



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220 Câu 2đ
Câu 1: Xđ số lượng âm tiết và hình vị từ trong đoạn thơ sau, từ đó làm rõ đặc
điểm loại hình của TV.
Trong làng nắng ửng khó mờ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm
vàng Xột sạch gió trên tòa áo biếc Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang
- 28 hình vị, 28 âm tiết - 24 từ
Âm tiết được tách bạch rõ ràng, mỗi âm tiết đều có ý nghĩa và được dùng
như từ đơn => TV là ngôn ngữ đơn lập âm tiết tích
Câu 2: Dựa vào tiêu chí nguyên âm, hãy miêu tả các âm / e/ /a/ /ɯ / Âm /e/ •
Vị trí lưỡi :Nguyên âm trước, lưỡi nằm ở phía trước khoang miệng. •
Độ mở : Nguyên âm bán đóng, miệng mở vừa phải. •
Hình dạng môi : Không tròn môi (unrounded). •
Ví dụ: Giống âm "ê" trong tiếng Việt (như trong từ bé). Âm /a/ •
Vị trí lưỡi : Nguyên âm trung tâm hoặc trước, lưỡi ở vị trí thấp nhất trong khoang miệng. •
Độ mở : Nguyên âm mở, miệng mở rộng. •
Hình dạng môi : Không tròn môi •
Ví dụ: Giống âm "a" trong tiếng Việt (như trong từ ba). • Âm /ɯ/ •
Vị trí lưỡi : Nguyên âm sau, lưỡi nâng cao về phía sau khoang miệng. •
Độ mở : Nguyên âm đóng, miệng mở rất ít. lOMoAR cPSD| 58562220 •
Hình dạng môi : Không tròn môi •
Ví dụ: Giống âm "ư" trong tiếng Việt (như trong từ tư). e-ê a-a uu-ư
Câu 3: Từ những hiểu biết về tín hiệu ngôn ngữ hay làm rõ tính hình tuyến và đa trị 1, Khái niệm
Tính hình tuyến: các âm thanh ngôn ngữ lần lượt kế tiếp nhau trong thời gian
cái này nối tiếp cái kia thành một chuỗi./ Tính hình tuyến của tín hiệu ngôn
ngữ thể hiện rõ khi chung ta ghi lại chúng bằng chữ viết ( dùng tuyến không
gian của tín hiệu văn tự thay thế cho sự kế tiếp trong thời gian)
Vd: Chào- bác - ạ trật tự sản xuất khác nhau thì nghĩa nó sẽ khác nhau
Tính đa trị: Khác với các tín hiệu tín hiệu khác ( mỗi hình thức tín hiệu thường
chỉ biểu thị một nội dung), các tín hiệu của ngôn ngữ
- một tín hiệu ngôn ngữ biểu thị nhều nội dung khác nhau như trường hợp
các từ nhiều nghĩa các từ đồng âm: 1/n
- Nhiều tín hiệu ngôn ngữ biểu thị nội dung, như trường hợp các từ đồng nghĩa:n/1
- Nội dung của mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài phần hiện thục khách quan,
còn có thể gợi ra những tình cảm cảm xúc thái độ, cách đánh giá.. đới
với sự vật, hiện tượng ( gọi là phần nghĩa biểu cảm)
- Vd: chết, hi sinh, từ trần, ngoẻo, toi.. các tín hiệu này tuy chỉ cùng một
trạng thái( mất khả năng sống, không còn biểu hiện của sự sống), nhưng
chúng có sự khác nhau về phần tình cảm đánh giá con người.
Câu 4: Từ những hiểu biết về tín hiệu ngôn ngữ hãy làm rõ tính võ đoán và tính hình tuyến Tính võ đoán
Mỗi quan hệ giữa CBĐ & CĐBĐ là không có lí do, do con người quy ước,
thỏa thuận với nhau, không giải thích được . lOMoAR cPSD| 58562220
- F.de Saussure khẳng định: Tín hiệu ngôn ngữ là võ đoán. “Nó không có
nguyên do, nghĩa là nó võ đoán với CĐBĐ, vì trong thực tế nó không có
một mối liên quan tự nhiên nào với cái đó
- mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu không phải là mối quan hệ lí do,
có tính tất yếu mà là mối quan hệ do con người thỏa thuận quy ước với
nhau. Mối quan hệ này kiến ta không thể giải thích được vì sao một âm
thanh lại được dùng để biểu hiện một ý nghĩa nào đó . Chẳng hạn không
thể giải thích vì sao trong tiếng Việt ‘hoạt động dời chỗ bằng chân với
tốc độ bình thường’ lại gọi là đi.
Tuy vậy, trong ngôn ngữ có thê có một số tín hiệu có tính võ đoán thấp
hơn, nghĩa là quan hệ âm thanh và ý nghĩa của tín hiệu có một số phần
lí do nào đó. Dó là các trường hợp sau:
- Từ tựng thanh: vd meomeo, dùng dùng, róc rách - Thán từ : ái, ôi ,ối
- Các từ được cấu tạo phái sinh.vd: xe và đạp là võ đoán, nhưng khi ghép
chung lại với nha để tạo nên từ xe đạp thì từ này tính có lí do rất rõ
- Các từ nghĩa phát sinh chuyển nghĩa. Vd: lá cây, lá gan, lá thư - Tên riêng
Tuy có những trường hợp trên đây nhưng nguyên lý về tính võ đoán của
tín hiệu ngôn ngữ vẫn là nguyên lí cơ bản, giúp bảo vệ sự ổn định của
ngôn ngữ, chống lại các sự xâm nhập giữa hai mặt cái biểu đạt và các
được biểu đạt của tín hiệu ngôn ngữ.
Câu 5: Gthích quy luật đồng hóa và dị hóa trong ngôn ngữ
Đồng hóa: thức chất đồng hóa cũng chính là một biểu hiện của hiện tượng thích
nghi, một trong hai âm khi kết hợp với nhau phải biến đổi cho phù hợp với âm
kia. Hiện tượng đồng hóa xảy ra giữa hai âm cùng loại: nguyên âm với nguyên
âm, phụ âm với phụ âm. Tùy thuộc vào âm đứng trước hay đứng sau biến đổi
mà ta có đồng hóa xuôi hay đồng hóa ngược.
Vd; tít mắt -. Típ mắt (t -. P để phù hợp với tính chất môi hóa của m)
Dị hóa là hiện tượng xảy ra khi hai âm giống nhau đứng cạnh nhau thì một
trong hai âm đó biến đổi đi để cho khác với âm kia. Dị hóa cũng xảy ra với hai âm cùng loại
Vd: trong tiếng Việt: nhỏ nhỏ -. Nho nhỏ; thiếp thiếp -. Thiêm thiếp (3đ)
Câu 1: Phân tích phương thức trật tự và phương thức hư từ của TV được sử
dụng trong dữ liệu dưới đây. lOMoAR cPSD| 58562220
Cô Mị làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào cô không nhớ cũng
không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài vẫn còn kể lại câu tryện Mị
về làm dâu nhà Thống Lý Pá Tra
- Hư từ: đã , không những , thì mấy , vẫn còn , từ "đã": •
Thể hiện thời gian hoàn thành (quá khứ): Cô Mị làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. • "cũng": •
Thể hiện quan hệ song song hoặc nhấn mạnh: Từ năm nào cô không nhớ cũng không ai nhớ. • "vẫn còn": •
Kết hợp nhấn mạnh tính liên tục: Những người nghèo ở Hồng Ngài vẫn
còn kể lại câu chuyện. • "về": •
Thể hiện mối quan hệ hành động và đối tượng liên quan: Mị về làm dâu.
- Trật tự từ: trật tự ổn định cũng chặt chẽ:
CN – VN – Định Ngữ đi sau DT và bỗ ngữ đi sau ĐT
Cô Mị làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm.
o Chủ ngữ: Cô Mị o
Động từ: làm dâu o Tân ngữ: nhà Pá Tra
→ Trật tự S-V-O được sử dụng để thể hiện rõ ràng hành động và đối tượng liên quan.
b. Trật tự cụm danh từ: •
Cô Mị, nhà Pá Tra, những người nghèo ở Hồng Ngài:
o Trong cụm danh từ, thành tố chính đứng sau thành tố phụ: những
người nghèo (phụ ngữ chỉ số lượng đứng trước danh từ), ở Hồng
Ngài (bổ nghĩa cho danh từ).
c. Trật tự cụm từ liên kết thời gian: lOMoAR cPSD| 58562220 •
Từ năm nào cô không nhớ cũng không ai nhớ.
o Trật tự nhấn mạnh: Thành phần chỉ thời gian Từ năm nào được đặt
ở đầu câu để tạo tính liên kết.
2. Xác lập quan hệ liên tưởng các từ “ xua gạt ‘ trong 2 câu dưới đây , từ đó
phân tích nét tương đồng nhất và nét đối lập và các từ trong cùng 1 nhóm liên tưởng
Cái gạt nước xua đi nối nhớ Cái
nhánh cây gạt mối riêng tư.
- Khái niệm: quan hệ liên tưởng:
- Là quan hệ giữa các yếu tố có thể thay thế cho nhau trong cùng một vị
trí của chuỗi lời nói.
- Là quan hệ giữa các yếu tố đồng loại (âm vị với âm vị, hình vị với hình vị, từ với từ...). vừa nấu rượu đã pha trà sẽ đun nước từng
- Quan hệ đồng nhất: là quan hệ giống nhau giữa các yếu tố (đơn vị) ngôn
ngữ về một phương diện nào đó. Sự giống nhau đó là cơ sở để tập hợp
các yếu tố vào cùng một loại, một hệ thống nhỏ hơn. Ví dụ:
+ Các yếu tố /a/, /i/, /e/, ... đều đồng nhất với nhau là các đơn vị ngữ âm nhỏ
nhất và đồng nhất ở các chức năng khu biệt nghĩa, nên chúng được gọi chung là các âm vị.
+ Các từ lênh khênh, lim dim... đồng nhất với nhau về cấu tạo: chúng đều là từ láy vần
+ Các từ nấu, nướng, kho, luộc, xào, ninh, hấp... đồng nhất với nhau về nghĩa:
chỉ hoạt động làm chín thức ăn
- Quan hệ đối lập là quan hệ giữa các yếu tố khác biệt nhau về một phương
diện nào đó. Sự khác biệt trên cùng một phương diện, một tiêu chỉ tạo nên sự đối lập. lOMoAR cPSD| 58562220 Ví dụ:
Nguyên âm /a/ và /i/ đối lập nhau về độ mở : /a/ độ mở miệng rộng; /i/ độ mở miệng hẹp.
và đối lập trong ngôn ngữ
- Xác lập quan hệ liên tưởng và các từ ‘ xua, gạt’ Xua : đuổi , hất, văng, ném "Xua": •
Hành động mang tính chủ động, mạnh mẽ, nhằm đẩy đi, loại bỏ hoặc
làm tan biến thứ gì đó thường mang tính trừu tượng (ở đây là nỗi nhớ). •
Gợi cảm giác quyết liệt, khát khao muốn trốn thoát khỏi cảm xúc buồn bã, nặng nề. •
Từ này tạo hình ảnh chuyển động nhanh và mạnh mẽ, giống như một làn gió cuốn đi nỗi buồn.
Gạt: đuổi , hất, văng, ném Gạt": •
Hành động nhẹ nhàng, cẩn thận hơn, thường liên quan đến việc loại bỏ
thứ gì đó cụ thể, hữu hình hoặc cảm xúc thầm kín. •
Trong ngữ cảnh này, "gạt" gợi ý sự che giấu, loại bỏ một cách khéo léo
những cảm xúc riêng tư để giữ lại sự bình tĩnh hoặc để không bị cảm xúc chi phối.
Nét tương đồng: đều là các động từ tác động
Cùng có nghĩa là bỏ đi, làm mất đi
Không đồng nhất: xua “ mức độ nhẹ hơn”
Gạt “ mức độ mạnh hơn” dứt khoát hơn
Câu 3: Bằng những vd cụ thể a/c hãy làm rõ vấn đề của 3 kiểu quan hệ ngữ
pháp: quan hệ chủ vị, quan hệ đẳng lập, quan hệ chúng phụ. Lấy vd Từ loại,
số lượng, phương tiện, hình thức , thứ tự sản xuất ngữ pháp lOMoAR cPSD| 58562220 Quan hệ dẳng lập
Là quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp giữa các yếu tố. Sự bình đẳng này thể hiện ở chỗ :
- Chúng có vai trò như nhau trong việc quyết định đặc điểm ngữ pháp của cả tổ hợp
- Chúng có khả năng như nhau để làm đại diện cho toàn bộ tổ hợp trong
quan hệ với yếu tố bên ngoài tổ hợp
- Số lượng các yếu tố từ hai trở lên Ví dụ: •
Tôi thích đọc sách và nghe nhạc.
o Liên từ đẳng lập: và o Hai mệnh đề ngang hàng: Tôi thích
đọc sách và nghe nhạc. Quan hệ chính phụ
Là quan hệ giữa các yếu tố không bình đẳng với nhau về mặt ngữ pháp,
trong đó có thành tố đóng vai trò phụ. Đặc điểm:
- Thành tố chính quy định đặc điểm ngữ pháp của cả tổ hợp
- Chỉ có thành tố chính đại diện cho cả tổ hợp trong quan hệ với yếu tố bên ngoài tổ hợp Ví dụ: •
Tôi thích cuốn sách mà bạn tặng. o Thành phần chính: cuốn sách
o Thành phần phụ: mà bạn tặng (làm rõ cuốn sách nào). •
Anh ấy chạy nhanh để kịp giờ.
o Thành phần chính: Anh ấy chạy nhanh o Thành
phần phụ: để kịp giờ (bổ sung mục đích). Quan hệ chủ vị
Là quan hệ giữa hai thành tố phụ thuộc vào nhau. Đây là quan hệ thường
thấy giữa hai thành tố làm nên nòng cốt của một câu đơn theo ngữ pháp truyền thống Đặc điểm: lOMoAR cPSD| 58562220 •
Cấu tạo nên một mệnh đề hoàn chỉnh, có thể đứng độc lập. •
Chủ ngữ và vị ngữ kết hợp với nhau tạo thành ý nghĩa đầy đủ. Ví dụ: • Trời mưa to.
o Chủ ngữ: Trời o Vị ngữ: mưa to
→ Diễn tả trạng thái của chủ ngữ. -
Câu 4: Xác định hư từ trong những câu sau và phân tích của chúng Tôi mua nó Tôi mua của nó Tôi mua cho nó Tôi mua với nó Tôi mua vì nó
- Hư từ : của, cho , với, vì
- Không có hư từ : dối tượng của hoạt động mua
- Hư từ: “của” chỉ người bạn
- Cho: biến nó thành người được hưởng tới
- Với : chỉ người cũng tham gia hoạt động
- Vì: chỉ ngôn ngữ tác động đến hoạt động mua
Các hư từ biến nó thành những từ có vai trò ngữ pháp và ý nghĩa khác nhau
Câu 5: Phân tích các nhân tố giao tiếp ( nhân vật, hoàn cảnh, cách thức thể
hiện, mục đích) trong bài ca dao sau:
Cày đồng dang buổi ban trưa
Mồ hồi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm từng hạt đắng cay muôn phần
- Cách thức giao tiếp: nhấn mạnh, nhẹ nhàng
- Nhân vật giao tiếp: người nông dân , người nói
- Hoàn cảnh giao tiếp: đang ở đồng giữa trưa lOMoAR cPSD| 58562220
- Mục đích: cho thấy sự lao động vấ vả để tạo ra thành quả và mọi người
cần trân trọng giá trị trong cuộc sống
- Nội dung: nhắn nhủ nhẹ nhàng 5đ
Câu: Vận dung tri thúc về đặc trưng tín hiệu ngôn ngữ anh/chị hãy làm rõ.
Ngôn ngữ là 1 hệ thống tin hiệu. Tín hiệu ngôn ngữ mang đặc
điểm bản chất tín hiệu nói chung đồng thời có những đặc trưng khác biệt.
Ngôn ngữ, với vai trò là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của
con người, được xem như một hệ thống tín hiệu phức tạp. Tín hiệu ngôn ngữ
mang những đặc điểm chung của tín hiệu nói chung đồng thời có những đặc
trưng khác biệt, tạo nên tính độc đáo và vai trò đặc thù của nó trong đời sống xã hội.
Tín hiệu là một yếu tố vật chất kích thích vào giác quan của con người
làm cho người ta tri giác được và thông qua đó biết về một điều gì khác ngoài
vật đó. Ví dụ ‘ 5 tiếng kẻng ra chơi’
tiếng kẻng là tín hiệu cho ta biết được hết một tiết học đến giờ ra chơi. Vì vậy
ngôn ngữ được coi là một tín hiệu.Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ có tính 2 mặt
của tín hiệu ngôn ngữ đây là đặc điểm bản chất của tín hiệu ngôn ngữ nói
chung. Cũng như các loại tín hiệu ngôn ngữ khác, tín hiệu ngôn ngữ có hai
mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt là các âm thanh con người
có thể nghe được( con người dùng chữ viết là một loại hình tín hiệu thị giác để
thay thế cho ngôn ngữ âm thanh), còn cái được biểu đạt là nội dung nhận thức
tư tưởng tình cẩm của con người. Một trong những điểm đặc biệt của tín hiệu
ngôn ngữ là mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là võ đoán .
Điều này có nghĩa là không có mối liên kết tự nhiên nào giữa hình thức của cái
biểu đạt và ý nghĩa của cái được biểu đạt. Cái biểu đạt chỉ là sự quy ước trong
cộng đồng ngôn ngữ. Ví dụ, từ "cây" trong tiếng Việt không có mối liên kết tự
nhiên nào với hình ảnh của một cây. Nếu chúng ta thay đổi từ "cây" thành một
từ khác, như "hạt giống", thì ý nghĩa vẫn có thể thay đổi tùy thuộc vào quy ước
trong cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ.
Mối quan hệ này giải thích tại sao các ngôn ngữ khác nhau lại có những hình
thức biểu đạt khác nhau cho cùng một ý nghĩa. Tính hai mặt của tín hiệu ngôn
ngữ là đặc điểm khiến ngôn ngữ khác biệt với nhiều loại tín hiệu khác trong
giao tiếp. Trong các hệ thống tín hiệu khác, như tín hiệu giao thông, tín hiệu lOMoAR cPSD| 58562220
chỉ có một mặt – mặt biểu đạt. Chẳng hạn, đèn giao thông có màu xanh, đỏ và
vàng để biểu thị các lệnh khác nhau cho người tham gia giao thông, nhưng
không có khái niệm trừu tượng nào kèm theo. Màu sắc của đèn chỉ mang một
chức năng biểu thị mà không có sự phân tách giữa hình thức và ý nghĩa, chỉ ra
rằng mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là quy ước.
Tính hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ cũng mang đến sự linh hoạt và sáng tạo
cho ngôn ngữ. Vì mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là võ
đoán, nên ngôn ngữ có thể phát triển và thay đổi theo thời gian. Các từ ngữ
mới có thể được tạo ra và áp dụng vào trong giao tiếp mà không cần phải thay
đổi bản chất của ngôn ngữ. Ví dụ, với sự phát triển của công nghệ, các từ như
"smartphone" (điện thoại thông minh), "selfie" (chụp ảnh tự sướng), và
"internet" đã trở nên phổ biến và được chấp nhận trong ngôn ngữ hàng ngày.
Đây là sự sáng tạo trong việc kết hợp cái biểu đạt mới với cái được biểu đạt đã
được hiểu rộng rãi trong xã hội
Tín hiệu ngôn ngữ còn có những đặc trưng cơ bản khiến nó khác với nhều
tín hiệu khác nhau: đó là đặc trưng về tính võ đoán , tính hình tuyến . Tính
võ đoán là đặc điểm nổi bật đầu tiên của tín hiệu ngôn ngữ. Điều này có nghĩa
là mối quan hệ giữa cái biểu đạt (hình thức vật chất của tín hiệu) và cái được
biểu đạt (khái niệm hoặc ý nghĩa mà tín hiệu truyền đạt) không có sự liên kết
tự nhiên, mà hoàn toàn dựa vào sự quy ước trong cộng đồng ngôn ngữ.Ví dụ
về tính võ đoán:Trong tiếng Việt, từ "cây" được sử dụng để chỉ một thực thể
sinh học có thân, rễ, lá, và các đặc điểm khác. Tuy nhiên, trong tiếng Anh, từ
"cây" lại được biểu đạt bằng từ "tree". Mối quan hệ giữa âm thanh /t / và khái
niệm về "cây" không phải là mối quan hệ tự ʃ nhiên mà là một quy ước được
cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ này đồng thuận.Cùng một khái niệm "cây",
các ngôn ngữ khác nhau lại có cách gọi khác nhau, như "arbre" trong tiếng
Pháp hay "baum" trong tiếng Đức.Tính võ đoán là đặc trưng quan trọng vì nó
cho phép mỗi ngôn ngữ tạo ra các ký hiệu khác nhau để truyền đạt ý nghĩa
tương tự, làm cho ngôn ngữ trở nên phong phú và đa dạng. Không có mối liên
hệ tự nhiên nào giữa các hình thức biểu đạt và các khái niệm, điều này giải
thích vì sao ngôn ngữ có thể thay đổi và phát triển theo thời gian.
Tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ đề cập đến đặc điểm rằng các đơn vị
ngôn ngữ được sắp xếp theo một trình tự nhất định, không thể hiện đồng thời
mà phải tuân theo một dòng thời gian hoặc không gian nhất định. Điều này có
nghĩa là ngôn ngữ luôn được biểu đạt theo một trình tự, từ đơn vị nhỏ nhất như
âm tiết, từ ngữ cho đến câu, đoạn văn. Mỗi thành phần trong câu hoặc văn bản
đều phải theo một trật tự nhất định để tạo ra ý nghĩa.Ví dụ Trong câu "Tôi ăn
cơm", thứ tự của các từ này rất quan trọng. Nếu ta thay đổi thứ tự thành "Cơm lOMoAR cPSD| 58562220
ăn tôi", câu sẽ không còn có nghĩa hoặc có thể gây nhầm lẫn.Khi viết một đoạn
văn, các câu cũng phải được sắp xếp một cách hợp lý, theo trình tự logic để
người đọc dễ dàng hiểu được thông điệp.Tính hình tuyến này đặc biệt quan
trọng trong việc xây dựng cấu trúc ngữ pháp và cú pháp của ngôn ngữ. Nó
giúp tạo ra một sự liên kết giữa các thành phần trong câu, đảm bảo rằng thông
điệp được truyền tải một cách rõ ràng và có trật tự.
Tín hiệu ngôn ngữ có hai đặc trưng cơ bản là tính võ đoán và tính hình tuyến,
hai đặc trưng này phân biệt ngôn ngữ với các hệ thống tín hiệu khác. Tính võ
đoán cho phép ngôn ngữ linh hoạt và phong phú, trong khi tính hình tuyến
giúp tạo ra sự rõ ràng, mạch lạc trong giao tiếp. Những đặc trưng này không chỉ là nền tảng của
ngôn ngữ học mà còn là yếu tố quyết định sự phát triển và sự hiểu biết giữa
các cộng đồng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ, với tư cách là một hệ thống tín hiệu, mang trong mình những
đặc điểm chung của tín hiệu nói chung, nhưng đồng thời cũng sở hữu những
đặc trưng riêng biệt, tạo nên sự phong phú và linh hoạt trong giao tiếp. Tính
võ đoán, tính hình tuyến, tính hai mặt, tính sáng tạo và tính trừu tượng là những
yếu tố đặc biệt giúp ngôn ngữ trở thành công cụ mạnh mẽ, cho phép con người
truyền đạt mọi loại thông tin và cảm xúc. Những đặc trưng này không chỉ giúp
ngôn ngữ tồn tại và phát triển mà còn làm cho ngôn ngữ trở thành một phần
không thể thiếu trong đời sống xã hội và văn hóa của con người.
Câu 2: Dựa vào hiểu biết của chức năng ngôn ngữ anh chị hãy chứng minh
nhận định sau: có thể khẳng định rằng chức năng giao tiếp là chức năng thứ
nhất còn chức năng phản ánh là chức năng thứ hai đồng thời cả hai chức năng
này đều có liên hệ chặt chẽ với nhau.
Chức năng ngôn ngữ là những tác động của ngôn ngữ trong giao tiếp,
giúp con người chia sẻ thông tin, biểu đạt cảm xúc và suy nghĩ, đồng thời phản
ánh các khái niệm, sự vật, và hiện tượng trong thế giới thực. Trong lý thuyết
ngôn ngữ học, chúng ta thường đề cập đến hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ:
chức năng giao tiếp và chức năng phản ánh. Mặc dù chúng có vai trò khác
nhau, nhưng chức năng giao tiếp có thể được xem là chức năng thứ nhất,
trong khi chức năng phản ánh là chức năng thứ hai, và cả hai chức năng này
đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất Ngôn ngữ, với
tư cách là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người, đóng một vai trò cực
kỳ quan trọng trong xã hội. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ để trao đổi thông lOMoAR cPSD| 58562220
tin mà còn là phương tiện thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, và nhận thức của con
người về thế giới xung quanh. Trong xã hội loài người, ngôn ngữ đã và đang
đóng vai trò không thể thay thế trong việc kết nối, xây dựng mối quan hệ, và phát triển văn hóa
Hoạt động giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người. Giao
tiếp đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người, không chỉ
giúp con người chia sẻ thông tin, thể hiện cảm xúc, và giải quyết vấn đề, mà
còn là yếu tố xây dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội và phát triển văn hóa.
Sự đa dạng trong ngôn ngữ và các phương thức biểu đạt khác nhau (nói, viết,
cử chỉ) tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin ở mọi cấp độ từ cá nhân đến
cộng đồng. Ví dụ: Trong một cuộc họp, các thành viên dùng ngôn ngữ để trình
bày thông tin, chia sẻ phân tích, và ra quyết định. Điều này chỉ có thể thực hiện
khi ngôn ngữ được sử dụng như một phương tiện giao tiếp chính thức.
Trong số các phương tiện giao tiếp con người, ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất điều này thể hiện trong các phương tiện lịch sử, không gian
Lịch sử của loài người gắn liền với sự phát triển của ngôn ngữ. Từ khi người
tiền sử bắt đầu tạo ra âm thanh và dấu hiệu để giao tiếp, ngôn ngữ đã trở thành
phương tiện chủ yếu để truyền đạt thông tin và kể lại các sự kiện. Ngôn ngữ
không chỉ giúp con người giao tiếp mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo tồn lịch sử, gìn giữ văn hóa, và truyền tải tri thức qua các thế hệ. •
Ví dụ: Các biên niên sử, sách lịch sử, văn bản tôn giáo là những phương
tiện ngôn ngữ đã ghi lại các sự kiện lịch sử, giúp con người hiểu biết về
quá khứ và phát triển trong hiện tại. Chúng không chỉ phản ánh những
sự kiện quan trọng mà còn cho thấy sự thay đổi của các nền văn hóa, tư
tưởng qua từng giai đoạn lịch sử..
Ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong không gian xã hội của một
quốc gia, mà còn có tầm ảnh hưởng rộng lớn trong không gian toàn cầu. Mỗi
cộng đồng ngôn ngữ, dù là nhỏ hay lớn, đều sử dụng ngôn ngữ để thể hiện bản
sắc và kết nối các cá nhân trong cùng một xã hội. Ngôn ngữ có khả năng vượt
qua ranh giới của không gian, giúp con người giao tiếp với nhau dù ở bất kỳ đâu. •
Ví dụ: Tiếng Anh, với vai trò là ngôn ngữ toàn cầu, đã trở thành cầu nối
giúp người dân của nhiều quốc gia khác nhau giao tiếp và hợp tác quốc
tế. Những tổ chức toàn cầu như Liên Hợp Quốc, World Trade lOMoAR cPSD| 58562220
Organization (WTO) sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện chính trong các
cuộc thảo luận và quyết định quan trọng.
Các nhân tố giao tiếp nhân vật hoàn cảnh nội dung giao tiếp
Giao tiếp là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều yếu tố.
Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến cách thức giao tiếp diễn ra mà còn
tác động trực tiếp đến hiệu quả của quá trình trao đổi thông tin. Trong bất kỳ
tình huống giao tiếp nào, ba yếu tố chính bao gồm nhân vật, hoàn cảnh, và
nội dung giao tiếp đều đóng vai trò quan trọng.
Nhân vật trong giao tiếp thường được hiểu là những người tham gia vào quá
trình trao đổi thông tin. Mỗi nhân vật trong giao tiếp có thể đóng vai trò khác
nhau, chẳng hạn như người gửi thông điệp và người nhận thông điệp. Mối quan
hệ, thái độ, và mục đích của mỗi người tham gia giao tiếp sẽ ảnh hưởng đến
cách thức giao tiếp diễn ra.
Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm tất cả các yếu tố xung quanh quá trình giao tiếp,
từ thời gian, không gian, cho đến tình huống cụ thể mà giao tiếp diễn ra. Hoàn
cảnh có thể ảnh hưởng lớn đến cách thức và nội dung giao tiếp.
Nội dung giao tiếp là thứ được trao đổi giữa các nhân vật trong giao tiếp. Nội
dung này có thể là thông tin, cảm xúc, ý tưởng, quan điểm, hoặc yêu cầu mà
người gửi thông điệp muốn chuyển tải. Nội dung có thể ảnh hưởng đến mức
độ quan trọng và tính chất của cuộc giao tiếp.
Ngôn ngữ không chỉ giúp chúng ta thể hiện suy nghĩ mà còn đóng vai trò như
một công cụ để hình thành, phát triển và tổ chức tư duy.
Ngôn ngữ tham gia vào quá trình nhận thúc và tư duy. Ngôn ngữ g giúp con
người tổ chức và cấu trúc các ý tưởng trong đầu. Khi chúng ta suy nghĩ, ngôn
ngữ chính là công cụ để biểu đạt các khái niệm và lý giải các mối quan hệ giữa
các đối tượng. Ngôn ngữ giúp phân tích, giải quyết vấn đề, và hình thành
những khái niệm trừu tượng.Ví dụ: Khi giải một bài toán phức tạp, con người
sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt các phép toán và mối quan hệ giữa các yếu tố
trong bài toán. Bằng cách này, ngôn ngữ không chỉ giúp con người giao tiếp
về các khái niệm toán học mà còn giúp họ tư duy và giải quyết vấn đề.
Trong nhận thức tư duy ngôn ngữ đóng vai trò bảo toàn và cố định các kết quả
nhận thức tư duy của mỗi người và của loài người từ thế hệ này sang thế hệ khác lOMoAR cPSD| 58562220 •
Tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ. Tư duy mang tính có vấn đề, tính
gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát là do nó gắn chặt với ngôn ngữ. Nếu
không có ngôn ngữ thì quá trình tư duy của con người không thể diễn ra được,
đồng thời các sản phẩm của tư duy (khái niệm, phán đoán...) cũng không được
chủ thể và người khác tiếp nhận. +Ngôn ngữ là cái biểu đạt của tư duy. •
Ngôn ngữ cố định lại kết quả của tư duy, do đó có thể khách quan hóa kết quả
tư duy cho người khác và cho bản thân chủ thể tư duy. Ngược lại, nếu không
có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là những chuỗi âm thanh vô nghĩa. •
Tuy nhiên, ngôn ngữ không phải là tư duy mà chỉ là công cụ, phương tiện của
tư duy. Vì ngôn ngữ là cái biểu đạt tư duy, nên ngôn ngữ là công cụ để con
người suy nghĩ, là phương tiện để con người giao tiếp, truyền đạt tư duy cho nhau.
=> Ngôn ngữ của chúng ta ngày nay là kết quả của quá trình phát triển tư duy
lâu dài trong lịch sử phát triển của nhân loại, do đó ngôn ngữ luôn thể hiện kết
quả tư duy của con người.
giúp bảo toàn tri thức và kết quả tư duy qua thời gian. Nhờ ngôn ngữ, những
phát hiện khoa học, kỹ thuật, văn hóa, và kiến thức của mỗi thế hệ có thể được
ghi lại, lưu trữ và truyền lại cho các thế hệ sau. •
Ví dụ: những kiến thức y học, văn học cổ điển, đều được ghi lại và truyền đạt
qua ngôn ngữ. Những hiểu biết này sẽ được các thế hệ sau tiếp tục nghiên cứu, phát triển và áp dụng.
Ngôn ngữ là phương tiện để ghi lại lịch sử, kiến thức và kỹ thuật, giúp chúng
không bị thất truyền qua thời gian. Các sách vở, tài liệu, và các hình thức ghi
chép khác đều sử dụng ngôn ng Ngôn ngữ không chỉ lưu giữ thông tin mà còn
giúp cố định các kết quả nhận thức tư duy của con người, làm cho chúng trở
nên rõ ràng, có cấu trúc, và dễ dàng được hiểu và tiếp nhận. Khi một người có
một ý tưởng hay phát hiện mới, họ thường phải diễn đạt nó bằng ngôn ngữ, và
thông qua ngôn ngữ, ý tưởng đó trở thành một khái niệm rõ ràng, có thể được
người khác tiếp nhận và sử dụng.
Ngôn ngữ là cầu nối giữa các thế hệ. Các tri thức và kết quả nhận thức tư duy
từ các thế hệ trước được truyền đạt cho các thế hệ sau thông qua ngôn ngữ,
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá khứ và tiến bộ trong hiện tại.
Ví dụ: Các tri thức từ văn hóa dân gian như các truyền thuyết, cổ tích, hay
các học thuyết cổ xưa đều được bảo tồn qua ngôn ngữ, từ đó truyền lại cho các lOMoAR cPSD| 58562220
thế hệ hiện đại. Mỗi thế hệ có thể dựa vào những tri thức này để đánh giá, phát
triển và sáng tạo thêm những hiểu biết mới.
Trong mối quan hệ ngôn ngữ và tư duy thì ngôn ngữ là phát triển vật chất( cái
biểu đạt) để thể hiện tư duy( cái được biểu đạt) Ngôn ngữ có thể được coi là
cái biểu đạt, là hình thức vật chất để chuyển tải và thể hiện những suy nghĩ, ý
tưởng, và khái niệm trừu tượng mà con người có trong đầu (cái được biểu đạt).
Ngôn ngữ là công cụ để truyền đạt kết quả của nhận thức tư duy trong hoạt
động giao tiếp giữa các cá nhân Khi con người giao tiếp với nhau, họ sử dụng
ngôn ngữ để biểu đạt các suy nghĩ, ý tưởng, kiến thức và cảm xúc, đồng thời
cũng là cách để chuyển tải những nhận thức và kết quả tư duy của mỗi cá nhân
tới người khác. Ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc kết nối
tư duy cá nhân với tư duy xã hội, giúp hiểu nhau và xây dựng sự thống nhất về
tri thức trong cộng đồng.
Ngôn ngữ và nhận thức tư duy cũng hình thành và phát triển trong sự qua
lại tác động với nhau hai phương diện này tác động hỗ trợ cho nhau. Tuy
thế mối quan hệ giữa ngôn ngữ va tư duy không phải là quan hệ đồng
nhất, sự không đồng nhất này thể hiện ở sự không đồng nhất giữa các đơn
vị tương ướng của 2 lĩnh vực: từ và các khái niệm câu và phán đoán
.Sự không đồng nhất giữa từ và khái niệm thể hiện ở chỗ từ không phải lúc
nào cũng phản ánh một khái niệm duy nhất. Một từ có thể mang nhiều nghĩa
khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh sử dụng, và ngược lại, một khái niệm có
thể không có một từ duy nhất để diễn đạt trong ngôn ngữ.
Ví dụ:Từ "bàn" có thể chỉ đến một vật dụng trong phòng (bàn làm việc, bàn
ăn), nhưng trong tư duy, khái niệm "bàn" có thể bao hàm các ý tưởng khác
nhau về chức năng, công dụng, hoặc cách sử dụng của nó.
Một điểm khác biệt quan trọng giữa ngôn ngữ và tư duy là sự khác biệt giữa
câu trong ngôn ngữ và phán đoán trong tư duy. Mặc dù câu có thể chứa đựng
một phán đoán, nhưng chúng không phải là một thể đồng nhất. Phán đoán là
một đơn vị tư duy, trong khi câu lại là một đơn vị ngôn ngữ. Ví dụ:Câu "Trời
hôm nay đẹp" là một câu ngữ pháp hoàn chỉnh, có thể truyền đạt thông tin rõ
ràng. Tuy nhiên, trong tư duy, người nói có thể đang đánh giá thời tiết thông
qua nhiều khái niệm (như về ánh sáng, mây, nhiệt độ, v.v.), mà điều này không
thể hoàn toàn biểu đạt trong câu.
Mặc dù có sự không đồng nhất giữa ngôn ngữ và tư duy, giữa các đơn vị của
hai lĩnh vực này, chúng vẫn tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau. Ngôn ngữ là lOMoAR cPSD| 58562220
công cụ giúp biểu đạt và truyền đạt tư duy, đồng thời tư duy lại định hướng và làm phong phú ngôn ngữ.
Chức năng giao tiếp là chức năng quan trọng nhất, đứng đầu trong
các chức năng của ngôn ngữ, vì ngôn ngữ ra đời và tồn tại trước hết để phục
vụ cho giao tiếp. Chức năng phản ánh là chức năng thứ hai, bổ sung và hỗ trợ
chức năng giao tiếp bằng cách cung cấp nội dung, tri thức và nhận thức để
truyền đạt. Cả hai chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ và không thể tách
rời, góp phần làm rõ vai trò toàn diện của ngôn ngữ trong đời sống con người.
Câu 3: Vận dụng tri thức về tính hệ thống của ngôn ngữ anh/chị hãy làm rõ ý kiến sau:
Ngôn ngữ là 1 hệ thống bời vì nó cũng bao gồm các yếu tố và các quan hệ
giữa các yếu tố đó. Các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ chúng là các đơn vị của ngôn ngữ
Ngôn ngữ, với vai trò là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của
con người, được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Một trong những khía
cạnh quan trọng là tính hệ thống của ngôn ngữ. Ý kiến cho rằng "Ngôn ngữ là
một hệ thống bởi vì nó bao gồm các yếu tố và các quan hệ giữa các yếu tố đó.
Các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ là các đơn vị của ngôn ngữ" đã làm nổi
bật bản chất hệ thống của ngôn ngữ. Bài viết này sẽ phân tích để làm rõ tính
hệ thống của ngôn ngữ thông qua việc xem xét các yếu tố và mối quan hệ trong hệ thống ngôn ngữ.
Hệ thống là một thể thống nhất bao gồm các yếu ố có quan hệ và liên
hệ lẫn nhau. Mỗi đối tượng trọn vẹn là một hệ thống, chẳng hạn: một cái cây,
một con vật, một giai đình,..
Ngôn ngữ là một hệ thống bởi vì nó đáp ứng các yêu cầu của một hệ thống.
Trong thực tế, các yếu tố của hệ thống không phải là những điểm trừu tượng
mà là những hệ thống phức tạp. Mỗi yếu tố cũng có nhiều mặt, nhều thuộc
tính, khi tác động lẫn nhau với các yếu tố khác của hệ thống khong phải tất cả
các mặt, các thuộc tính của nó đều tham gia mà chỉ một số mặt, một số thuộc
tính mà thôi. Vì vậy tính chất và phẩm chất của các liên hệ phụ thuộc vào đặc
điểm của các mặt nào đó của các yế tố tham gia tác động lẫn nhau. Như vậy,
những mặt và thuộc tính của các yếu tố tham gia tác động lẫn nhau càng lớn
thì kết cấu của hệ thống càng phức tạp. Cùng một số yếu tố, khi tác động lẫn
nhau bằng những mặt khác nhau có thể tạo nên các hệ thống khác nhau.VD lOMoAR cPSD| 58562220
một gia đình có ba người vợ A chồng B và con C. Trong gia đình, ba người đó
đối xử với nhau theo quan hệ A là vợ của B và là mẹ của C, B là chồng B và
là bố C, C là con của Avà B. Ngôn ngữ cũng vậy, ngôn ngữ cũng bao gồm các
yếu tố và các quan hệ giữa các yếu tố đó. Các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ
chính là các đơn bị của ngôn ngữ. Ngôn ngữ được tổ chức thành các cấp độ
từ nhỏ đến lớn, bao gồm: 5 đơn vị âm cơ bản: âm vị hình vị, từ, câu, văn
bản. Mỗi đơn vị này lại là một tiểu hệ thống bao gồm những đơn vị cùng loại
và được đặc trưng bởi cấu trúc riêng. Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà ta
có thể phân tách ra được trong lời nói. Vd tổ hợp âm thanh bàn mà ta nghe
được có thể phân tách thành ba âm /b/, /a/ /n/ mà không thể phân tách nhỏ hơn
được nữa. Âm vị tạo ra vỏ âm thanh cho đơn vị lớn hơn và phân biết nghĩa.
Hình vị là một chuỗi kết hợp gồm một hoặc nhiều âm vị, hình vị là đơn vị nhỏ
nhất mang nghĩa dùng để cấu tạo từ và biến đổi từ. VD mỗi từ sau đây gồm
hai hình vị: Tổ quốc, xe đạp, làm lụng,.. hình vị có chức năng cấu tạo từ hoặc
biến đổi từ trong các ngôn ngữ biến hình. Từ là một chuỗi kết hợp gồm một
hoặc nhiều hình vị, từ đơn vị độc lập có nghĩa và hoặc có chức năng ngữ pháp(
khác với hình vị là đơn vị có nghĩa những không độc lập, hình vị luôn tồn tại
trong từ). Từ có thể gọi tên các sự vật hiện tượng trong thực tế( định danh) và
dùng để tạo câu. Từ là đơn vị nhỏ nhất cấu tạo nên câu. Nghĩa là không có đơn
vị nào nhỏ hơn từ có nghĩa mà có thể dùng trực tiếp để tạo nên câu. Hệ thống
từ vựng gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn, có từ đơn từ lay từ ghép, động từ danh
từ tính từ, từ ddoonhf nghĩa trái nghĩa,..Về câu là một chuỗi kết hợp gồm 1
hoặc nhiều từ. Câu là chức năng thông báo câu là đơn vị thông báo nhỏ nhất.
Câu là đơn vị không có sẵn trong hệ thống ngôn ngữ mà nó được tạo ra từ hoạt
động giao tiếp cụ thể, vì thế câu có số lượng vô hạn. Xét về cấu tạo có câu
ghép câu đơn, câu phức. xét theo mục đích phát ngôn câu trần thuận câu nghi
vấn câu cảm thán. Văn bản là đơn vị ngôn ngữ thực hiện chức năng thông báo
trọn vẹn. Chúng có số lượng vô hạn.
Trong hệ thống ngôn ngữ, các quan hệ giữa các yếu tố không chỉ là sự kết
hợp đơn giản mà còn có tính chất phức tạp và đa dạng bao gồm quan hệ
đồng nhất, đối lập, thứ bậc, và ngang dọc.
Quan hệ đồng nhất trong ngôn ngữ diễn ra khi các yếu tố ngôn ngữ có sự giống
nhau về nghĩa, cấu trúc hoặc tính chất. Các từ hoặc cụm từ có thể thay thế cho
nhau mà không làm thay đổi ý nghĩa của câu hoặc đoạn văn. Quan hệ này đặc
biệt quan trọng trong việc sử dụng các từ đồng nghĩa hoặc các hình thức từ
vựng khác nhau có cùng một nghĩa.Ví dụ, trong tiếng Việt, từ "vui" và "hạnh
phúc" đều diễn tả trạng thái cảm xúc tích cực và có thể thay thế cho nhau trong
một số ngữ cảnh mà không làm thay đổi ý nghĩa. Trong ngữ pháp, sự đồng
nhất còn thể hiện qua các biến thể của một từ, như "chạy" (động từ) và "chạy" lOMoAR cPSD| 58562220
(danh từ, từ gốc là "chạy"), trong đó cả hai đều mang ý nghĩa liên quan đến hành động chạy.
Khác với quan hệ đồng nhất, quan hệ đối lập là mối quan hệ giữa các yếu tố
ngôn ngữ mang nghĩa trái ngược hoặc đối nghịch nhau. Quan hệ đối lập tạo ra
sự phân biệt rõ ràng trong ý nghĩa và thường được thể hiện qua các cặp từ trái
nghĩa.vd Các cặp từ trái nghĩa như "đẹp" và "xấu," "cao" và "thấp," hay "sáng"
và "tối" không chỉ phản ánh sự đối lập về nghĩa mà còn giúp người sử dụng
ngôn ngữ dễ dàng nhận diện sự khác biệt trong các hiện tượng, sự vật trong
thế giới xung quanh. Đối lập cũng có thể thể hiện trong các cấu trúc ngữ pháp
như các thì động từ (quá khứ – hiện tại – tương lai) hay trong cấu trúc câu phủ
định ("Cô ấy đi" đối lập với "Cô ấy không đi").
Quan hệ thức bậc thể hiện ở hai bình diện là quan hệ nằm trong và quan hệ bao
hàm. Phân tích các đơn vị ngôn ngữ ta thấy giữa các đơn vị này có sự sắp xếp
theo tôn ti trật tự. Các đơn vị cấp thấp nằm trong các đơn vị cấp trên, các đơn
vị cấp trên bao hàm các đơn vị cấp dưới. Âm vị nằm trong hình vị, hình vị nằm
trong từ, từ nằm trong câu, và ngược lại, câu bao hàm từ, từ bao gồm hình vị,
hình vị bao gồm âm vị. VD nó đi học bằng xe đạp câu nó đi học bằng xe đạp
gồm 5 từ: nó, đi, học, bằng, xe đạp. Mỗi từ nó , đi, dọc bằng có cấu tạo gồm
một hình vị riêng từ xe đạp có cấu tạo gồm hai hình vị xe và đạp. các hình vị
này được cấu tạo nên các âm vị n, o , d ,i,…
Quan hệ tuyến tính trong ngôn ngữ diễn tả mối quan hệ giữa các yếu tố trong
câu hoặc đoạn văn theo một trình tự nhất định, từ đầu đến cuối. Trong câu, các
thành phần ngữ pháp như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ được sắp xếp theo một trật
tự tuyến tính nhất định để tạo thành cấu trúc câu có nghĩa. Quan hệ tuyến tính
này giúp ngôn ngữ có thể phát triển một cách mạch lạc, dễ hiểu và theo một
trình tự logic. Ví dụ, trong câu "Cô ấy ăn cơm," "Cô ấy" là chủ ngữ, "ăn" là
động từ, và "cơm" là bổ ngữ. Trật tự này giúp người nghe hoặc người đọc hiểu
rõ ràng mối quan hệ giữa các thành phần trong câu và nhận diện được chủ thể,
hành động và đối tượng của hành động. Quan hệ tuyến tính còn giúp kết nối
các câu, tạo thành đoạn văn mạch lạc và có tính logic.
Quan hệ đối xứng trong ngôn ngữ thể hiện sự bình đẳng hoặc tương đồng giữa
các yếu tố ngôn ngữ. Các yếu tố trong mối quan hệ này có thể thay đổi vị trí
hoặc vai trò mà không làm thay đổi cấu trúc chung. Trong một số ngữ cảnh,
quan hệ đối xứng giúp tạo ra sự tương quan và cân bằng giữa các yếu tố trong
ngữ pháp hoặc ngữ nghĩa. Ví dụ, trong cấu trúc câu "Tôi và bạn đi học," mối
quan hệ giữa "Tôi" và "bạn" là đối xứng, bởi vì cả hai thành phần này đều có
vai trò chủ ngữ và có thể hoán đổi vị trí mà không làm thay đổi ý nghĩa của lOMoAR cPSD| 58562220
câu. Quan hệ đối xứng còn thể hiện qua việc sử dụng các từ hoặc cấu trúc
tương đương trong ngôn ngữ, giúp tạo ra sự cân bằng trong cách diễn đạt.
Ngôn ngữ không chỉ là một tập hợp các đơn vị rời rạc mà là một hệ
thống phức tạp, trong đó các yếu tố liên kết với nhau theo các quy luật ngữ
pháp, ngữ nghĩa và âm thanh. Các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ không thể
tách rời mà luôn có mối quan hệ tương hỗ và ảnh hưởng lẫn nhau, làm cho
ngôn ngữ trở thành một hệ thống sống động, linh hoạt và có khả năng phản
ánh mọi khía cạnh của cuộc sống con người
Câu 4: Trong cuốn hệ tư tưởng Đức mác và ăngghen đã viết: ‘ ngôn ngữ
là ý thức thực tại, thực tiễn ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả người khác nữa,
như vậy cũng là tồn tại đầu tiên cho bản thân tôi nữa, và cũng như ý thức
, ngôn ngữ đã sinh ra do nhu cầu , do cần thiết phải dao dịch với người
khác’. Chứng minh nhận định trên
Nhận định của Mác và Ăngghen trong cuốn Hệ tư tưởng Đức là một
phát biểu quan trọng về vai trò của ngôn ngữ trong sự hình thành và phát triển
ý thức loài người. Do vậy ngôn ngữ không chỉ là phương tiện biểu đạt ý thức,
mà còn là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và giao tiếp xã hội, đồng thời
khẳng định tính xã hội và cá nhân của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu đặc biệt, được dùng làm phương tiện
giao tiếp quan trọng nhất và phương tiện tư duy của con người.
Ngôn ngữ mang bản chất xã hội vì
Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội, không phải là hiện tượng tự nhiên.
Ngôn ngữ mang tính chủ quan và thể hiện ý chí của con người. Con người cần
giao tiếp để phục vụ các nhu cầu trong đời sống, vì thế mới có sự ra đời của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ không thể tự sinh, tự diệt, tự sinh ra và mất đi bên ngoài
phạm vi xã hội loài người. Thực tế cho thấy, khi bị cô lập khỏi nền thế giới
loài người, con người có thể phát triển nhưng hoàn toàn không biết nói. Nguyên
nhân là do, không có môi trường xã hội thì ngôn ngữ không thể nảy sinh, tồn
tại và phát triển. Điều này được thể hiện qua trường hợp sau đây. VD: Cậu bé
người Sói Shamdeo được người dân tìm thấy trong khu rừng ở Ấn Độ, khi đó
cậu khoảng 4 tuổi. Vì đã cùng ăn, cùng sống, cùng ở với bầy sói trong thời
gian dài, cậu bé hoàn toàn không có khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mặc
dù với rất nhiều nỗ lực sau đó, cậu chỉ sử dụng được vài ký hiệu đơn giản. Một
số người nhầm lẫn rằng ngôn ngữ có cùng quy luật phát triển với thế giới tự
nhiên: cũng nảy sinh, trưởng thành, hưng thịnh, suy tàn và diệt vong. Nhưng lOMoAR cPSD| 58562220
thực chất, ngôn ngữ luôn kế thừa các cũ để phát triển cái mới, không bao giờ
bị hủy diệt hoàn toàn.
Ngôn ngữ không mang tính bẩm sinh Con người sinh ra đã có bản năng: đi,
ngồi, chạy..à có các cơ quan bẩm sinh liên quan đến phát âm: khoang phát âm
như mũi, răng, môi..., cơ quan hô hấp, trung ương thần kinh. Thế nên mn cho
rằng hđ nói năng cũng có tính chất bản năng như các hđ ăn, khóc, cười, chạy,
nhảy của con người. Họ thấy hầu như đứa trẻ nào cũng biết khóc, cười, biết
ăn... rồi biết nói như nhau và trẻ con ở hầu hết các nước trên TG đều bắt đầu
nói những âm giống nhau như papa, mama, .... Nhưng không thể coi đó là cơ
sở để hiểu tính bẩm sinh của ngôn ngữ. Thực ra những bản năng sinh vật như
ăn, khóc, cười có thể phát triển ngoài XH, trong trạng thái cô độc. Còn ngôn
ngữ k thể có đc những ĐK như thế: nếu tách 1 đứa bé ra khỏi XH loài người,
thì nó biết ăn, chạy, leo trèo... nhưng nó không biết nói. VD: Năm 1920, ở Ấn
Độ, người ta tìm được 2 bé gái ở hang sói trong rừng bị rơi vào đời sống hoang
dã, 2 em đã tiếp thu những kỹ năng đời sống súc vật và mất đi tất cả những gì
thuộc về con người. hai em không biết nói mà chỉ rống lên thôi. Ngôn ngữ là
kết quả của sự học hỏi, bắt chước, tiếp xúc xã hội, với mọi người xung quanh.
VD: Đứa trẻ sinh ra VN, nhưng lớn lên ở Nga, tiếp xúc người Nga sẽ nói tiếng
Nga. Ngôn ngữ không mang tính di truyền ` Nói đến di truyền là nói đến
sự truyền lại cho thế hệ sau những điểm giống thế hệ trước. Những nét di
truyền dễ nhận thấy ở con người là: màu da, màu tóc, dáng vóc con người.
VD: Bố mẹ là người da trắng, con cháu là người da trắng, bố mẹ tóc đen, con
cháu k thể nào tóc vàng được trừ khi bạn đi nhuộm thôi. Những dấu hiệu chủng
tộc không dễ gì xóa bỏ trong một vài thế hệ. Con người sinh ra nếu không có
giao tiếp với người khác, với xã hội thì không bao giờ có ngôn ngữ. Ngôn
ngữ không đồng nhất với tiếng kêu của động vật Động vật dùng tiếng kêu
để báo hiệu sự nguy hiểm hay gọi nhau với bầy đàn như: tiếng gà mẹ kêu cục
cục gọi đàn con, tiếng gáy của gà là đặc trưng của nó, tiếng chó sủa .... Âm
thanh ngôn ngữ khác âm thanh (tiếng kêu) của một số động vật. Nhiều gia súc
còn có thể hiểu con người và một số câu nói của con người. Chính vì thế chúng
ta mới có thể: gọi chó đến, đuổi chó đi, bảo nó nằm xuống một cách dễ dàng.
Thậm chí, đối với con vẹt hay sáo, ta có
Bản chất xã hội của ngôn ngữ
Phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao Trong tất cả các phương tiện
mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện duy nhất thoả
mãn được tất cả nhu cầu của con người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ
giao tiếp vạn năng vì nó hành trình cùng con người từ lúc con người xuất hiện
cho tới tận ngày nay. Chúng ta biết rằng, để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã