





Preview text:
lOMoARcPSD|46342985 lOMoARcPSD|46342985 SỐ PHÁCH:
Điểm kết luận: …………………
GV chấm thi 1: ………………………………
GV chấm thi 2: ………………………..…….
ĐỀ BÀI: Những dấu ấn của điều kiện tự nhiên - sinh thái trong một số thành tố văn hóa Việt Nam. BÀI LÀM:
Việt Nam có một nền văn hoá rất đặc sắc và lâu đời. Cội nguồn của các đặc trưng 
văn hóa dân tộc này tất dĩ phải tìm trong những điều kiện lịch sử của dân tộc. Tuy nhiên 
trước đó, và trong suốt quá trình lịch sử, những điều kiện địa lý, tự nhiên lại có sức ảnh 
hưởng đến các thành tố văn hóa một cách nhất định. Vì thế, khi bàn đến văn hóa Việt 
Nam, phải tìm đến cội nguồn của nó từ thời đại đá mới, thời đại phát sinh nông nghiệp và 
làng xóm. Hơn nữa, phải chú ý đến những điều kiện nền tảng địa lý và môi trường thiên 
nhiên mà đã sản sinh nên những đặc trưng, đặc điểm văn hóa ấy.
Xét về mặt địa lý, Việt Nam là một quốc gia nằm ở cực Đông Nam, bán đảo 
Đông Dương, có phần đất liền trải dài từ kinh tuyến 120 8’ Đông đến 109 27’ Đông và⁰ 
⁰ từ vĩ tuyến 8 27’ Bắc đến 23 23’ Bắc. ¾ đại thể Việt Nam là đồi núi, ¼ là đồng bằng. ⁰
⁰ Chính nhờ mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bố đều khắp (trung bình 0,60 km / km²),
cả nước có tới 2360 sông trên 10 km với rất nhiều hồ, ao, đầm, phá, kênh, mương và 
đường bờ biển dài 3260 km chưa kể các đảo, diện tích vùng biển.
Về khí hậu, Việt Nam phân bố thành 3 vùng: miền Bắc có khí hậu cận nhiệt đới ẩm,
miền Trung mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong khi khi miền Nam nằm
trong vùng nhiệt đới Xa-van. Khí hậu Việt Nam có độ ẩm tương đối trung bình 84-
100% cả năm. Tuy nhiên, vì có sự khác biệt về vĩ độ và sự khác biệt địa hình nên 
khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng.
Từ đặc điểm địa lý và khí hậu, có thể dễ dàng nhận ra hệ sinh thái Việt Nam là lOMoARcPSD|46342985
hệ sinh thái phồn tạp và có chỉ số đa dạng giữa giống loài và số cá thể rất cao. Ngoài 
ra, các loài thực vật phát triển hơn động vật. Vì vậy mà thời kinh tế hái lượm, việc 
con người hái lượm vượt trội hơn hẳn so với săn bắn, và vào thời kinh tế nông nghiệp,
trồng trọt cũng vượt trội hơn chăn nuôi.
Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nền nông nghiệp nước ta phát triển rất sớm,
ngay từ khi công cụ còn thô sơ. Việt Nam là nước nông nghiệp truyền thống, tất cả các
hoạt động của người dân Việt Nam đều gắn bó với hoạt động nông nghiệp truyền hống 
và chính hoạt động nông nghiệp đã chi phối rất nhiều đến đặc trưng văn hóa của người Việt.
Yếu tố đầu tiên thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa điều kiện tự nhiên - sinh thái
với văn hóa Việt Nam là văn hóa ẩm thực. Ở những vùng châu thổ của vùng nhiệt 
đới, điều kiện rất thuận lợi để phát triển cây lúa nước, nên thức ăn chính trong các 
bữa ăn của con người là lúa gạo.. Bữa ăn truyền thống của người dân Việt Nam bao 
gồm: cơm gạo, rau củ (canh) và món mặn (cá, thịt). Đồ ăn truyền thống có nhiều món
được ủ, lên men để bảo quản, tránh bị ôi thiu do điều kiện khí hậu thời tiết nóng ẩm, 
gió mùa khiến vi khuẩn dễ phát sinh. Một số sinh hoạt ăn, uống, hút của người Việt 
cũng mang đậm nét của một vùng nhiệt đới : ăn trầu, uống rượu, hút thuốc lào,… tất 
cả những hoạt động này đã trở thành biểu tượng của văn hóa Việt.
Tuy cùng trên dải đất hình chữ S, mỗi vùng miền khác nhau thì có điều kiện địa
lý khác nhau, chính vì vậy con người phải có những ứng xử nhất định để phù hợp và 
thích nghi, dẫn đến việc các miền đều có những đặc trưng ẩm thực khá riêng biệt. 
Các món ăn miền Bắc nổi tiếng thanh đạm và cầu kỳ trong chế biến và trong cách sử 
dụng gia vị. Miền Trung với địa thế gần biển nên các món ăn đều có nhiều yếu tố 
biển và cay, mặn. Còn nhắc đến ẩm thực miền Nam, người ta sẽ nghĩ ngay đến các 
món ăn cay, ngọt và dân dã. Các món ăn miền Nam cũng rất lạ, và được tổng hợp từ 
các bếp ăn của Việt, Chăm, Hoa và Ấn.
Con người là sản phẩm của môi trường tự nhiên và là sản phẩm của hoàn cảnh lOMoARcPSD|46342985
xã hội. Chính vì vậy, yếu tố tự nhiên là một trong những điều kiện vô cùng quan 
trọng, góp phần không nhỏ chi phối trực tiếp đến văn hóa sinh hoạt và đời sống vật  chất của con người.
Xét về cách ăn mặc ở những vùng có khi hậu nóng, nhiều ánh sáng
con người thường sử dụng các loại vải mỏng mát, màu sáng. Ngược lại ở những vùng 
có khí hậu giá lạnh con người đã biết sử dụng các loại vải giấy, chất len sợi để đỡ lạnh
hơn. Hay ở những vùng rừng núi con người đã biết ăn mặc hòa đồng với thiên nhiên 
bằng các loại vải có màu sắc sặc sỡ tượng trưng cho thiên nhiên núi rừng. Cái riêng 
trong cách ăn mặc của người Việt trước hết là cái chất nông nghiệp trong chất liệu 
may mặc – đó là các chất liệu có nguồn gốc thực vật là sản phẩm của nghề trồng trọt, 
cũng là chất liệu may mặc mỏng, nhẹ thoáng, thấm mồ hôi, phù hợp với khí hậu nhiệt 
đới gió mùa nóng ẩm. Đó là sợi gai, đay, chuối, bông, tơ tằm,… Trang phục thường 
được chọn các màu âm tính như đen, nâu, chàm, gụ, tím,.. Vải nhuộm từ nguyên liệu 
tự nhiên như tơ tằm, củ nâu và chàm. Trang phục lao động của người xưa cũng rất đơn
giản, nam chỉ có ở trần, đóng khố, đi đất, nữ thì yếm, váy.
Cách thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chị phối bởi hai nhân tố chính 
là khí hậu nhiệt đới nóng bức và công việc trồng lúa nước. Đồ mặc ở phía dưới của phụ 
nữ tiêu biểu và ổn định hơn cả là váy. Sở dĩ trải qua bao thời đại cái váy vẫn được người
dân ưa chuộng một phần vì nó là trang phục truyền thống, một phần vì mặc váy không 
chỉ mát, ứng phó hiệu quả với khí hậu nóng bức mà còn rất phù hợp với công việc đồng 
áng. Đối với nam giới thì cái khố ngoài mặc mát, phù hợp với khí
hậu nóng bức, còn dễ dàng thao tác trong lao động. Nhìn chung cách ăn mặc của người 
Việt khá đơn giản, gọn gàng, để thích nghi với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, cũng như dễ 
dàng cho việc đi lại, lao động trên đồng ruộng có bùn lấm. Ngoài ra, do đặc điểm nước ta 
nắng lắm mưa nhiều, nên để ứng phó với khí hậu ấy thì nét đặc thù chung đó là đội nón 
rộng vành để tránh nóng và có mái dốc để nhanh thoát nước, che mưa. Nón lOMoARcPSD|46342985
là lâu dần cũng là đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Hơn nữa, người Việt còn đội mũ, 
áo tơi che mưa bằng cọ, một loài cây mang tính đặc trưng của vùng nhiệt đới gió mùa. 
Trong các lễ hội thì ngược lại lại khá diêm dúa, cầu kỳ. Các dịp lễ hội thường sử dụng 
các trong phục có màu sắc dương tính như đỏ, điều, vàng, xanh. Nam thường mặc áo 
the, lụa gấm, chít khăn xếp, nữ thì mặc áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, vấn tóc, đội nón 
quai thao rộng vành, chân đi guốc hoặc hài, đeo hoa tai, trang sức đeo là vòng kiềng  và nhẫn.
Sau yếu tố trang phục, văn hóa ở cũng thể hiện dấu ấn mạnh mẽ của thiên nhiên lên văn 
hóa Việt. Nhà ở là sáng tạo văn hóa vừa để ứng phó với các hiện tượng tự nhiên, vừa khai
thác những thuận lợi của thiên nhiên. Ngôi nhà là tổ ấm để đối phó với thời tiết, khí hậu, 
là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho cuộc sống định cư ổn định. Nằm 
trong khu vực là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt truyền thống cũng 
mang đậm dấu ấn của môi trường sông nước: ngói vẩy cá, mái cong mô phỏng hình 
thuyền. Thậm chí lấy tên để gọi các bộ phận gỗ: tàu mái, mũi tàu, dạ tàu, then tàu, câu 
tàu, bệ tàu,.... Nhà ở truyền thống của người Việt là nhà sàn. Đây
là kiểu nhà rất phổ biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn. Nhà được xây cất khá kiên  cố và bền chắc.
Ở nông thôn phổ biến với nhà tranh vách nứa. Sử dụng vật liệu dừa, tre, nứa có sẵn. 
Các vật liệu làm nhà rất đơn giản và cũng để cho mát. Những nhà khá giả thì có nhà 
gỗ, vách đất, nền đất nện. Và đặc biệt ở nông thôn thường có thêm vườn, ao, chuồng 
nuôi tôm cá, chăn nuôi. Con người sống hướng thủy, hiền hòa với thiên nhiên.. Để 
ứng phó với môi trường tự nhiên, tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu trúc phải 
là nhà cao cửa rộng, tạo không gian thoáng mát giao hòa với thiên nhiên. Nơi được 
chọn phải đáp ứng những yêu cầu trong việc chọn hướng nhà, hướng đất. Hướng nhà 
tiêu biểu là hướng Nam vì Việt Nam gần biển, trong khu vực gió mùa, trong 4 hướng 
chỉ có Nam và Đông Nam là tránh được cái nóng từ phương Tây, cái bão từ phương 
Đông và gió lạnh thổi vào mùa rét từ phương Bắc, nhưng lại tận dụng được lOMoARcPSD|46342985
cái gió mát từ phương Nam vào mùa nóng.
Ngoài ăn ở thì việc đi lại cũng là để thích nghi với môi trường tự nhiên. Trong
xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư cho nên con người 
ít có nhu cầu đi lại, có đi thì đi gần nhiều hơn xa, đồng thời địa hình không đồng đều, 
địa hình núi cao chiếm phần lớn diện tích vậy nên giao thông trước kia kém phát triển,
chủ yếu là đi bộ, gồng gánh, đội thúng trên đầu hoặc mang trên lưng, thích hợp với 
diện tích nhỏ, vừa, công việc không quá nặng nhọc, đường bộ thường nhỏ hẹp, đầy 
bùn lầy. Trâu bò lúc này là phương tiện thồ đồ chủ yếu, tích hợp với việc cày cấy. Đến
TK XIX mới chỉ có đường nhỏ, phương tiện đi lại vận chuyển , ngoài sức trâu, ngựa , 
voi thì phổ biến là đôi chân, quan lại thì di chuyển bằng cáng, kiệu.
Tuy nhiên ở Việt Nam, đường thủy và các phương tiện đi lại bằng đường thủy
lại phát triển mạnh, vì có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và bờ biển dài. Các 
phương tiện đường thủy rất phong phú như: thuyền thúng, thuyền đinh, thuyền độc mộc, 
đò ngang, đò dọc, thuyền, xuồng, bè , mảng, phà , tàu…. tùy loại địa hình. vì có
hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và bờ biển dài, với các loại. Người Việt 
Nam rất giỏi đi trên sông nước, giỏi bắc cầu, giỏi thủy chiến và vẽ mắt cho thuyền. 
Các quan hệ giao thương cũng thường được diễn ra nơi bên sông. Và các đô thị chủ 
yếu là những thương cảng ven sông, ven biển
Tín ngưỡng của người Việt cũng mang đậm đặc trưng vùng sông nước, người
Việt thờ nước và các loài vùng sông nước. Đây là hình thức tín ngưỡng dân gian có ảnh 
hưởng khá rõ trong hai nhóm lễ hội liên quan đến yếu tố nước. Người Việt nói chung 
vốn có truyền thống rất coi trọng lễ tang bởi “nghĩa tử là nghĩa tận” . Trong tang ma, có 
rất nhiều các phong tục, lễ nghĩa khác nhau như lễ phạn hàm, theo tục xưa, bỏ gạo và 
tiền vào miệng tránh tà ma ác quỷ đến cướp đoạt, để tiễn hồn đi đường xa được siêu 
thoát. Còn phong tục chèo đò ra đời với ý nghĩa như một chuyến đò chở linh hồn người 
chết về miền cực lạc. Ngoài ra còn phong tục bắc cầu giải oan cho người chết đuối, tất cả
đều mang đậm dấu ấn đặc trưng của vùng sông nước lên phong lOMoARcPSD|46342985
tục Việt. Các lễ hội, lễ Tết cũng vô cùng phong phú và đa dạng và thường được tổ
chức theo mùa vụ lúa nước cùng nhiều nghi lễ và trò chơi liên quan đến nước
như: múa rối nước, đua thuyền, các ngày lễ được mùa,.....
Trong lời ăn tiếng nói, người Việt cũng sử dụng nhiều từ ngữ, ca dao, tục ngữ
liên quan đến nghề nông nghiệp như:
“ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Ăn gạo nhớ kẻ đâm, xay, giầm, sàng”
và sử dụng nhiều hình ảnh sông nước để ví von: “Nước đến chân mới nhảy”, “Còn 
nước còn tát”, “Sống ở làng sang ở nước”, “ Quân với dân như cá với nước”, “Nước 
sông công lính”. Ngoài ra, tâm lý của người Việt xưa cũng rất linh hoạt, mềm mại  như nước.
Nghiên cứu trong mối quan hệ tương tác của điều kiện tự nhiên với một số
thành tố văn hóa của Việt Nam nhằm đạt tới sự nhận thức tổng hợp về không gian văn 
hóa xã hội với thiên nhiên và con người. Môi trường địa lý và môi trường văn hóa là đặc 
điểm quan trọng, chi phối và tạo nên bản sắc văn hóa riêng của từng đất nước, khu vực, 
dân tộc, vùng miền,... Vì vậy, để hiểu sâu những đặc trưng của một không gian văn hóa 
nào đó không thể không nghiên cứu những điều kiện tự nhiên và tác động qua lại của nó 
với cuộc sống và văn hóa cư dân. Qua bài nghiên cứu, có thể thấy rằng, hầu
hết những sáng tạo văn hóa Việt Nam đều in đậm dấu ấn của những tác động tự nhiên, và
đó cũng là biểu hiện của những cố gắng của con người trong quá trình cải tạo, thích
ứng với hoàn cảnh tự nhiên.