Đề cương cuối kỳ Triết học Mác - Lênin

Đề cương cuối kỳ Triết học Mác - Lênin gồm 12 câu hỏi tự luận kèm theo đáp án chi tiết, bao quát toàn bộ kiến thức của bộ môn, giúp sinh viên dễ dàng ôn tập và đạt điểm cao trong kỳ thi kết thúc môn. 

lOMoARcPSD| 35883770
Đề cương triết thi cuối kỳ 1
I. Ôn tập thuyết
Câu 1: Định nghĩa vật chất của -nin. Ý nghĩa khoa học của định nghĩa.
a. Định nghĩa Vật chất:
Trong tác phẩm “chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật phê phán” Lênin đã đưa ra
đinh nghĩa về “vật chất” như sau: “vật chất là một phạm trù triết học dung để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác củ chúng ta chụp
lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
b. Phân tích định nghĩa:
Cách định nghĩa: Phạm trù vật chất la phạm trù rộng, mà cho đến nay, thực ra nhận thức
luận chưa qua được. Khi định nghĩa phạm trù này không thể quy nó về vật thể hoặc một
thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn phạm trù vật chất. Do
vậy chỉ thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thứcm phạm trù đối lập với
nó và trong quan hệ ấy, vật chất tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai.
-Thứ nhất: cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm về
khoa học tự nhiên về cấu tạo và các thuộc tính cụ thể của các đối tượng, các dạng vật chất
khác nhau. Vật chất với cách là phạm trù triết họcchỉ vật chất nói chung, vô hạn,
tận, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn. Vì
vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung
với các dạng cụ thể của vật chất như các nhà triết học duy vật trong lịch sử Cổ đại và Cận
đại.
-Thứ hai: là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận
biết vật chất là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là “cái đang tồn tại độc lập
với loài ngườivới cảm giác của con người”. Trong đời sốnghội, “ vật chất i tồn
tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”. Về mặt nhận thức luận thì
khái niệm vật chất chính là “ thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người
được con người phản ánh”.
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung bản sau:
+ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thứckhông phụ thuộc vào ý thức, bất
kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác động lên giác
quan của con người.
+ Cảm giác, duy, ý thức chỉ sự phản ánh vật chất.
Với những nội dung bản trên, phạm trù vật chất trong quan niệm của Lênin có ý nghĩa
cùng to lớn.
lOMoARcPSD| 35883770
c. Ý nghĩa của định nghĩa
- Chống chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức.
- Chống thuyết “Bất khả tri” cho rằng: con người chỉ nhận thức được bề ngoài của sự vật
hiện tượng chứ không nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng. Lênin khắng định:
con người có thể nhận thức được bản chất của thế giới.
- Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác (đó là quan điểm siêu hình
máy móc, quy vật chất nói chung về những dạng cụ thể của vật chất).
- thế giới quan, phương pháp luận cho các ngành khoa học hiện đại tiếp tục phát triển.
Câu 2: Nêu nguồn gốc bản chất kết cấu của ý thức và nêu phương pháp để nâng
cao vai trò ý thức
Giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức một trong những
bước đi ban đầu để giải quyết vấn đề bản của triết học.
Trên sở khái quát thành tựu của khoa học, của thực tiễn hội, chủ nghĩa duy vật
biện chứng khẳng định nguồn gốc vật chất, bản chất phản ánh vật chất của ý thức để rút ra
vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.
a) Nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua
sự hình thành của bộ óc con ngườihoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người,
từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan.
Phản ánh sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh thuộc tính của tất cả các
dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hóa học;
phản ánh sinh học, phản ánh tâm phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý
thức).
Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
Phản ánh năng động, sáng tạo hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, chỉ được thực hiện dạng vật chất phát triển cao nhất, tổ chức cao nhất
bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh
thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con
người. Đây sự phản ánh tính chủ động lựa chọn thông tin, xử thông tin để tạo ra
những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này
được gọi là ý thức.
- Nguồn gốc hội của ý thức lao động ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa
là nguồn gốc vừa tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; quá trình trong đó bản thân
con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách
quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện
thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy,
thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của
lOMoARcPSD| 35883770
bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói
chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan
thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ hệ thông tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh họ nhu cầu phải
phương tiện để giao tiếp, trao đổi tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát
triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ng con người đã không chỉ giao tiếp, trao
đổi còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt
tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc bản, trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đờiphát
triển của ý thức lao động. Sau lao độngđồng thời với lao động ngôn ngữ; đó hai
sức kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc của con vượn dần dần biến chuyển thành bộ óc của
con người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
b) Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức
Ý thức sự phản ánh ng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con người;
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm sinh của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn
lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể
tạo ra những thông tin mớiphát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất
năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện quá trình con người tạo ra
những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.v… trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái
quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt
động của con người.
thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định c về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưngkhông còn y nguyên như thế giới khách quan đã cải
biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri
thức, nhu cầu, v.v…) của con người. Theo C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được
đem chuyển vào trong đầu óc con ngườiđược cải biến đi trong đó”.
thức một hiện tượng hội mang bản chất hội. Sự ra đờitồn tại của
ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh
học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh
hoạt hiện thực của đời sống xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
- Kết cấu của ý thức.
Ý thức kết cấu cực kỳ phức tạp. nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận
nghiên cứu về kết cấu của ý thức. đây chỉ tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố
bản nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố bản nhất là:
tri thức, tình cảm ý chí, trong đó tri thức nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn
lOMoARcPSD| 35883770
thể bao gồm các yếu tố khác.
Câu 3: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận
vận dụng vào công cuộc đổi mới Việt Nam
Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất ý thức tồn tại trong mối quan
hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan
hệ đó vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.
a. Vai trò của VC đối với ý thức:
- VC cái có trước, ý thức là cái sau, vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con ngườin
khi con ngưới mới có ý thức,mà con người là sản phẩm của thế giới VC.
- VC nguồn gốc của ý thức,các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, XH của ý
thức bản thân thế giới VC, hoặc những dạng tồn tại của VC.
- Nội dung của ý thức được quyết định bởi VC, vì ý thức là cái phản ánh thế giới VC,
hình ảnh về thế giới VC.
- VC quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức, vì những
yếu tố VC ( qui luật sinh học, qui luật XH, sự tác động của môi trường sống) quyết
định sự vận động, phát triển và hình thưc biểu hiện của ý thức.
- dụ: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường dựa trên cơ sở hoạt động sinh thần
kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý
thức cũng bị rối loạn.
b. Vai trò của ý thức đối với VC:
- Ý thức có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người: ý
thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để xác định mục tiêu, đề ra
phương hướng, nhằm thực hiện mục tiêu của mình.
- Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 2 hướng:
Tích cực: khi con người nhận thức đúng, hành động phù hợp với qui luật khách
quan, cải tạo được thế giới.
Tiêu cực: khi ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, hành
động đi ngược lại qui luật khách quan.
- Ý thức thể quyết định hành động của con người.
- Ví dụ: Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của
một dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không đường lối cách mạng đúng đắn
của đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mĩ cũng như Lê - Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì cũng
không thể phong trào cách mạng”.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong mọi hoạt động nhận thưcthực tiễn, phải: Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
- Phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện để xác định mục đích, đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải tìm ra những nhân tố VC, tổ chức
lOMoARcPSD| 35883770
chúng thành lực lượng VC để hành động.
- Phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con
người: Tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủtruyền bá
tri thức khoa học vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động; tu dưỡng, rèn luyện để hình
thành, củng cố nhân sinh quan CM, tình cảm, nghị lực CM để có sự thống nhất hữu cơ
giữa tính khoa họctính nhân văn trong định hướng hành động.
- Để thực hiện nguyên tắc trên, phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí,
chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí luận, bảo
thủ, trì trệ, thụ động trong hoạt động nhận thứcthực tiễn.
d. Vận dụng đến công cuộc đổi mới Việt Nam
nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắc bệnh chủ quan
duy ý chí trong việc xác định mục tiêu bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật cải
tạo hội chủ nghĩa ; về bố trí cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế . Nguyên
nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý luận, do tâm lý của
người sản xuất nhỏ do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng ta biết rằng quan
điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự
vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự
nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan. Bài học mà Đảng ta đã nêu ra ,
trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách
quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã
hội có tính chất quá độ .
Trong bỗi dưỡng, phát huy nhân tố con người, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất,
đồng thời phải chú ý nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần. Đảng ta chủ trương “phát triển
kinh tế là trung tâm”, “làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống
hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
“Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo
đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, không ngừng bồi
dưỡng nâng cao trình độ, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước, phát huy đầy
đủ tính năng động, ý chí sáng tạo của con người trong việc nhận thức, cải tạo và phát triển xã
hội.
Hiện nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi
Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng,
tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá
đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước ta trãi qua.
lOMoARcPSD| 35883770
Câu 4: Phân tích nguyên mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận đối với
công cuộc đổi mới
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
-Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi
sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất những
mối liên hệ tồn tại mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, thuộc đối tượng nghiên cứu
của phép biện chứng. Đó các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượngchất, khẳng
địnhphủ định, cái chung và cái riêng, bản chấthiện tượng, v.v.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế giới dù
phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng
khác, đều chịu sự tác động, sự quy định các hiện tượng và các sự vật khác, không sự vật nào
tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với sự vậtcác hiện tượng khác.
- Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận, yếu tố và các giai đoạn phát triển khác
nhau của mỗi sự vật đều có tác động, quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn
tại cho mình.
b) Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú những nh chất bản
của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) cái vốn của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ thể nhận thức vận dụng các mối liên hệ
đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
-Tính phổ biến của các mối liên hệ.
Không sự vật, hiện tượng nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không bất cứ sự vật, hiện tượng nào không
phải một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ
bên trong của nó.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.
Các sự vật, hiện tưng khác nhau đều nhng mối liên hệ cụ thể khác
nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại phát trin của nó; mặt
khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong nhng điều kiện
cụ thể khác nhau, nhng giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát
trin của sự vật thì cũng nhng tính chất vai trò khác nhau.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận
thứcthực tiễn cần phảiquan điểm toàn diện.
lOMoARcPSD| 35883770
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức xử các tình huống thực tiễn
cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các
yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với
các sự vật khác. Chỉ trên sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vậtxử có hiệu quả
các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm
phiến diện, siêu hình trong nhận thức thực tiễn.
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần
phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thứcxử cácnh huống trong
hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức
tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định vị trí, vai trò khác
nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó được những giải
pháp đúng đắn hiệu quả trong việc xử các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong
nhận thứcthực tiễn không những cần phải tránh khắc phục quan điểm phiến diện, siêu
hình còn phải tránh khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
- Liên hệ việc vận dụng các quan điểm trên trong cuộc sống lao động , học tập
của bản thân.
d. Vận dụng vào công cuộc đổi mới Việt Nam:
+ Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, tư tưởng…) chứ không ở một lĩnh vực nào. Như Đại hội VII của Đảng nêu kinh
nghiệm bước đầu đổi mới “Một là phải giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới,
hai là đổi mới toàn diện, đồng bộtriệt để nhưng phải có bước đi hình thứccách làm phù
hợp”. Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả lĩnh vực đời sống xã
hội. Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ
chức, cán bộ, phong cáchlề lối làm việc.
+ Đổi mới toàn diện trên tất cả lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm như xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường để tạo ra động lực nhằm phát huy, kiến trúc nền kinh tế
trong nhân dân, khai thác vốn đầu tư và trình độ cũng như vốn của nước ngoài, nâng cao tay
nghề, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế VN
ngày càng đi lên hội nhập toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Đó là sự vận dụng hết sức sáng tạo
chủ nghĩa Mác Nin vào sự nghiệp cách mạng VN đặc biệt là vận dụng nguyên của mối
liên hệ phổ biến.
Câu 5: Phân tích nguyên về sự phát triển và vận dụng vào công cuộc đổi mới Việt
Nam
a. Khái niệm về phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ sự tăng,
giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời,
cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước
quanh co phức tạp.
- Trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật
theo khuynh hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp,
lOMoARcPSD| 35883770
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm “vận động” (biến đổi)
nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng
hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại chất mà còn bao hàm cả sự biến đổi về chất
theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
- Phát triển cũng quá trình phát sinh giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn của
sự vật; quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cựckế thừa, nâng
cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
- + Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực.
- Giới vô cơ biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố làm nảy sinh các hợp chất phức
tạp, xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu.
- Giới hữu thể hiện khả năng thích nghi.
- Vấn đề hội: sự phát triển của tư duy thể hiện khả năng con người làm chủ thế giới.
b. Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều tính khách quan, tính phổ biến tính đa dạng, phong
phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động
phát triển. Đó quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; quá trình giải
quyết mâu thuẫn trong svật, hiện tượng đó. vậy, phát triển thuộc tính tất yếu,
khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi
quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã bao
hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện chỗ: phát triển khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh
vực hiện thực lại quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hành động thực tiễn phải quan điểm phát triển khi xem xét đánh
giá các hiện tượng, phải đặt chúng trong sự vận động, sự biến đổi.
- Phải nhìn thấy cái mới, xu thế tất yếu của sự phát triển, có thái độ ủng hộ cái mới tạo
điều kiện cho cái mới ra đời.
- Quan điểm phát triển là cơ sởniềm tin cho thái độ lạc quan khoa học của người cách
mạng.
- Cần chống lại quan điểm nóng vội duy ý chí muốn xóa bỏ cái khi chưa có đủ điều
kiện, quan điểm bảo thủ trì trệ gây cản trở cho sự phát triển.
d. vận dụng vào công cuộc đổi mới Việt Nam
- Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của
thời đại mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá
trình cải tổ, đổi mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết,
đưa quá trình cải tổ đổi mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và
đang đạt những chuyển biến tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung
ương 3 khóa XIII (12-1978) Đảng cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách,
mở cửa toàn diện, sâu sắc theo định hướng XHCN từ đó đến nay, trãi qua một phần
lOMoARcPSD| 35883770
thế kỷ, Trung quốc đã phát triển không ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường
quốc trên thế giới.
- Đối với nước ta, “những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho
thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều”(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này
cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn
ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tấp. Cũng như mọi thời đại
khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng như
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của ĐCS VN nhận định
“CNXH hiện thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trãi
qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó
quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Câu 6: Quy luật lượng chất, ý nghĩa phương pháp luậnsự vận dụng của nhà nước ta
Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại là qui luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển
trong tự nhiên, XH và duy.
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật chỉ biến đổi về lượng chứ không biến đổi về chất.
Quan điểm duy vật cho rằng sự vật biến đổi về cả lượngchất.
a. Khái niệm chất, lượng :
Chất dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn của sự vật, hiện tượng ; là sự thống nhất
hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác. Con người chỉ có khả năng
nhận thức chứ không thay đổi được chất.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính bản và không bản. Chỉ những thuộc
tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi
thì chất của nó thay đổi.
Chất còn được xác định bởi cấu trúc phương thức liên kết giữa chúng, thông qua những
mối liên hệ cụ thể.
Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
Lượng dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, qui mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật.
Vậy chất và lượng là 2 phương diện khác nhau của cùng 1 sự vật, hiện tượng, hay 1 quá
trình nào đó trong tự nhiên, XH duy. Lượng là lượng của chất, chất được thể hiện thông
qua lượng. Lượng chất tồn tại khách quan.
b. Quan hệ biện chứng giữa chấtlượng :
Trong 1 sự vật bao giờ cũng sự gắnchặt chẽ giữa lượng chất. Trong quá trình vận
động, lượng biến đổi liên tục, ít nhiều ảnh hưởng đến chất.
Độ : là giới hạn sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi. Sự vật hiện tượng vẫn còn
nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
lOMoARcPSD| 35883770
Điểm nút : là điểm đánh dấu khi lượng thay đổi đến 1 giới hạn nhât định sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất.
Bước nhảy : dùng để chỉ sự thay đổi của chất : sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút,
với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới.
Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau : lớn và nhỏ, cục bộ
và toàn bộ, tự phát tự giác, dần dần và đột biến,...
Về qui mô :
Bước nhảy cục bộ : là thay đổi từng mặt, từng phầndẫn đến thay đổi toàn bộ bước
nhảy toàn bộ.
Bước nhảy toàn bộ : là thay đổi toàn diện.
Về nhịp điệu :
Bước nhảy dần dần : là bước nhảy diễn ra từ từ, dẫn đến sự biến hóa XH bước nhảy
đột biến.
Bước nhảy đột biến : diễn ra nhanh chóng
Khi chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng mới làm thay đổi kết cấu, qui mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
+ Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa chất và
lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác. Trong mối
quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn.
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song
không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc,
mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ
khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về
chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy, khi lựợng biến đổi đến
điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay
thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại
xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách
thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá
trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận
động, phát triển.
+ Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách
thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra
một lượng mới cho phù hợp với nó để sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định
này thể được biểu hiện quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận :
- Phải coi trọng cả chất lượng của sự vật, tạo nên nhận thức toàn diện về sự vật. Không
lOMoARcPSD| 35883770
được tuyệt đối hóa vai trò của lượng hoặc chất. Chỉ biến đổi về lượng thì là bảo thủ, chỉ
biến đổi về chất thì chủ quan duy ý chí.
- Tùy mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để thể làm thay đổi về chất của sự
vật ; đồng thời thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng
của sự vật.
- Trong công tác thực tiễn, cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh ( bất chấp qui luật,
chủ quan, duy ý chí) và tưởng bảo thủ hữu khuynh ( bảo thủ, trì trệ).
- Trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước
nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Cần nâng cao tính tích cực chủ động
của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất 1 cách hiệu quả nhất.
D. vận dụng của nhà nước ta
Khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội xây dựng quan hệ
sản xuất một thành phần, dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần
kinh tế khác bị coi là một bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải
tạo, xóa bỏ, làm như vậy chúng ta đã đẩy quan hệ SX đi quá xa so với trình độ phát triển của
lượng lực sản xuất. Tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém, với một
bên là quan hệ sản xuất đã được xã hội hóa giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Hay nói cách khác, LLSX của chúng ta còn quá thấp kém,chưa tích lũy đủ về lượng (tính chất
và trình độ) đã vội thay đổi chất (Quan hệ sản xuất) làm cho đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoàng kinh tế - xã hội.
Nhờ nhận thức đúng đắn, đổi mới tư duy luận của Đảng về tính tất yếu của
phát triển kinh tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường định hướng XHCN; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm,
kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình
ủng hộ và tích cực tham gia. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị
trường sát thực và hiệu quả hơn. Mở rộng, phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực
hiện ngày càng tốt vai trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. Vai trò lãnh đạo cũng như nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ngày càng rõ nét, theo đó đã xác định tiếp tục đổi mới duy kinh tế,ng
cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng, tăng cường lãnh đạo và kiểm tra về
phát triển kinh tế.
Câu 7: Quy luật thống nhất và mâu thuẫn của mặt đối lập, ý nghĩa liên hệ với công cuộc
đổi mới nước ta
- Vị trí của qui luật thống nhấtđấu tranh giữa các mặt đối lập.
Quy luật thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi qui luật mâu thuẫn)
qui luật quan trọng nhất của phép biện chứng, là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật.
Quy luật thống nhấtđấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc bên
trong, động lực bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển.
a) Khái niệm mâu thuẫn các tính chất chung của mâu thuẫn
lOMoARcPSD| 35883770
- Khái niệm mâu thuẫn
Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn ng để chỉ mối liên hệ thống nhất
đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau. Đây quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác căn bản với
quan niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu hình, mâu thuẫn cái đối lập
phản lôgich, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối
lập.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn mặt đối lập.
- Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại điều kiện, tiền đề
tồn tại của nhau. Thí dụ, điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa
và dị hóa của một thể sống, sản xuấttiêu dùng trong hoạt động kinh tế của hội,
chân sai lầm trong quá trình phát triển của nhận thức, v.v…
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sinh vật.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn
Mâu thuẫn nh khách quan : Mâu thuẫn tự được sinh ra từ sự vận động đấu
tranh của các mặt đối lập. tồn tại độc lập bên ngoài ý thức, vận động phát triển theo
những quy luật của chính nó.
Mâu thuẫn có tính phổ biến: Trong cả sự sống và tư duy, mâu thuẫn thường xuyên
nảy sinh và tự giải quyết. Mâu thuẫn trong sự sống: Một sinh vật trong mỗi lúc vừa
nó nhưng vừa là cái khác… khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống không còn nữa và cái
chết xảy đến…”
Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể
bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch
sử, cụ thể khác nhau. Các mâu thuẫn giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động
và phát triền của sự vật, hiện tượng, Đó là mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và
không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu,… Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu
thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự biểu hiện của
mâu thuẫn.
b) Qtrình vận động của u thuẫn: u thuẫn nguồn gốc của sự vận động
sự phát triển
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh
với nhau, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Các
mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn
gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan,
cũng không phải mâu thuẫn trong lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong lôgich hình thức sai
lầm trong tư duy.
Sự thống nhất :
- Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Khái
niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời
nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại.
lOMoARcPSD| 35883770
- Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố
giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý
nghĩa đó,” sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự đồng nhất” của các mặt đó.
- Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một
lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song
đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng
của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh:
- Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài
trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
- Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính
chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu
tranh giữa chúng.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập
tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất(…) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời,
thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau tuyệt đối, cũng
như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
- Đấu tranh diễn ra ngay trong cơ thể thống nhất của sự vật, hiện tượng, Chính thế thống nhất
đó điều kiện, tiền đề cho đấu tranh diễn ra không ngừng. Chừng nào thể thống nhất đó chưa
bị phá vỡ thì đấu tranh giữa các mặt đối lập vẫn còn tiếp diễn. Đấu tranh làm cho thể thống
nhất cũ bị phá vỡ, thể thống nhất mới ra đời, đồng thời với nó là sự vật cũ mất đi, sự vật mới
ra đời thay thế.
- Đấu tranh là một quá trình diễn ra phức tạp, quá trình đó có thể chia thành nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng, thông thường lúc đầu các mặt đấu tranh chưa gay gắt
với nhau. Nhưng trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn
ra ngày càng gay gắt và quyết liệt. Cuối cùng, các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau trong
những điều kiện nhất định. Sự chuyển hóa các mặt đối lập diễn ra theo hai hướng:
+ Các mặt đối lập chuyển đổi vị trí cho nhau cùng phát triển
+ Các mặt đối lập cùng chuyển trang dạng mới cao hơn
Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới ; sự vật cũ mất đi sự vật mới
ra đời thay thế.
V.I. Lênin viết: “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên,
không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự
vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật .
Do đó mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
c) Phân loạiu thuẫn
lOMoARcPSD| 35883770
- Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
d) Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn tính khách quan, tính phổ biến và nguồn gốc, động lực của sự
vận động, phát triển, do vậy trong nhận thức thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn,
phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc,
khuynh hướng của sự vận độngphát triển. V.I.Lênin đã cho rằng: “Sự phân đôi của cái
thống nhấtsự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó… đó là thực chất… của phép
biện chứng”.
- mâu thuẫn tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thứcgiải quyết
mâu thuẫn cần phải quan điểm lịch sử, cụ thể, tức biết phân tích cụ thể từng loại mâu
thuẫnphương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức thực
tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều
kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng
loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
- Phương pháp giải quyết mâu thuẫn: Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải
quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn.Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải
phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực
lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi.
Một mặt phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều kiện
khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác
nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu
thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ
thể..
e. Liên hệ với công cuộc đổi mới ở nước ta
Như vậy, trong điều kiện lịch sử của thời kỳ quá độ, V. I. Lê-nin đã không ngừng làm phong
phú và phát triển học thuyết mác-xít về mâu thuẫn lên một tầm cao mới, xây dựng cơ sở khoa
học vững chắc cho đường lối lãnh đạo cách mạng của các đảng cộng sản trên thế giới. Đối với
Việt Nam, thực hiện bước quá độ gián tiếp là một con đường hoàn toàn mới nhưng “phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” (16). Do đó, cần có sự vận dụng
một cách sáng tạo học thuyết mác-xít về mâu thuẫn nói chung những tưởng của V. I. -
nin về nhận định và giải quyết các mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nói riêng vào điều kiện nước ta để tạo ra động lực nội tại to lớn, thúc đẩy nhanh quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phát triển vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ
thể trên một số vấn đề sau đây:
Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là
một tất yếu khách quan. Chối bỏ mâu thuẫn hiện thực, nuôi o tưởng về một thế giới không
mâu thuẫn là xa rời thực tiễn. V. I. Lê-nin đã dạy: “tính chất biện chứng của sự phát triển xã
hội, diễn ra trong mâu thuẫn thông qua các mâu thuẫn” (17). Những mâu thuẫn tồn tại
trong nội bộ nhân dân là những xung lực trực tiếp để xã hội luôn luôn vận động và phát triển
đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu đúng bản chất, phân tích cụ thể. Thái độ đúng đắn đối với mâu
lOMoARcPSD| 35883770
thuẫn không phải là phủ nhận, tìm cách xóa bỏ nó một cách chủ quan mà phải nghiên cứu,
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, giải quyết kịp thời để thúc đẩy sự phát triển. Mâu
thuẫn xã hội chỉ thể được giải quyết khi đã đến độ chín muồinhững điều kiện tồn tại
của nó không còn trong xã hội. Đó là một quá trình khách quan không phụ thuộc ý muốn chủ
quan của con người. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực thực sự của sự phát triển khi con người
nhận thức được nó và có cách giải quyết đúng đắn.
Thứ hai, cần nhận thức rõ ràng mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay. Đó là mâu thuẫn giữa
khuynh hướng tư bản chủ nghĩa với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Là mặt đối lập với
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa vừa tồn tại trong tàn dư của
hội cũ, vừa tồn tại trong các yếu tố mới hình thành trong công cuộc đổi mới. Mâu thuẫn cơ
bản ở nước ta hiện nay biểu hiện tập trung ở lĩnh vực chính trị là mâu thuẫn giữa chủ thuyết
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; giữa những
nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với âm mưu
và các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch...
Trên lĩnh vực văn hóa - hội, mâu thuẫn cơ bản được biểu hiện tập trung giữa quá trình hoàn
thiện nền văn hóa tiên tiến, đàm đà bản sắc dân tộc với tình trạng tha hóa, xuống cấp về văn
hóa, đạo đức, lối sống trong xã hội; mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa tăng trưởng
kinh tếmục tiêu tiến bộ công bằng xã hội;...
Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đó là mâu thuẫn
giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự lỗi thời, thiếu hoàn thiện của hệ thống tổ
chức, quản tương ứng; giữa mục tiêu từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu với tình
trạng phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất; giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
với nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái. Cùng với đó, ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại đa
dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế lợi ích khác biệt. Tất nhiên, sự đối lập
đó chỉ có tính chất cục bộ, còn sự thống nhất là cơ bản, thể hiện ở tính chỉnh thể của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường “có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật...” (18).
Những nhận thức đó chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của V. I. Lê-nin về phương pháp
kết hợp các mặt đối lập. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân trong suốt thời
kỳ quá độ Việt Nam, về bản chất, là thừa nhận sự đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Song,
do nó vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển nên vẫn được xem là một động lực quan trọng của
nền kinh tế. Trên thực tế, sự vận dụng ấy đã và đang đem lại hiệu quả tích cực, góp phần to
lớn vào thành tựu của 30 m đổi mới Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, vận dụng tưởng của V. I. -nin phải phân biệt giữa mâu thuẫn đối kháng và
mâu thuẫn không đối kháng trong xã hội để xác định phương hướng giải quyết đúng đắn.
Trong xã hội nước ta hiện nay, các mâu thuẫn phổ biến thuộc về mâu thuẫn không đối kháng.
Đó là mâu thuẫn giữa các giai tầng, các nhóm xã hội có lợi ích cục bộ, tạm thời khác biệt. Để
giải quyết các mâu thuẫn ấy chủ yếu phải thông qua các biện pháp giáo dục, thuyết phục, thỏa
thuận, hợp tác... mà không cần đến sự trấn áp bằng sức mạnh bạo lực. Đặc biệt, đối với vấn đề
xây dựng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, việc nhận thức và giải quyết các mâu
thuẫn không đối kháng trên cơ sở thống nhất chung về lợi ích là một phương hướng hữu hiệu,
góp phần hoàn thiện nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - một động lực to lớn để phát
triển xã hội.
lOMoARcPSD| 35883770
Bên cạnh đó, những mâu thuẫn đối kháng trong hội ta không phải đã mất đi. Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hoàn toàn đối lập “một mất, một còn”
với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch cũng
hoàn toàn mâu thuẫn với sự nghiệp cách mạng nước ta. Do vậy, trong suốt thời kỳ quá độ,
cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng giữa các lực lượng đối kháng này chính quá
trình giải quyết một cách triệt để các mâu thuẫn đối kháng.
Nhận thức sâu sắc các thuộc tính hợp thành mâu thuẫn biện chứng trong đời sống xã hội là
thành tựu khoa học vĩ đại của tri thức nhân loại gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Cùng với những cống hiến của V. I. -nin, học thuyết mác-xít về mâu thuẫn được bồi
đắp, phát triển lên một tầm cao mới. Việc vận dụng, nhận định, phân tích, làm rõ các mâu
thuẫn xã hội ở Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp phần làm sâu sắc lý luận chủ
nghĩa Mác về mâu thuẫn trong đời sống xã hội, đặc biệt trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa
hội./.
Câu 8:
a. Thực tiễn và các hình thức bản của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất mục đích, mang tính LS-XH của con người
nhằm cải biến tự nhiên XH.
Trong đó:
HĐVC con người tham gia vào, tác động vào thế giới nói chung với mục
đích duy trì sự tồn tại và phát triển của con người trong XH, sản xuất ra XH.
Thực tiễn là phương thức cơ bản của HĐ, thông điệp giữa con ngườicon
vật.
mang tính LS-XHgắn liền với môi trường quan hệ XH, sự vận
động, phát triển. thực tiễn qui định cho tính chất khác nhau của các thời đại LS.
3 hình thức cơ bản của thực tiễn:
HĐSXVC: hình thức bản, đầu tiên của thực tiễn,chi phối những thực
tiễn khác, là HĐ con người sử dụng những công cụ LĐ tác động vào thế giới tự nhiên để
tạo ra của cải VC nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
chính trị XH: của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong XH
nhằm cải biến những quan hệ chính trị XH để thúc đẩy XH phát triển.
HĐ thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của HĐ thực tiễn, ngày càng có vai
trò quan trọng trong sự phát triển XH, đặc biệt trong thời kì CM khoa học và công nghệ
hiện đại. Đây là HĐ được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống,
giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và XH nhằm c định những qui luật biến
đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu, giúp con người rút ngắn quá trình nhận thức,
nâng cao hiệu quả của LĐSXcải tạo phục vụ XH.
chính trị XH và thực nghiệm khoa học 1 mặt phục vụ cho HĐSXVC,
mặt khác kiềm hãm hoặc thúc đẩy HĐSXVC. Sự tác động qua lại này làm cho HĐ thực
tiễn vận động, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
lOMoARcPSD| 35883770
b. Nhận thức và các trình độ nhận thức
Nhận thức là 1 quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn , nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan
đó.
Chủ thể khách thể là các yếu tố cơ bản của nhận thức. Khách thể nhận thức quyết
định chủ thể nhận thức.
Các trình độ nhận thức:
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận:
Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp
các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, XH hay trong các thí nghiệm khoa học.Kết quả của
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa
học.
Nhận thức luận: trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống
trong việc khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệmnhận thức luận:
Nhận thức kinh nghiệm là sở của nhận thức luận.
Nhận thức luận không hình thành 1 cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm.
Do tính độc lập tương đối của nó, lí luận có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm, hướng dẫn hình thành những tri thức kinh nghiệm giá trị, lựa chọn
những kinh nghiệm hợp lí để phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
Nhận thức thông thườngnhận thức khoa học:
Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự phát, trực
tiếp từ trong hoạt động hằng ngày của con người, phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả
những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Nó mang tính phong
phú và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hằng ngày nên có vai trò thường xuyên và
phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong XH.
Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu diễn
ra dưới dạng trừu tượng, logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật khoa học.
vừa tính khách quan, trừu tượng, khái quát, vừa tính hệ thống, có căn cứ và tính chân
thực. Nó có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa
học và công nghệ hiện đại.
Mối quan hệ giữa nhận thức thông thườngnhận thức khoa học:
Nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa họclà nguồn chất liệu
để xây dựng nội dung của các khoa học.
Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó tác động trở lại nhận thức
thông thường, xâm nhậpo nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát
triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.
lOMoARcPSD| 35883770
Tóm lại, nhận thức phải 1 quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến
trình độ nhận thức lí luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa
học.
Đi từ cảm tính đến lí tính.
c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, vì thực tiễn là điểm xuất phát trực
tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát
triển của nhận thức.
- Chính thông qua hoạt động thực tiễnluôn luôn nảy sinh nhu cầu mới thúc đẩy nhận
thực phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của nhận thức,chẳng hạn:từ nhu cầu chữa
trị các căn bệnh hiểm nghèo mà thúc đẩy nhận thức của con người khám phá ra bản đồ gen
người...,từ nhu cầu thực tiễn quan sát các vật bé nhỏ mà thúc đẩy nhận thức con người sáng
tạo ra các kính hiển vi.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận thức nhằm phục vụ hoạt động
thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn.
-Thực tiễn tiêu chuẩn của chân lí, kiểm tra tính chân lí của quá trình nhận thức.
vì các tri thức của con người đc khái quát,tổng kết chưa chắc đã đúng do vậy các tri thức ấy
phải đc kiểm tra đối chứng
trong thực tiễn nếu đó đúng thì đó là chân lý.
- Nhận thức giúp con người nâng cao giá trị sống, để nâng cao giá trị sống thì phải kinh qua
thực tiễn.
Tuy nhiên, nhận thức cũng có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ với thực tiễn:
Nhận thức giúp con người nắm bắt những thuộc tính, qui luật, bản chất của sự vật,
hiện tượng, từ đó đề ra những phương án để giải quyết nó.
Nhận thức phản ánh đúng hiện thưc khách quan, tác động vào hiện thực, cải tạo hiện
thực, nếu phản ánh sai hiện thực khách quan thì sẽ ngăn cản quá trình cải tạo hiện thực.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực
tiễn.
Mọi nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lí luận phải liện hệ thực tiễn (vì thế học
phải đi đôi với hành). Không nên tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn hay vai trò của nhận thức.
Phát huy vai trò của nhận thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại
khoa học công nghệ hiện nay. Thực tiễn mà không có lí luận khoa học sẽ là thực tiễn mù
quáng. Trong hoạt động Đảng, xa rời thực tiễn sẽ mắc bệnh giáo điều, máy móc, quan liêu.
Tóm lại nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lí luận là nguyên tắc bản trong hoạt động
thực tiễn và hoạt động lí luận.
Do vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và tác động trở lại của nhận thức đối với thực
lOMoARcPSD| 35883770
tiễn, triết học Mác Lênin đề ra nguyên tắc thống nhất giữa nhận thức thực tiễn, trong đó
thực tiễn có ý nghĩa quyết định.
Tuy nhiên, có lúc thực tiễn mâu thuẫn với nhận thức. Khi nhận thức không phù hợp với thực
tiễn, ta phải thay đổi nhận thức. Ta phải xuất phát từ hiện thựcthực tiễn cao hơn nhận thức
và lí luận, nhưng không hạ thấp vai trò nhận thức mà phải tạo điều kiện thúc đẩy nhận thức
làm nhận thức phù hợp xu thế hoạt động của thực tiễn.
Câu 9: Con đường biện chứng từ nhận thức đến chân
Câu trả lời có ba ý lớn
1) Quan điểm của V.I.Lêninvề con đường biện chứng của nhận thức chân lý.“Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Như vậy, nhận thức là sự
phản ánh thế giới được thực hiện trên sở thực tiễn và con đường biện chứng của nhận thức
gồm hai giai đoạn kế tiếp, bổ sung cho nhau.
2) Các giai đoạn của quá trình nhận thức
a) Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) những tri thức do các giác quan mang lại. Nét
đặc trưng cơ bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với
thực tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Những thành phần của nhận thức cảm tính
+) Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các
giác quan của con người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng
lẻ của sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác là thế giới khách quan, còn
bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+) Tri giác là sự tổng hợp (sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau) của nhiều cảm giác riêng biệt vào
một mối liên hệ thống nhất tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
+) Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác
quan và đã sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượngkhả năng ghi nhận thông tin
của não người. Đây là nấc thang cao và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính; là
hình ảnh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng được lưu lại trong não người và
do tác động nào đó được tái hiện lại khi sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm
tính. Trong biểu tượng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và với biểu
tượng, con người đã có thể hình dung được sự khác nhau và mâu thuẫn nhưng chưa nắm được
sự chuyển hoá từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.
Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là nhận thức “bề
ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà đã có “chất”. Tuy vậy, giai đoạn trực quan sinh động chưa
đưa lại nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự vật, hiện tượng; các nấc thang khác nhau của
giai đoạn này trong quá trình nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất sự vật,
hiện tượng.
b) Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ những luận
truyền lại. Nhận thức lý tính phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận
lOMoARcPSD| 35883770
thức.
Những thành phần của nhận thức lý tính
+) Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm vừa có tính khách quan,
vừa tính chủ quan khi phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất và
chung nhất của sự vật, hiện tượng nhờ sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin đã
thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động thực tiễnhoạt động nhận thức.
Các thông tin, tài liệu đó càng nhiều, càng đa dạng thì các khái niệm cũng ngày một nhiều và
giữa chúng có các mối liên hệ qua lại với nhau trong sự vận động, phát triển không ngừng dẫn
đến sự hình thành những khái niệm mới, phản ánh sâu sắc hơn về bản chất của sự vật, hiện
tượng.
+) Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ
định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức của con người tạo nên
vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan. Có ba loại
phán đoán bản là phán đoán đơn nhất; phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến, trong đó
phán đoán phổ biến hình thức diễn đạt tương đối đầy đủ các quy luật.
+) Suy luận (suy lý) là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri
thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề (suy
luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán đoán mới). Suy luận có vai trò
quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi nó thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã
biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết. thể nói rằng, đa số các ngành khoa học được
xây dựng trên hệ thống suy luận và nhờ đó, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn hiện thực khách quan. Tuỳ thuộc vào tính chất của mối liên hệ giữa các phán đoán tiên
đề với phán đoán kết luận suy luận có thể là suy luận quy nạp hoặc suy luận diễn dịch.
Trong các suy luận quy nạp, tư duy vận động từ cái đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến;
trong các suy luận diễn dịch tư duy đi từ cái chung đến cái ít chung hơn và đến cái đơn nhất.
Cũng như khái niệm phán đoán, các loại suy luận đều biến đổi, liên hệ qua lại với nhau
theo tiến trình phát triển của nhận thức.
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương pháp trừu tượng và
khái quát hoá các thông tin, tài liệu do trực quan sinh động và tư duy trừu tượng các thế hệ
trước để lại, tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn; phản ánh được những thuộc
tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Sự phân chia quá trình nhận thức như trên chỉ là sự trừu tượng quá trình vận động của nhận
thức; còn trên thực tế, nhận thức cảm tính, nhận thức tính và các nấc thang của chúng luôn
đan xen nhau thực tiễn là cơ sở của toàn bộ quá trình nhận thức đó.
3) Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức
a) Trực quan sinh động duy trừu tượng hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy
có những sự khác biệt về mức độ phản ánh hiện thực khách quan, nhưng giữa hai quá trình đó
có sự liên hệ, tác động qua lại. Trên thực tế, nhận thức lý tính không thể thực hiện nếu thiếu
tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại. Nhận thức cảm tính sở tất yếu của tư duy trừu
lOMoARcPSD| 35883770
tượngngược lại, nhận thức tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắcchính xác hơn.
b) Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận thức thế giới
khách quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động và tư duy trừu tượng được thực hiện
trên sở thực tiễn, do thực tiễn quy định. Trong đó, trực quan sinh động điểm khởi đầu, tư
duy trừu tượng tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành các kết quả của nhận
thức và thực tiễn là nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các kết quả của nhận thức đó. Đó
chính con đường biện chứng của nhận thức.
c) Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức ở giai đoạn cảm tính gắn
liền với thực tiễn, gắn liền với sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức lên các giác quan
của chủ thể nhận thức. Nhận thức ở giai đoạn lý tính đã thoát khỏi sự tác động trực tiếp của
khách thể nhận thức để thể bao quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận thức giai đoạny
nhất thiết phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh nhằm tránh nguy cơ trở thành ảo
tưởng, viển vông, không thực tế. Đó là thực chất của mệnh đề “từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn”.
d) Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi đến tư duy
trừu tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc
của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình
nhận thức mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu trình cứ thế vận động mãi làm cho nhận
thức của con người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách
quan, phục vụ cho hoạt động biến đổi thế giới.
e) Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức được giải quyết thì lại
xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi lần giải quyết mâu thuẫn của nhận thức là một lần nhận thức
được nâng lên trình độ mới, chính xác hơn. Quá trình giải quyết mâu thuẫn của nhận thức
cũng là quá trình loại bỏ dần những nhận thức sai lầm đã phạm phải. Kết quả của quá trình đó
là hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính bản chất, có nội dung khách quan hơn và
cụ thể hơn. Trong quá trình đó không ngừng nảy sinh, vận động và giải quyết các mâu thuẫn
của nhận thức để tạo ra các khái niệm, phạm trù, quy luật nhằm phản ánh đúng bản chất của
thế giới vật chất đang vận động, chuyển hoá và phát triển không ngừng.
4. Ý nghĩa PPL
- Quá trình nhận thức chân lí phải đi từ thấp đến cao, không được tuyệt đối hóa giai đoạno.
- Không được đề cao thực tiễn, hạ thấp vai trò của lí luận vì như thế sẽ rơi vào chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa kinh nghiệm và ngược lại, không được đề cao lí luận đến mức xa rời thực
tiễn, rơi vào bệnh chủ quan duy chí. Thực tiễn không có lý luận trở thành thực tiễn mù quáng,
luận không có thực tiễn là lý luận suông.
- Đổi mới tư duy gắn liền với hoạt động thực tiễn là một trong những chủ trương lớn hiện nay
của Đảng ta. Chỉ có đổi mới tư duy lí luận, gắn lí luận với thực tiễn thì mới có thể nhận thức
được các quy luật khách quan và trên cơ sở đó, đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Câu 10: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
lOMoARcPSD| 35883770
sản xuất
a) Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
- Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục đích nhất
định được tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành đó chính
phương thức sản xuất. Vậy, khái niệm phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách
thức con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất củahội những giai đoạn
lịch sử nhất định.
- Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải các nhân tố thuộc về
người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao động) cùng các liệu sản
xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các liệu phụ trợ của quá trình
sản xuất,…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình
sản xuất. Như vậy, lực ợng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của
quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất
làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm
biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người
hội. Cũng do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục
giới tự nhiên của con người.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, người lao động” là nhân tố giữ vai
trò quyết định. Mặc khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản
ánh nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện tiêu biểu trình độ con
người chinh phục giới tự nhiên.
Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng, trực tiếp các thành tựu
của khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao vào quá trình sản xuất đã khiến cho các tri thức khoa
học kỹ thuật ngày càng tr thành lực lượng sản xuất trực tiếp; tri thức khoa học, kỹ thuật,
công nghệ được nhờ những quá trình nghiên cứu khoa học đã ngày càng trở thành những
nhân tố quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển từ đó dẫn đến sự hình thành những nhân tố bản nhất của xu
hướng
phát triển kinh tế tri thức.
Lực lượng sản xuất chính nhân tố bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của
quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất hiện thực nào thể diễn ra nếu thiếu một
trong hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản
xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được còn cần phải những
quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế xã hội của quá trình sản xuất ấy.
- Quan hệ sản xuất mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất tái sản xuấthội). Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản quá trình sản xuấtquan hệ trong phân phối
kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ
thống nhất chi phối, tác động lẫn nhau trên sở quyết định của quan hệ sở hữu về
liệu sản xuất.
b) Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất mối quan hệ
thống nhất biện chứng, trong đó lực ợng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất quan
hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
lOMoARcPSD| 35883770
+ Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất hai mặt bản, tất yếu của quá trình
sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn
quan hệ sản xuất hình thức kinh tế hội của quá trình đó. Lực lượng sản xuất
quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau, tạo thành qui
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây
yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực củahội.
+ Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết địnhlàm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Hay nói cách khác, mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ
thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác
định. Bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ hình thức kinh tế - hội của quá trình sản xuất, còn
lực lượng sản xuất nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều
tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó nghĩa là, tạo điều kiện
sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với liệu sản xuất và do đó lực
lượng sản xuất sở để phát triển hết khả năng của nó. Tính ổn định, phù hợp của quan
hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng khả năng
phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo khả năng phá
vỡ sự thống nhất của nó với quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực
lượng sản
xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến
thay thế quan hệ sản xuất bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới
của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng
tính độc lập tương đốitác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất qui định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản
xuất, đến tổ chức phân công lao động hội, đến phát triển ứng dụng khoa học công
nghệ, v.v. Quan hệ sản xuất hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không
phải giản đơn. Chính nhờ các cuộc cách mạnghội những quan hệ sản xuất của
hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất hiện thực, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuấtquan hệ sản xuất mối quan hệ
mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của quá
trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này một quá trình đi từ sự thống nhất đến
những khác biệt đối lập, xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được
giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
lOMoARcPSD| 35883770
- Trong phạm vi phân tích sự phát triểnhội, mâu thuẫn và sự vận động của mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuấtquan hệ sản xuất chính nội dung bản của “quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Sự tác động của
quy luật này tạo ra nguồn gốc động lực bản nhất đối với sự vận động, phát triển của
nền sản xuất vật chấtdo đó sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống hội; sự vận
động, phát triển của lịch sử nhân loại từ phương thức sản xuất thấp lên phương thức sản
xuất cao hơn; cũng sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của
toàn bộ các hiện tượng hội và các sự biến trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng
đồng người trong lịch sử.
c) Ý nghĩa PPL
Quy luật này là quy luật bản nhất:
nó tác động đến sự thay đổi của PTSX, tức là thay đổi kinh tế, mà kinh tế thay đổi
sẽ làm chính trị thay đổi, xã hội thay đổi, đời sống vật chất thay đổi, kéo theo đời sống tinh
thần cũng thay đổi. Các thời đại khác nhau là khác nhau ở phương thức sản xuất, muốn có
thời đại mới tốt đẹp hơn, cao cả hơn phải có phương thức sản xuất cao hơn, mang lại năng
suất cao hơn.
Quy luật phổ biến nhất:
tác động từ khi loài người xuất hiện đến nay và mãi về sau. Phổ biến vì nó tác
động đến mọi hình thái kinh tế xã hội, bất cứ xã hội nào, quy luật này đều tác động đến nên
gọi phổ biến, phổ biến vì lúc nào cũng có nó chi phối những cái khác.
LLSX quyết định QHSX đối với quá trình sản xuấthội, cho nên trong hoạt động
thực tiễn cần coi trọng vị trí, vai trò của LLSX đối với QHSX. Muốn thúc đẩy quá trình sản
xuất xã hội cần phải phát huy vai trò của LLSX; cần phải ưu tiên, mở đường cho LLSX phát
triển tối đa.
QHSX sự tác động tích cực trở lại đối với LLSX (thể hiện thông qua sự phù hợp
và không phù hợp với trình độ LLSX) trong quá trình sản xuất xã hội, cho nên không được
xem thường, bỏ qua vai trò này và cần phải biết phát huy vai trò của QHSX nhằm tạo điều
kiện, môi trường thuận lợi cho LLSX phát triển.
Vì giữa LLSX và QHSX tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa đấu tranh lẫn
nhau, cho nên cần phải tôn trọng quy luật này. Việc tôn trọng quy luật giúp chúng ta chủ động
trong việc giải quyết mối quan hệ cũng như có những biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy quá
trình sản xuấthội phát triển.
d) Nhận thứcvận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng CNXH
* Trước thời kỳ đổi mới
Chúng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan khi không
tính đến điều kiện của một đất nước với nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển với LLSX còn
thấp, nhưng lại chủ trương xây dựng QHSX tiên tiến đi trước nhằm mở đường cho LLSX
phát triển, xác lập kiểu “QHSX xã hội chủ nghĩa thống trị” dựa trên chế độ công hữu là sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chính sự nhận thức và vận dụng sai lầm đó đã được Đại hội
lần thứ VI của Đảng năm 1986 chỉ rõ: một trong những nguyên nhân cơ bản của sự khủng
hoảng kinh tế xã hội nói chung, của sự kìm hãm LLSX phát triển nói riêng trong những m
1976 - 1980 là do trong nhận thức và hành động, “chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm
vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của
LLSX”.
* Trong quá trình đổi mới
Trong khi tiến hành CNH-HĐH đất nước, đặc biệt qua 10 năm thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã từng bước nhận thức và vận dụng quy luật
này ngày càng rõ và đúng đắn hơn. Đó là chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường có sự
lOMoARcPSD| 35883770
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu; nhiều
thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy đã góp phần quan trọng để “đạt được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng…, đạt bước phát triển mới cả về LLSX, QHSX”. Xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển
chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với
yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN trong điều kiện của trình độ
phát triển LLSX đa dạng, không đồng đều. Chính vì vậy, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là
phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Mặt khác, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy cao độ nội lực,
tranh thủ tối đa ngoại lực, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức đúng yêu
cầu đó, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách, biện
pháp thực hiện CNH-HĐH để phát triển LLSX như: xác định rõ vị trí, vai trò của các thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng củng cố và
phát triển, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển…, tạo cơ sở củng cố, từng bước hoàn
thiện QHSX mới.
Mục đích của việc xây dựng QHSX, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong
quá trình CNH, HĐH là nhằm khai thác các lợi thế tiềm năng trong và ngoài nước, các thành
phần kinh tế vào phát triển kinh tế xã hội, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể khẳng định, đó là
thành tựu nổi bật nhất của sự nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
Câu 11: sở hạ tầngkiến trúc thượng tầng, vận dung
a) Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Khái niệm sở hạ tầng
Khái niệm sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành
cấu kinh tế củahội.
sở hạ tầng của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó, được tạo nên bởi các
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới
hình thái mầm mống, đại biểu cho sự phát triển củahội tương lai, trong đó quan hệ sản
xuất thống trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát
triển của đời sống kinh tế - hộigiữ vai trò đặc trưng cho chế độ kinh tế của một
hội nhất định.
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình
thái ý thức hội cùng với các thiết chế chính trị - hội tương ứng, được hình thành trên
một
sở hạ tầng kinh tế nhất định.
Trong xã hội giai cấp, đặc biệt trong các hội hiện đại, hình thái ý thức chính
trị pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng nhà nước hai thiết chế,
lOMoARcPSD| 35883770
tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc thượng tầng củahội.
Nhà nước một bộ máy tổ chức quyền lựcthực thi quyền lực đặc biệt của hội
trong điều kiện hội đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa, nhà nước hệ thống tổ chức
đại biểu cho quyền lực chung củahội để quản lý, điều khiển mọi hoạt động củahội
công dân, thực hiện chức năng chính trị chức năng hội cùng chức năng đối nộiđối
ngoại của quốc gia. Về thực chất, bất cứ nhà nước nào cũng công cụ quyền lực thực hiện
chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị, tức giai cấp nắm giữ được những liệu sản
xuất chủ yếu củahội, nó chính chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước.
b) Quan hệ biện chứng giữa sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng hai phương diện bản của đời sống xã hội
đó phương diện kinh tế và phương diện chính trị - hội. Chúng tồn tại trong mối quan
hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau, trong đó sở hạ tầng đóng vai trò
quyết định đối với kiến trúc thượng tầng đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên
sự tác động trở lại sở hạ tầng kinh tế củahội.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
+ Vai trò quyết định của sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được
thể hiện trên nhiều phương diện: tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một
kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ sở hạ tầng đó.
+ Những biến đổi trong sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải sự
biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng.
Tính chất mâu thuẫn trong sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ
thống kiến trúc thượng tầng. Sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột
lợi ích chính trị - hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích
trong sở kinh tế của hội. Giai cấp nắm giữ quyền sở hữu liệu sản xuất củahội
đồng thời cũng giai cấp nắm được quyền lực nnước trong kiến trúc thượng tầng, còn
các giai cấp và tầng lớp hội khác vào địa vị phụ thuộc đối với quyền lực nhà nước. Các
chính sách và pháp luật của nhà nước, suy đến cùng chỉ là phản ánh nhu cầu thống trị về
kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu những liệu sản xuất chủ yếu của hội, .v.v…
Như vậy, sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng sự
phản ánh đối vối cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng.
- Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển của
kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng vị trí độc lập tương đối của
thường xuyên có vai trò tác động trở lại sở hạ tầng củahội.
Sư tác động của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng thể thông qua nhiều
phương thức. Điều này tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng,
phụ thuộc vào vị trí, vai trò của những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện
kiến trúc thượng tầng yếu tố nhà nước thì phương thức tác động của các yếu tố khác tới
sở kinh tế của hội thường phải thông qua nhân tố nhà nước pháp luật mới thể
thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó. Nhà nước nhân tố tác động trực
tiếp nhất mạnh mẽ nhất tới sở hạ tầng kinh tế của hội.
Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng thể diễn ra theo nhiều xu
hướng, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau còn thể đối lập nhau, điều
lOMoARcPSD| 35883770
đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp hội khác nhau
đối lập nhau: sự tác động nhằm duy trì sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế
độhội hiện thời, lại sự tác động theo xu hướng xóa bỏ sở kinh tế này và xu
hướng đấu tranh cho việc xác lập một sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội khác,
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng thể diễn ra theo xu
hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp của các
yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng diễn ra với
những xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau nhưng rốt cuộc nó không thể giữ vai trò
quyết định đối với sở hạ tầng kinh tế của hội; sở hạ tầng kinh tế của hội vẫn
tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.
c. Đảng CSVN đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này như thế nào vào quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Lịch sử hội loài người đã trãi qua 4 hình thái KTXH, đó : chế độ ng sản nguyên
thủy, chế độ chiếm hữu lệ, chế độ phong kiến, chế độ bản chủ nghĩa đang trãi qua
thời kỳ quá độ của CNXH, giai đoạn đầu tiên của CNCS. Mác cho rằng không phải quốc gia,
dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - hội đã trong lịch
sử. Do những điều kiện khách quan chủ quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào đó
thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã
hội tiến bộ hơn. Đó cũng quá trình lịch sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch
sử. Tuy nhiên, phát triển rút ngắn đòi hỏi phải những điều kiện khách quan chủ quan
mới thể thực hiện được. -nin cũng đã nói con đường quá độ lên chủ nghĩa hội thể
những hình thức khác nhau; điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Theo người, hình thức quá độ trực tiếp con đường phát triển tuần tự từ CNTB lên
CNXH; còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa đi lên CNXH. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo
ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí nhảy vọt của lực lượng sản xuất do vậy, về thực
chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất
Dựa vào học thuyết của Mác Lênin về hình thái kinh tế - hội, Đảng ta đã vận dụng
những lý luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chọn lựa con đường phát triển rút ngắn
- tức là đi lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sự chọn lựa đó dựa
trên những yếu tố khách quanchủ quan như sau :
Về khách quan, thời đại ngày nay vẫn thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm
vi toàn thế giới theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
Văn kiện Đại hội IX đã chỉ mặc trước mắt CNTB vẫn còn tiếp tục phát triển nhưng
không giải quyết được mâu thuẩn bản giữa quan hệ sản xuất đã lạc hậu với lực lượng sản
xuất phát triển mạnh, từ đó làm cho lực lượng sản xuất chưa phát triển đúng với tiềm năng
của nó, dẫn đến những suy thoái kinh tế tất yếu xảy ra cùng với sự khủng hoảng về
chính trị. Bỡi lẽ, phương thức sản xuất TBCN làm cho quy mô của các công ty tư bản sẽ ngày
càng lớn do hệ qucủa các cuộc khủng hoảng kinh niên và mang tính tàn phá của nền kinh tế
bản. Cùng với chế độ bóc lột bản chủ nghĩa, sự phân cực hội cùng sâu sắc, sự
phân hóa giàu nghèo được đẩy tới đỉnh điểm. đây của cải ngày càng tập trung vào một số
nhỏ các nhân những triệu phú tỉ phú; cực đối lập những người sống dưới mức
nghèo khổ các nước bản phát triển đông đảo những người cùng khổ, đói rét các
nước bản đang phát triển. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột bản chủ nghĩa
giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức vàng bạc hay tiền tệ), làm cho lòng
thèm khát tăng lao động thặng khát vọng làm giàu trên sở đó được đẩy tới cực độ.
Hệ quả của thực tế đó chắc chắn sẽ đúng như sự tiên đoán của C. Mác: "cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp sản đã sản xuất chiếm hữu sản
lOMoARcPSD| 35883770
phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sinh ra những
người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sảnthắng lợi của giai cấp vô sản
đều tất yếu như nhau".
Mặt khác, thế kỷ XXI thế kỷ khoa học công nghệ những bước nhảy vọt, kinh tế
trí thức ngày càng vai trò nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá trình lực lượng sản xuất của
các quốc gia. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế đối với mọi nước, nhất
các nước đang phát triển, vừa thời vừa thách thức. Đối với nước ta, thời lớn hơn
thách thức. Chúng ta chẳng những khả năng tiếp cận những tiến bộ KHKT, tranh thủ nắm
bắt vận dụng những thành tựu khoa học ng nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng
lao động, trình độ tổ chức quản sản xuất của con người để nhanh chóng xây dựng lực
lượng sản xuất hiện đại còn khả năng tạo ra thời nếu ta đường lối đúng, bản
lĩnh để thực hiện đường lối đó.
Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như:
tăng trưởng GDP nhịp độ cao, cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng
của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. cấu của từng ngành cũng sự
chuyển dịch dần theo ớng phát huy lợi thế cạnh tranh hơn đối với thị trường trong và ngoài
nước. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu phát triển xu hướng tăng , các nguồn lực trong xã hội
được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế nhân, đầu cho sở hạ tầng
tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên.
Về chủ quan, Qua hơn 20 năm thực hiện những nội dung đối mới đó, nền kinh tế nước ta
đã những bước chuyển tích cực trong việc xây dựng nền tảng sở vật chất cho CNXH.
Tăng trưởng kinh tế nhanh, sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, mở rộng quan hệ quốc
tế. Tỷ lệ đói nghèo giảm với khoảng 25 triệu người thoát khỏi đói nghèo. Song song với sự
thành tựu về kinh tế sđổi mới về kiến trúc thượng tầng bắt đầu từ việc đổi mới về chính
trị. Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ một bản lĩnh chính trị vững vàng đường lối lãnh
đạo đúng đắn. Nhà nước đã nhiều cố gắng trong việc điều hành quản đất nước.
Chúng ta đã bài học của ba mươi năm lãnh đạo xây dựng kinh tế trong hòa bình với
cách của một Đảng cầm quyền duy nhất của một nước gần 90 triệu dân vốn cần cù, thông
minh giàu nghị lực sáng tạo. Đó những yếu tố chủ yếu đảm bảo sthành công cho sự
nghiệp xây dựng CNXH
Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiển với tư duy quan điểm mới Đảng ta đã nhìn nhận vấn
đề bỏ qua “giai đoạn” hay “thời kỳ” đơn thuần là rút ngắn thời gian trên cơ sở có được những
điều kiện, thời cơ và tiền đề vật chất quan trọng nhất đó là sự phát triển của LLSX và sự
trưởng thành của giai cấp vô sản. Cụ thể hoá nội dung “bỏ qua”, đại hội ĐBTQ lần IX của
Đảng đã nêu rõ :”Bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX
và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền KT
hiện đại”. Nghĩa là chúng ta thừa nhận sự tồn nền KT nhiều thành phần theo định hướng
XCHN. Có tiếp nhận, cải tạo các quan hệ sản xuất cũ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát
huy mọi thành phần kinh tế, nâng sức sản xuất của XH, tạo ra thật nhiều sản phẩm phong phú
có sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời thông qua sự nghiệp CNH-HĐH – đây là nội
dung mang tính quyết định và đột phá nhằm nâng tầm về chất của LLSX và xây dựng LLSX
cần thiết cho chế độ mới. Sự nghiệp CNH phải đi đôi với HĐH nghĩa là trong xu thế tất yếu
của toàn cầu hoá kinh tế và trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay
chúng ta tiếp tục đường lối kinh tế đối ngoại rộng mở, hoà nhập đi trước đón đầu, mở cửa
hiện đại hoá ra bên ngoài tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại của nhân loại, chú trọng
phát triển kinh tế theo chiều sâu đó là xây dựng LLSX phát triển với thiết bị hiện đại, công
nghệ hàng đầu, đặc biệt là đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn hoá cao là điều
kiện cần thiết để nền KT phát triển nhanh, bền vữnghiệu quả.
Tóm lại ”XD CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả
các nh vực sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu
lOMoARcPSD| 35883770
dài với nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế XH tính chất quá độ quan
điểm đúng đắn của Đảng ta trong việc vận dụng một cách hiệu quả mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, phù hợp với tình hình đất nước. Phù hợp với tiến
trình lịch sử tự nhiên của sự phát triểnhội.
Câu 12: Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. sự vận dụng của đảng ta đối với
vấn đề này
Mác-Ăngghen, Lê nin luôn luôn nhấn mạnh vai trò sản xuất vật chất xã hội trong quá
trình phát triển của nhân loại, đặc biệt là sự phát triển của LLSX, nhưng không bao giờ xem
nhẹ vai trò của tính tích cực của con ngườikiến trúc thượng tầng. Từ tiếp cận hiện thực của
mối quan hệ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần XH , để XH phát triển theo quy luật
tự nhiên, cần nhận thức khách quan khoa học nguồn gốc, động lực của sự phát triển, và nhất
thiết phải thủ tiêu mọi kìm hãm về xã hội, giai cấp, dân tộc để động lực XH trong LLSX luôn
phát triển. Nếu chúng ta thấm nhuần sâu sắc, biện chứng quá trình vận động của từng HT KT-
XH cũng như quá độ của một HT KT-XH này đến một HT KT-XH cao hơn thì chắn chắn dễ
tiếp thu việc phát triển KT nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN. Vì
chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh dạy chúng ta lấy sự phát triển LLSX, nâng cao
đời sống với nhân dân lao động làm mục đích cao nhất, đó là quy luật, động lực phát triển của
XH Việt Nam trongf thời kỳ quá độ.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và những quy
luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, nhận thức đúng
đắn bản chất của ý thức xã hội và sự chuyển hóa từ tư tưởng thành hiện thực trong đời sống
xã hội có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu lịch sử xã hội loài người. Trên cơ sở nghiên cứu, vận
dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong phương hướng đổi
mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát triển văn
hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường xã hội”.
a. Khái niệm TTXH và YTXH:
Khái niệm tồn tại hội dùng để chỉ phương tiện sinh hoạt vật chấtcác điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội bao gồm 3 yếu tố cơ bản tạo thành:
Phương thức sản xuất vật chất
Các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên-hoàn cảnh địa lý
Dân cư.
Các yếu tố này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng , tác động lẫn nhau tạo
thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội . Trong đó, phương thức SXVC là yếu tố
quan trọng nhất.
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của XH nảy
sinh từ TTXH và phản ánh TTXH trong những giai đoạn phát triển nhất định.
YTXH được thể hiện thông qua cá nhân, được cụ thể hóa trong từng cá nhân.Ý thức cá
nhân là nền tảng để thể hiện YTXH, nhưng ý thức nhân không phải là YTXH mà chỉ là bộ
phận của YTXH.
YTXH bao gồm:
Ý thức đời thường: mang tính trực tiếp, tự phát, hiện tượng,phong phú, dễ nhận thức
sự phản ánh trực tiếp trong cuộc sống đời thường.
Ý thức lí luận: mang tính gián tiếp, tự giác, bản chất, ổn định, nhận thức thông qua
lOMoARcPSD| 35883770
học tập.
Khi ý thức đời thường và ý thức lí luận thâm nhập vào đời sống XH thì trở nên bền vững.
YTXH phản ánh ý thức của c tầng lớp trong XH nên tính giai cấp là quan trọng, ngoài ra
YTXH còn mang tính dân tộc. Đôi khi tính DT vượt tính GC, xóa bỏ mâu thuẫn trong GC.
Khi lợi ích củac GC đạt được thống nhất thì các GC chung YTXH.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa TTXH và YTXH:
Giữa TTXH và YTXH có mối quan hệ biện chứng với nhau . Tồn tại xã hôị quyết định
YTXH nhưng YTXH cũng tính độc lập tương đốitác động lại TTXH . Trứơc hết ta xét
tính quyết định của TTXH đối với YTXH lên hai phương diện cơ bản :
YTXH là sự phản ánh đối với hiện thực khách quan nên TTXH như thế nào thì
YTXH như thế ấy.
VD: C.Mac và Ph.Ănghen đã chứng minh rằng , đời sống tinh thần của XH hình
thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất , không thể tìm được nguồn gốc của tư
tưởng , tâm lý XH trong đầu óc con người , mà phải tìm trên hiện thực vật chất . Chẳng hạn ,
trong XH công xã nguyên thuỷ do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém , mọi người
còn làm chung , hưởng chungn chưa có tưởng hữu xuất hiện .Nhưng khi chế độ công
xã nguyên thuỷ tan , quan hệ sản xuất chiếm hữulệ ra đời , xã hội phân chia giàu
nghèo , bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản , nảy sinh và phát triển hệ
tưởng hữu , ăn bám , bóc lột, chủ nghĩa cá nhân , tưởng chủ nô ra đời.
Sự biến đổi của YTXH có nguyên nhân căn bản từ sự biến đổi và phát triển của
phương thức sinh tồn , phát triển của TTXH. Trong đó quan trọng nhất là sự phát triển và biến
đổi của phương thức sản xuất- đó là phương thức sinh tồn bản nhất của con người, của một
hội nhất định.
Khi khẳng định vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH , chủ nghĩa duy vật lịch sử
không xem ý thức XH như một yếu tố thụ động , trái lại còn nhấn mạnh , tác động tích cực
của YTXH đối với đời sống KT-XH, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của YTXH trong mối
quan hệ với TTXH được biểu hiện những điểm sau:
YTXH thường lạc hậu so với TTXH: nguyên nhân của đăc điểm này do YTXH bao
giờ cũng đi sau TTXH, YTXH khi đã trở thành những tâp
quán, tâp tục, tâm lí… thì rất
khó xóa bỏ. khác, YTXH càng khó xóa bỏ hơn khi gắn liền với những giai cấp, tầng
lớp lạc hâu không muốn xóa bỏ nó.
YTXH thể vượt trước TTXH : Đó những tưởng khoa học tiên tiến thể
vượt trước sự phát triển của TTXH , dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, những tưởng tiến tiến này không thoát ly
TTXH gắn chă với TTXH.
YTXH sự kế thừa trong phát triển : Kế thừa ở đây là sự tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hoá của cha ông , tiếp thu những yếu tố đặc trưng phù hợp với thực tiễn và loại
lOMoARcPSD| 35883770
bỏ những cái cũ không còn phù hợp nữa . Sự kế thừa thực hiện tính tự giác thông qua lợi ích
của các lực lượng giai cấp phản ánh nó .
VD: Chẳng hạn như để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày nay C.Mac,
Ănghen đã kế thừa phép biện chứng của Heghen và chủ nghĩa duy vật của Feurback nhưng
cũng đồng thời loại bỏ những tư tưởng không phù hợp .
Sự tác động lẫn nhau của các hình thức YTXH: Trong giai đoạn lịch sử nhất định, một
hình thái YTXH ưu trội vượt lên trên, tác động , chi phối vào các hình thái YTXH khác.
VD: Vào thời kỳ cổ đại ở phương Tây xuất hiện tưởng triết học . Trong thời điểm này
, triết học là hình thức ưu trội , nó thấm sâu, vận hành các hình thức YTXH khác… Ngày nay
thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực khác của đời sống tinh
thần XH .
Sự tác động trở lại của YTXH với TTXH: Sự tác động của YTXH với TTXH biểu
diễn qua hai chiều hướng. Nếu YTXH tiến bộ thì thúc đẩy TTXH phát triển, nếu YTXH lạc
hậu sẽ cản trở sự phát triển của TTXH.
c. Ý nghĩa phương pháp luâ :
Để xây dựng đất nước phát triển , ta phải kiên
toàn phương thức sản xuất, phát triển văn
hoá (góp phần nâng cao TTXH). Khi đó sẽ làm YTXH phát triển,đương nhiên đưa XH
phát triển.
Ta phải xoá bỏ mọi tàn dư , lạc hậu của xã hội, kế thừa những giá trị tích cực làm nên nền
móng cho sự phát triển xã hội . Ta tiếp thu văn minh thế giới dựa trên nền tảng văn hoá dân
tộc.
D. Vận dụng
Từ sở luận trên, trong công cuộc cải cách đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội nước
ta, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát triển
văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường xã hội
Đường lối chiến lược phát triển kinh tế - hội này của Đảng xuất phát từ nhận thức rõ
vai trò quyết định của kinh tế đối với ý thức xã hội. Trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hóa - hiện đại
hóa là nhiệm vụ trung tâm. Để thực hiện được nhiệm vụ này và bảo đảm sự phát triển toàn
diện của xã hội thì đi đôi với tăng trưởng kinh tế phải phát triển văn hóa và giáo dục nhằm
phát huy mọi nguồn lực tinh thần của người Việt Nam.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội VII chỉ rõ : phải kết hợp hài hòa
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của nhân dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện tốt chính sách xã hội,
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, với vai trò nguồn gốc sản sinh ra ý thức
hội, nền kinh tế phát triển mạnh tạo điều kiện và là tiền đề cho việc lành mạnh hóa các
QHSX, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của từng gia đình của cả dân tộc.
Đại hội IX của Đảng cũng đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở nước ta là “Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin, tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò
lOMoARcPSD| 35883770
chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân”. Nó vừa mục tiêu vừa động lực phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư tưởng cũ
vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân hiện
nay vẫn còn đan xen nhau, trong đó mặt tích cực cơ bản, đã và đang quyết định chiều
hướng phát triển của xã hội, là nguyên tố quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất
nước. Tính tích cực năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh
vực xã hội, được phát huy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái lòng yêu nước ý thức tự hào
tự tôn dân tộc truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp tục giữ gìn và phát
huy. Tuy nhiên, Hiện nay nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp, một mặt nền kinh tế thị trường
vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhưng mặt khác nó
lại vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực nh hưởng đến đời sống tinh thần của hội đặc biệt là về
tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận thức và tình
trạng suy thoái về đạo đức lối sống cũng khá phổ biến. Sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng
chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ - Đảng viên chưa được
ngăn chặn hình thức phai nhạt lý tưởng cách mạng sa sút phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham
nhũng lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực dụng có chiều hướng phát triển.
Những mặt tiêu cực nguy tiềm ẩn liên quan sự mất còn của Đảng, của chế độ.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao tính chất đạo đức cách mạng
và mục tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng cần đạt được là xây dựng nền văn hóa
mới và con người mới XHCN. Để thực hiện hai nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là : nhiệm
vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm vụ cấp bách về văn hóa là xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc : Hướng mọi hoạt động văn hóa vào việc xây
dựng con người VN phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất,
năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, lối
sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong giáo dục, cộng đồng và xã hội nêu cao tinh thần
trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối sống văn hóa
làm cho gia đình thật sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; ngăn chặn việc phục hồi các
thủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong xã hội “(VK 9 trang
114-116). Mặt khác, trong công cuộc tiến hành cách mạng tư tưởng văn hóa, xây dựng con
người mới và nền văn hóa mới, ta phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn
minh, những di sản quý giá do loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu văn hóa, khoa học
hiện đại đồng thời cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu giai cấp
trong việc kế thừa di sản để lại
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế gắn
liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp nhân
dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa trong
lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất
cho việc xử lý các vấn đề xã hội. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết
được tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Do đó,
trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và
khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn hóa, giáo dục đào tạo, chăm
lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư tưởng
bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc
thực hiện phân phối công bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách
bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc
chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào
đoàn kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền thống “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái
đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa chống tham nhũng, bất công xã hội nghiêm trọng hiện
lOMoARcPSD| 35883770
nay. Cải cách chế độ tiền lương để người lao động hăng hái làm việc đủ sống và nâng cao
mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một hội tốt đẹp trong khi kinh tế
nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta
phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộhội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đảng đã
xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và phát triển
mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là điều kiện đảm bảo sự thành công và
bền vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩahội ở nước ta.
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới . Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắt bệnh chủ
quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật
cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế ;về việc sử dụng các thành phần kinh tế
….
Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết đó lực lượng sản xuất còn nhỏ bé , chưa phát triển
, còn chủ yếu là sản xuất nhỏ , lạc hậu , kinh tế hàng hoá chưa phát triển . Chúng ta chỉ muốn
đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính
đến điều kiện thực tế của đất nước .
Trong bố trí cơ cấu kinh tế ,trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư , thường chỉ xuất phát từ
mong muốn đi nhanh , không tính đến điều kiện khả năng thực tế đề ra những chỉ tiêu kế
hoạch hoá cao về xây dựng bản và phát triển sản xuất .
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã có hiện tượng nóng vọi
muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa , nhanh chống biến kinh tế tư
bản nhân thành quốc doanh trong khi đúng raphải duy trì thực hiện phát triển các thành
phần kinh tế theo từng bước đi thích hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian
tương đối dài để phát triển lực lượng sản xuất .
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu ,yếu kém về lý luận ,do
tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp .
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất
phát từ thực tế ,tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan . Năng lực nhận thức và hành
động theo qui luật là điều kiên đảm bảo sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng ” (VKĐH 6, trang
30 ).
Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng ,phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật
chất , của các qui luật tự nhiên và xã hội , không được xuất phát từ ý muốn chủ quan .
lOMoARcPSD| 35883770
| 1/34

Preview text:

lOMoAR cPSD| 35883770
Đề cương triết thi cuối kỳ 1 I. Ôn tập lý thuyết
Câu 1: Định nghĩa vật chất của Lê-nin. Ý nghĩa khoa học của định nghĩa.
a. Định nghĩa Vật chất:
Trong tác phẩm “chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật phê phán” Lênin đã đưa ra
đinh nghĩa về “vật chất” như sau: “vật chất là một phạm trù triết học dung để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác củ chúng ta chụp
lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
b. Phân tích định nghĩa:
Cách định nghĩa: Phạm trù vật chất la phạm trù rộng, mà cho đến nay, thực ra nhận thức
luận chưa qua được. Khi định nghĩa phạm trù này không thể quy nó về vật thể hoặc một
thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn phạm trù vật chất. Do
vậy chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thứcm phạm trù đối lập với
nó và trong quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai.
-Thứ nhất: cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm về
khoa học tự nhiên về cấu tạo và các thuộc tính cụ thể của các đối tượng, các dạng vật chất
khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô
tận, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn. Vì
vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung
với các dạng cụ thể của vật chất như các nhà triết học duy vật trong lịch sử Cổ đại và Cận đại.
-Thứ hai: là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận
biết vật chất là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là “cái đang tồn tại độc lập
với loài người và với cảm giác của con người”. Trong đời sống xã hội, “ vật chất là cái tồn
tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”. Về mặt nhận thức luận thì
khái niệm vật chất chính là “ thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người
và được con người phản ánh”.
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất
kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác động lên giác quan của con người.
+ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh vật chất.
Với những nội dung cơ bản trên, phạm trù vật chất trong quan niệm của Lênin có ý nghĩa cô cùng to lớn. lOMoAR cPSD| 35883770
c. Ý nghĩa của định nghĩa
- Chống chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức.
- Chống thuyết “Bất khả tri” cho rằng: con người chỉ nhận thức được bề ngoài của sự vật
hiện tượng chứ không nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng. Lênin khắng định:
con người có thể nhận thức được bản chất của thế giới.
- Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác (đó là quan điểm siêu hình
máy móc, quy vật chất nói chung về những dạng cụ thể của vật chất).
- Là thế giới quan, phương pháp luận cho các ngành khoa học hiện đại tiếp tục phát triển.
Câu 2: Nêu nguồn gốc bản chất kết cấu của ý thức và nêu phương pháp để nâng cao vai trò ý thức
Giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức là một trong những
bước đi ban đầu để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Trên cơ sở khái quát thành tựu của khoa học, của thực tiễn xã hội, chủ nghĩa duy vật
biện chứng khẳng định nguồn gốc vật chất, bản chất phản ánh vật chất của ý thức để rút ra
vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.
a) Nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua
sự hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người,
từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các
dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hóa học;
phản ánh sinh học, phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức).
Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là
bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con
người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra
những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa
là nguồn gốc vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân
con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách
quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện
thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy,
thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của lOMoAR cPSD| 35883770
bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan
thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thông tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có
phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát
triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao
đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai
sức kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc của con vượn dần dần biến chuyển thành bộ óc của
con người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
b) Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con người;
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn
lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể
tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất
năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra
những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.v… trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái
quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
+Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải
biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri
thức, nhu cầu, v.v…) của con người. Theo C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được
đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
+Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của
ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh
học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh
hoạt hiện thực của đời sống xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
- Kết cấu của ý thức.
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận
nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Ở đây chỉ tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ
bản nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là:
tri thức, tình cảm ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn lOMoAR cPSD| 35883770
có thể bao gồm các yếu tố khác.
Câu 3: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận và
vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan
hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan
hệ đó vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.
a. Vai trò của VC đối với ý thức:
- VC là cái có trước, ý thức là cái có sau, vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con người nên
khi có con ngưới mới có ý thức,mà con người là sản phẩm của thế giới VC.
- VC là nguồn gốc của ý thức, vì các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, XH của ý
thức là bản thân thế giới VC, hoặc là những dạng tồn tại của VC.
- Nội dung của ý thức được quyết định bởi VC, vì ý thức là cái phản ánh thế giới VC, là
hình ảnh về thế giới VC.
- VC quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức, vì những
yếu tố VC ( qui luật sinh học, qui luật XH, sự tác động của môi trường sống) quyết
định sự vận động, phát triển và hình thưc biểu hiện của ý thức.
- Ví dụ: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường dựa trên cơ sở hoạt động sinh lí thần
kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý
thức cũng bị rối loạn.
b. Vai trò của ý thức đối với VC: -
Ý thức có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người: ý
thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để xác định mục tiêu, đề ra
phương hướng, nhằm thực hiện mục tiêu của mình. -
Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 2 hướng:
Tích cực: khi con người nhận thức đúng, hành động phù hợp với qui luật khách
quan, cải tạo được thế giới.
Tiêu cực: khi ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, hành
động đi ngược lại qui luật khách quan. -
Ý thức có thể quyết định hành động của con người.
- Ví dụ: Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của
một dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn
của đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mĩ cũng như Lê - Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì cũng
không thể có phong trào cách mạng”.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong mọi hoạt động nhận thưc và thực tiễn, phải: Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
- Phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện để xác định mục đích, đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải tìm ra những nhân tố VC, tổ chức lOMoAR cPSD| 35883770
chúng thành lực lượng VC để hành động.
- Phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con
người: Tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ và truyền bá
tri thức khoa học vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động; tu dưỡng, rèn luyện để hình
thành, củng cố nhân sinh quan CM, tình cảm, nghị lực CM để có sự thống nhất hữu cơ
giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
- Để thực hiện nguyên tắc trên, phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí,
chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí luận, bảo
thủ, trì trệ, thụ động trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
d. Vận dụng đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắc bệnh chủ quan
duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải
tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế . Nguyên
nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý luận, do tâm lý của
người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng ta biết rằng quan
điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự
vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự
nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan. Bài học mà Đảng ta đã nêu ra ,
trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách
quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã
hội có tính chất quá độ .
Trong bỗi dưỡng, phát huy nhân tố con người, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất,
đồng thời phải chú ý nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần. Đảng ta chủ trương “phát triển
kinh tế là trung tâm”, “làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
“Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo
đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, không ngừng bồi
dưỡng nâng cao trình độ, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước, phát huy đầy
đủ tính năng động, ý chí sáng tạo của con người trong việc nhận thức, cải tạo và phát triển xã hội.
Hiện nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi
Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng,
tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá
đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước ta trãi qua. lOMoAR cPSD| 35883770
Câu 4: Phân tích nguyên lí mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận đối với
công cuộc đổi mới
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
-Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi
sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những
mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu
của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng
định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, v.v.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế giới dù
phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng
khác, đều chịu sự tác động, sự quy định các hiện tượng và các sự vật khác, không sự vật nào
tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với sự vật và các hiện tượng khác.
- Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận, yếu tố và các giai đoạn phát triển khác
nhau của mỗi sự vật đều có tác động, quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
b) Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ
đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
-Tính phổ biến của các mối liên hệ.
Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không
phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.
Các sự vật, hiện tượng khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác
nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt
khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện
cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện. lOMoAR cPSD| 35883770
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn
cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các
yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với
các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả
các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm
phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần
phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong
hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và
tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác
nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong
nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu
hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
- Liên hệ việc vận dụng các quan điểm trên trong cuộc sống lao động , học tập của bản thân.
d. Vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam:
+ Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, tư tưởng…) chứ không ở một lĩnh vực nào. Như Đại hội VII của Đảng nêu kinh
nghiệm bước đầu đổi mới “Một là phải giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới,
hai là đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi hình thức và cách làm phù
hợp”. Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả lĩnh vực đời sống xã
hội. Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ
chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc.
+ Đổi mới toàn diện trên tất cả lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm như xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường để tạo ra động lực nhằm phát huy, kiến trúc nền kinh tế
trong nhân dân, khai thác vốn đầu tư và trình độ cũng như vốn của nước ngoài, nâng cao tay
nghề, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế VN
ngày càng đi lên hội nhập toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Đó là sự vận dụng hết sức sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào sự nghiệp cách mạng VN đặc biệt là vận dụng nguyên lý của mối liên hệ phổ biến.
Câu 5: Phân tích nguyên lí về sự phát triển và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam
a. Khái niệm về phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng,
giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó
cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
- Trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật
theo khuynh hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, lOMoAR cPSD| 35883770
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm “vận động” (biến đổi)
nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng
hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà còn bao hàm cả sự biến đổi về chất
theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
- Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của
sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng
cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật. -
+ Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực.
- Giới vô cơ biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố làm nảy sinh các hợp chất phức
tạp, xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu.
- Giới hữu cơ thể hiện ở khả năng thích nghi.
- Vấn đề xã hội: sự phát triển của tư duy thể hiện khả năng con người làm chủ thế giới.
b. Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải
quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu,
khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi
quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã bao
hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh
vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hành động thực tiễn phải có quan điểm phát triển khi xem xét đánh
giá các hiện tượng, phải đặt chúng trong sự vận động, sự biến đổi.
- Phải nhìn thấy cái mới, xu thế tất yếu của sự phát triển, có thái độ ủng hộ cái mới tạo
điều kiện cho cái mới ra đời.
- Quan điểm phát triển là cơ sở và niềm tin cho thái độ lạc quan khoa học của người cách mạng.
- Cần chống lại quan điểm nóng vội duy ý chí muốn xóa bỏ cái cũ khi chưa có đủ điều
kiện, quan điểm bảo thủ trì trệ gây cản trở cho sự phát triển.
d. vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam
- Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của
thời đại mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá
trình cải tổ, đổi mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết,
đưa quá trình cải tổ đổi mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và
đang đạt những chuyển biến tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung
ương 3 khóa XIII (12-1978) Đảng cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách,
mở cửa toàn diện, sâu sắc theo định hướng XHCN và từ đó đến nay, trãi qua một phần tư lOMoAR cPSD| 35883770
thế kỷ, Trung quốc đã phát triển không ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường quốc trên thế giới.
- Đối với nước ta, “những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho
thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều”(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này
cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn
ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tấp. Cũng như mọi thời đại
khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng như
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của ĐCS VN nhận định
“CNXH hiện thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trãi
qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó
là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Câu 6: Quy luật lượng chất, ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của nhà nước ta
Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại là qui luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển
trong tự nhiên, XH và tư duy.
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật chỉ biến đổi về lượng chứ không biến đổi về chất.
Quan điểm duy vật cho rằng sự vật biến đổi về cả lượng và chất.
a. Khái niệm chất, lượng :
Chất dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng ; là sự thống nhất
hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác. Con người chỉ có khả năng
nhận thức chứ không thay đổi được chất.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc
tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi
thì chất của nó thay đổi.
Chất còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua những mối liên hệ cụ thể.
Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
Lượng dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, qui mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật.
Vậy chất và lượng là 2 phương diện khác nhau của cùng 1 sự vật, hiện tượng, hay 1 quá
trình nào đó trong tự nhiên, XH và tư duy. Lượng là lượng của chất, chất được thể hiện thông
qua lượng. Lượng và chất tồn tại khách quan.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng :
Trong 1 sự vật bao giờ cũng có sự gắn bó chặt chẽ giữa lượng và chất. Trong quá trình vận
động, lượng biến đổi liên tục, ít nhiều ảnh hưởng đến chất.
Độ : là giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi. Sự vật hiện tượng vẫn còn
là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. lOMoAR cPSD| 35883770
Điểm nút : là điểm đánh dấu khi lượng thay đổi đến 1 giới hạn nhât định sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất.
Bước nhảy : dùng để chỉ sự thay đổi của chất : sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút,
với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới.
Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau : lớn và nhỏ, cục bộ
và toàn bộ, tự phát và tự giác, dần dần và đột biến,... Về qui mô :
 Bước nhảy cục bộ : là thay đổi từng mặt, từng phần và dẫn đến thay đổi toàn bộ  bước nhảy toàn bộ.
 Bước nhảy toàn bộ : là thay đổi toàn diện. Về nhịp điệu :
 Bước nhảy dần dần : là bước nhảy diễn ra từ từ, dẫn đến sự biến hóa XH  bước nhảy đột biến.
 Bước nhảy đột biến : diễn ra nhanh chóng
Khi chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng mới làm thay đổi kết cấu, qui mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
+ Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa chất và
lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác. Trong mối
quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn.
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song
không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc,
mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ
khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về
chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy, khi lựợng biến đổi đến
điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay
thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại
xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách
thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá
trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển.
+ Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách
thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra
một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định
này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận :
- Phải coi trọng cả chất và lượng của sự vật, tạo nên nhận thức toàn diện về sự vật. Không lOMoAR cPSD| 35883770
được tuyệt đối hóa vai trò của lượng hoặc chất. Chỉ biến đổi về lượng thì là bảo thủ, chỉ
biến đổi về chất thì là chủ quan duy ý chí.
- Tùy mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự
vật ; đồng thời có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.
- Trong công tác thực tiễn, cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh ( bất chấp qui luật,
chủ quan, duy ý chí) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh ( bảo thủ, trì trệ).
- Trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước
nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Cần nâng cao tính tích cực chủ động
của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất 1 cách hiệu quả nhất.
D. vận dụng của nhà nước ta
Khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội xây dựng quan hệ
sản xuất một thành phần, dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần
kinh tế khác bị coi là một bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải
tạo, xóa bỏ, làm như vậy chúng ta đã đẩy quan hệ SX đi quá xa so với trình độ phát triển của
lượng lực sản xuất. Tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém, với một
bên là quan hệ sản xuất đã được xã hội hóa giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Hay nói cách khác, LLSX của chúng ta còn quá thấp kém,chưa tích lũy đủ về lượng (tính chất
và trình độ) đã vội thay đổi chất (Quan hệ sản xuất) làm cho đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoàng kinh tế - xã hội.
Nhờ có nhận thức đúng đắn, đổi mới tư duy lý luận của Đảng về tính tất yếu của
phát triển kinh tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường định hướng XHCN; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm,
kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình
ủng hộ và tích cực tham gia. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị
trường sát thực và hiệu quả hơn. Mở rộng, phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực
hiện ngày càng tốt vai trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. Vai trò lãnh đạo cũng như nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ngày càng rõ nét, theo đó đã xác định tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng
cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng, tăng cường lãnh đạo và kiểm tra về phát triển kinh tế.
Câu 7: Quy luật thống nhất và mâu thuẫn của mặt đối lập, ý nghĩa liên hệ với công cuộc
đổi mới ở nước ta

- Vị trí của qui luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là qui luật mâu thuẫn)
là qui luật quan trọng nhất của phép biện chứng, là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc bên
trong, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển.
a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn lOMoAR cPSD| 35883770
- Khái niệm mâu thuẫn
Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất
và đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau. Đây là quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác căn bản với
quan niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu hình, mâu thuẫn là cái đối lập
phản lôgich, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.
- Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề
tồn tại của nhau
. Thí dụ, điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa
và dị hóa của một cơ thể sống, sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội,
chân lý và sai lầm trong quá trình phát triển của nhận thức, v.v…
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sinh vật.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn
Mâu thuẫn có tính khách quan : Mâu thuẫn là tự nó và được sinh ra từ sự vận động đấu
tranh của các mặt đối lập. Nó tồn tại độc lập bên ngoài ý thức, vận động và phát triển theo
những quy luật của chính nó.
Mâu thuẫn có tính phổ biến: Trong cả sự sống và tư duy, mâu thuẫn thường xuyên
nảy sinh và tự giải quyết. Mâu thuẫn trong sự sống: “ Một sinh vật trong mỗi lúc vừa là
nó nhưng vừa là cái khác… khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống không còn nữa và cái chết xảy đến…”
Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể
bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch
sử, cụ thể khác nhau. Các mâu thuẫn giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động
và phát triền của sự vật, hiện tượng, Đó là mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và
không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu,… Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu
thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
b) Quá trình vận động của mâu thuẫn: Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và
sự phát triển
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh
với nhau, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Các
mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn
gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan,
cũng không phải là mâu thuẫn trong lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong lôgich hình thức là sai lầm trong tư duy.
Sự thống nhất :
- Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Khái
niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời
nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. lOMoAR cPSD| 35883770
- Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố
giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý
nghĩa đó,” sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự “ đồng nhất” của các mặt đó.
- Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một
lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song
đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng
của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh:
- Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài
trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
- Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính
chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập
là tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất(…) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời,
thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng
như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
- Đấu tranh diễn ra ngay trong cơ thể thống nhất của sự vật, hiện tượng, Chính thế thống nhất
đó là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh diễn ra không ngừng. Chừng nào thể thống nhất đó chưa
bị phá vỡ thì đấu tranh giữa các mặt đối lập vẫn còn tiếp diễn. Đấu tranh làm cho thể thống
nhất cũ bị phá vỡ, thể thống nhất mới ra đời, đồng thời với nó là sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
- Đấu tranh là một quá trình diễn ra phức tạp, quá trình đó có thể chia thành nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng, thông thường lúc đầu các mặt đấu tranh chưa gay gắt
với nhau. Nhưng trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn
ra ngày càng gay gắt và quyết liệt. Cuối cùng, các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau trong
những điều kiện nhất định. Sự chuyển hóa các mặt đối lập diễn ra theo hai hướng:
+ Các mặt đối lập chuyển đổi vị trí cho nhau cùng phát triển
+ Các mặt đối lập cùng chuyển trang dạng mới cao hơn
Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới ; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
V.I. Lênin viết: “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên,
không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự
vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật .
Do đó mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
c) Phân loại mâu thuẫn lOMoAR cPSD| 35883770
- Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
d) Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự
vận động, phát triển, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn,
phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc,
khuynh hướng của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin đã cho rằng: “Sự phân đôi của cái
thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó… đó là thực chất… của phép biện chứng”.
- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải quyết
mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu
thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực
tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều
kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng
loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
- Phương pháp giải quyết mâu thuẫn: Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải
quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn.Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải
phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực
lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi.
Một mặt phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều kiện
khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác
nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu
thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể..
e. Liên hệ với công cuộc đổi mới ở nước ta
Như vậy, trong điều kiện lịch sử của thời kỳ quá độ, V. I. Lê-nin đã không ngừng làm phong
phú và phát triển học thuyết mác-xít về mâu thuẫn lên một tầm cao mới, xây dựng cơ sở khoa
học vững chắc cho đường lối lãnh đạo cách mạng của các đảng cộng sản trên thế giới. Đối với
Việt Nam, thực hiện bước quá độ gián tiếp là một con đường hoàn toàn mới nhưng “phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” (16). Do đó, cần có sự vận dụng
một cách sáng tạo học thuyết mác-xít về mâu thuẫn nói chung và những tư tưởng của V. I. Lê-
nin về nhận định và giải quyết các mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nói riêng vào điều kiện nước ta để tạo ra động lực nội tại to lớn, thúc đẩy nhanh quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phát triển vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ
thể trên một số vấn đề sau đây:
Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là
một tất yếu khách quan. Chối bỏ mâu thuẫn hiện thực, nuôi ảo tưởng về một thế giới không có
mâu thuẫn là xa rời thực tiễn. V. I. Lê-nin đã dạy: “tính chất biện chứng của sự phát triển xã
hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn” (17). Những mâu thuẫn tồn tại
trong nội bộ nhân dân là những xung lực trực tiếp để xã hội luôn luôn vận động và phát triển
đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu đúng bản chất, phân tích cụ thể. Thái độ đúng đắn đối với mâu lOMoAR cPSD| 35883770
thuẫn không phải là phủ nhận, tìm cách xóa bỏ nó một cách chủ quan mà phải nghiên cứu,
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, giải quyết kịp thời để thúc đẩy sự phát triển. Mâu
thuẫn xã hội chỉ có thể được giải quyết khi đã đến độ chín muồi và những điều kiện tồn tại
của nó không còn trong xã hội. Đó là một quá trình khách quan không phụ thuộc ý muốn chủ
quan của con người. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực thực sự của sự phát triển khi con người
nhận thức được nó và có cách giải quyết đúng đắn.
Thứ hai, cần nhận thức rõ ràng mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay. Đó là mâu thuẫn giữa
khuynh hướng tư bản chủ nghĩa với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Là mặt đối lập với
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa vừa tồn tại trong tàn dư của
xã hội cũ, vừa tồn tại trong các yếu tố mới hình thành trong công cuộc đổi mới. Mâu thuẫn cơ
bản ở nước ta hiện nay biểu hiện tập trung ở lĩnh vực chính trị là mâu thuẫn giữa chủ thuyết
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; giữa những
nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với âm mưu
và các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch...
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, mâu thuẫn cơ bản được biểu hiện tập trung giữa quá trình hoàn
thiện nền văn hóa tiên tiến, đàm đà bản sắc dân tộc với tình trạng tha hóa, xuống cấp về văn
hóa, đạo đức, lối sống trong xã hội; mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa tăng trưởng
kinh tế và mục tiêu tiến bộ công bằng xã hội;...
Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đó là mâu thuẫn
giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự lỗi thời, thiếu hoàn thiện của hệ thống tổ
chức, quản lý tương ứng; giữa mục tiêu từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu với tình
trạng phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất; giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
với nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái. Cùng với đó, ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại đa
dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế có lợi ích khác biệt. Tất nhiên, sự đối lập
đó chỉ có tính chất cục bộ, còn sự thống nhất là cơ bản, thể hiện ở tính chỉnh thể của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường “có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật...” (18).
Những nhận thức đó chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của V. I. Lê-nin về phương pháp
kết hợp các mặt đối lập. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân trong suốt thời
kỳ quá độ ở Việt Nam, về bản chất, là thừa nhận sự đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Song,
do nó vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển nên vẫn được xem là một động lực quan trọng của
nền kinh tế. Trên thực tế, sự vận dụng ấy đã và đang đem lại hiệu quả tích cực, góp phần to
lớn vào thành tựu của 30 năm đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, vận dụng tư tưởng của V. I. Lê-nin phải phân biệt rõ giữa mâu thuẫn đối kháng và
mâu thuẫn không đối kháng trong xã hội để xác định phương hướng giải quyết đúng đắn.
Trong xã hội nước ta hiện nay, các mâu thuẫn phổ biến thuộc về mâu thuẫn không đối kháng.
Đó là mâu thuẫn giữa các giai tầng, các nhóm xã hội có lợi ích cục bộ, tạm thời khác biệt. Để
giải quyết các mâu thuẫn ấy chủ yếu phải thông qua các biện pháp giáo dục, thuyết phục, thỏa
thuận, hợp tác... mà không cần đến sự trấn áp bằng sức mạnh bạo lực. Đặc biệt, đối với vấn đề
xây dựng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, việc nhận thức và giải quyết các mâu
thuẫn không đối kháng trên cơ sở thống nhất chung về lợi ích là một phương hướng hữu hiệu,
góp phần hoàn thiện nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - một động lực to lớn để phát triển xã hội. lOMoAR cPSD| 35883770
Bên cạnh đó, những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội ta không phải đã mất đi. Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hoàn toàn đối lập “một mất, một còn”
với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch cũng
hoàn toàn mâu thuẫn với sự nghiệp cách mạng nước ta. Do vậy, trong suốt thời kỳ quá độ,
cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng giữa các lực lượng đối kháng này chính là quá
trình giải quyết một cách triệt để các mâu thuẫn đối kháng.
Nhận thức sâu sắc các thuộc tính hợp thành mâu thuẫn biện chứng trong đời sống xã hội là
thành tựu khoa học vĩ đại của tri thức nhân loại gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Cùng với những cống hiến của V. I. Lê-nin, học thuyết mác-xít về mâu thuẫn được bồi
đắp, phát triển lên một tầm cao mới. Việc vận dụng, nhận định, phân tích, làm rõ các mâu
thuẫn xã hội ở Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp phần làm sâu sắc lý luận chủ
nghĩa Mác về mâu thuẫn trong đời sống xã hội, đặc biệt trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội./. Câu 8:
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính LS-XH của con người
nhằm cải biến tự nhiên và XH. Trong đó:
 HĐVC là HĐ con người tham gia vào, tác động vào thế giới nói chung với mục
đích duy trì sự tồn tại và phát triển của con người trong XH, sản xuất ra XH.
● Thực tiễn là phương thức cơ bản của HĐ, HĐ là thông điệp giữa con người và con vật.
 HĐ mang tính LS-XH vì gắn liền với môi trường quan hệ XH, vì HĐ có sự vận
động, phát triển. HĐ thực tiễn qui định cho tính chất khác nhau của các thời đại LS.
3 hình thức cơ bản của thực tiễn:
 HĐSXVC: là hình thức HĐ cơ bản, đầu tiên của thực tiễn,chi phối những HĐ thực
tiễn khác, là HĐ con người sử dụng những công cụ LĐ tác động vào thế giới tự nhiên để
tạo ra của cải VC nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
 HĐ chính trị XH: là HĐ của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong XH
nhằm cải biến những quan hệ chính trị XH để thúc đẩy XH phát triển.
 HĐ thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của HĐ thực tiễn, ngày càng có vai
trò quan trọng trong sự phát triển XH, đặc biệt trong thời kì CM khoa học và công nghệ
hiện đại. Đây là HĐ được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống,
giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và XH nhằm xác định những qui luật biến
đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu, giúp con người rút ngắn quá trình nhận thức,
nâng cao hiệu quả của LĐSX và cải tạo phục vụ XH.
 HĐ chính trị XH và HĐ thực nghiệm khoa học 1 mặt phục vụ cho HĐSXVC,
mặt khác kiềm hãm hoặc thúc đẩy HĐSXVC. Sự tác động qua lại này làm cho HĐ thực
tiễn vận động, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng đối với HĐ nhận thức. lOMoAR cPSD| 35883770
b. Nhận thức và các trình độ nhận thức
Nhận thức là 1 quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn , nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.
Chủ thể và khách thể là các yếu tố cơ bản của nhận thức. Khách thể nhận thức quyết
định chủ thể nhận thức.
Các trình độ nhận thức:
 Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận:
 Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp
các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, XH hay trong các thí nghiệm khoa học.Kết quả của
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
 Nhận thức lí luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống
trong việc khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng.
 Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận:
 Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lí luận.
 Nhận thức lí luận không hình thành 1 cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm.
Do tính độc lập tương đối của nó, lí luận có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm, hướng dẫn hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn
những kinh nghiệm hợp lí để phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
 Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học:
 Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự phát, trực
tiếp từ trong hoạt động hằng ngày của con người, phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả
những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Nó mang tính phong
phú và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hằng ngày nên có vai trò thường xuyên và
phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong XH.
 Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu diễn
ra dưới dạng trừu tượng, logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật khoa học. Nó
vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân
thực. Nó có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa
học và công nghệ hiện đại.
 Mối quan hệ giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học:
 Nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu
để xây dựng nội dung của các khoa học.
 Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó tác động trở lại nhận thức
thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát
triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới. lOMoAR cPSD| 35883770
 Tóm lại, nhận thức phải là 1 quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến
trình độ nhận thức lí luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học.
 Đi từ cảm tính đến lí tính.
c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, vì thực tiễn là điểm xuất phát trực
tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.
- Chính thông qua hoạt động thực tiễn nó luôn luôn nảy sinh nhu cầu mới thúc đẩy nhận
thực phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của nhận thức,chẳng hạn:từ nhu cầu chữa
trị các căn bệnh hiểm nghèo mà thúc đẩy nhận thức của con người khám phá ra bản đồ gen
người...,từ nhu cầu thực tiễn quan sát các vật bé nhỏ mà thúc đẩy nhận thức con người sáng
tạo ra các kính hiển vi.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận thức là nhằm phục vụ hoạt động
thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn.
-Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí, kiểm tra tính chân lí của quá trình nhận thức.
vì các tri thức của con người đc khái quát,tổng kết chưa chắc đã đúng do vậy các tri thức ấy
phải đc kiểm tra đối chứng
trong thực tiễn nếu đó là đúng thì đó là chân lý.
- Nhận thức giúp con người nâng cao giá trị sống, để nâng cao giá trị sống thì phải kinh qua thực tiễn.
Tuy nhiên, nhận thức cũng có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ với thực tiễn:
 Nhận thức giúp con người nắm bắt những thuộc tính, qui luật, bản chất của sự vật,
hiện tượng, từ đó đề ra những phương án để giải quyết nó.
 Nhận thức phản ánh đúng hiện thưc khách quan, tác động vào hiện thực, cải tạo hiện
thực, nếu phản ánh sai hiện thực khách quan thì sẽ ngăn cản quá trình cải tạo hiện thực.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn.
Mọi nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lí luận phải liện hệ thực tiễn (vì thế học
phải đi đôi với hành). Không nên tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn hay vai trò của nhận thức.
Phát huy vai trò của nhận thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại
khoa học công nghệ hiện nay. Thực tiễn mà không có lí luận khoa học sẽ là thực tiễn mù
quáng. Trong hoạt động Đảng, xa rời thực tiễn sẽ mắc bệnh giáo điều, máy móc, quan liêu.
Tóm lại nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lí luận là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
thực tiễn và hoạt động lí luận.
Do vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và tác động trở lại của nhận thức đối với thực lOMoAR cPSD| 35883770
tiễn, triết học Mác Lênin đề ra nguyên tắc thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn, trong đó
thực tiễn có ý nghĩa quyết định.
Tuy nhiên, có lúc thực tiễn mâu thuẫn với nhận thức. Khi nhận thức không phù hợp với thực
tiễn, ta phải thay đổi nhận thức. Ta phải xuất phát từ hiện thực vì thực tiễn cao hơn nhận thức
và lí luận, nhưng không hạ thấp vai trò nhận thức mà phải tạo điều kiện thúc đẩy nhận thức
làm nhận thức phù hợp xu thế hoạt động của thực tiễn.
Câu 9: Con đường biện chứng từ nhận thức đến chân lí
Câu trả lời có ba ý lớn
1) Quan điểm của V.I.Lêninvề con đường biện chứng của nhận thức chân lý.“Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Như vậy, nhận thức là sự
phản ánh thế giới được thực hiện trên cơ sở thực tiễn và con đường biện chứng của nhận thức
gồm hai giai đoạn kế tiếp, bổ sung cho nhau.
2) Các giai đoạn của quá trình nhận thức
a) Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét
đặc trưng cơ bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với
thực tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Những thành phần của nhận thức cảm tính
+) Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các
giác quan của con người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng
lẻ của sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác là thế giới khách quan, còn
bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+) Tri giác là sự tổng hợp (sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau) của nhiều cảm giác riêng biệt vào
một mối liên hệ thống nhất tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
+) Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác
quan và đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin
của não người. Đây là nấc thang cao và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính; là
hình ảnh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng được lưu lại trong não người và
do tác động nào đó được tái hiện lại khi sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm
tính. Trong biểu tượng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và với biểu
tượng, con người đã có thể hình dung được sự khác nhau và mâu thuẫn nhưng chưa nắm được
sự chuyển hoá từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.
Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là nhận thức “bề
ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà đã có “chất”. Tuy vậy, giai đoạn trực quan sinh động chưa
đưa lại nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự vật, hiện tượng; các nấc thang khác nhau của
giai đoạn này trong quá trình nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất sự vật, hiện tượng.
b) Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ những lý luận
truyền lại. Nhận thức lý tính phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận lOMoAR cPSD| 35883770 thức.
Những thành phần của nhận thức lý tính
+) Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm vừa có tính khách quan,
vừa có tính chủ quan khi phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất và
chung nhất của sự vật, hiện tượng nhờ sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin đã
thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
Các thông tin, tài liệu đó càng nhiều, càng đa dạng thì các khái niệm cũng ngày một nhiều và
giữa chúng có các mối liên hệ qua lại với nhau trong sự vận động, phát triển không ngừng dẫn
đến sự hình thành những khái niệm mới, phản ánh sâu sắc hơn về bản chất của sự vật, hiện tượng.
+) Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ
định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức của con người tạo nên
vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan. Có ba loại
phán đoán cơ bản là phán đoán đơn nhất; phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến, trong đó
phán đoán phổ biến là hình thức diễn đạt tương đối đầy đủ các quy luật.
+) Suy luận (suy lý) là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri
thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề (suy
luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán đoán mới). Suy luận có vai trò
quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi nó thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã
biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết. Có thể nói rằng, đa số các ngành khoa học được
xây dựng trên hệ thống suy luận và nhờ đó, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn hiện thực khách quan. Tuỳ thuộc vào tính chất của mối liên hệ giữa các phán đoán tiên
đề với phán đoán kết luận mà suy luận có thể là suy luận quy nạp hoặc suy luận diễn dịch.
Trong các suy luận quy nạp, tư duy vận động từ cái đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến;
trong các suy luận diễn dịch tư duy đi từ cái chung đến cái ít chung hơn và đến cái đơn nhất.
Cũng như khái niệm và phán đoán, các loại suy luận đều biến đổi, có liên hệ qua lại với nhau
theo tiến trình phát triển của nhận thức.
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương pháp trừu tượng và
khái quát hoá các thông tin, tài liệu do trực quan sinh động và tư duy trừu tượng các thế hệ
trước để lại, tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn; phản ánh được những thuộc
tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Sự phân chia quá trình nhận thức như trên chỉ là sự trừu tượng quá trình vận động của nhận
thức; còn trên thực tế, nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và các nấc thang của chúng luôn
đan xen nhau và thực tiễn là cơ sở của toàn bộ quá trình nhận thức đó.
3) Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức
a) Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy
có những sự khác biệt về mức độ phản ánh hiện thực khách quan, nhưng giữa hai quá trình đó
có sự liên hệ, tác động qua lại. Trên thực tế, nhận thức lý tính không thể thực hiện nếu thiếu
tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại. Nhận thức cảm tính là cơ sở tất yếu của tư duy trừu lOMoAR cPSD| 35883770
tượng và ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính xác hơn.
b) Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận thức thế giới
khách quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động và tư duy trừu tượng được thực hiện
trên cơ sở thực tiễn, do thực tiễn quy định. Trong đó, trực quan sinh động là điểm khởi đầu, tư
duy trừu tượng tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành các kết quả của nhận
thức và thực tiễn là nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các kết quả của nhận thức đó. Đó
chính là con đường biện chứng của nhận thức.
c) Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức ở giai đoạn cảm tính gắn
liền với thực tiễn, gắn liền với sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức lên các giác quan
của chủ thể nhận thức. Nhận thức ở giai đoạn lý tính đã thoát khỏi sự tác động trực tiếp của
khách thể nhận thức để có thể bao quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận thức ở giai đoạn này
nhất thiết phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh nhằm tránh nguy cơ trở thành ảo
tưởng, viển vông, không thực tế. Đó là thực chất của mệnh đề “từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
d) Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi đến tư duy
trừu tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc
của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình
nhận thức mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho nhận
thức của con người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách
quan, phục vụ cho hoạt động biến đổi thế giới.
e) Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức được giải quyết thì lại
xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi lần giải quyết mâu thuẫn của nhận thức là một lần nhận thức
được nâng lên trình độ mới, chính xác hơn. Quá trình giải quyết mâu thuẫn của nhận thức
cũng là quá trình loại bỏ dần những nhận thức sai lầm đã phạm phải. Kết quả của quá trình đó
là hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính bản chất, có nội dung khách quan hơn và
cụ thể hơn. Trong quá trình đó không ngừng nảy sinh, vận động và giải quyết các mâu thuẫn
của nhận thức để tạo ra các khái niệm, phạm trù, quy luật nhằm phản ánh đúng bản chất của
thế giới vật chất đang vận động, chuyển hoá và phát triển không ngừng. 4. Ý nghĩa PPL
- Quá trình nhận thức chân lí phải đi từ thấp đến cao, không được tuyệt đối hóa giai đoạn nào.
- Không được đề cao thực tiễn, hạ thấp vai trò của lí luận vì như thế sẽ rơi vào chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa kinh nghiệm và ngược lại, không được đề cao lí luận đến mức xa rời thực
tiễn, rơi vào bệnh chủ quan duy chí. Thực tiễn không có lý luận trở thành thực tiễn mù quáng,
lý luận không có thực tiễn là lý luận suông.
- Đổi mới tư duy gắn liền với hoạt động thực tiễn là một trong những chủ trương lớn hiện nay
của Đảng ta. Chỉ có đổi mới tư duy lí luận, gắn lí luận với thực tiễn thì mới có thể nhận thức
được các quy luật khách quan và trên cơ sở đó, đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Câu 10: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng lOMoAR cPSD| 35883770 sản xuất
a) Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
- Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục đích nhất
định và được tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành đó chính là
phương thức sản xuất. Vậy, khái niệm phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách
thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
- Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về
người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao động) cùng các tư liệu sản
xuất
nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình
sản xuất,…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình
sản xuất. Như vậy, lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của
quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất
làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm
biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và
xã hội. Cũng do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục
giới tự nhiên của con người.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, “ người lao động” là nhân tố giữ vai
trò quyết định. Mặc khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản
ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con
người chinh phục giới tự nhiên.
Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng, trực tiếp các thành tựu
của khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao vào quá trình sản xuất đã khiến cho các tri thức khoa
học kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; tri thức khoa học, kỹ thuật,
công nghệ có được nhờ những quá trình nghiên cứu khoa học đã ngày càng trở thành những
nhân tố quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển và từ đó dẫn đến sự hình thành những nhân tố cơ bản nhất của xu hướng
phát triển kinh tế tri thức.
Lực lượng sản xuất chính là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của
quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu thiếu một
trong hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản
xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được mà còn cần phải có những
quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế xã hội của quá trình sản xuất ấy.
- Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối
kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ
thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
b) Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan
hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
lOMoAR cPSD| 35883770
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình
sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn
quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế xã hội của quá trình đó. Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau, tạo thành qui
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây
là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
+ Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Hay nói cách khác, mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ
thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất
trong mỗi giai đoạn lịch sử xác
định. Bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, còn
lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Ở trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều
tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện
sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực
lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Tính ổn định, phù hợp của quan
hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng
phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo khả năng phá
vỡ sự thống nhất của nó với quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến
thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới
của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất qui định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản
xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ, v.v. Quan hệ sản xuất hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không
phải giản đơn. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã
hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất hiện thực, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của quá
trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến
những khác biệt và đối lập, xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được
giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. lOMoAR cPSD| 35883770
- Trong phạm vi phân tích sự phát triển xã hội, mâu thuẫn và sự vận động của mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản của “quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Sự tác động của
quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của
nền sản xuất vật chất và do đó là sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận
động, phát triển của lịch sử nhân loại từ phương thức sản xuất thấp lên phương thức sản
xuất cao hơn; nó cũng là cơ sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của
toàn bộ các hiện tượng xã hội và các sự biến trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng
đồng người trong lịch sử. c) Ý nghĩa PPL
Quy luật này là quy luật cơ bản nhất:
Ví nó tác động đến sự thay đổi của PTSX, tức là thay đổi kinh tế, mà kinh tế thay đổi
sẽ làm chính trị thay đổi, xã hội thay đổi, đời sống vật chất thay đổi, kéo theo đời sống tinh
thần cũng thay đổi. Các thời đại khác nhau là khác nhau ở phương thức sản xuất, muốn có
thời đại mới tốt đẹp hơn, cao cả hơn phải có phương thức sản xuất cao hơn, mang lại năng suất cao hơn.
Quy luật phổ biến nhất:
Vì nó tác động từ khi loài người xuất hiện đến nay và mãi về sau. Phổ biến vì nó tác
động đến mọi hình thái kinh tế xã hội, bất cứ xã hội nào, quy luật này đều tác động đến nên
gọi là phổ biến, phổ biến vì lúc nào cũng có và nó chi phối những cái khác.
Vì LLSX quyết định QHSX đối với quá trình sản xuất xã hội, cho nên trong hoạt động
thực tiễn cần coi trọng vị trí, vai trò của LLSX đối với QHSX. Muốn thúc đẩy quá trình sản
xuất xã hội cần phải phát huy vai trò của LLSX; cần phải ưu tiên, mở đường cho LLSX phát triển tối đa.
Vì QHSX có sự tác động tích cực trở lại đối với LLSX (thể hiện thông qua sự phù hợp
và không phù hợp với trình độ LLSX) trong quá trình sản xuất xã hội, cho nên không được
xem thường, bỏ qua vai trò này và cần phải biết phát huy vai trò của QHSX nhằm tạo điều
kiện, môi trường thuận lợi cho LLSX phát triển.
Vì giữa LLSX và QHSX tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa đấu tranh lẫn
nhau, cho nên cần phải tôn trọng quy luật này. Việc tôn trọng quy luật giúp chúng ta chủ động
trong việc giải quyết mối quan hệ cũng như có những biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy quá
trình sản xuất xã hội phát triển.
d) Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng CNXH
* Trước thời kỳ đổi mới
Chúng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan khi không
tính đến điều kiện của một đất nước với nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển với LLSX còn
thấp, nhưng lại chủ trương xây dựng QHSX tiên tiến đi trước nhằm mở đường cho LLSX
phát triển, xác lập kiểu “QHSX xã hội chủ nghĩa thống trị” dựa trên chế độ công hữu là sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chính sự nhận thức và vận dụng sai lầm đó đã được Đại hội
lần thứ VI của Đảng năm 1986 chỉ rõ: một trong những nguyên nhân cơ bản của sự khủng
hoảng kinh tế xã hội nói chung, của sự kìm hãm LLSX phát triển nói riêng trong những năm
1976 - 1980 là do trong nhận thức và hành động, “chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm
vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX”.
* Trong quá trình đổi mới
Trong khi tiến hành CNH-HĐH đất nước, đặc biệt là qua 10 năm thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã từng bước nhận thức và vận dụng quy luật
này ngày càng rõ và đúng đắn hơn. Đó là chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường có sự lOMoAR cPSD| 35883770
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu; nhiều
thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy đã góp phần quan trọng để “đạt được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng…, đạt bước phát triển mới cả về LLSX, QHSX”. Xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển
chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với
yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN trong điều kiện của trình độ
phát triển LLSX đa dạng, không đồng đều. Chính vì vậy, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là
phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Mặt khác, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy cao độ nội lực,
tranh thủ tối đa ngoại lực, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức đúng yêu
cầu đó, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách, biện
pháp thực hiện CNH-HĐH để phát triển LLSX như: xác định rõ vị trí, vai trò của các thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng củng cố và
phát triển, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển…, tạo cơ sở củng cố, từng bước hoàn thiện QHSX mới.
Mục đích của việc xây dựng QHSX, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong
quá trình CNH, HĐH là nhằm khai thác các lợi thế tiềm năng trong và ngoài nước, các thành
phần kinh tế vào phát triển kinh tế xã hội, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể khẳng định, đó là
thành tựu nổi bật nhất của sự nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Câu 11: cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, vận dung
a) Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Khái niệm cơ sở hạ tầng
Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ
cấu kinh tế của xã hội.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó, được tạo nên bởi các
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới
hình thái mầm mống, đại biểu cho sự phát triển của xã hội tương lai, trong đó quan hệ sản
xuất thống trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát
triển của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất định.
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình
thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một
cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý thức chính
trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết chế, lOMoAR cPSD| 35883770
tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội
trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ chức
đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để quản lý, điều khiển mọi hoạt động của xã hội và
công dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã hội cùng chức năng đối nội và đối
ngoại của quốc gia. Về thực chất, bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ quyền lực thực hiện
chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị, tức giai cấp nắm giữ được những tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước.
b) Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội
– đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan
hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò
quyết định đối với kiến trúc thượng tầng và đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên
có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
+ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được
thể hiện trên nhiều phương diện: tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một
kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.
+ Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự
biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng.
Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ
thống kiến trúc thượng tầng. Sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột
lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích
trong cơ sở kinh tế của xã hội. Giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội
đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong kiến trúc thượng tầng, còn
các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở vào địa vị phụ thuộc đối với quyền lực nhà nước. Các
chính sách và pháp luật của nhà nước, suy đến cùng chỉ là phản ánh nhu cầu thống trị về
kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, .v.v…
Như vậy, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng là sự
phản ánh đối vối cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng.
- Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển của
kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và
thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội.
Sư tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều
phương thức. Điều này tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng,
phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện
kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức tác động của các yếu tố khác tới
cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua nhân tố nhà nước và pháp luật mới có thể
thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố có tác động trực
tiếp nhất
mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.
Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo nhiều xu
hướng, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập nhau, điều lOMoAR cPSD| 35883770
đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và
đối lập nhau: có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế
độ xã hội hiện thời, lại có sự tác động theo xu hướng xóa bỏ cơ sở kinh tế này và có xu
hướng đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội khác, …
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo xu
hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp của các
yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng dù diễn ra với
những xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau nhưng rốt cuộc nó không thể giữ vai trò
quyết định đối với cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội; cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội vẫn
tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.
c. Đảng CSVN đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này như thế nào vào quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Lịch sử xã hội loài người đã trãi qua 4 hình thái KTXH, đó là : chế độ công sản nguyên
thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đang trãi qua
thời kỳ quá độ của CNXH, giai đoạn đầu tiên của CNCS. Mác cho rằng không phải quốc gia,
dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch
sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào đó có
thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã
hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch
sử. Tuy nhiên, phát triển rút ngắn đòi hỏi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan
mới có thể thực hiện được. Lê-nin cũng đã nói con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể
có những hình thức khác nhau; điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Theo người, hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ CNTB lên
CNXH; còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa đi lên CNXH. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo
ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất và do vậy, về thực
chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất

Dựa vào học thuyết của Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận dụng
những lý luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chọn lựa con đường phát triển rút ngắn
- tức là đi lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sự chọn lựa đó dựa
trên những yếu tố khách quan và chủ quan như sau :
Về khách quan, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm
vi toàn thế giới và theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
Văn kiện Đại hội IX đã chỉ rõ mặc dù trước mắt CNTB vẫn còn tiếp tục phát triển nhưng nó
không giải quyết được mâu thuẩn cơ bản giữa quan hệ sản xuất đã lạc hậu với lực lượng sản
xuất phát triển mạnh, từ đó làm cho lực lượng sản xuất chưa phát triển đúng với tiềm năng
của nó, dẫn đến những suy thoái kinh tế tất yếu xảy ra và cùng với nó là sự khủng hoảng về
chính trị. Bỡi lẽ, phương thức sản xuất TBCN làm cho quy mô của các công ty tư bản sẽ ngày
càng lớn do hệ quả của các cuộc khủng hoảng kinh niên và mang tính tàn phá của nền kinh tế
tư bản. Cùng với chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng sâu sắc, sự
phân hóa giàu nghèo được đẩy tới đỉnh điểm. Ở đây của cải ngày càng tập trung vào một số
nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối lập là những người sống dưới mức
nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển và đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở các
nước tư bản đang phát triển. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa
là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức là vàng bạc hay tiền tệ), làm cho lòng
thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở đó được đẩy tới cực độ.
Hệ quả của thực tế đó chắc chắn sẽ đúng như sự tiên đoán của C. Mác: "cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản lOMoAR cPSD| 35883770
phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sinh ra những
người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản
đều tất yếu như nhau".
Mặt khác, thế kỷ XXI là thế kỷ khoa học và công nghệ có những bước nhảy vọt, kinh tế
trí thức ngày càng có vai trò nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá trình lực lượng sản xuất của
các quốc gia. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đối với mọi nước, nhất là
các nước đang phát triển, vừa là thời cơ vừa là thách thức. Đối với nước ta, thời cơ lớn hơn
thách thức. Chúng ta chẳng những có khả năng tiếp cận những tiến bộ KHKT, tranh thủ nắm
bắt và vận dụng những thành tựu khoa học và công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng
lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người để nhanh chóng xây dựng lực
lượng sản xuất hiện đại
mà còn có khả năng tạo ra thời cơ nếu ta có đường lối đúng, có bản
lĩnh để thực hiện đường lối đó.
Trong thời gian qua nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như:
tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng
của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. Cơ cấu của từng ngành cũng có sự
chuyển dịch dần theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh hơn đối với thị trường trong và ngoài
nước. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng , các nguồn lực trong xã hội
được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có
tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên.
Về chủ quan, Qua hơn 20 năm thực hiện những nội dung đối mới đó, nền kinh tế nước ta
đã có những bước chuyển tích cực trong việc xây dựng nền tảng cơ sở vật chất cho CNXH.
Tăng trưởng kinh tế nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, mở rộng quan hệ quốc
tế. Tỷ lệ đói nghèo giảm với khoảng 25 triệu người thoát khỏi đói nghèo. Song song với sự
thành tựu về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng bắt đầu từ việc đổi mới về chính
trị. Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ một bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh
đạo đúng đắn. Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc điều hành và quản lý đất nước.
Chúng ta đã có bài học của ba mươi năm lãnh đạo xây dựng kinh tế trong hòa bình với tư
cách của một Đảng cầm quyền duy nhất của một nước có gần 90 triệu dân vốn cần cù, thông
minh và giàu nghị lực sáng tạo. Đó là những yếu tố chủ yếu đảm bảo sự thành công cho sự nghiệp xây dựng CNXH
Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiển với tư duy quan điểm mới Đảng ta đã nhìn nhận vấn
đề bỏ qua “giai đoạn” hay “thời kỳ” đơn thuần là rút ngắn thời gian trên cơ sở có được những
điều kiện, thời cơ và tiền đề vật chất quan trọng nhất đó là sự phát triển của LLSX và sự
trưởng thành của giai cấp vô sản. Cụ thể hoá nội dung “bỏ qua”, đại hội ĐBTQ lần IX của
Đảng đã nêu rõ :”Bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX
và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền KT
hiện đại”. Nghĩa là chúng ta thừa nhận sự tồn nền KT nhiều thành phần theo định hướng
XCHN. Có tiếp nhận, cải tạo các quan hệ sản xuất cũ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát
huy mọi thành phần kinh tế, nâng sức sản xuất của XH, tạo ra thật nhiều sản phẩm phong phú
có sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời thông qua sự nghiệp CNH-HĐH – đây là nội
dung mang tính quyết định và đột phá nhằm nâng tầm về chất của LLSX và xây dựng LLSX
cần thiết cho chế độ mới. Sự nghiệp CNH phải đi đôi với HĐH nghĩa là trong xu thế tất yếu
của toàn cầu hoá kinh tế và trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay
chúng ta tiếp tục đường lối kinh tế đối ngoại rộng mở, hoà nhập đi trước đón đầu, mở cửa
hiện đại hoá ra bên ngoài tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại của nhân loại, chú trọng
phát triển kinh tế theo chiều sâu đó là xây dựng LLSX phát triển với thiết bị hiện đại, công
nghệ hàng đầu, đặc biệt là đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn hoá cao là điều
kiện cần thiết để nền KT phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả.
Tóm lại ”XD CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu lOMoAR cPSD| 35883770
dài với nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế XH có tính chất quá độ” là quan
điểm đúng đắn của Đảng ta trong việc vận dụng một cách hiệu quả mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, phù hợp với tình hình đất nước. Phù hợp với tiến
trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển xã hội.
Câu 12: Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. sự vận dụng của đảng ta đối với vấn đề này
Mác-Ăngghen, Lê nin luôn luôn nhấn mạnh vai trò sản xuất vật chất xã hội trong quá
trình phát triển của nhân loại, đặc biệt là sự phát triển của LLSX, nhưng không bao giờ xem
nhẹ vai trò của tính tích cực của con người và kiến trúc thượng tầng. Từ tiếp cận hiện thực của
mối quan hệ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần XH , để XH phát triển theo quy luật
tự nhiên, cần nhận thức khách quan khoa học nguồn gốc, động lực của sự phát triển, và nhất
thiết phải thủ tiêu mọi kìm hãm về xã hội, giai cấp, dân tộc để động lực XH trong LLSX luôn
phát triển. Nếu chúng ta thấm nhuần sâu sắc, biện chứng quá trình vận động của từng HT KT-
XH cũng như quá độ của một HT KT-XH này đến một HT KT-XH cao hơn thì chắn chắn dễ
tiếp thu việc phát triển KT nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN. Vì
chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh dạy chúng ta lấy sự phát triển LLSX, nâng cao
đời sống với nhân dân lao động làm mục đích cao nhất, đó là quy luật, động lực phát triển của
XH Việt Nam trongf thời kỳ quá độ.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và những quy
luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, nhận thức đúng
đắn bản chất của ý thức xã hội và sự chuyển hóa từ tư tưởng thành hiện thực trong đời sống
xã hội có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu lịch sử xã hội loài người. Trên cơ sở nghiên cứu, vận
dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong phương hướng đổi
mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát triển văn
hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường xã hội
”.
a. Khái niệm TTXH và YTXH:
Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương tiện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội bao gồm 3 yếu tố cơ bản tạo thành:
 Phương thức sản xuất vật chất
 Các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên-hoàn cảnh địa lý  Dân cư.
Các yếu tố này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng , tác động lẫn nhau tạo
thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội . Trong đó, phương thức SXVC là yếu tố quan trọng nhất.
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của XH nảy
sinh từ TTXH và phản ánh TTXH trong những giai đoạn phát triển nhất định.
YTXH được thể hiện thông qua cá nhân, được cụ thể hóa trong từng cá nhân.Ý thức cá
nhân là nền tảng để thể hiện YTXH, nhưng ý thức cá nhân không phải là YTXH mà chỉ là bộ phận của YTXH. YTXH bao gồm:
 Ý thức đời thường: mang tính trực tiếp, tự phát, hiện tượng,phong phú, dễ nhận thức
vì là sự phản ánh trực tiếp trong cuộc sống đời thường.
 Ý thức lí luận: mang tính gián tiếp, tự giác, bản chất, ổn định, nhận thức thông qua lOMoAR cPSD| 35883770 học tập.
Khi ý thức đời thường và ý thức lí luận thâm nhập vào đời sống XH thì trở nên bền vững.
YTXH phản ánh ý thức của các tầng lớp trong XH nên tính giai cấp là quan trọng, ngoài ra
YTXH còn mang tính dân tộc. Đôi khi tính DT vượt tính GC, xóa bỏ mâu thuẫn trong GC.
Khi lợi ích của các GC đạt được thống nhất thì các GC chung YTXH.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa TTXH và YTXH:
Giữa TTXH và YTXH có mối quan hệ biện chứng với nhau . Tồn tại xã hôị quyết định
YTXH nhưng YTXH cũng có tính độc lập tương đối và tác động lại TTXH . Trứơc hết ta xét
tính quyết định của TTXH đối với YTXH lên hai phương diện cơ bản :
 YTXH là sự phản ánh đối với hiện thực khách quan nên TTXH như thế nào thì YTXH như thế ấy.
VD: C.Mac và Ph.Ănghen đã chứng minh rằng , đời sống tinh thần của XH hình
thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất , không thể tìm được nguồn gốc của tư
tưởng , tâm lý XH trong đầu óc con người , mà phải tìm trên hiện thực vật chất . Chẳng hạn ,
trong XH công xã nguyên thuỷ do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém , mọi người
còn làm chung , hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện .Nhưng khi chế độ công
xã nguyên thuỷ tan rã , quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời , xã hội phân chia giàu
nghèo , bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản , nảy sinh và phát triển hệ
tư tưởng tư hữu , ăn bám , bóc lột, chủ nghĩa cá nhân , tư tưởng chủ nô ra đời.
 Sự biến đổi của YTXH có nguyên nhân căn bản từ sự biến đổi và phát triển của
phương thức sinh tồn , phát triển của TTXH. Trong đó quan trọng nhất là sự phát triển và biến
đổi của phương thức sản xuất- đó là phương thức sinh tồn cơ bản nhất của con người, của một xã hội nhất định.
Khi khẳng định vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH , chủ nghĩa duy vật lịch sử
không xem ý thức XH như một yếu tố thụ động , trái lại còn nhấn mạnh , tác động tích cực
của YTXH đối với đời sống KT-XH, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của YTXH trong mối
quan hệ với TTXH được biểu hiện ở những điểm sau:
 YTXH thường lạc hậu so với TTXH: nguyên nhân của đăc điểm này là do YTXH bao
giờ cũng đi sau TTXH, YTXH môṭ khi đã trở thành những tâp quán, tâp tục, tâm lí… thì rất
khó xóa bỏ. Măṭ khác, YTXH càng khó xóa bỏ hơn khi nó gắn liền với những giai cấp, tầng
lớp lạc hâu không muốn xóa bỏ nó.
 YTXH có thể vượt trước TTXH : Đó là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể
vượt trước sự phát triển của TTXH , dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, những tư tưởng tiến tiến này không thoát ly
TTXH mà gắn chăṭ với TTXH.
 YTXH có sự kế thừa trong phát triển : Kế thừa ở đây là sự tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hoá của cha ông , tiếp thu những yếu tố đặc trưng phù hợp với thực tiễn và loại lOMoAR cPSD| 35883770
bỏ những cái cũ không còn phù hợp nữa . Sự kế thừa thực hiện tính tự giác thông qua lợi ích
của các lực lượng giai cấp phản ánh nó .
VD: Chẳng hạn như để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày nay C.Mac,
Ănghen đã kế thừa phép biện chứng của Heghen và chủ nghĩa duy vật của Feurback nhưng
cũng đồng thời loại bỏ những tư tưởng không phù hợp .
 Sự tác động lẫn nhau của các hình thức YTXH: Trong giai đoạn lịch sử nhất định, một
hình thái YTXH ưu trội vượt lên trên, tác động , chi phối vào các hình thái YTXH khác.
VD: Vào thời kỳ cổ đại ở phương Tây xuất hiện tư tưởng triết học . Trong thời điểm này
, triết học là hình thức ưu trội , nó thấm sâu, vận hành các hình thức YTXH khác… Ngày nay
thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực khác của đời sống tinh thần XH .
 Sự tác động trở lại của YTXH với TTXH: Sự tác động của YTXH với TTXH biểu
diễn qua hai chiều hướng. Nếu YTXH tiến bộ thì thúc đẩy TTXH phát triển, nếu YTXH lạc
hậu sẽ cản trở sự phát triển của TTXH.
c. Ý nghĩa phương pháp luâṇ :
Để xây dựng đất nước phát triển , ta phải kiên toàn phương thức sản xuất, phát triển văn
hoá (góp phần nâng cao TTXH). Khi đó sẽ làm YTXH phát triển, và đương nhiên đưa XH phát triển.
Ta phải xoá bỏ mọi tàn dư , lạc hậu của xã hội, kế thừa những giá trị tích cực làm nên nền
móng cho sự phát triển xã hội . Ta tiếp thu văn minh thế giới dựa trên nền tảng văn hoá dân tộc. D. Vận dụng
Từ cơ sở lý luận trên, trong công cuộc cải cách đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát triển
văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường xã hội

Đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội này của Đảng xuất phát từ nhận thức rõ
vai trò quyết định của kinh tế đối với ý thức xã hội. Trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hóa - hiện đại
hóa là nhiệm vụ trung tâm. Để thực hiện được nhiệm vụ này và bảo đảm sự phát triển toàn
diện của xã hội thì đi đôi với tăng trưởng kinh tế phải phát triển văn hóa và giáo dục nhằm
phát huy mọi nguồn lực tinh thần của người Việt Nam.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội VII chỉ rõ : phải kết hợp hài hòa
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của nhân dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện tốt chính sách xã hội,
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, với vai trò là nguồn gốc sản sinh ra ý thức xã
hội, nền kinh tế phát triển mạnh tạo điều kiện và là tiền đề cho việc lành mạnh hóa các
QHSX, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của từng gia đình và của cả dân tộc.
Đại hội IX của Đảng cũng đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở nước ta là “Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò lOMoAR cPSD| 35883770
chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân”. Nó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư tưởng cũ
vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân hiện
nay vẫn còn đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều
hướng phát triển của xã hội, là nguyên tố quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất
nước. Tính tích cực năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh
vực xã hội, được phát huy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái lòng yêu nước ý thức tự hào
tự tôn dân tộc truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp tục giữ gìn và phát
huy. Tuy nhiên, Hiện nay nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp, một mặt nền kinh tế thị trường
vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhưng mặt khác nó
lại vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội đặc biệt là về
tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận thức và tình
trạng suy thoái về đạo đức lối sống cũng khá phổ biến. Sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng
chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ - Đảng viên chưa được
ngăn chặn hình thức phai nhạt lý tưởng cách mạng sa sút phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham
nhũng lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực dụng có chiều hướng phát triển.
Những mặt tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn liên quan sự mất còn của Đảng, của chế độ.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao tính chất đạo đức cách mạng
và mục tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng cần đạt được là xây dựng nền văn hóa
mới và con người mới XHCN. Để thực hiện hai nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là : nhiệm
vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm vụ cấp bách về văn hóa là xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc : “Hướng mọi hoạt động văn hóa vào việc xây
dựng con người VN phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất,
năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, lối
sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong giáo dục, cộng đồng và xã hội
” và nêu cao tinh thần
trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối sống văn hóa
làm cho gia đình thật sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; ngăn chặn việc phục hồi các
thủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong xã hội
“(VK 9 trang
114-116). Mặt khác, trong công cuộc tiến hành cách mạng tư tưởng văn hóa, xây dựng con
người mới và nền văn hóa mới, ta phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn
minh, những di sản quý giá do loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu văn hóa, khoa học
hiện đại đồng thời cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu giai cấp
trong việc kế thừa di sản để lại
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế gắn
liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp nhân
dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa trong
lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất
cho việc xử lý các vấn đề xã hội. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết
được tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Do đó,
trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và
khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn hóa, giáo dục đào tạo, chăm
lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư tưởng
bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc
thực hiện phân phối công bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách
bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc
chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào
đoàn kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền thống “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái
đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa chống tham nhũng, bất công xã hội nghiêm trọng hiện lOMoAR cPSD| 35883770
nay. Cải cách chế độ tiền lương để người lao động hăng hái làm việc đủ sống và nâng cao
mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã hội tốt đẹp trong khi kinh tế
nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta
phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đảng đã
xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và phát triển
mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là điều kiện đảm bảo sự thành công và
bền vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới . Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắt bệnh chủ
quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật
và cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế ;về việc sử dụng các thành phần kinh tế ….
Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết đó là lực lượng sản xuất còn nhỏ bé , chưa phát triển
, còn chủ yếu là sản xuất nhỏ , lạc hậu , kinh tế hàng hoá chưa phát triển . Chúng ta chỉ muốn
đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính
đến điều kiện thực tế của đất nước .
Trong bố trí cơ cấu kinh tế ,trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư , thường chỉ xuất phát từ
mong muốn đi nhanh , không tính đến điều kiện và khả năng thực tế đề ra những chỉ tiêu kế
hoạch hoá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất .
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã có hiện tượng nóng vọi
muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa , nhanh chống biến kinh tế tư
bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là phải duy trì thực hiện phát triển các thành
phần kinh tế theo từng bước đi thích hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian
tương đối dài để phát triển lực lượng sản xuất .
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu ,yếu kém về lý luận ,do
tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp .
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất
phát từ thực tế ,tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan . Năng lực nhận thức và hành
động theo qui luật là điều kiên đảm bảo sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng ” (VKĐH 6, trang 30 ).
Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng ,phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật
chất , của các qui luật tự nhiên và xã hội , không được xuất phát từ ý muốn chủ quan . lOMoAR cPSD| 35883770