả khi đã chết đi, vẫn muốn về lại với đất mẹ, để hít hà thứ gió biển, mùi đất của quê hương, của yêu thương.
Cũng chính vì tình yêu với đất, với quê hương nên khi có giặc xâm lăng, cũng như mọi
người Việt yêu nước trên khắp lãnh thổ hình chữ S, người miền Trung bất khuất, kiên trung
chiến đấu đánh đuổi giặc thù: “Hàng chục năm nay cũng như từ ngàn đời, bao nhiêu thứ giặc
ngoại xâm đến đây đều bị chết gục trong cái làng quê hiền lành một màu xanh rì ấy” [7; 858].
Dũng (Khách quê ra) sẵn sàng buông cuốc cày, cầm sng lên đường đánh giặc. Bởi tình yêu với
đất nước, quê hương luôn thường trực trong họ, b
ởi họ ý thức được: “Dù chỉ là vài cái mả, nhưng
địa hình đó vô cùng lợi hại cho bên nào chiếm được” [6; 455]. Với họ, đất chính là máu thịt.
2.2.2.2. Chung tình với người
Con nguời miền Trung chung tình với đất và cũng rất nặng tình với người. Cuộc sống nhọc
nhằn, như cây tre vươn lên từ đá sỏi, như một lẽ tự nhiên, từ trong lịch sử dài lâu, người miền
Trung đã luôn bó bện vào nhau để vượt lên. Trong những năm tháng chiến tranh, sự bó bện ấy
càng bộc lộ đậm nét, khi người dân nơi đây giang rộng cánh tay của mình bao bọc, chở che
những người chiến sĩ, vì tình yêu Tổ quốc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” mà đến với mảnh
đất này. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, bố Quy (Mảnh đất tình yêu) đã tới nơi đây, và ông sẽ
không thể sống sót được trên mảnh đất ấy nếu như: “Giữa rốn địch lc nào cũng đầy đe doạ
nguy hiểm, cái tình thương người và tình cảm cách mạng ở trong lòng mẹ tôi và ông ngoại tôi
thậm chí chỉ thiếu hụt đi một tí,… thì sẽ không bao giờ bố tôi tìm được chốn nương náu và tất
nhiên sẽ không bao giờ có tôi trên đời” [7 ;646]. Mụ Điểm (Mảnh đất tình yêu) đã sẵn sàng ôm
trọn lấy viên đạn của kẻ thù để che chắn cho cán bộ chiến sĩ. Và Thai (C lau) đã mở rộng vòng
tay cưu mang những người làm cách mạng trong những cánh rừng Trường Sơn vào những ngày gian khó nhất.
Trọng nghĩa, trọng tình cũng là một đặc điểm nổi bật của người miền Trung. Ông ngoại Quy
(Mảnh đất tình yêu) luôn đau đáu mong một ngày: “trở về với vợ con và bà con trong thôn xóm
từng làm ăn bên nhau ngày xưa” [7 ;901]. Định (Khách quê ra) luôn cảm thấy “còn mắc nợ món 37
Hoàng Thị Thu Giang* và Vũ Thị Minh Tâm
nợ với Khúng và với bố mẹ Khúng và nói chung với những người ruột rà ở làng” [6; 542 ]bởi
những ân tình mà anh đã nhận được từ những con người chất phác, mộc mạc nơi đây.
Người Việt Nam vốn có đời sống tâm linh mạnh mẽ. Với những người đã khuất, người còn
sống vẫn luôn hướng theo, có sự kết nối tâm linh, gắn bện tâm tình. Với người miền Trung, sự
gắn kết giữa hai thế giới âm dương càng rõ nét hơn nữa. Có lẽ bởi trên mảnh đất nhọc nhằn,
gian khó, cái rốn của bom đạn chiến tranh này, bao người dân, chiến sĩ đã ngã xuống trong quá
trình lao động và bảo vệ Tổ quốc. Trong mỗi tấc đất, mỗi cành cây, ngọn cỏ, mỗi con sông, con
suối của dải đất miền Trung gầy guộc này có biết bao linh hồn trú ngụ. Với cảm quan, niềm tin
như vậy, nên trước dòng Thạch Hãn, Lê Bá Dương (cựu binh Thành Cổ, nhà báo tỉnh Khánh
Hòa) tha thiết nhắn gửi: “Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nm/ Có
tuổi 20 thành sóng nước, V yên b bãi mãi ngàn năm” (Lời người bên sông). Và các nhân vật
của Nguyễn Minh Châu cũng có những sự gắn kết thiêng liêng với những linh hồn như vậy. Phi
Phi trong C lau: “Tôi chỉ thiết có một chút nắm xương của người tình của tôi đang bị lẫn lộn
với đất ở đây” [6 ;513]. Quy trong Mảnh đất tình yêu đứng lặng khi cảm nhận thấy người cha đã
hi sinh của mình, đang nằm trong nấm mồ cỏ xanh như đang ngồi dậy tâm tình cùng ông ngoại:
“Tôi cố lắng tai nghe thử xem ông tôi nói với bố tôi những gì nhưng chỉ nghe được mấy tiếng lí
nhí, gần giống như ngôn ngữ gọi loài cá của ông lão Bờ. Tôi biết đó là thứ ngôn ngữ nói chuyện
với người chết” [7; 855]. Dù sống hay chết, trần thế hay cõi hư vô, dòng máu nóng ấm vẫn luôn
chảy trôi ở dưới lớp đất kia. Nếu người sống bảo vệ thế giới của những hơi thở ấm nồng thì
những người đã tử trận cũng đang tiếp tục trọng trách của họ bảo vệ ‘long mạch” của Tổ quốc.
Nguyễn Minh Châu đã cho thấy hơi thở âm – dương hiển hiện trong cuộc sống của người miền
Trung. Trong ngày giỗ trận của làng chài Hiền An (Mảnh đất tình yêu), Phan cảm nhận được:
“Sáng ngày ra vừa mở mắt, làng đã đầy ắp người đã chết…Từ khắp gò đống, tha ma, ngổn
ngang kéo lên hàng trăm hàng ngàn vị khách của làng lũ lượt đi trên đường làng” [7; 1008]. Có
lẽ, những cảm thức tâm linh như vậy không chỉ có ở một vài cá nhân mà đó là linh cảm thường
thấy trong tâm thức của hàng ngàn con người miền Trung.
2.2.3. Giàu trí tuệ và khát vọng
Trên dải đất miền Trung, nhìn ra trước mặt là biển, là sông, là phá, ngoảnh ra sau là núi non
điệp trùng. Điều kiện sống khắc nghiệt, đất đai không màu mỡ, thiên nhiên, mưa gió chẳng mấy
thuận hòa, vậy nhưng người miền Trung vẫn cứ vươn lên, vẫn làm cho đất nở hoa. Trên “miền
đất cháy, miền đất chết, miền đất giao tranh”, miền đất nhiễm chất độc, người miền Trung vẫn
sống được và tỏa sáng những giá trị. Đời nối đời, họ đã gây dựng được cộng đồng “nhà cửa và
thôn xóm ấm cúng, là cuộc sống lâu đời và bất diệt của con người với những con sóng đời vô
hình đầy nghiệt ngã” [7 ;858].
Điều gì, phẩm chất gì của người miền Trung giúp tạo ra giá trị ấy? Nếu chỉ có gan góc,
kiên trì, nhẫn nại, nghị lực,... thì chưa đủ. Điều cốt yếu chính là: khối óc, là trí tuệ con người và
khát vọng vươn lên của con người nơi đây.
Lao động là điều luôn thường trực trong suy nghĩ của người miền Trung. Bởi chỉ có lao động
mới có thể giúp họ cải tạo cuộc sống, gây dựng nên cơ nghiệp. Trong lao động, họ không chỉ là
những người miệt mài, cần mẫn, chăm chỉ mà còn bộc lộ phẩm chất trí tuệ và khát vọng lớn. Đó
chính là cảm nhận của Quy (Mảnh ấ
đ t tình yêu) khi nghĩ về làng mình: “Làng tôi, cái làng đánh cá lâu đời từ t ời
h ông bà đến giờ, bao giờ cũng có những người lái thuyền tài giỏi, mang trong mình
tất cả những khát vọng và trí khôn của cả làng để đi chinh phục biển cả” [7 ;1098]. Kinh nghiệm
và trí tuệ lao động được ông ngoại Quy - vị “tr ở
ư ng lão” của làng thể hiện khi dặn dò đứa cháu
trai mà ông yêu thương: “Nghề làm ăn của dân biển mình là nghề đấu trí, đấu lực với ông trời.
Thò tay vào cái rốn bể để dò tìm cái miếng ăn đâu phải là một việc dễ, đâu có thể bất chấp Trời
Đất được” [7 ;878]. Cuộc sống đã dạy người miền Trung, người ở vùng biển Nghệ Tĩnh nhiều
nước mắt ấy, gip con người sống cần phải tinh khôn hơn. Kiếm lấy miếng ăn không hề đơn giản, 38
Đất và người min Trung trong sáng tác ca Nguyn Minh Châu
tìm chỗ trú ngụ trong những đêm biển động cũng không phải chuyện qua loa. Chỉ cần sơ sẩy một
chút sẽ không ai có thể trở về với một chiếc thuyền lành lặn. Từ trong cuộc sống gắn với biển như
vậy, con người miền Trung có sự trưởng thành trong trí tuệ để nuôi dưỡng khát vọng mang lại ấm
no, hạnh phúc, sự cường thịnh cho quê hương, đất nước.
Trí tuệ là một trong những phẩm chất quan trọng gip người miền Trung vượt qua bom đạn
chiến tranh khốc liệt. Nhờ có sự tỉnh táo và nhanh nhạy của mẹ và ông ngoại mà cha của Qu
(Mảnh đất tình yêu) được cứu sống khi mà: “đi ngoài đường làng hay bước vào các ngõ xóm
đều giáp mặt lính, không Mỹ thì nguỵ, không thì cũng chỉ điểm, hoặc tai mắt của chúng cài vào
trong dân” [7; 793]. Hoà - người yêu của Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tc hành đã
tử trận nhưng vẫn luôn hiện lên với một vẻ đẹp đầy trí tuệ mỗi khi Quỳ nhớ đến: “Hoá ra thời
nào cũng có những con người như anh ấy, tập trung trí tuệ và tài năng trác tuyệt của nhân dân và
mang trong lòng tất cả khát vọng cháy bỏng của nhân dân” [6; 129].
Khi đất nước đã hòa bình, thống nhất, phẩm chất ấy lại được bộc lộ sắc nét trong lao động,
sản xuất, gắn với khát vọng hồi sinh, phát triển quê hương, đất nước. Lực (C lau) luôn mang
trong mình ngọn lửa khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, khát vọng thay đổi quê hương từ
một vùng đất hoang sơ, nghèo nàn, chó ăn đá gà ăn sỏi trở thành một nông trường rộng lớn:
“Làng xóm nay mai sẽ không còn kẻ giàu người nghèo, bước chân vào nhà nào cũng no đủ, ai
cần gì có thức nấy, mọi người ăn ở với nhau vui vẻ, tử tế trên tình đồng chí với nhau” [6; 546].
Phan (Mảnh đất tình yêu) lại nuôi dưỡng khát vọng một ngày không xa anh có thể khôi phục
truyền thống làng nghề làm nước mắm: “Cái niềm vui thực sự của no ấm chưa đến nhưng niềm
vui đầy mong manh của h ivọng no ấm đang bắt đầu hé ra” [6 ;957].
Người miền Trung trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu không chỉ hiện lên với vẻ ngoài
cần cù, bất khuất, với nghị lực sống phi thường, trọng nghĩa trọng tình mà còn là những người
con sống có trách nhiệm với quê hương. Trong sự khổ cực trăm bề, họ vẫn sáng ngời vẻ đẹp trí
tuệ cùng khát vọng lao động, xây dựng và kiến thiết dải đất khắc nghiệt ấy. Nguyễn Minh Châu
đã gieo vào lòng độc giả sức hấp dẫn, sự ấn tượng và tiếng nói đầy tự hào về sức mạnh, sự vươn
lên mạnh mẽ từ trong cái khó, cái khổ để tìm ra giá trị đích thực của cuộc sống của con người nơi đây. 3. Kết lun
Là “đòn gánh” hai miền Nam - Bắc, miền Trung vẫn luôn ngời sáng vẻ đẹp của một nền
văn hoá độc bản. Vùng đất ấy khắc khổ, nhọc nhằn, phải nếm trải bao đau thương, mất mát
nhưng vẫn luôn ngời sắc xanh của biển trời, ni đồi, vẫn cứ nên thơ, trữ tình, vẫn mãi hùng vĩ
và tráng lệ. Trên vùng đất ấy, người miền Trung kiên trì lao động, nhẫn nại sống với nghị lực
phi thường. Chung tình với đất, chung tình với người, mang trong mình khát vọng sống mãnh
liệt với trí tuệ, tinh thần sáng tạo, người miền Trung vượt lên gian khó để phát triển. Qua những
trang viết cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh, có giá trị nâng tầm người đọc của Nguyễn Minh
Châu, đất và người miền Trung toả sáng trong chiều rộng không gian và chiều dài thời gian,
gieo yêu thương trong lòng người.
TÀI LIU THAM KHO
[1] Nhiều tác giả, 2001. Nguyễn Minh Châu, tài năng và sáng tạo nghệ thuật. Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
[2] Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên), 2009. Văn học Việt Nam sau 1975,
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy. Nxb Giáo dục.
[3] Hoả Diệu Thuý, 2013. Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, số 58, trang 49-56. 39
Hoàng Thị Thu Giang* và Vũ Thị Minh Tâm
[4] Nguyễn Thị Thanh, 2007. Đề tài chiến tranh qua một số tác phẩm văn xuôi việt Nam từ
1945 đến 1975. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, số 02, trang 22-25.
[5] Phạm Thị Hồng Vân, 2010. Thiên nhiên trong sáng tác Nguyễn Minh Châu. Luận văn
Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
[6] Nguyễn Minh Châu, 1999. Nguyễn Minh Châu - tuyển tập truyện ngắn. Nxb Văn học, Hà Nội.
[7] Nguyễn Minh Châu, 2001. Nguyễn Minh Châu toàn tập - tập 2. Nxb Văn học, Hà Nội.
[8] Nguyễn Minh Châu, 2004. Dấu chân người lính. Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[9] Nguyễn Trọng Hoàn, 2007. Nguyễn Minh Châu - về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[10] Nhiều tác giả, 2011. Nguyễn Minh Châu – tác phẩm và lời bình. Nxb Văn học, Hà Nội.
[11] Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, 1988. Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. ABSTRACT
Land and central people in Nguyen Minh Chau’s compositions
Hoang Thi Thu Giang* and Vu Thi Minh Tam
Faculty of Pedagogy, Ha Long University
The article focuses on two main points: Land and Central people in Nguyen Minh Chau's
compositions. This Central regional land is harsh and hard because of rocks, weather, and
especial y it is “the navel of war”. With his love and respect for the land, Nguyen Minh Chau
has found its poetic, lyrical nature as wel as its majestic and magnificent beauty. Also, on this
land, the “face” of the Central people shines with the beauty of perseverance, patience, and
extraordinary energy. People in the Central region have a loyal personality: loyal to the land and
loyal to people, even to the souls of the sacrificed). Even though, people in this land are ful of
creation, intel igence, and a strong desire to live despite hardships and difficulties. Nguyen
Minh Chau is always in pain, longing to find “the pearl hidden in the depths of the human soul”
through his written works about the Central people. As a result, he found such precious pearls and brightened them.
Keywords: land and people, central region, Nguyen Minh Chau. 40