Đề cương cuối kì | Kinh Tế Chính Trị Mác - Lênin | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Đề cương chi tiết của môn học "Kinh Tế Chính Trị Mác - Lênin" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là một tài liệu quan trọng cung cấp khung kiến thức và chương trình học cho sinh viên. Trong đề cương này, sinh viên sẽ được tiếp cận với các khái niệm cơ bản và lịch sử phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, bao gồm cơ sở triết học và các nguyên lý chủ đạo của phong trào này. Đồng thời, đề cương cũng bao gồm việc tìm hiểu về tác động của Mác - Lênin đối với các quá trình kinh tế - chính trị - xã hội, từ cách mạng công nghiệp đến sự phát triển của các chủ nghĩa xã hội và quá trình cải cách xã hội. Mục tiêu của môn học là giúp sinh viên hiểu rõ hơn về lịch sử, triết lý và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phát triển khả năng phân tích và đánh giá về các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội trong thế giới hiện đại.
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin (XH&NV-ĐHQGHCM)
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG KTCT
Câu 1: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa và tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hóa. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn?
*Hàng hoá: là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể(hữu hình) và ở dạng phi vật thể (dịch vụ vô hình).
Ví dụ: Quần áo, giày dép, mỹ phẩm, đồ gia dụng, đồ dùng học tập,…
*Hai thuộc tính của hàng hoá:
Trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có bản chất khác
nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có
hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa nhằm
thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. (Nhu cầu của con người gồm có nhu
cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân)
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất…
+ Công dụng, công hiệu, tính có lợi, tính có ích của hàng hoá
+ Giá trị sử dụng do những thuộc tính tự nhiên quy định, không lệ thuộc vào chế độ xã
hội. Khi xã hội càng phát triển thì xã hội càng tìm ra càng nhiều giá trị sử dụng cho
cùng một vật phẩm. ( than đá dùng đun nấu, nhưng khi xã hội phát triển than đá còn
dùng trong công nghiệp hoá chất)
+ Giá trị sử dụng được thể hiện thông qua tiêu dùng và là phạm trù có tính vĩnh viễn
+ Giá trị sử dụng được phát hiện dần, ngày càng phong phú do sự phát triển của khoa học, công nghệ.
+ Trong nền KT hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi
+ Đối với hàng hoá dịch vụ thì giá trị sử dụng của nó có đặc điểm là không có hình
thái vật thể quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời do đó nó không tích luỹ hay dự trữ.
(Cơ sở xác định: thuộc tính tự nhiên của hàng hoá, tập tục và quy ước)
- Giá trị: Giá trị của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa đó. Ví dụ: giá trị của chai nước là hao phí lao động xã hội của
người sản xuất ra chai nước kết tinh trong chai nước (2h sản xuất ra chai nước, thì 2h
là giá trị của chai nước).
Muốn tìm hiểu phạm trù giá trị phải xuất phát từ phạm trù giá trị trao đổi vì giá trị trao
đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị; còn giá trị là nội dung bên trong, là cơ
sở của giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại
này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc 1 lOMoAR cPSD| 41487147
Sở dĩ vải và thóc trao đổi được với nhau vì hai hàng hóa đó có cái chung là đều là
sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Chính lao động hao phí để
tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi và tạo thành giá trị của hàng hóa. *Nhận xét:
+ Giá trị của hàng hóa là phạm trù lịch sử
+ Giá trị của hàng hóa phản ánh quan hệ giữa người sản xuất hàng hóa, khi tiền tệ
ra đời – giá trị biểu hiện ra bằng tiền thì nó gọi là giá cả. Giá trị của hàng hóa là thuộc
tính xã hội của hàng hóa.
→ Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa phải có đủ hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính: thể hiện sự thống nhất và đối lập
- Thống nhất: đã là hàng hoá thì phải có đủ 2 thuộc tính trên.
- Đối lập: Mâu thuẫn được bộ lộ ra ngoài là giữa chất lượng và giá cả, giữa người mua và người bán. Giá trị
Giá trị sử dụng
Mục đích của người sản xuất
Mục đích của người tiêu dùng
Tạo ra trong quá trình sản
Tạo ra trong quá trình tiêu xuất Thực hiện trước dùng Thực hiện sau
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Sở dĩ hàng hóa có 2 thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động của người
sản xuất ra hàng hóa có 2 mặt. Chính tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa
quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa.
C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng
hóa. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
a. Lao động cụ thể.
Là lao động có ích với hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng, công cụ, phương pháp và kết quả riêng.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, do đó lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá
trị sử dụng càng phong phú.
– Lao động ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa.
– Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, thể hiện tính chất tư nhân của sản xuất hàng
hóa, tuy nhiên hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi, phụ thuộc vào sự phát
triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động.
b. Lao động trừu tượng.
Là lao động của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức biểu hiện cụ
thể của nó để quy về cái chung đồng nhất, đó là sự hao phí sức lao động, tiêu hao
sức bắp thịt, thần kinh của người sản xuất hàng hoá.
– Lao động trừu tượng là lao động đồng chất của con người. 2 lOMoAR cPSD| 41487147
– Lao động trừu tượng tạo nên giá trị hàng hoá, là cơ sở để so sánh các giá trị sử
dụng khác nhau. Chất của hàng hoá là lao động trừu tượng.
– Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hoá. Bởi
vì chỉ trong sản xuất hàng hoá mới đặt ra yêu cầu phải quy các lao động cụ thể vốn
không so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng nhất có thể so sánh với nhau.
Vậy: Xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì.
Lao động trừu tượng là tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động.
Cần thấy rằng không phải có hai thứ lao động được kết tinh trong một hàng hoá mà
chỉ có lao động của người sản xuất hàng hoá. Nhưng lao động đó có tính 2 mặt: 1 mặt
là lao động cụ thể và một mặt là lao động trừu tượng.
=> Ý nghĩa: Việc phát hiện ra tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa
rất to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa
học thực sự; giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự
vận động trái ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với
khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
Câu 2: Phân tích lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị của hàng hóa. Ý nghĩa thực tiễn? *Khái niệm:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán.
Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa đó. Ví dụ: giá trị
của chai nước là hao phí lao động xã hội của người sản xuất ra chai nước kết tinh
trong chai nước (VD: 2h sản xuất ra chai nước, thì 2h
là giá trị của chai nước).
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là đơn vị đo lường lượng giá trị của hàng hóa.
Cần phân biệt thời gian lao động cá biệt với thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời
gian lao động cá biệt là thời gian hao phí của từng người sản xuất, từng chủ thể cá biệt.
Ví dụ: 1 người công nhân mất 2 giờ để tạo ra sản phẩm thì lúc này 2 giờ đó là thời
gian hao phí lao động cũng chính là giá trị của sản phẩm (sản phẩm cá biệt của người
CÔNG NHÂN) chứ không phải giá trị của hh SẢN PHẨM trong toàn xã hội.
Thời gian lao động x愃̀ hội c n thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra
một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một
trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường
độ lao động trung bình trong xã hội đó. 3 lOMoAR cPSD| 41487147
Trên thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra 1 hàng hóa thường
trùng hợp với mức hao phí lao động cá biệt của những người sx và cung cấp đại bộ
phận sản phẩm đó trên thị trường.
Ví dụ: Hiện nay, thị trường xe máy có nhiều cửa hàng .
* Nếu xã hội sản xuất 1 sản phẩm 2h (TG LĐXH cần thiết), mà bạn sản xuất mất 3h
(TG LĐ cá biệt) vậy bạn bán có hiệu quả bằng không?
Về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao
hàm: hao phí lao động quá khứ (chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã
tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa đó) và hao phí lao động mới kết tinh thêm.
*Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa +Thứ
nhất, năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian hao
phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
VD: 1 người công nhân trong 8h sản xuất được 16 sản phẩm => NSLĐ của người
công nhân là 2 sp/h hoặc 0.5h/sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động,
nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết
để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng
lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
Năng suất lao động có hai loại: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao
động xã hội. Năng suất lao động xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giá trị xã hội
của hàng hóa. Năng suất lao động xã hội tỷ lệ nghịch với lượng giá trị xã hội của một đơn vị hàng hóa.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm có: trình độ của người
lao động; trình độ tiên tiến và mức độ trang bị kỹ thuật, khoa học công nghệ trong quá
trình sản xuất, trình độ quản lý; cường độ lao động và yếu tố tự nhiên.
Tăng năng suất lao động khác với tăng cường độ lao động.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động trong sản xuất.
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản
xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của
một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo
dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau là đều dẫn đến
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác
nhau là tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra
trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống. 4 lOMoAR cPSD| 41487147
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý,
trình độ tay nghề thành thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động.
+Thứ hai, tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động
Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng
hóa. Theo tính chất của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ
thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua một
quá trình đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động
giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Trong
quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy về lao động đơn
giản trung bình, và điều đó được quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động
sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường. Đây là
cơ sở lý luận quan trọng để tính toán, xác định mức thù lao cho phù hợp với tính chất
của hoạt động lao động trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
*Ý nghĩa thực tiễn
Trong hoạt động thực tiễn trên thị trường các chủ thể cạnh tranh rất gay gắt với
nhau, lợi thế luôn thuộc về người sản xuất có năng suất lao động cao nhất tức chi phí
sản xuất thấp nhất, ngược lại họ sẽ gặp bất lợi và có nguy cơ phá sản. Vì thế cạnh
tranh để tăng năng suất lao động, giảm chi phí lao động có ý nghĩa sống còn của
doanh nghiệp, do vậy các yếu tố tác động tới năng suất lao động được đặc biệt quan tâm ứng dụng.
Câu 3: H愃̀y phân tích mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Vì sao hàng hóa
sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn này?
1. Công thức chung của tư bản
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ
biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột
lao động của người khác. Ở đây tiền chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông.
Tiền được coi là tiền thông thường, thì vận động theo công thức: H - T
- H (hàng - tiền - hàng), nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền, rồi tiền lại
chuyển hoá thành hàng hoá. Còn tiền được coi là tư bản, thì vận động theo công
thức: T - H - T (tiền - hàng - tiền), tức là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá, rồi
hàng hóa lại chuyển hóa ngược lại thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động theo công
thức T - H - T đều chuyển hoá thành tư bản.
So sánh công thức lưu thông hàng hoá giản đơn H - T - H và công thức lưu
thông của tư bản T - H - T, chúng ta thấy chúng có những điểm giống 5 lOMoAR cPSD| 41487147
nhau: cả hai sự vận động do hai giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành,
trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai
người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán. Nhưng đó chỉ là
những điểm giống nhau về hình thức. Giữa hai công thức đó có những điểm khác nhau về chất.
Lưu thông hàng hoá giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H - T) và kết thúc bằng
việc mua (T - H). Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình đều là hàng hoá, còn
tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc
mua (T - H) và kết thúc bằng việc bán (H - T). Tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm
kết thúc của quá trình, còn hàng hoá chỉ đóng vai trò trung gian; tiền ở đây không phải
là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về.
Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu
cầu, nên các hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết
thúc ở giai đoạn thứ hai, khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người
đó cần đến. Còn mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là
giá trị, hơn nữa giá trị tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra, thì
quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng
ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T - H - T', trong đó T' = T + ∆T. Số
tiền trội hơn so với số tiền ứng ra (∆T), C.Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra
ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục
đích lưu thông tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động của
tư bản là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB, có thể định
nghĩa đầy đủ: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
không công của công nhân làm thuê”.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Công thức chung của tư bản: T-H-T' (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu?
Như vậy chỉ có 2 trường hợp: trong lưu thông và ngoài lưu thông. + Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra ∆T
* Trường hợp trao đổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H và
từ H-T nhưng tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau
đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng thì đôi bên đều có lợi.
Ví dụ: Tiền trao đổi lấy hàng – hàng trao đổi lấy tiền, các bên đều ngang giá với nhau.
Bạn có 500k bạn mua 1 bao gạo của người A rồi bạn bán lại bao gạo đó cho người B
cũng ngang giá 500k => Ko tạo ra giá trị
* Trường hợp trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ nhất, Trong trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng
đến lượt anh ta lại là người đi mua (vì không có ai chỉ bán mà không 6 lOMoAR cPSD| 41487147
mua) thì phải mua hàng hóa cao hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị
không mạng lại bất cứ chút thặng dư (∆T) nào.
Thứ hai, Trường hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không
mang lại chút thặng dư (∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa thấp hơn giá trị.
Ví dụ: - Khi bạn bán gạo cao hơn giá trị của gạo => Bạn sẽ thu được nhiều
lợi hơn. Nhưng lúc này, đối với các sp dùng gạo làm đầu vào như: bánh mì, rượu,
thịt,…thậm chí là mức lương đầu vào của công nhân cũng sẽ tăng lên vì giá gạo tăng
lên. Lúc này bạn với tư cách là người mua các loại sp như trên sẽ chịu thiệt và phải
mua với giá cao hơn giá trị của các loại hh đó. Tương tự với trường hợp ngược lại. =>
MUA RẺ HAY BÁN ĐẮT KHÔNG TẠO RA GIÁ TRỊ MỚI
Mỗi nhà TB tham gia vào quá trình lưu thông tư bản luôn phải đảm nhận cả 2 vai trò
vừa đóng vai người mua vừa đóng vai người bán.
- Trên thị trường có nhiều nhà TB cùng tham gia và có mqh dây chuyền tác động lẫn nhau
Thứ ba, nếu xã hội có một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T
hắn có là do chiếm đoạt của người khác mà có. Cái hắn được là cái người khác mất
đi, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá trị của hàng hóa là không thay đổi. KHÔNG
TẠO RA GIÁ TRỊ MỚI MÀ CHỈ PHÂN PHỐI LẠI GIÁ TRỊ. + Ngoài lưu thông:
Nhân tố (T) tiền: “tiền” tự nó không lớn lên.
Xét nhân tố (H) hàng: Hàng ngoài lưu thông tức là vào tiêu dùng:
+ Tiêu dùng vào sản xuất, tức là tư liệu sản xuất. Vậy giá trị của nó chuyển dịch
dần vào sản phẩm - không tăng lên.
+ Tư liệu tiêu dùng, tiêu dùng cho cá nhân - cả giá trị và giá trị sử dụng đều mất đi.
=> Như vậy cả trong lẫn ngoài lưu thông xét tất cả các nhân tố thì T không tăng thêm.
Nhưng nhà tư bản không thể vận động ngoài lưu thông, có nghĩa là nhà tư bản phải
tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hoá (trong lưu thông ) nhưng nhà tư
bản không bán hàng hoá đó, vì nếu bán cũng không thu được gì. Nhà tư bản tiêu
dùng hàng hoá đó (ngoài lưu thông) tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó -
hàng hoá đó là sức lao động. Như vậy công thức đầy đủ có thể viết: Sức lao động T -
H sản xuất hàng hoá ...H’ - T’ TLSX.
Vậy là "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở
bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông, đồng thời không phải trong lưu thông".
3. Hàng hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong
công thức chung của tư bản:
a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng
hóa: “Sức lao động, đó là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể một con người
đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.” 7 lOMoAR cPSD| 41487147
Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hóa. Ví dụ: Trong xã hội nô
lệ thì sức lao động của nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân anh ta đã thuộc sở
hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức lao động. Người thợ thủ công tự do
tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của mình nhưng sức lao động của anh ta cũng
không phải là hàng hóa vì anh ta chỉ sản xuất tự cung tự cấp nuôi sống mình, chứ
chưa buộc phải bán sức lao động để kiếm sống (VD này có thể ghi hoặc không).
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau:
Thứ nhất, Người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động
của mình và có quyền bán sức sức lao động của mình như một hàng hóa.; Thứ hai,
Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt
trở thành “vô sản”, để tồn tại anh ta buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư
bản. Nhưng trước CNTB thì hàng hóa sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB
thì hàng hóa sức lao động mới xuất hiện và trở thành phố biến.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Giá trị hàng hóa sức lao động
cũng do thời gian LĐXH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức LĐ quyết định.
Muốn SX và tái sản xuất ra sức lao động người công nhân phải tiêu dùng một lượng
tư liệu sinh hoạt cần thiết về ăn, ở, mặc, học nghề... Ngoài ra họ còn phải thỏa mãn
những nhu cầu của gia đình và con cái.
Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị ấy được hợp thành bởi:
Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao
động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân; Phí tổn đào tạo người công
nhân; Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái
người công nhân. Sự biến đổi giá trị hàng hóa sức lao động một mặt tăng lên do sự
tăng lên của nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hóa, dịch vụ, học tập, học nghề...
mặt khác lại bị giảm xuống do sự tăng năng suất lao động xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình
tiêu dùng sức lao động. Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình tiêu dùng
hàng hóa sức lao động lại là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản
thân hàng hóa sức lao động.
Nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, đó là hàng
hoá sức lao động, mà giá trị sử dụng của nó có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra
giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn
đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính này đã làm cho
hàng hoá sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành tư bản. Do đó việc
tìm ra và lý giải phạm trù hàng hoá sức lao động được coi là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn 8 lOMoAR cPSD| 41487147
trong công thức chung của tư bản. Nếu "T" của tư bản không dùng để bóc lột sức lao
động của công nhân thì không thể có "T'=T+∆T”.
Nếu không có lao động của công nhân thì không thể có "T'=T+∆T”. Kết Luận:
Chính đặc tính này đã làm cho hàng hoá sức lao động trở
thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành tư bản. Do đó việc tìm ra và lý giải phạm trù
hàng hoá sức lao động được coi là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
- 夃Ā nghĩa nghiên cứu vấn đề Việc nghiên cứu hàng hoá sức lao động có
ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng thị trường lao động ở Việt Nam. Đảng và Nhà
nước ta đã thừa nhận sức lao động là hàng hoá (khi có đủ các điều kiện trở thành
hàng hoá) cho nên việc xây dựng thị trường sức lao động là tất yếu. Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt l漃̀i, trọng tâm của Đảng ta.
Câu 4: Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư
bản. Vì sao giá trị thặng dư siêu ngạch được gọi là hình thức biến tướng của
giá trị thặng dư tương đối?
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do công nhân làm thuê
tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Là kết quả lao động của công nhân cho nhà tư bản.
Giá trị thặng dư phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quan hệ bóc lột của
nhà tư bản đối với lao động làm thuê.
*Để thu được giá trị thặng dư, có hai phương pháp chủ yếu:
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các
nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
Khái quát, có 2 phương pháp để đạt được mục đích, đó là sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động
và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ: Nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Giả định nhà tư bản kéo dài
ngày lao động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối
tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là: m’= 6h/4h x 100%= 150%
Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản, khi lao động còn ở trình độ thủ công và năng suất lao động còn thấp.
Với lòng tham vô hạn, các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động,
nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn của ngày 9 lOMoAR cPSD| 41487147
lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định vì công nhân phải có
thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để hồi phục sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động
còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao
động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư
bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động
tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao
động. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao
động. Vì tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong
ngày, trong khi thời gian lao động cần thiết không thay đổi.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn
thời gian lao động tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài
ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư, tỷ
suất giá trị thặng dư là 100%.
Nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 2 giờ thì
thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó: m’= 6h/2h x 100% = 300%
Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao động giảm
khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động
thặng dư sẽ là 5 giờ. Khi đó: m’= 5h/1h x 100% = 500%
Việc tăng năng suất lao động xã hội, trước hết ở các ngành sản xuất ra vật
phẩm tiêu dùng, sẽ làm cho giá trị sức lao động giảm xuống do đó, làm giảm thời gian
lao động cần thiết. Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động cần
thiết giảm sẽ làm tăng thời gian lao động thặng dư - thời gian để sản xuất ra giá trị
thặng dư tương đối cho nhà tư bản.
Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn
thời gian lao động tất yếu phải phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị lao
động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân.
Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các
ngành sản xuất những tư liệu sinh hoạt đó.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản
xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực
lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba
giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng
là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử
dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, 10 lOMoAR cPSD| 41487147
việc áp dụng máy móc không phải để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân,
mà trái lại để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho
cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh
thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
*Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất
tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt
của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị tạm thời, xuất hiện
và mất đi. Nhưng xét toàn bộ giá trị xã hội thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng
tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư
bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa
sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng nhanh
chóng. C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng
dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên
cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là tăng năng suất lao động cá biệt,
còn một bên dựa vào tăng năng suất lao động xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị tương đối còn thể hiện
ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Xét về
mặt đó, nó thể hiện toàn bộ quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn
bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số các nhà tư
bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ thể hiện mối quan hệ
giữa tư bản và công nhân làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh
tranh giữa các nhà tư bản.
=> Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch động lực trực tiếp, mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới về sản xuất, hoàn
thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.
Câu 5: Phân tích bản chất, động cơ của chủ nghĩa tư bản. Các nhân tố ảnh
hưởng đến quy mô tích lũy tư bản? Hệ quả của tích lũy tư bản.
*Khái niệm: Tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư, là biến một phần giá trị
thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất, tăng thêm quy mô bóc lột.
Để chỉ ra bản chất của tích lũy tư bản, cần nghiên cứu về tái sản xuất. Trong nền kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa, quá trình sản xuất liên tục được lặp đi lặp lại không
ngừng, quá trình đó được gọi là tái sản xuất.
Tái sản xuất có hai hình thức chủ yếu là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. 11 lOMoAR cPSD| 41487147
Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Trong
trường hợp này, ứng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, toàn bộ giá trị thặng dư đã
được nhà tư bản tiêu dùng cho các nhân.
Tuy nhiên, tư bản không những được bảo tồn mà còn phải không ngừng lớn
lên. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một bộ phận giá trị thặng
dư thành tư bản phụ thêm. Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản gọi là tích lũy tư bản.
Bản chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ
nghĩa thông qua việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để tiếp tục
mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua mua thêm hàng hóa sức lao động, mở mang
nhà xưởng, mua thêm nguyên - vật liệu, trang bị thêm máy móc, thiết bị… Nghĩa là
nhà tư bản không sử dụng hết giá trị thặng dư thu được cho tiêu dùng cá nhân mà
biến nó thành tư bản phụ thêm. Do đó, khi thị trường thuận lợi, nhà tư bản bán được
hàng hóa, giá trị thặng dư sẽ ngày càng nhiều, nhà tư bản trở nên giàu có hơn.
Thực chất, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư. Nhờ có
tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành thống trị,
mà còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối
của chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư
bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để
tăng cường chiếm đoạt giá trị thặng dư. Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản
không ngừng gia tăng tư bản cá biệt bằng cách đẩy nhanh tích lũy tư bản.
*Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và tỷ lệ
phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Với tỷ lệ
phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng nhất định, thì các nhân
tố góp phần làm tăng quy mô tích lũy bao gồm:
- Thứ nhất, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền
đề để tăng quy mô giá trị thặng dư. Từ đó mà tạo điều kiện để tăng quy mô tích lũy.
- Thứ hai, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động tăng giúp thu được
nhiều giá trị thặng dư hơn, góp phần tạo điều kiện cho phép tăng quy mô tích lũy.
- Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc. Các Mác gọi việc này là chênh lệch giữa tư
bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Theo Các Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ
tính năng của nó, song, giá trị chỉ được tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao.
Sau mỗi chu kỳ như thế, máy móc vẫn hoạt động toàn bộ những giá trị của bản thân
nó đã giảm dần do tính giá khấu hao để chuyển vào giá trị sản phẩm. Hệ quả là, mặc
dù giá trị đã bị khấu hao, song, tính năng hay giá trị sử dụng thì vẫn nguyên như cũ,
như lực lượng phục vụ không công trong sản xuất. Sự phục vụ không công được lao động 12 lOMoAR cPSD| 41487147
sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích lũy lại cùng với tăng quy mô tích lũy tư bản.
- Thứ tư, đại lượng tự bản ứng trước. Nếu thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán
được, tư bản ứng trước càng lớn sẽ là tiền đề cho tăng quy mô tích lũy.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, nghiên cứu tích lũy tư bản giúp người học hiểu được làm tăng quy
mô tích lũy tư bản. Khẳng định muốn tái sản xuất mở rộng phải tích lũy tư bản, tích lũy vốn.
Về thực tiễn, muốn tăng quy mô tích lũy tư bản, vốn cần khai thác tốt nhất lực
lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy
móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
*Hệ quả của tích lũy cơ bản
Thứ nhất, tích luỹ tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản
- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tự bản
hóa giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng thời làm tăng
quy mô tư bản xã hội do giá trị thặng dư được biến thành tư bản phụ thêm. Tích tụ tư
bản là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
- Tập trung tư bản là sự tăng lên của quy mô tư bản cá biệt mà không làm tăng
quy mô tư bản xã hội do hợp nhất các tư bản cá biệt vào một chỉnh thể tạo thành một
tư bản cá biệt lớn hơn. Tập trung tư bản có thể được thực hiện thông qua sáp nhập
các tư bản cá biệt với nhau.
- Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng
thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn
đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng
cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói
trên của tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích lũy tư bản ngày càng mạnh. Tích tụ
và tập trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thể thu được nhiều giá trị thặng dư
hơn cho người mua hàng hóa sức lao động. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với
sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được
những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Thứ hai , tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản
Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô, mà còn
không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó.
- Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao
động để vận dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và
số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất gọi là
cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Quan hệ này có tính tất yếu về mặt kỹ thuật, do trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất quyết định .
- Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia thành hai phần : tư bản bất biến
(c) và tư bản khả biến (v). Tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và 13 lOMoAR cPSD| 41487147
số lượng giá trị của tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói
chung , những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự
thay đổi trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó, Các Mác dùng
phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu c/v) là cấu
tạo giá trị được quyết định bởi cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản
ngày càng tăng, kéo theo sự tăng lên của cấu tạo giá trị của tư bản, nên cấu tạo hữu
cơ của tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản
biểu hiện ở chỗ tự bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến có
thể tăng tuyệt đối , nhưng lại giảm xuống một cách tương đối.
Thứ ba, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng chênh lệch giữa
thu nhập của nhà tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối.
Thực tế, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa , thu nhập mà các
nhà tư bản có được, lớn hơn gấp rất nhiều lần so với thu nhập dưới dạng tiến công
của người lao động làm thuê. C.Mác đã quan sát thấy thực tế này và ông gọi đó là sự
bần cùng hóa người lao động. * 2 Loại bần cùng hóa:
Bần cùng hóa tương đối: Là biểu hiện ở tốc độ tăng thu nhập của giai cấp tư sản
ngày càng lớn hơn so với giai cấp vô sản trong tổng thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên.
Bần cùng hóa tuyệt đối: Mức sống của GC công nhân ngày càng giảm so với
nhu cầu ngày càng phát triển của họ và so với mức sống chung của toàn xã hội ngày càng tăng lên.
VD: 2010, nhu cầu để tái sản xuất sức lao động của người công nhân và
gia đình họ là $1000, nhà TB trả cho họ $800/tháng, người công nhân thỏa mãn
được 80% nhu cầu
2020, đời sống ngày càng phát triển, nhu cầu tái sản xuất ……..
Là $2000, lúc này, nhà TB trả cho họ $1500/tháng
=> Mức tiền công tăng lên từ 800=>1500 (con số tuyệt đối). Tuy nhiên mức
sống của người công nhân đã giảm đi, từ thỏa mãn 80% xuống còn 75%.
*Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Hiểu r漃̀ quy luật chung, xu hướng vận động của tích lũy tư
bản gắn liền với sự gia tăng của tích tụ, tập trung tư bản và cấu tạo hữu cơ.
- Ý nghĩa thực tiễn;
+ Tích tụ và tập trung tư bản, vốn: có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy
nhau, làm tăng thu nhập quốc dân và sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn vốn của
xã hội trong quá trình sản xuất. 14 lOMoAR cPSD| 41487147
+ Quá trình tích lũy tư bản chủ nghĩa một mặt thúc đẩy CNTB phát triển mạnh
mẽ, mặt khác nảy sinh nhiều mâu thuẫn, hạn chế, dẫn đến phân hóa thu nhập ngày
càng sâu sắc, bần cùng hóa giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
+ Quá trình tích lũy tư bản (vốn) làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản (vốn) tăng
lên xuất hiện thất nghiệp là vấn đề có tính quy luật dưới sự tác động của tiến bộ khoa
học - công nghệ (đặc biệt trong điều kiện CMCN 4.0), cần có những dự báo về xu
hướng này để tổ chức, quản lý nguồn nhân lực hiệu quả. Để đáp ứng sự tiến bộ của
khoa học - kỹ thuật, người lao động cần nâng cao tay nghề, chuyển đổi ngành nghề thích hợp.
Câu 6: Phân tích nguyên nhân hình thành và những đặc điểm kinh tế cơ bản của
độc quyền trong chủ nghĩa tư bản.
Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn
cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là tư bản độc quyền nhà
nước. Dựa vào tư tưởng của V. Lênin, có thể nhận thấy nguyên nhân dẫn đến sự
hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền là do 4 nguyên nhân sau đây:
*Nguyên nhân hình thành:
Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa
học kỹ thuật; một mặt, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới. Mặt khác, nó dẫn
đến tăng năng suất lao động, tăng sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Việc nâng cao
tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã mở rộng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy
sự phát triển sản xuất lớn, tăng tích tụ tư bản và sản xuất.
Thứ hai, vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật
mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsome, phát hiện ra hóa chất mới như axit
sunphuric (H2S04), thuốc nhuộm, v.v.; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy
phát điện, máy tiện, máy phay, v.v.; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi,
tàu thuỷ, xe điện, máy bay, v.v. và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học
kỹ thuật này, một mật làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải
có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ
tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.
Thứ ba, trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các
quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ,
v.v. ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng
tập trung sản xuất quy mô lớn.
Thứ tư, cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật,
tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm
cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu
với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn. 15 lOMoAR cPSD| 41487147
Thứ năm, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản
chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá
trình tích tụ và tập trung tư bản.
Thứ sáu, sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn
bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ
phần, tạo tiền để cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
Đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB độc quyền:
Thứ nhất: Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền. Tích tụ và tập
trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa đế quốc.
Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình
thành các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên
có thể dễ dàng thỏa thuận với nhau: mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật
cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến
khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để nắm độc quyền.
Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào
trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục
đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các liên minh độc quyền hình thành theo
liên kết ngang nhưng về sau đã phát triển theo liên kết dọc. Những hình thức độc
quyền cơ bản là cácten, xanhđica, tơrớt, côngxoócxiom, cônggơlômêrát.
Thứ hai, tư bản tài chính và bọn đ u sỏ tài chín h Tư bản tài chính:
Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến hình thành các tổ chức độc
quyền trong ngân hàng. Từ chỗ chỉ là trung gian nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền
tệ của xã hội nên có quyền lực, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Các tổ chức độc quyền công nghiệp cùng tham gia vào công việc của ngân hàng
bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng,
hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình. Quá trình độc quyền hóa trong công
nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một
thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.
(V.I.Lênin nói: “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng
của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc
quyền các nhà công nghiệp") Đ u sỏ tài chính:
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền,
chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là các đầu sỏ tài chính. 16 lOMoAR cPSD| 41487147
Các đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự.
Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính
nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công
ty gốc (hay là “công ty mẹ”); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị
được công ty khác, gọi là “công ty con”; “công ty con” đến lượt nó lại chi phối các
“công ty cháu” cũng bằng cách như thế...
Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như
vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể
khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Thứ ba, xuất khẩu tư bản:
V.I.Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Khái niệm: Xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá
trị thặng dư tại nước sở tại.
Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì:
Trong những nước tư bản phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và
nảy sinh tình trạng một số “tư bản thừa” tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi
nhuận so với đầu tư ở trong nước.
Trong khi đó ở nhiều nước lạc hậu về kinh tế, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền
lương thấp, nguyên liệu rẻ, nhưng lại rất thiếu tư bản nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất
hấp dẫn đầu tư tư bản.
Phân loại: Xét về hình thức đầu tư, có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Xét về
chủ sở hữu tư bản, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân. Tác động:
Mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để
bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới.
Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan cũng có những tác động tích cực
đến nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển biến từ cơ cấu
kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn
què quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.
Thứ tư, sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền:
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về
quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập
đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế. 17 lOMoAR cPSD| 41487147
(V.I.Lênin nhận xét: “Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt
của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời').
Sự đụng độ và các cuộc cạnh tranh khốc liệt trên trường quốc tế giữa các tổ chức
độc quyền quốc gia tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định. Từ đó
hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tơrớt quốc tế...
Thứ năm, sự phân chia thế giới về l愃̀nh thổ giữa các cường quốc đế quốc.
Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia
thế giới về lãnh thổ. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao,
nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn
nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn".
Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi
bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên; là nơi tương đối an toàn
trong cạnh tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị.
(Ví dụ: Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. các nước đế quốc đã hoàn thành việc
phân chia lãnh thổ thế giới. Đế quốc Anh chiếm được nhiều thuộc địa nhất, sau đó
đến Nga (Nga Hoàng) và Pháp. Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của
chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên
nhân chính dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 -1918 và cuộc Chiến
tranh thế giới thứ hai 1939- 1945.)
(Liên hệ thực tế: Hiện nay, sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc tư
bản vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới. Sự phân chia lãnh
thổ thế giới lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, những cuộc
chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng bên trong hoặc núp đằng sau, trực tiếp hoặc
gián tiếp các cuộc đụng độ đó chính là các cường quốc tư bản.)
Tóm lại, có thể thấy 5 đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên
quan chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự
thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.
*Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: sự phát triển cạnh tranh và của lực lượng SX tất yếu sẽ xuất
hiện độc quyền. Độc quyền xuất hiện gắn với sự thay đổi trong quan hệ SX tư bản
chủ nghĩa: sự phát triển của doanh nghiệp quy mô lớn thay cho quy mô doanh nghiệp
từ vừa và nhỏ sở hữu tư bản cá thể chuyển sang sở hữu tư bản tập thể, tính chất thị
trường chuyển từ cạnh tranh tự do sang độc quyền, tốc độ và quy mô của quá trình
toàn cầu hóa được đẩy mạnh.
Ý nghĩa thực tiễn: nghiên cứu lý luận chủ nghĩa tư bản độc quyền của Lênin sẽ
giúp cho việc đề ra chính sách xử lý mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh trong
nền KTTT. Những vấn đề lợi nhuận độc quyền cao và giá 18 lOMoAR cPSD| 41487147
cả độc quyền có ý nghĩa thực tiễn đối với VN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu 7: Phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng x愃̀ hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Khái niệm kinh tế thị trường định hướng x愃̀ hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy
luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở
đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
*Những đặc trưng cơ bản
– Thứ nhất, về mục tiêu
+ Kinh tế thị trường định xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hướng tới phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng vật chất – cơ sở kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
+ Việt Nam đang ở chặng đầu của thời kí quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ
quan trọng nhất của thời kì này là xây dựng lực lượng sản xuất. Việc sử dụng kinh tế
thị trường cho phép huy động và phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu,
giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy tăng năng suất, khuyến khích đổi mới công nghệ,
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa
– hiện đại hóa ở Việt Nam. Bên cạnh đó, phải hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường để đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội.
– Thứ hai, về quan hệ sở hữu và thành ph n kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế trong thời kì quá
độ gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể là nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng, cho phép huy động mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế, kích
thích cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
– Thứ ba, về quan hệ quản lí nền kinh tế
+ Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo thông qua cương lĩnh, đường lối
phát triển kinh tế – xã hội và các chủ trương, quyết sách trong từng thời kì của đất
nước. Đây là yếu tố quan trọng đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa giữ vai trò quản lí nền kinh tế thông qua
pháp luật, chính sách kinh tế – xã hội, kế hoạch và các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn
trọng những nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đồng thời để hỗ trợ sự phát triển bền vững của kinh tế thị trường,
nhà nước thực hiện vai trò cơ bản: duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô,
đảm bảo môi trường cạnh 19 lOMoAR cPSD| 41487147
tranh lành mạnh và công bằng, khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường,
đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội.
– Thứ tư, về quan hệ phân phối
Do kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tồn tại nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nên tương ứng với nó là nhiều hình thức phân phối khác nhau. Quan
hệ phân phối dựa trên các nguyên tắc chủ yếu như: phân phối theo lao động và hiệu
quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác, phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
– Thứ năm, về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng x愃̀ hội
+ Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện gắn tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa –
xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường. Đây là đặc
trưng phản ánh thuộc tính quan trọng mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết công bằng xã
hội không chỉ là phương tiện để duy trì sự tăng trưởng ổn định, bền vững mà còn là
mục tiêu phải hiện thực hóa
+ Để thực hiện công bằng xã hội ở nước ta không chỉ dựa vào chính sách điều tiết
thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mà còn phải tạo ra những điều kiện, tiền
đề cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: Giáo dục, y tế, việc làm...
*Ý nghĩa nghiên cứu
– Nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường
phù hợp với trình độ phát triển và điều kiện lịch sử của Việt Nam.
– Trên những đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, Nhà nước xây dựng chính sách phát triển kinh tế thị trường có tính khoa
học, nhất quán và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Câu 8: Phân tích tính tất yếu và những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
*Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực
hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích
đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
*Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn c u hóa kinh tế 20 lOMoAR cPSD| 41487147
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế… trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở
và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác.
Toàn cầu hóa đi liền với khu vực hóa. Khu vực hóa kinh tế chỉ diễn ra trong một
không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do, đồng
minh thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị trường chung… nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ
lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xóa bỏ những cản trở trong việc di chuyển vốn,
lực lượng lao động, hàng hóa dịch vụ…tiến tới tự do hóa hoàn toàn những di chuyển
nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh
tế, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành yếu tố khách quan: Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi
cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc
tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của các nước
trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế toàn cầu. Trong toàn
cầu kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vị toàn cầu. Do đó, nếu
không hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện
cần thiết cho sản xuất trong nước.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của
các nước, nhất là các nước đang kém phát triển trong điều kiện hiện nay
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội
để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công
nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển của mình. Khi mà các nước tư bản
giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật
chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ cso phát
triển kinh tế mở và hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể tiếp
cận được những năng lực này cho phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém
phát triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các
nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng r漃̀ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc mở cửa thị trường, thu hút vốn không chỉ thúc đẩy công nghiệp hóa mà còn tăng
tích lũy, cải thiện thâm hụt ngân sách, tạo niềm tin cho các chương trình hỗ trợ quốc
tế trong cải cách kinh tế và mở cửa.
*Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam 21 lOMoAR cPSD| 41487147
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế thế giới. Do đó, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác động tích
cực đồng thời đưa đến nhiều thách thức đối với quá trình phát triển của Việt Nam.
Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương
mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế của
nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững .
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế
mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực
khoa học công nghệ quốc gia; nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ
hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và
chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công
nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người
dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa. dịch vụ đa dạng về chủng loại,
mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm
bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều
chỉnh chiến lược phát triển hợp lý.
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để
tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của
văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ tới chính trị, tạo điều kiện cho
cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật
tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn
định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội.
Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát 22 lOMoAR cPSD| 41487147
triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những
biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và
rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ
làm tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta
phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên
hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động,
nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà
nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy
trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn
lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp.
Tóm lại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả
của chúng rất khó lường.
*Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những chủ đề kinh tế có tác động tới toàn
bộ tiến trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, liên quan trực tiếp đến quá
trình thực hiện định hướng và mục tiêu phát triển đất nước. Với cả những tác động đa
chiều của hội nhập kinh tế quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, Việt Nam cần
phải tính toán một cách thức phù hợp để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công:
1. Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại
2. Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp
3. Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện đầy
đủ các cam kết của Việt Nam trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
4. Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
5. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế 23 lOMoAR cPSD| 41487147
6. Xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ 24