Đề cương giáo dục học - Giáo dục học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Môi trường là toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiện hữu ảnh hưởng lớn lao đến đời sống và nhân cách con người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ CƯƠNG GIÁO DỤC HỌC
1. Vai trò của yếu tố môi trường đến sự phát triển nhân cách
a. Khái niệm môi trường:
- Môi trường là toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiện hữu ảnh hưởng lớn
lao đến đời sống và nhân cách con người. Môi trường bao quanh con người gồm
môi trường tự nhiên môi trường hội. Môi trường tự nhiên gồm khí hậu,
đất nước, sinh thái môi trường hội, đó các điều kiện về kinh tế, chính
trị, văn hóa…
- Hoàn cảnh được hiểu một yếu tố hoặc một môi trường nhỏ hợp thành của
môi trường lớn, môi trường nhỏ tác động trực tiếp, mạnh mẽ, quyết liệt trong
một thời gian, không gian nhất định tạo nên hướng hình thành phát triển
nhân cách.
b. Vai trò của môi trường
- Mỗi một người ngay từ khi sinh ra đã phải sống trong một môi trường, hoàn
cảnh nhất định, thể gặp thuận lợi hoặc khó khăn đối với quá trình phát triển
thể chất, tinh thần của nhân. Tuy nhiên chính nhờ môi trường hội loài
người mà mỗi đứa trẻ mới hình thành phát triển các nét nhân cách người.
- Môi trường tự nhiên và xã hội với các điều kiện kinh tế, thể chế chính trị,
chuẩn mực đạo đức… đã tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành phát
triển động cơ, mục đích, quan điểm tình cảm, nhu cầu hứng thú…chiều hướng
phát triển của cá nhân. Thông qua hoạt động và giao lưu trong môi trường mà cá
nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm, giá trị xã hội loài người, từng bước điều
chỉnh, hoàn thiện nhân cách của mình.
- Tác động của môi trường đối với sự phát triển của cá nhân vô cùng mạnh
mẽ, phức tạp, có thể cùng chiều hay ngược chiều,thể tốt hoặc xấu, chủ yếu
theo con đường tự phát. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của môi trường bị “khúc
xạ” bởi yếu yếu tố giáo dục, bởi trình độ nhận thức, niềm tin, quan điểm, ý chí,
xu hướng năng lực của nhân. vậy C Mác đã khẳng định: “Hoàn cảnh
sáng tạo ra con người, trong một mức độ con người lại sáng tạo ra hoàn cảnh”
- Như vậy trong sự tác động qua lại giữa nhân cách và môi trường cần chú ý
đến hai mặt của vấn đề:
Thứ nhất, tính chất tác động của môi trường, hoàn cảnh vào quá trình
phát triển nhân cách
Thứ hai tính tích cực của nhân cách tác động vào môi trường, hoàn
cảnh nhằm điều chỉnh, cải tạo phục vụ nhu cầu, lợi ích của mình.
thể khẳng định ảnh hưởng to lớn của yếu tố môi trường đến quá trình
hình thành phát triển nhân cách. Tuy nhiên nếu tuyệt đối hóa vai trò
của môi trường là phủ nhận vai trò ý thức, sáng tạo của chủ thể, đó là sai
lầm về nhận thức luận. Ngược lại, việc hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của
yếu tố môi trường cũng phạm sai lầm của thuyết “Giáo dục vạn năng”.
Do đó phải đặt quá trình giáo dục, quá trình hình thành và phát triển nhân
cách trong mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố để có thể đánh giá đúng
đắn.
2. Vai trò của yếu tố giáo dục đến sự phát triển nhân cách
* Khái niệm sự phát triển nhân cách
- Là một quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh về thể chất và tinh thần về cả
lượng và chất, có tính đến đặc điểm của mỗi lứa tuổi.
- Sự phát triển nhân cách thể hiện qua những dấu hiệu:
+ Sự phát triển về mặt thể chất: là sự tang trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ
bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận
động của cơ thể.
+ Sự phát triển về mặt tâm lí: thể hiện sự biến đổi cơ bản trong quá trình nhận
thức xúc cảm, tình cảm,…
+ Sự phát triển về mặt xã hội: thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong những
mối quan hệ.
* Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
- Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo
dục) và đối tượng (người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân
cách theo những yêu cầu của xã hội.
- Giáo dục đóng vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành, phát triển nhân
cách vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lí
tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
- Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang kại những tiến
bộ mà các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo
ra được do tác động tự phát.
- Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành vi phẩm chất lệch
lạc không phù hợp với yêu cầ, chuẩn mực xã hội.
- Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu
năng do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra.
3. Bản chất của quá trình dạy học theo quan điểm nhận thức luận
Như trên đã trình bày, quá trình dạy học bao gồm quá trình dạy và quá trình
học. Hoạt động học của học sinh phảihoạt động nhận thức? Nhận thức
sựphản ánh thế giới khách quan vào não người - đó sự phản ánh tâm của
con người bắt đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự học tập của học sinh
cũngquá trình như vậy. Sự phản ánh đó là sự phản ánh đi trước,tính chất
cải tạo mà mức độ cao nhất của tính chất cải tạo đó là sự sáng tạo. Sự phản ánh
đó không phải thụ động như chiếc gươngbao giờ cũng bị khúc xạ qua lăng
kính chủ quan của mỗi người như thông qua tri thức, kinh nghiệm nhu cầu hứng
thú... của chủ thểnhận thức. Sự phản ánh đó tính tích cực thể hiện chỗ
được thực hiện trong tiến trình hoạt động phân tích - tổng hợp của não người
tính lựa chọn.Trong số những sự vật quá trình của hiện thực khách
quan, chủ thể tích cực lựa chọn những cái trở thành đối tượng phản ánh của
họ.Vì vậy, với cách một thực thể hội ý thức, học sinh khả năng
phản ánh một cách khách quan về nội dung và chủ quan về hình thức, nghĩa
về nội dung học sinh khả năng phản ánh đúng bản chất những quy luật
của thế giới khách quan, còn về hình thức mỗi học sinh phương pháp phản
ánh riêng của mình, có cách hình thành khái niệm, xây dựng cấu trúc lôgic riêng
của mình.vậy, quá trình học tập của học sinh cũng diễn theo công thức nổi
tiếng của V. I. Lênin về quá trình nhận thức: “Từtrực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của
nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực khách quan”. Toàn bộ quá trình nhận
thức chung của loài người cũng như của học sinh đều thể hiện theo công thức
đó; song, trong từng giai đoạn cụ thể, tuỳ theo điểm xuất phát trong quá trình
nhận thức mà có thể hoặc đi từ cụ thể đến trừu tượng hoặc từ trừu tượng đến cụ
thể, từ đơn nhất đến khái quát hoặc từ khái quát đến đơn nhất.
Trong thực tiễn dạy học, do không hiểu đúng công thức đó đã dẫn tới cách
xây dựng nội dung và sử dụng phương pháp dạy học không đúng. Thứ nhất cho
rằng bản chất của quá trình dày học là tạo nên những điều kiện đảm bảo thường
xuyên tính trực quan sinh động, nhận thức cảm tính trực tiếp, vậy, khi lĩnh
hội một khái niệm mới nào cũng phải bắt đầu bằng những cảm giác trực tiếp. Từ
đó quá đề cao vai trò của tính trực quan, tư duy hình ảnh cụ thể mà xem nhẹ vai
tròduy lôgíc, tư duy khái quát, trừu tượng.Thứ hai là vận dụng những phạm
trù tổng quát của thuyết nhận thức vào quá trình dạy học đã dẫn tới thay thế
việc xem xét nhận thức nhân bằng nhận thức hội. Họ đã quên mất luận
điểm rất quan trọng của C. Mác, rằng không phải hội nhận thức
nhân, do đó đã thiếu quan tâm đến hoạt động nghiên cứu của học sinh trong quá
trình học tập.
Trong dạy học, quá trình nhận thức của học sinh thể hiện tính độc đáo:
- Quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá trình tìm ra cái mới cho
nhân loại chủ yếu sự tái tạo những tri thức của loài người đã tạo ra, nên
họ
nhận thức những điều rút ra từ kho tàng tri thức chung của loài người, đối với
bản thân họ còn là mới mẻ.
- Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm,
thử sai như quá trình nhận thức nói chung của loài người, diễn ra theo
con đường đã được khám phá, được những nhà xây dựng chương trình, nội
dung dạy học gia công phạm. Chính vậy, trong một thời gian nhất định,
học sinh có thểlĩnh hội khối lượng tri thức rất lớn một cách thuận lợi.
- Quá trình học tập của học sinh phải tiến hành theo các khâu của quá trình
dạy học: Lĩnh hội tri thức mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra, đánh giá tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo nhằm biến chúng thành tài sản của bản thân.
- Thông qua hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học, cần
hình thành học sinh thế giới quan, động cơ, các phẩm chất của nhân cách
phù hợp với chuẩn mực xã hội.
- Quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học diễn ra dưới vai trò
chủ đạo của giáo viên (lãnh đạo, tổ chức, điều khiển) cùng với những điều kiện
sư phạm nhất định.
- Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học
sinh dưới vai trò chủ đạo của giáo viên.
- Quá trình dạy học cần phải chú ý tới tính độc đáo đó trong quá trình nhận
thức của học sinh để tránh sự đồng nhất quá trình nhận thức chung của loài
người với quá trình nhận thức của người học sinh. Song, không vì quá coi trọng
tính độc đáo mà thiếu quan tâm đến việc tổ chức cho học sinh dần dần tìm hiểu
và tập tham gia các hoạt động tìm tòi khám phá khoa học vừa sức, nâng cao dần
để chuẩn bịcho họ tự khai thác tri thức, tham gia nghiên cứu khoa học trong
tương lai.
4. Động lực của quá trình dạy học
Theo triết học duy vật biện chứng, mọi sự vật hiện tượng không ngừng vận
độngphát triển. Sởnhư vậy do có sự đấu tranh và thống nhất giữa các
mặt đối lập, nghĩa do mâu thuẫn bên trong mâu thuẫn bên ngoài. Mâu
thuẫn bên trong nguồn gốc của sự phát triển, mâu thuẫn bên ngoài điểu
kiện của sự phát triển.
Quá trình dạy học trong hiện thực khách quan cũng vận động phát triển do
không ngừng giải quyết các mâu thuẫn bên trong mâu thuẫn bên ngoài. Mâu
thuẫn bên trong của quá trình dạy học mâu thuẫn giữa các thành tố giữa
các yếu tố trong từng thành tố của quá trình dạy học. Chẳng hạn mâu thuẫn giữa
những thành tố như trình độ của thầy và của trò, giữa nội dung dạy học đã được
cải tiến nhưng phương pháp chưa được đổi mới, giữa phương pháp đổi mới với
phương tiện dạy học chưa đảm bảo. Mâu thuẫn giữa những yếu tố của tưng
thành tố trong quá trình dạy học, chẳng hạn như trong phương pháp dạy học
xuất hiện mâu thuẫn giữa việc sử dụng nhóm phương pháp dùng lời với nhóm
phương pháp trực quan. Nếu quá lạm dụng phương pháp trực quan sẽ làm giảm
sự phát triển duy trừu tượng, nếu quá lạm dụng phương pháp dùng lời bài
giảng sẽ trở nên trừu tượng. Mâu thuẫn bên ngoài mâu thuẫn giữa sự tiến bộ
khoa học, công nghệ, văn hoá, sự phát triển kinh tế - hội với từng thành tố
của quá trình dạy học. Động lực của quá trình dạy học giải quyết tốt được
những mâu thuẫn bên ngoài, bên trong của quá trình dạy học, trong đó giải
quyết các mâu thuẫn bên trong ý nghĩa quyết định. Song trong những điều
kiện nhất định, các mâu thuẫn bên ngoài của quá trình dạy học lại có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với sự vận động và phát triển của nó.
Từ đó có thể nhận thấy có rất nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết, song điều
quan trọng nhất để quá trình dạy hoc phát triển đúng, nhanh hiệu quả
phải xác định và giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của nó.
Mâu thuẫn bản của quá trình dạy học mâu thuẫn giữa một bên nhiệm
vụ học tập do tiến trình dạy học đề ra và một bên là trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo và trình độ phái triển trí tuệ hiện có của người học.
Mâu thuẫn cơ bản tồn tại suốt từ đầu đên cuối quá trình, việc giải quyết các mâu
thuẫn khác, xét cho cùng đều phục vụ cho việc giải quyết nó. Mâu thuẫn cơ bản
khi xuất hiện dưới sự chỉ đạo của người giáo viên, học sinh tự lực hoặc được sự
hỗ trợ của giáo viên sẽ giải quyết nó.Nhờ đó người học được nâng cao trình độ
và đáp ứng được nhiệm vụ dạy học đề ra. Quá trình dạy học là quá trình liện tục
đề ra các nhiệm vụ học tập và khi một nhiệm vụ được giải quyết lại có nhiệm vụ
khác xuất hiện lại được giải quyết, cứ như vậy quá trình dạy học không
ngừng vận động phát triển.Sự thúc đẩy giải quyết các mâu thuẫn bản đó
tạo ra động lực cơ bản của quá trình dạy học.
Song, muốn quá trình dạy học phát triển thì quá trình học của học sinh phải tiến
triển.Vì vậy, mâu thuẫn bản của quá trình dạy học phải chuyển hoá thành
mâu thuẫn cơ bản của quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh.
Sự lĩnh hội, theo I. M. Xêsênốp, là hoà những sản phẩm kinh nghiệm của người
khác với kinh nghiệm của bản thân. Điều đó nghĩa làm cho những điều
được mang từ bên ngoài vào phải hoà vào tài sản bên trong của bản thân, tạo
nên môt cấu trúc mới. Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản của quá trình lĩnh hôi tri thức,
năng, xảomâu thuẫn giữa điều đã biết và điểu chưa biết, điều đã biết
đây chính kinh nghiệm, sự hiểu biết của bản thân điều chưa biết chính
kinh nghiệm của người khác, nghĩa tri thức mới cần lĩnh hội.Để chuyến hoá
mâu thuẫn bản của quá trình dạy học thành mâu thuẫn bản của quá trình
lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của người học cần phải có ba điều kiện:
- Mâu thuẫn phải được người học ý thức đầy đủ và sâu sắc. Họ phải nhận thức
những yêu cầu của nhiệm vụ học tập được đề ra, thấy hết đánh giá
đúng mức trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, trình độ phát triển trí tuệ hiện có
của mình. Điều đó thể hiện chỗ người học nhận thấy khó khăn trong
nhận thức nảy sinh nhu cầu giải quyết khó khăn nhằm hoàn thành nhiệm
vụ học tập.
- Mâu thuẫn phải khó khăn vừa sức. Điều đó có nghĩa nhiệm vụ học tập
được đề ra mức độ tương ứng với giới hạn trên của vùng phát triển gần
nhất của học sinh mà họthể giải quyết được với sự nỗ lực cao nhất về trí
lực cũng như thể lực của mình.
- Mâu thuẫn phải do tiến trình dạy học dẫn dến. Điều đó nghĩa mâu
thuẫn xuất hiện tại thời điểm nào đó là sự tất yếu trên con đường vận động đi
lên của quá trình dạy học nói chung quá trình nhận thức của học sinh nói
riêng. Không nên đốt cháy giai đoạn làm cho mâu thuẫn xuất hiện sớm quá
hoặc làm cho xuất hiện muộn quá. Nhiệm vụ của người giáo viên
không nên lảng tránh, đểcho xuất hiện không đúng lúc, trái lại cần
làm cho mâu thuẫn xuất hiện đúng lúc, như vậy các mâu thuẫn sẽ trở nên sâu
sắc
2. Bài học sư phạm:
- Quan tâm điều khiển tốt các mối liên hệ. GV lẫn HS cần nghiên cứu nắm
vững hệ thống luận về nhận thức để vận dụng tốt trong hoạt động giảng
dạy và học tập.
- Quá trình hướng dẫn HS học tập phải tuân theo con đường nhận thức chung:
Coi trọng việc hướng dẫn HS tìm tòi, tra cứu thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau, hoặc coi trọng nguồn thông tin tạo sở ban đầu của sự
học
HS trung học phổ thông những người đã có kinh nghiệm, trong dạy
học nên chú trọng những biện pháp giúp họ huy động kinh nghiệm đã
có để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ học tập
Hướng dẫn, kích thích HS tích cực thực hiện các thao tác trí tuệ (phân
tích, so sánh, phân loại… thông tin để rút ra kết luận, hình thành kinh
nghiệm lý luận trong học tập).
Tổ chức cho HS vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong
học tập và trong cuộc sống qua các hình thức thực hành song song với
học lý thuyết và thực hành sau khi học lý thuyết.
Bồi dưỡng cho HS khả năng tự học, tự nghiên cứu những phẩm
chất cần thiết của nhà nghiên cứu khoa học.
5. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục
trong dạy học
a. Nội dung nguyên tắc:
- Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải trang bị cho người học
những tri thức khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học,
công nghệ văn hoá hiện đại, phải dần dần giúp học sinh tiếp cận với
những phương pháp học tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việc một
cách khoa học. Thông qua đó dần dần hình thành sở thế giới quan
khoa học, tình cảm và những phẩm chất đạo đức cao quý của con người hiện
đại.
- Dạy học không chỉ làm phát triển lý trí của con người và cung cấp cho người
học một khối lượng kiến thức nào đó phải làm cháy lên họ lòng khát
khao học tập một cách nghiêm túc. Thiếu điều đó thì cuộc sống không thể
nào là một cuộc sống xứng đáng và hạnh phúc.
- Ảnh hưởng giáo dục của khoa học là người đồng hành không tránh khỏi của
dạy học. Song từ đó sẽ không đúng khi cho rằng dạy học bao giờ cũng có tác
động như nhau đến học sinh sự nỗ lực một cách tự giác, nghệ thuật của
nhà giáo dục không ý nghĩa quan trọng. Trái lại, tính chất giáo dục của
dạy học, phương hướng tư tưởng và sức mạnh ảnh hưởng của nó tới học sinh
do nội dung, phương pháp dạy học, sự tổ chức tiết học do tác động của
chính nhân cách người giáo viên quyết định.
b. Để thực hiện nguyên tắc cần:
- Trang bị cho người học những tri thức khoa học chân chính, hiện đại nhằm
giúp cho họ nắm được quy luật phát triển của tự nhiên, hội, duy,
cách nhìn và thái độ hành động đúng đắn đối với hiện thực.
- Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, hội, con người
Việt Nam, những truyền thống tốt đẹp trong lịch sử dựng nước và bảo vệ đất
nước của dân tộc ta qua hàng ngàn năm, đặc biệt truyền thống đó ngày càng
phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó giáo dục cho học sinh
tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trước sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong học tập và tu dưỡng.
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức năng lực phân tích, biết phê phán một
cách đúng mức những thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng, những quan niệm khác nhau về một vấn đề.
- Vận dụng các phương pháp các hình thức tổ chức dạy học theo hướng
giúp học sinh làm quen với một số phương pháp nghiên cứu khoa học ở mức
độ đơn giản nhằm dần dần tiếp cận với hoạt động khoa học, rèn luyện những
tác phong, phẩm chất của người nghiên cứu khoa học
c. Ví dụ:
Khi dạy học sinh bài ,“VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG ĐỔI MỚI HỘI NHẬP”
giáo viên cần phải giúp học sinh biết được:
Về kiến thức:
- Nắm được các thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới ở nước ta.
- Nắm được một số định hướng chính để đẩy mạnh công cuộc đổi mới.
Chẳng hạn: Bối cảnh
- Ngày 30 - 4 - 1975: Đất nước thống nhất, cả nước tập trung vào hàn gắn các
vết thương chiến tranh và xây dựng, phát triển đất nước.
- Nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu
Thành tựu
Nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài.
Lạm phát đượcđẩy lùi và kiềm chế ở mức một con số.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, (đạt 9,5% năm 1999, 8,4% năm
2005).
Về kỹ năng:
- Khai thác được các thông tin kinh tế - xã hội từ bảng số liệu, biểu đồ.
- Biết liên hệ các kiến thức địa với các kiến thức về lịch sử, giáo dục
công dân tronglĩnh hội tri thức mới.
Về thái độ: Xác định tinh thần trách nhiệm của mỗi người đối với sự nghiệp
phát triển của đấtnước.
Như vậy: Sự thống nhất giữa tính khoa học tính giáo dục được đảm
bảo.
6. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan với sự phát triển
tư duy lý thuyết trong dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học có thể cho học sinh tiếp xúc
trực tiếp với sự vật, hiện tượng hay hình tượng của chúng, từ đó hình thành
những khái niệm, quy luật, lý thuyết; ngược lại, có thể từ việc lĩnh hội những tri
thức lý thuyết trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng cụ thể sau. Trong việc
vận dụng nguyên tắc này bao giờ cũng đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa tư duy
cụ thể và tư duy trừu tượng.
Từ đó ta có thể nhận thấy rằng:
a) Tính trực quan có thể là điểm xuất phát chủ yếu ở các lớp tiểu học.
b) Tuỳ theo mức độ vận động của trẻ từ các lớp dưới lên các lớp trên thì điểm
xuất phát của quá trình dạynhọcsự tiếp cận lịch sử đối với sự phát minh một
quy luật nào đó. Lúc đầu nêu lên vấn đề, tiếp theo là trình bày lịch sử giải quyết
vấn đề đó cuối cùng trạng thái hiện nay. Sau đó cần phải tiến hành công
tác thực hành hoặc làm thí nghiệm. Đó con đường tính quy nạp lịch sử
trong việc nghiên cứu tri thức. đây tính trực quan tham gia hai lần như
minh hoạ sự phát minh, nghĩa là sự phát minh đó diễn ra trong lịch sử khoa học
như thế nào vạch ra cách giải quyết vấn đề hiện nay ra sao. Tuy nhiên cần
phải thấy rằng việc trình bày theo quan điểm lịch sử mất nhiều thời gian học
tập và không phải bao giờ cũng cần thiết. Cơ sở xuất phát có thể là những luận
điểmthuyết, tiên đề, hệ thống khái niệm đã được lĩnh hội ở những giai đoạn
dạy học trước đây hoặc thậm chí được đưa vào bằng con đường lý luận. Chỉ sau
khi đã nắm được những định luật tính chất luận đó, trực quan được sử
dụng để minh hoạ sự vận dụng chúng hoặc dưới hình thức công việc phòng
thí nghiệm khi bài tập nhận thức được giải quyết bằng con đường thực nghiệm.
Ngay cả học sinh tiểu học cũng tiến hành dạy học từ cái chung đến cái riêng
nhằm phát triển tư duy lý luận cho trẻ.
Nguyên tắc này đã được J.A.Comenxki ( 1592-1670) lần đầu tiên đề ra và
được gọi là nguyên tắc vàng ngọc. Sau này được J.J.Rutxo (1712-1778),
J.A.Pextalogi (1746-1827), K. Đ. Usinxki ( 1824-1870) kế tục phát triển.
Dưới ánh sáng của nhận thức luận Macxit, nội dung của nguyên tắc ngày càng
được hoàn thiện và phát triển.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là
phương tiện và nguồn nhận thức.
- Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh động, diễn
cảm, nghĩa là kết hợp hai hệ thống tín hiệu.
- Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu
tượng đã có để hình thành những biểu tượng mới, qua đó mà hình thành những
khái niệm, định luật mới.
- Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên phù hợp
với lứa tuổi, nội dung và hoàn cảnh cụ thể nhằm hình thành và phát triển tư duy
lý thuyết cho họ.
Trong quá trình trình bày đồ dùng trực quan cần hình thành cho học sinh óc
quan sát để nhìn thấy những dấu hiệu bản chất, qua đó mà rút ra những kết luận
có tính khái quát.
- Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả.
- Đề ra cho học sinh những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập được mối
quan hệ giữa cái cụ thể, cái trừu tượng và ngược lại.
7. Phương pháp thuyết trình trong dạy học
a. Khái niệm: Là phương pháp GV dùng lời nói để trình bày, giải thích ND bài
học một cách có hệ thống, lôgic cho HS tiếp thu
b. Các dạng thuyết trình
- Kể chuyện: GV tường thuật lại các sự kiện, hiện tượng một cách hệ
thống. Được dùng nhiều trong môn KHXH
- Giải thích: Giáo viên dùng luận cứ, số liệu để giải thích, chứng minh, làm
sáng tỏ vấn đề
- Diễn giảng: Giáo viên trình bày một cách hệ thống NDHT nhất định.
Được dùng nhiều ở lớp cuối THPT và ĐH
c. Các bước thuyết trình:
- Đặt vấn đề: Nêu câu hỏi nhận thức
- Giải quyết vấn đề: Bằng quy nạp hay diễn dịch, lựa chọn VD, kích thích HS
thực hiện các thao tác tư duy để đi đến KL
- Tổng kết và nhấn mạnh các KL để học sinh ghi nhớ
d. Ưu điểm của phương pháp thuyết trình
- Trong một thời gian ngắn, giáo viên thể trình bày một khối lượng kiến
thức lớn cho nhiều người học
- HS có thể học được cách tư duy lôgic, cách đặt và giải quyết vấn, cách diễn
đạt chính xác, rõ ràng, súc tích của GV
- Là PP dễ thực hiện nhất vì không cần đến TBDH nào
- Khi được nâng lên thành thuyết trình nêu vấn đề sẽ kích thích được tính tích
cực tư duy của học sinh
- Nếu kết hợp minh họa bằng các PTTQ, vấn đáp, thảo luận thực hành sẽ kích
thích được tính năng động tích cực của HS
e. Hạn chế của PP thuyết trình
- Là PP độc thoại nên HS dễ hình thành thói quen thụ động, chóng mệt mỏi =>
thiếu sáng tạo, ghi nhớ kém bền vững
- Học sinh thiếu cơ hội phát triển ngôn ngữ nói
- Giáo viên khó có thể chú ý đày đủ đến trình độ nhận thức KT sự lĩnh hội
tri
thức của từng học sinh
f. Yêu cầu của PP thuyết trình:
- Ngôn ngữ biểu đạt nội dung phải tính lôgic, phù hợp. GV càng nắm
vững ND thì ngôn ngữ biểu đạt càng phong phú và tăng tính thuyết phục
- Phát âm rõ ràng, chính xác, tốc độ tần số âm thanh vừa phải
- Ngôn ngữ phải có tính thuyết phục (giải thích, mô tả chứng minh bằng các
VD). Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, thiện cảm, giàu hình ảnh
- Nên kết hợp thuyết trình với các phương pháp khác như trực quan, vấn đáp,
tình huống có vấn đề…
8. Phương pháp vấn đáp trong dạy học
a. Khái niệm:
Vấn đáp (hay đàm thoại) là PPDH trong đó GV tổ chức thực hiện quá trình hỏi
đáp giữa GV HS nhằm làm sáng tỏ tri thức mới, rút ra những KL cần
thiết.
b. Các dạng câu hỏi
- Theo nhệm vụ dạy học có câu hỏi: tái hiện, gợi mở, củng cố kiến thức và câu
hỏi ôn tập hệ thống hóa kiến thức
- Theo mức độ khái quát của vấn đề có: câu hỏi khái quát, câu hỏi theo chủ đề
bài học, câu hỏi theo ND bài học
- Theo mức độ tham gia của HĐ nhận thức của người học có câu hỏi tái tạo và
câu hỏi sáng tạo
c. Ưu điểm
- Nếu sử dụng khéo léo, phối hợp với PPTT sẽ kích thích được tính tích cực tư
duy, năng lực diễn đạt bằng lời của HS
- Cả giáo viên và học sinh đều có thể nhanh chóng thu được tín hiệu ngược để
điều chỉnh HĐ của mình
- Tạo không khí sôi nổi trong giờ học
- Giáo viên có thể sửa chữa ngay những sai sót của học sinh.
d. Hạn chế: Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng đến KH dự kiến
e. Yêu cầu xây dựng câu hỏi:
- Câu hỏi phải ràng, đơn giản, số lượng vừa phải, tập trung vào trọng tâm
bài
học
- Câu hỏi phải chính xác, giúp học sinh hiểu đúng hình thành được câu trả
lời đúng vấn đề
- Cần căn cứ vào ND bài học để XD câu hỏi lôgic, chặt chẽ
- Hệ thống câu được XD từ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái quát ngược lại,
từ câu hỏi tái tạo đến câu hỏi sáng tạo
f. Yêu cầu khi nêu câu hỏi cho học sinh:
- Câu hỏi đưa ra một cách rõ ràng, hướng tới cả lớp
- Chỉ định một HS trả lời, cả lớp nghe và phân tích
- Bình tĩnh khi HS trả lời sai, tránh nôn nóng, vội vàng cắt ý HS
- Giáo viên KL
9. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao đối với con người trong
công tác giáo dục
Khái niệm nguyên tắc giáo dục:
- Nguyên tắc giáo dục được hiểu những luận điểm bản tính quy luật
của lí luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo việc lựa chọn và vận dụng nội dung,
phương pháp các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu mục
đích và nhiệm vụ giáo dục.
- Nguyên tắc là những luận điểm được rút ra từ các quy luật, những nguyên
như những tiên đề giá trị chỉ dẫn các hoạt động phức tạp đông người
tham gia. Nắm được các nguyên tắc giáo dục sẽ giúp các nhà giáo dục kết
hợp được luận với thực tiễn giáo dục vận dụng một cách sáng tạo nhằm
đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao.
Tôn trọng nhân cách học sinh là tôn trọng nhân phẩm, tài năng trí tuệ, tự do
tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng và thói quen sống của mỗi cá nhân: Tôn trọng
nhân cách còn bao gồm tôn trọng thân thể, không ai được xúc phạm đến phẩm
giá và thân thể con người.
- Tôn trọng nhân cách là tin tưởng con người, tin tưởng ở khả năng trí tuệ, khả
năng lao động sáng tạo của con người. Tin tưởng là thể hiện sự mong muốn
của các nhà giáo dục đối với đối tượng giáo dục đồng thời cũng một
biện pháp tế nhị buộc họ phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
- Yêu cầu hợp chính sự đòi hỏi cao hơn thực tế các em phải phấn đấu.
Bằng hệ thống những mục tiêu, những tiêu chuẩn nâng dần từng bước, thúc
đẩy học sinh phải phấn đấu liên tục. Khi nhà giáo dục đặt ra những yêu cầu
hợp lí, học sinh sẽ cảm nhận được sự tin tưởng của giáo viên về mình, như là
tiếp thêm sức mạnh để cố gắng nhiều hơn. Yêu cầu cao chính thể hiện
niềm tin và sự tôn trọng nhân cách con người.
Muốn giáo dục con người phải tôn trọng nhân cách con người và phải có
những yêu cầu hợp lí đối với con người. Vì:
Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp cho
học sinh vươn lên, phát triển nhân cách tốt hơn.
Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong
quan hệ ứng xử phạm phải thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, dìu dắt
các em tiến bộ.
Yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc này
- Nhà giáo dục không được xúc phạm đến nhân cách học sinh, dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ lí do gì, tránh thành kiến đối với học sinh.
- Nhà giáo dục cần tránh những thái độ gay gắt, nhạo báng, mỉa mai, mệnh
lệnh, áp đặt, nhưng đồng thời tránh những dễ dãi, xuề xoà “vô nguyên tắc”.
- Luôn đánh giá cao hơn một chút so với cái mà họ có, đồng thời đòi hỏi cao
hơn một chút so với những gì họ đạt được. Tế nhị, khéo léo, có tình, có lý trong
ứng xử sư phạm của giáo viên.
- Cần xác nhận những ưu điểm, những thành công của học sinh dù đó là thành
công nhỏ bé, phát huy ưu điểm là cơ sở tạo ra những thành công mới trong quá
trình phấn đấu của học sinh.
10. Nguyên tắc phát huy ưu điểm để khắc phục nhược điểm
- Trong mỗi con người có những điểm mạnh và điểm yếu (do các nguyên nhân
và hoàn cảnh giáo dục khác nhau).
- Nhưng là con người ai cũng muốn được tôn trọng, muốn nghe những lời hay,
ý đẹp, muốn mọi người nhìn thấy mặt mạnh, ưu điểm của mình, không ai
muốn nghe những khuyết điểm, những lời phê bình, chỉ trích về mình.
- Từ đặc điểm tâm lý đó, giáo dục cần thực hiện một nguyên tắc giáo dục quan
trọng: Hãy nói nhiều ưu điểm của người khác, hãy giảm đến mức tối thiểu
những lời nói về khuyết điểm, sai lầm của người khác, đặc biệt sai lầm
quá khứ, nhất thời.
- Lấy ưu điểm để khắc phục khuyết điểm, động viên mặt mạnh bằng khen
thưởng chính là khuyến khích để phát triển những hành vi tốt
Đây là nguyên tắc: “Lấy xây để chống”, nguyên tắc giáo dục có hiệu quả
Yêu cầu khi thực hiện
- Tổ chức tốt các phong trào thi đua, theo dõi các điển hình gương mẫu,
thường xuyên động viên, khen thưởng, khích lệ học sinh
- Mỗi năm có một tổng kết, đánh giá xếp loại và khen thưởng những học sinh
đã đạt thành tích cao trong học tập, tu dưỡng.
- Cần thiết có sự bao dung, độ lượng đối với học sinh, hãy nâng đỡ khi họ vấp
ngã, sai lầm, cảm hóa họ, dẫn họ đến các thành công mới.
- Điều đáng chú ý sau khi phê bình, trách phạt, phải là lòng vị tha, nhân ái
vì sự tiến bộ của con người.
- Tuy nhiên, nguyên tắc này không đồng nghĩa với bao che khuyết điểm, thủ
tiêu đấu tranh, từ bỏ khí phê tự phê bình, hay ngược lại thổi phồng
thành tích dễ làm cho con người trở thành tự kiêu, tự phụ.
11. Phương pháp nêu gương
- Khái niệm: Nêu gương là PP giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng những
tấm gương sáng của nhân hoặc tập thể hoặc bằng hành động của chính bản
thân mình như một mẫu mực để kích thích người được giáo dục cảm phục,
noi theo làm theo những gương đó nhằm đạt được mục đích giáo dục đã đề
ra.
- Cơ sở của PP nêu gương là dựa vào tính hay bắt chước của trẻ em. Trẻ em
thường bắt chước những người xung quanh, nhất là những người gần gũi thân
thuộc như cha mẹ, thầy cô giáo. Sự bắt chước phụ thuộc vào độ tuổi, vốn kinh
nghiệm và trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức ở các em. Khi còn nhỏ, trẻ có thể
bắt chước một cách máy móc tất cả những biểu hiện hành vi của người lớn (kể
cả những hành vi tích cực và tiêu cực), khi lớn lên cùng với sự tích lũy của kinh
nghiệm sự phát triển của trí tuệ, sự bắt chước mang tính lựa chọn tổng
hợp hơn. Bắt chước ở tuổi thiếu niên đã mang tính lựa chọn, sang lứa tuổi thanh
niên, bắt chước mang tính khái quát tổng hợp, những hành vi bắt chước đã
được biến đổi phù hợp với những điều kiện tình huống nảy sinh trong cuộc
sống của họ.
- Điều quan trọng trong phương pháp nêu gương đối với nhà giáo dục là sự
lựa chọn và sử dụng tấm gương để giáo dục học sinh. Nhà giáo dục cần căn cứ
vào mục tiêu nội dung giáo dục lựa chọn tấm gương điển hình để giáo
dục các em. Việc nêu những tấm gương tốt như của các anh hùng, chiến sỹ thi
đua, những gương tốt trong lao động, sản xuất, trong đấu tranh với các thói
tật xấu, những tấm gương của học sinh nghèo vượt khó điều rất quan trọng.
Đó những hành vi nghĩa cử ngưỡng mộ mong muốn được hành vi cử
chỉ đó. Tuy nhiên, cũng thể sử dụng cái phản diện để ngăn ngừa loại bỏ
những thói tật xấu trong hội. thể kể lại chỉ cho học sinh thấy số
phận của một người nghiện, một kẻ hư hỏng, kẻ lang thang bụi đời… để các em
thể rút ra bài học về cách ứng xử với bản thân và cuộc đời, có thái độ tránh
xa những thói xấu tệ nạn hội. Nên sử dụng những gương tốt chủ yếu,
lạm dụng gương phản diện có thể phản tác dụng giáo dục.
- Khi sử dụng phương pháp nêu gương, điều quan trọng là phải giúp học sinh
cách xử thái độ đúng đắn với mọi hành vi cử chỉ của những người
xung quanh, tiếp thu học tập cái tốt, lên án phê phán cái xấu. thế,
phương pháp nêu gương sẽ hiệu quả hơn nếu người giáo viên biết phối hợp
giữa nêu gương với giải thích đàm thoại về các chuẩn mực hành vi hội.
Tấm gương của chính bản thân nhà giáo dục yếu tố vị trí đặc biệt trong
giáo dục bằng nêu gương. Nếu như việc làm và lối sống của nhà giáo dục không
đi đôi với lời nói, hoặc lời nói cũng sai trái thì đó nguyên nhân dẫn đến bất
lực và không có hiệu quả trong công tác giáo dục. Vì thế, người thầy giáo không
chỉ “nêu gương” của những người khác, mà bản thân mình phải làm gương sáng
cho học sinh noi theo. Tấm gương sống của giáo viên có sức mạnh thuyết phục
hơn mọi lời giải thích và động viên của họ đối với học sinh.
- Ưu điểm:
Phương pháp nêu gương luôn đưa đến cho các em những sở chuẩn mực
về Đạo đức để các em xem đó là điểm tựa học tập và rèn luyện.
Thông qua phương pháp nêu gương không chỉ giáo dục bổn phận, trách
nhiệm của học sinh đối với nhà trường, gia đình hội còn giáo dục
học sinh có trách nhiệm đối với chính bản thân mình, biết quý trọng bản thân
và biết tự chăm sóc mình.
Phương pháp nêu gương đem đến cho học sinh một số năng cơ bản như :
biết tự nhận thức; biết xác định giá trị và có khả năng ra quyết định
Phương pháp nêu gương hướng dẫn các em thể tự phát hiện chiếm
lĩnh Đạo đức thông qua tấm gương mà giáo viên nêu ra.
Qua hình thức nêu gương học sinh được hình thành năng lực quan sát
đánh giá hành vi của người khác phù hợp hay không phù hợp với chuẩn
mực Đạo đức xã hội.
- Nhược điểm: lứa tuổi lớp 2,3 lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, các em
thường cảm nhận sự vật hiện tượng bằng trực quan sinh động, thường e ngại
trước đám động không dám nói ranhững điểm yếu của mình. Vì thế khi phê
bình những điểm xấu của học sinh nếu giáoviên không khéo léo sẽ gây mặc
cảm, tự ti cho học sinh trước tập thể lớp. Những tấm gương đưa ra xa lạ
với thực tế cuộc sống hằng ngày sẽ gây sự nhàm chán trước học sinh.Tóm lại
lứa tuổi học sinh tiểu học nói chung học sinh lớp 2,3 nói riêng, đặc điểm
tâm sinh của các em mới được hình thành, ý thức chủ định chưa được
nâng cao, mọi hoạt động, việc làm của các em đều mang tính chất bột phát,
các em thường làm theo ý thích của mình nhiều hơn ép. Đối với lứa
tuổi này các em thường không xét từ góc độ Đạo đức của bản thân trước mà
lấy điểm tựa của người khác để điều chỉnh cho hoạt động của bản thân.
Chính vì thế có thể khẳng định rằng phương pháp nêu gương là phương pháp
phù hợp tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học.
12. Phương pháp giao việc
- Phương pháp giao việc thuộc nhóm phương pháp tạo lập hành vi thói quen
- Giao việc là phân công cpng việc cho từng cá nhân trong một tập thể, để lôi
cuốn các em vào các hoạt động một cách tự giác, chủ động từ đó hình thành
kỹ năng hoạt động và những hành vi, thói quen có văn hóa
- Phân công phụ trách các mặt công tác của lớp, của đội (như văn nghệ, thể
dục thể thao, học tập, đội tự quản, giúp các bạn học yếu, hoàn cảnh khó
khăn, chăm sóc mẹ liệt sĩ, gia đình thương binh, chăm sóc vườn hoa, cây
cảnh,...)
- Khi giao việc, công việc được ghi lại theo một thời gian biểu có người thực
hiện, yêu cầu sản phẩm cần có, kiểm tra đôn đốc tiến trình công việc.
Phương pháp giao việc phương pháp gắn đối tượng giáo dục với trách
nhiệm công việc, do đó mỗi cá nhân xây dựng cho mình một kế hoạch công
việc, qua đó tự giác phát huy khả năng sáng tạo để hoàn thành công việc một
cách tốt nhất.
- Trong quá trình thực hiện công việc, mỗi nhân phối hợp với các thành
viên khác trong tập thể, từ đó hình thành tinh thần đoàn kết, ý thức hợp tác.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp:
Giao công việc phải phù hợp với sở trường, hứng thú năng lực của
từng nhân học sinh. Tạo điều kiện cho các em phương tiện, công cụ
làm việc, hướng dẫn về phương pháp làm việc cho các em.
Thường xuyên theo dõi, giúp đỡ các em, động viên kịp thời để các em
hoàn thành nhiệm vụ được giao
Phát huy tính độc lập, sáng tạo, chủ động của mỗi cá nhân
Khuyến khích các nhân chia sẻ, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để hoàn
thành tốt công việc
13.Nhiệm vụ và quyền của nhà giáo được đề cập trong Luật giáo dục 2019
a. Nhiệm vụ
Giảng dạy, giáo dục theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục.
Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, điều lệ nhà trường, quy tắc ứng
xử của nhà giáo.
Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng, đối xử công
bằng với người học; bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học.
Học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt
cho người học.
b. Quyền:
Được giảng dạy theo chuyên môn đào tạo.
Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp
vụ.
Được hợp đồng thỉnh giảng, nghiên cứu khoa học tại cơ sở giáo dục khác
hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học.
Được tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và thân thể.
Được nghỉ theo quy định của Chính phủ các ngày nghỉ khác theo
quy định của pháp luật.
14. Nhiệm vụ quyền của người học được đề cập trong Luật giáo dục
2019
*Nhiệm vụ của người học
- Người học trách nhiệm học tập rèn luyện theo chương trình, kế hoạch
giáo dục, và quy tắc ứng xử của cơ sở giáo dục.
- Người học có trách nhiệm tôn trọng nhà giáo, cán bộ và người lao động của cơ
sở giáo dục, chấp hành nghiêm các nội quy, điều lệ, quy chế của cơ sở giáo dục;
chấp hành quy định của pháp luật.
- Những người học có trách nhiệm đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn
luyện.
- Có nhiệm vụ tham gia lao động và các hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi
trường phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và năng lực.
- Có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ tài sản của cơ sở giáo dục; góp phần xây dựng,
bảo vệ và phát huy truyền thống của cơ sở giáo dục.
*Quyền của người học :
- Người học được giáo dục, học tập, tạo điều kiện để phát triển toàn diện
phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân; được đảm bảo môi trường học tập an
toàn, lành mạnh.
- Được cơ sở giáo dục, giáo viên, giảng viên và người khác tôn trong, bình đẳng
về hội giáo dục học tập; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo,
phát minh.
- Được cung cấp thông tin, tài liệu về việc học tập rèn luyện, được sử dụng các
cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện của cơ sở giáo dụ để phục vụ cho việc
học tập, văn hoá, thể dục, thể thao phù hợp với quy định của cơ sở giáo dục.
- Được tham gia vào các hoạt động của đoàn thể, tổ chức hội trong sở
giáo dục; được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị
với sở giáo dục các giải pháp góp phần xây dựng sở giáo dục, bảo vệ
quyền, lợi ích của người học; được cử người đại diện tham gia hội đồng trường
theo quy định.
- Được cấp văn bằng, chứng chỉ, xác nhận sau khi tốt nghiệp cấp học, trình độ
đào tạo và hoàn thành chương trình giáo dục theo quy định.
- Được hưởng các chính sách trong học tập như học vượt lớp, học rút ngắn thời
gian thực hiện chương trình, học độ tuổi cao hơn tuổi quy định, học kéo dài
thời gian, học lưu ban, được tạo điều kiện để học các chương trình giáo dục theo
quy định của pháp luật; các chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng
vào các cơ quan nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi và có đạo đức tốt.
Các câu hỏi vận dụng :
1. Nhà văn người Pháp Anatole France đoạt giải Nobel văn học 1921 cho rằng:
“Giáo dục chín phần mười là động viên khích lệ”. Suy nghĩ gì về quan điểm này?
Trong cuộc sống, mỗi người trong chúng ta ai cũng cần một lời động viên. thể
động viên trong công việc, học tập,... nhưng những lời động viên làm cho chúng ta
thấy mình được quan tâm, chia sẻyêu thương. Cho nên trong cuộc sống chúng ta
hãy giành thật nhiều những lời động viên, khích lệ cho người thân, bạn mọi
người xung quanh.Trước tiên chúng ta cần hiểu động viên là gì?
một hình thức, có thể bằng lời nói hay một hành động cụ thể nào đó giúp chúng ta
cảm thấy thoải mái, phấn chấn và vui vẻ hơn. Động viên giúp chúng ta có thêm động
lựcvà quyết tâm hơn trong công việcmình sắp làm. Vậy vì sao động viên lại ý
nghĩavà rất cần thiết trong cuộc sống?
lời động viên thể làm một người gặp bế tắc trong mọi việc sẽ giúp họ thể
tìmra được hướng giải quyết tốt hoặc khi chúng ta cảm thấy bế tắc trong cuộc sống thì
có thể bố mẹ sẽ cho chúng ta những lời động viên, khích lệ làm cho chúng ta thấy cảm
giác bế tắc đó không còn nữa và thay vào đó chúng ta sẽ sống tích cực, vui vẻ lạc quan
hơn trong cuộc sống. Chúng ta có thể thấy các cầu thủ bóng đá ngoài kĩ năng của họ,
họ còn nhận được những lời động viên, khích lệ từ các cổ động viên, bố mẹ, người
thân giúp họ trở nên mạnh mẽ đương đầu với những khó khăn, thử thách đang ở phía
trước. Và sau đó họ mang lại cho chúng ta cảm giác vui sướng, xúc động trước những
bàn thắng đầy thuyết phục của họ, mang lại niềm tự hào dân tộc cho những người con
Việt Nam. Chúng ta có thể thấy những lời nói động viên không cần phải quá hoa mỹ,
phô trương chỉ cần nhữnglời nói ở tận sâu đáy lòng chúng ta cũng giúp họ trở nên kiên
cường, mạnh mẽ. Người nhận được những lời khích lệ sẽ thoát khỏi bờ vực của sự đau
khổ từ đó cố gắng cống hiến cho đời. Người trao đi lời động viên không chỉ
người cho mà còn là người nhận.Cái họ nhận được là sự yêu mến, là tâm hồn và nhân
cách đẹp.
Cho nên thế những lời cổ động viên mang lợi lại rất nhiều lợi ích về mặt
tinh thần và nó cũng truyền thống quý báu tốt đẹp của dân tộc, được gìn giữ
phát huy từ bao đời nay. Như Anatole France từng nói: Giáo dục chín phần
mười động viên, khích lệ hay thể nói động viên, khích lệ cũng chính
đang giáo dục. Nhưng thật đáng buồn còn những con người vẫn còn
những lối cư xử chưa tốt hoặc chưa đúng đắn, có thể thấy ngoài những cổ động
viên khích lệ kể cả khi đội bóng thua thì họ vẫn giành những lời động viên tốt
đẹp, còn những người chê bai hoặc cảm thấy đội nhà dở tệ thì đó những
người không tốt. Cần loại bỏ những đức tính xấu này ra khỏi hội. sinh
viên vẫn đang được giáo dục và đào tạo chúng ta cần phải tập một đức tính tốt,
luôn thông cảm, chia sẻ với mọi người xung quanh hãy luôn luôn giành
những lời động viên tốt đẹp nhất cho những người xung quanh mình.
2. Nhận định như thế nào về phát biểu sau William A. Warrd: của
Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.
Em cho rằng Ward hoàn toàn đúng câu nói trên của ông thật tuyệt vời để
phân biệt những kỹ năng cần thiết nhiệm vụ cao cả một người thầy cần
phải có.
Những kỹ năng "nói", "giải thích" "minh họa" những yêu cầu bản,
tính chất kỹ thuật đối với một giáo viên. Nhưng chỉ "người thầy vĩ đại" mới
"biết cách truyền cảm hứng" cho học trò.
Để truyền được cảm hứng cho học trò thì những kỹ năng cơ bản và kỹ thuật khi
giảng bài của người thầy chưa đủ, cho thể rất nhiều rất công phu.
"Truyền cảmhứng" cho học trò có nghĩa là không chỉ truyền đạt kiến thức, kinh
nghiệm thông thường mà ở mức cao nhấttruyền ngọn lửa tình yêu khoa học,
chất men say khoa học cho học trò để các em tiếp tục tự học thêm, tự hoàn thiện
mình, trong suốt cuộc đời mình.
| 1/23

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG GIÁO DỤC HỌC
1. Vai trò của yếu tố môi trường đến sự phát triển nhân cách
a. Khái niệm môi trường:
- Môi trường là toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiện hữu ảnh hưởng lớn
lao đến đời sống và nhân cách con người. Môi trường bao quanh con người gồm
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên gồm khí hậu,
đất nước, sinh thái và môi trường xã hội, đó là các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa…
- Hoàn cảnh được hiểu một yếu tố hoặc một môi trường nhỏ hợp thành của
môi trường lớn, môi trường nhỏ tác động trực tiếp, mạnh mẽ, quyết liệt trong
một thời gian, không gian nhất định tạo nên hướng hình thành và phát triển nhân cách.
b. Vai trò của môi trường
- Mỗi một người ngay từ khi sinh ra đã phải sống trong một môi trường, hoàn
cảnh nhất định, có thể gặp thuận lợi hoặc khó khăn đối với quá trình phát triển
thể chất, tinh thần của cá nhân. Tuy nhiên chính nhờ môi trường xã hội loài
người mà mỗi đứa trẻ mới hình thành phát triển các nét nhân cách người.
- Môi trường tự nhiên và xã hội với các điều kiện kinh tế, thể chế chính trị,
chuẩn mực đạo đức… đã tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát
triển động cơ, mục đích, quan điểm tình cảm, nhu cầu hứng thú…chiều hướng
phát triển của cá nhân. Thông qua hoạt động và giao lưu trong môi trường mà cá
nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm, giá trị xã hội loài người, từng bước điều
chỉnh, hoàn thiện nhân cách của mình.
- Tác động của môi trường đối với sự phát triển của cá nhân vô cùng mạnh
mẽ, phức tạp, có thể cùng chiều hay ngược chiều, có thể tốt hoặc xấu, chủ yếu
theo con đường tự phát. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của môi trường bị “khúc
xạ” bởi yếu yếu tố giáo dục, bởi trình độ nhận thức, niềm tin, quan điểm, ý chí,
xu hướng và năng lực của cá nhân. Vì vậy C Mác đã khẳng định: “Hoàn cảnh
sáng tạo ra con người, trong một mức độ con người lại sáng tạo ra hoàn cảnh”
- Như vậy trong sự tác động qua lại giữa nhân cách và môi trường cần chú ý
đến hai mặt của vấn đề:
 Thứ nhất, tính chất tác động của môi trường, hoàn cảnh vào quá trình phát triển nhân cách
 Thứ hai là tính tích cực của nhân cách tác động vào môi trường, hoàn
cảnh nhằm điều chỉnh, cải tạo nó phục vụ nhu cầu, lợi ích của mình. Có
thể khẳng định ảnh hưởng to lớn của yếu tố môi trường đến quá trình
hình thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên nếu tuyệt đối hóa vai trò
của môi trường là phủ nhận vai trò ý thức, sáng tạo của chủ thể, đó là sai
lầm về nhận thức luận. Ngược lại, việc hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của
yếu tố môi trường cũng phạm sai lầm của thuyết “Giáo dục vạn năng”.
Do đó phải đặt quá trình giáo dục, quá trình hình thành và phát triển nhân
cách trong mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố để có thể đánh giá đúng đắn.
2. Vai trò của yếu tố giáo dục đến sự phát triển nhân cách
* Khái niệm sự phát triển nhân cách
- Là một quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh về thể chất và tinh thần về cả
lượng và chất, có tính đến đặc điểm của mỗi lứa tuổi.
- Sự phát triển nhân cách thể hiện qua những dấu hiệu:
+ Sự phát triển về mặt thể chất: là sự tang trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ
bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động của cơ thể.
+ Sự phát triển về mặt tâm lí: thể hiện sự biến đổi cơ bản trong quá trình nhận
thức xúc cảm, tình cảm,…
+ Sự phát triển về mặt xã hội: thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong những mối quan hệ.
* Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
- Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo
dục) và đối tượng (người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân
cách theo những yêu cầu của xã hội.
- Giáo dục đóng vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành, phát triển nhân
cách vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lí
tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
- Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang kại những tiến
bộ mà các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo
ra được do tác động tự phát.
- Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành vi phẩm chất lệch
lạc không phù hợp với yêu cầ, chuẩn mực xã hội.
- Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu
năng do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra.
3. Bản chất của quá trình dạy học theo quan điểm nhận thức luận
Như trên đã trình bày, quá trình dạy học bao gồm quá trình dạy và quá trình
học. Hoạt động học của học sinh có phải là hoạt động nhận thức? Nhận thức là
sựphản ánh thế giới khách quan vào não người - đó là sự phản ánh tâm lí của
con người bắt đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự học tập của học sinh
cũng là quá trình như vậy. Sự phản ánh đó là sự phản ánh đi trước, có tính chất
cải tạo mà mức độ cao nhất của tính chất cải tạo đó là sự sáng tạo. Sự phản ánh
đó không phải thụ động như chiếc gương mà bao giờ cũng bị khúc xạ qua lăng
kính chủ quan của mỗi người như thông qua tri thức, kinh nghiệm nhu cầu hứng
thú... của chủ thểnhận thức. Sự phản ánh đó có tính tích cực thể hiện ở chỗ nó
được thực hiện trong tiến trình hoạt động phân tích - tổng hợp của não người và
có tính lựa chọn.Trong vô số những sự vật và quá trình của hiện thực khách
quan, chủ thể tích cực lựa chọn những cái trở thành đối tượng phản ánh của
họ.Vì vậy, với tư cách là một thực thể xã hội có ý thức, học sinh có khả năng
phản ánh một cách khách quan về nội dung và chủ quan về hình thức, nghĩa là
về nội dung học sinh có khả năng phản ánh đúng bản chất và những quy luật
của thế giới khách quan, còn về hình thức mỗi học sinh có phương pháp phản
ánh riêng của mình, có cách hình thành khái niệm, xây dựng cấu trúc lôgic riêng
của mình. Vì vậy, quá trình học tập của học sinh cũng diễn theo công thức nổi
tiếng của V. I. Lênin về quá trình nhận thức: “Từtrực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của
nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực khách quan”. Toàn bộ quá trình nhận
thức chung của loài người cũng như của học sinh đều thể hiện theo công thức
đó; song, trong từng giai đoạn cụ thể, tuỳ theo điểm xuất phát trong quá trình
nhận thức mà có thể hoặc đi từ cụ thể đến trừu tượng hoặc từ trừu tượng đến cụ
thể, từ đơn nhất đến khái quát hoặc từ khái quát đến đơn nhất.
Trong thực tiễn dạy học, do không hiểu đúng công thức đó đã dẫn tới cách
xây dựng nội dung và sử dụng phương pháp dạy học không đúng. Thứ nhất cho
rằng bản chất của quá trình dày học là tạo nên những điều kiện đảm bảo thường
xuyên tính trực quan sinh động, nhận thức cảm tính trực tiếp, vì vậy, khi lĩnh
hội một khái niệm mới nào cũng phải bắt đầu bằng những cảm giác trực tiếp. Từ
đó quá đề cao vai trò của tính trực quan, tư duy hình ảnh cụ thể mà xem nhẹ vai
trò tư duy lôgíc, tư duy khái quát, trừu tượng.Thứ hai là vận dụng những phạm
trù tổng quát của lí thuyết nhận thức vào quá trình dạy học đã dẫn tới thay thế
việc xem xét nhận thức cá nhân bằng nhận thức xã hội. Họ đã quên mất luận
điểm rất quan trọng của C. Mác, rằng không phải xã hội nhận thức mà là cá
nhân, do đó đã thiếu quan tâm đến hoạt động nghiên cứu của học sinh trong quá trình học tập.
Trong dạy học, quá trình nhận thức của học sinh thể hiện tính độc đáo:
- Quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá trình tìm ra cái mới cho
nhân loại mà chủ yếu là sự tái tạo những tri thức của loài người đã tạo ra, nên họ
nhận thức những điều rút ra từ kho tàng tri thức chung của loài người, đối với
bản thân họ còn là mới mẻ.
- Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm,
thử và sai như quá trình nhận thức nói chung của loài người, mà diễn ra theo
con đường đã được khám phá, được những nhà xây dựng chương trình, nội
dung dạy học gia công sư phạm. Chính vì vậy, trong một thời gian nhất định,
học sinh có thểlĩnh hội khối lượng tri thức rất lớn một cách thuận lợi.
- Quá trình học tập của học sinh phải tiến hành theo các khâu của quá trình
dạy học: Lĩnh hội tri thức mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra, đánh giá tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo nhằm biến chúng thành tài sản của bản thân.
- Thông qua hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học, cần
hình thành ở học sinh thế giới quan, động cơ, các phẩm chất của nhân cách
phù hợp với chuẩn mực xã hội.
- Quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học diễn ra dưới vai trò
chủ đạo của giáo viên (lãnh đạo, tổ chức, điều khiển) cùng với những điều kiện sư phạm nhất định.
- Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học
sinh dưới vai trò chủ đạo của giáo viên.
- Quá trình dạy học cần phải chú ý tới tính độc đáo đó trong quá trình nhận
thức của học sinh để tránh sự đồng nhất quá trình nhận thức chung của loài
người với quá trình nhận thức của người học sinh. Song, không vì quá coi trọng
tính độc đáo mà thiếu quan tâm đến việc tổ chức cho học sinh dần dần tìm hiểu
và tập tham gia các hoạt động tìm tòi khám phá khoa học vừa sức, nâng cao dần
để chuẩn bịcho họ tự khai thác tri thức, tham gia nghiên cứu khoa học trong tương lai.
4. Động lực của quá trình dạy học
Theo triết học duy vật biện chứng, mọi sự vật và hiện tượng không ngừng vận
động và phát triển. Sở dĩ như vậy là do có sự đấu tranh và thống nhất giữa các
mặt đối lập, nghĩa là do có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu
thuẫn bên trong là nguồn gốc của sự phát triển, mâu thuẫn bên ngoài là điểu
kiện của sự phát triển.
Quá trình dạy học trong hiện thực khách quan cũng vận động và phát triển do
không ngừng giải quyết các mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu
thuẫn bên trong của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa các thành tố và giữa
các yếu tố trong từng thành tố của quá trình dạy học. Chẳng hạn mâu thuẫn giữa
những thành tố như trình độ của thầy và của trò, giữa nội dung dạy học đã được
cải tiến nhưng phương pháp chưa được đổi mới, giữa phương pháp đổi mới với
phương tiện dạy học chưa đảm bảo. Mâu thuẫn giữa những yếu tố của tưng
thành tố trong quá trình dạy học, chẳng hạn như trong phương pháp dạy học
xuất hiện mâu thuẫn giữa việc sử dụng nhóm phương pháp dùng lời với nhóm
phương pháp trực quan. Nếu quá lạm dụng phương pháp trực quan sẽ làm giảm
sự phát triển tư duy trừu tượng, nếu quá lạm dụng phương pháp dùng lời bài
giảng sẽ trở nên trừu tượng. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự tiến bộ
khoa học, công nghệ, văn hoá, sự phát triển kinh tế - xã hội với từng thành tố
của quá trình dạy học. Động lực của quá trình dạy học là giải quyết tốt được
những mâu thuẫn bên ngoài, bên trong của quá trình dạy học, trong đó giải
quyết các mâu thuẫn bên trong có ý nghĩa quyết định. Song trong những điều
kiện nhất định, các mâu thuẫn bên ngoài của quá trình dạy học lại có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với sự vận động và phát triển của nó.
Từ đó có thể nhận thấy có rất nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết, song điều
quan trọng nhất để quá trình dạy hoc phát triển đúng, nhanh và có hiệu quả là
phải xác định và giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của nó.
Mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa một bên là nhiệm
vụ học tập do tiến trình dạy học đề ra và một bên là trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo và trình độ phái triển trí tuệ hiện có của người học.
Mâu thuẫn cơ bản tồn tại suốt từ đầu đên cuối quá trình, việc giải quyết các mâu
thuẫn khác, xét cho cùng đều phục vụ cho việc giải quyết nó. Mâu thuẫn cơ bản
khi xuất hiện dưới sự chỉ đạo của người giáo viên, học sinh tự lực hoặc được sự
hỗ trợ của giáo viên sẽ giải quyết nó.Nhờ đó người học được nâng cao trình độ
và đáp ứng được nhiệm vụ dạy học đề ra. Quá trình dạy học là quá trình liện tục
đề ra các nhiệm vụ học tập và khi một nhiệm vụ được giải quyết lại có nhiệm vụ
khác xuất hiện và lại được giải quyết, cứ như vậy mà quá trình dạy học không
ngừng vận động và phát triển.Sự thúc đẩy giải quyết các mâu thuẫn cơ bản đó
tạo ra động lực cơ bản của quá trình dạy học.
Song, muốn quá trình dạy học phát triển thì quá trình học của học sinh phải tiến
triển.Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học phải chuyển hoá thành
mâu thuẫn cơ bản của quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh.
Sự lĩnh hội, theo I. M. Xêsênốp, là hoà những sản phẩm kinh nghiệm của người
khác với kinh nghiệm của bản thân. Điều đó có nghĩa là làm cho những điều
được mang từ bên ngoài vào phải hoà vào tài sản bên trong của bản thân, tạo
nên môt cấu trúc mới. Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản của quá trình lĩnh hôi tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo là mâu thuẫn giữa điều đã biết và điểu chưa biết, điều đã biết ở
đây chính là kinh nghiệm, sự hiểu biết của bản thân và điều chưa biết chính là
kinh nghiệm của người khác, nghĩa là tri thức mới cần lĩnh hội.Để chuyến hoá
mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học thành mâu thuẫn cơ bản của quá trình
lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của người học cần phải có ba điều kiện:
- Mâu thuẫn phải được người học ý thức đầy đủ và sâu sắc. Họ phải nhận thức
rõ những yêu cầu của nhiệm vụ học tập được đề ra, thấy hết và đánh giá
đúng mức trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, trình độ phát triển trí tuệ hiện có
của mình. Điều đó thể hiện ở chỗ người học nhận thấy có khó khăn trong
nhận thức và nảy sinh nhu cầu giải quyết khó khăn nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập.
- Mâu thuẫn phải là khó khăn vừa sức. Điều đó có nghĩa là nhiệm vụ học tập
được đề ra ở mức độ tương ứng với giới hạn trên của vùng phát triển gần
nhất của học sinh mà họ có thể giải quyết được với sự nỗ lực cao nhất về trí
lực cũng như thể lực của mình.
- Mâu thuẫn phải do tiến trình dạy học dẫn dến. Điều đó có nghĩa là mâu
thuẫn xuất hiện tại thời điểm nào đó là sự tất yếu trên con đường vận động đi
lên của quá trình dạy học nói chung và quá trình nhận thức của học sinh nói
riêng. Không nên đốt cháy giai đoạn làm cho mâu thuẫn xuất hiện sớm quá
hoặc làm cho nó xuất hiện muộn quá. Nhiệm vụ của người giáo viên là
không nên lảng tránh, đểcho nó xuất hiện không đúng lúc, mà trái lại cần
làm cho mâu thuẫn xuất hiện đúng lúc, như vậy các mâu thuẫn sẽ trở nên sâu sắc
2. Bài học sư phạm:
- Quan tâm điều khiển tốt các mối liên hệ. GV lẫn HS cần nghiên cứu nắm
vững hệ thống lý luận về nhận thức để vận dụng tốt trong hoạt động giảng dạy và học tập.
- Quá trình hướng dẫn HS học tập phải tuân theo con đường nhận thức chung:
 Coi trọng việc hướng dẫn HS tìm tòi, tra cứu thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau, hoặc coi trọng nguồn thông tin tạo cơ sở ban đầu của sự học
 HS trung học phổ thông là những người đã có kinh nghiệm, trong dạy
học nên chú trọng những biện pháp giúp họ huy động kinh nghiệm đã
có để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ học tập
 Hướng dẫn, kích thích HS tích cực thực hiện các thao tác trí tuệ (phân
tích, so sánh, phân loại… thông tin để rút ra kết luận, hình thành kinh
nghiệm lý luận trong học tập).
 Tổ chức cho HS vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong
học tập và trong cuộc sống qua các hình thức thực hành song song với
học lý thuyết và thực hành sau khi học lý thuyết.
 Bồi dưỡng cho HS khả năng tự học, tự nghiên cứu và những phẩm
chất cần thiết của nhà nghiên cứu khoa học.
5. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong dạy học a. Nội dung nguyên tắc:
- Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải trang bị cho người học
những tri thức khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học,
công nghệ và văn hoá hiện đại, phải dần dần giúp học sinh tiếp cận với
những phương pháp học tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việc một
cách khoa học. Thông qua đó mà dần dần hình thành cơ sở thế giới quan
khoa học, tình cảm và những phẩm chất đạo đức cao quý của con người hiện đại.
- Dạy học không chỉ làm phát triển lý trí của con người và cung cấp cho người
học một khối lượng kiến thức nào đó mà phải làm cháy lên ở họ lòng khát
khao học tập một cách nghiêm túc. Thiếu điều đó thì cuộc sống không thể
nào là một cuộc sống xứng đáng và hạnh phúc.
- Ảnh hưởng giáo dục của khoa học là người đồng hành không tránh khỏi của
dạy học. Song từ đó sẽ không đúng khi cho rằng dạy học bao giờ cũng có tác
động như nhau đến học sinh và sự nỗ lực một cách tự giác, nghệ thuật của
nhà giáo dục không có ý nghĩa quan trọng. Trái lại, tính chất giáo dục của
dạy học, phương hướng tư tưởng và sức mạnh ảnh hưởng của nó tới học sinh
là do nội dung, phương pháp dạy học, sự tổ chức tiết học và do tác động của
chính nhân cách người giáo viên quyết định.
b. Để thực hiện nguyên tắc cần:
- Trang bị cho người học những tri thức khoa học chân chính, hiện đại nhằm
giúp cho họ nắm được quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy, có
cách nhìn và thái độ hành động đúng đắn đối với hiện thực.
- Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã hội, con người
Việt Nam, những truyền thống tốt đẹp trong lịch sử dựng nước và bảo vệ đất
nước của dân tộc ta qua hàng ngàn năm, đặc biệt truyền thống đó ngày càng
phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó giáo dục cho học sinh
tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trước sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong học tập và tu dưỡng.
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, biết phê phán một
cách đúng mức những thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng, những quan niệm khác nhau về một vấn đề.
- Vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học theo hướng
giúp học sinh làm quen với một số phương pháp nghiên cứu khoa học ở mức
độ đơn giản nhằm dần dần tiếp cận với hoạt động khoa học, rèn luyện những
tác phong, phẩm chất của người nghiên cứu khoa học c. Ví dụ:
Khi dạy học sinh bài “VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP”,
giáo viên cần phải giúp học sinh biết được:  Về kiến thức:
- Nắm được các thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới ở nước ta.
- Nắm được một số định hướng chính để đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Chẳng hạn: Bối cảnh
- Ngày 30 - 4 - 1975: Đất nước thống nhất, cả nước tập trung vào hàn gắn các
vết thương chiến tranh và xây dựng, phát triển đất nước.
- Nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu  Thành tựu
 Nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài.
Lạm phát đượcđẩy lùi và kiềm chế ở mức một con số.
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, (đạt 9,5% năm 1999, 8,4% năm 2005).  Về kỹ năng:
- Khai thác được các thông tin kinh tế - xã hội từ bảng số liệu, biểu đồ.
- Biết liên hệ các kiến thức địa lý với các kiến thức về lịch sử, giáo dục
công dân tronglĩnh hội tri thức mới.
 Về thái độ: Xác định tinh thần trách nhiệm của mỗi người đối với sự nghiệp
phát triển của đấtnước.
 Như vậy: Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục được đảm bảo.
6. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan với sự phát triển
tư duy lý thuyết trong dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học có thể cho học sinh tiếp xúc
trực tiếp với sự vật, hiện tượng hay hình tượng của chúng, từ đó hình thành
những khái niệm, quy luật, lý thuyết; ngược lại, có thể từ việc lĩnh hội những tri
thức lý thuyết trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng cụ thể sau. Trong việc
vận dụng nguyên tắc này bao giờ cũng đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa tư duy
cụ thể và tư duy trừu tượng.
Từ đó ta có thể nhận thấy rằng:
a) Tính trực quan có thể là điểm xuất phát chủ yếu ở các lớp tiểu học.
b) Tuỳ theo mức độ vận động của trẻ từ các lớp dưới lên các lớp trên thì điểm
xuất phát của quá trình dạynhọc là sự tiếp cận lịch sử đối với sự phát minh một
quy luật nào đó. Lúc đầu nêu lên vấn đề, tiếp theo là trình bày lịch sử giải quyết
vấn đề đó và cuối cùng là trạng thái hiện nay. Sau đó cần phải tiến hành công
tác thực hành hoặc làm thí nghiệm. Đó là con đường có tính quy nạp – lịch sử
trong việc nghiên cứu tri thức. Ở đây tính trực quan tham gia hai lần như là
minh hoạ sự phát minh, nghĩa là sự phát minh đó diễn ra trong lịch sử khoa học
như thế nào và vạch ra cách giải quyết vấn đề hiện nay ra sao. Tuy nhiên cần
phải thấy rằng việc trình bày theo quan điểm lịch sử mất nhiều thời gian học
tập và không phải bao giờ cũng cần thiết. Cơ sở xuất phát có thể là những luận
điểm lý thuyết, tiên đề, hệ thống khái niệm đã được lĩnh hội ở những giai đoạn
dạy học trước đây hoặc thậm chí được đưa vào bằng con đường lý luận. Chỉ sau
khi đã nắm được những định luật có tính chất lý luận đó, trực quan được sử
dụng để minh hoạ sự vận dụng chúng hoặc dưới hình thức công việc ở phòng
thí nghiệm khi bài tập nhận thức được giải quyết bằng con đường thực nghiệm.
Ngay cả học sinh tiểu học cũng tiến hành dạy học từ cái chung đến cái riêng
nhằm phát triển tư duy lý luận cho trẻ.
Nguyên tắc này đã được J.A.Comenxki ( 1592-1670) lần đầu tiên đề ra và
được gọi là nguyên tắc vàng ngọc. Sau này được J.J.Rutxo (1712-1778),
J.A.Pextalogi (1746-1827), K. Đ. Usinxki ( 1824-1870) kế tục và phát triển.
Dưới ánh sáng của nhận thức luận Macxit, nội dung của nguyên tắc ngày càng
được hoàn thiện và phát triển.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là
phương tiện và nguồn nhận thức.
- Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh động, diễn
cảm, nghĩa là kết hợp hai hệ thống tín hiệu.
- Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu
tượng đã có để hình thành những biểu tượng mới, qua đó mà hình thành những
khái niệm, định luật mới.
- Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên phù hợp
với lứa tuổi, nội dung và hoàn cảnh cụ thể nhằm hình thành và phát triển tư duy lý thuyết cho họ.
Trong quá trình trình bày đồ dùng trực quan cần hình thành cho học sinh óc
quan sát để nhìn thấy những dấu hiệu bản chất, qua đó mà rút ra những kết luận có tính khái quát.
- Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả.
- Đề ra cho học sinh những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập được mối
quan hệ giữa cái cụ thể, cái trừu tượng và ngược lại.
7. Phương pháp thuyết trình trong dạy học
a. Khái niệm: Là phương pháp GV dùng lời nói để trình bày, giải thích ND bài
học một cách có hệ thống, lôgic cho HS tiếp thu
b. Các dạng thuyết trình
- Kể chuyện: GV tường thuật lại các sự kiện, hiện tượng một cách có hệ
thống. Được dùng nhiều trong môn KHXH
- Giải thích: Giáo viên dùng luận cứ, số liệu để giải thích, chứng minh, làm sáng tỏ vấn đề
- Diễn giảng: Giáo viên trình bày một cách có hệ thống NDHT nhất định.
Được dùng nhiều ở lớp cuối THPT và ĐH
c. Các bước thuyết trình:
- Đặt vấn đề: Nêu câu hỏi nhận thức
- Giải quyết vấn đề: Bằng quy nạp hay diễn dịch, lựa chọn VD, kích thích HS
thực hiện các thao tác tư duy để đi đến KL
- Tổng kết và nhấn mạnh các KL để học sinh ghi nhớ
d. Ưu điểm của phương pháp thuyết trình
- Trong một thời gian ngắn, giáo viên có thể trình bày một khối lượng kiến
thức lớn cho nhiều người học
- HS có thể học được cách tư duy lôgic, cách đặt và giải quyết vấn, cách diễn
đạt chính xác, rõ ràng, súc tích của GV
- Là PP dễ thực hiện nhất vì không cần đến TBDH nào
- Khi được nâng lên thành thuyết trình nêu vấn đề sẽ kích thích được tính tích
cực tư duy của học sinh
- Nếu kết hợp minh họa bằng các PTTQ, vấn đáp, thảo luận thực hành sẽ kích
thích được tính năng động tích cực của HS
e. Hạn chế của PP thuyết trình
- Là PP độc thoại nên HS dễ hình thành thói quen thụ động, chóng mệt mỏi =>
thiếu sáng tạo, ghi nhớ kém bền vững
- Học sinh thiếu cơ hội phát triển ngôn ngữ nói
- Giáo viên khó có thể chú ý đày đủ đến trình độ nhận thức và KT sự lĩnh hội tri
thức của từng học sinh
f. Yêu cầu của PP thuyết trình:
- Ngôn ngữ biểu đạt và nội dung phải có tính lôgic, phù hợp. GV càng nắm
vững ND thì ngôn ngữ biểu đạt càng phong phú và tăng tính thuyết phục
- Phát âm rõ ràng, chính xác, tốc độ tần số âm thanh vừa phải
- Ngôn ngữ phải có tính thuyết phục (giải thích, mô tả chứng minh bằng các
VD). Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, thiện cảm, giàu hình ảnh
- Nên kết hợp thuyết trình với các phương pháp khác như trực quan, vấn đáp,
tình huống có vấn đề…
8. Phương pháp vấn đáp trong dạy học a. Khái niệm:
Vấn đáp (hay đàm thoại) là PPDH trong đó GV tổ chức thực hiện quá trình hỏi
và đáp giữa GV và HS nhằm làm sáng tỏ tri thức mới, rút ra những KL cần thiết. b. Các dạng câu hỏi
- Theo nhệm vụ dạy học có câu hỏi: tái hiện, gợi mở, củng cố kiến thức và câu
hỏi ôn tập hệ thống hóa kiến thức
- Theo mức độ khái quát của vấn đề có: câu hỏi khái quát, câu hỏi theo chủ đề
bài học, câu hỏi theo ND bài học
- Theo mức độ tham gia của HĐ nhận thức của người học có câu hỏi tái tạo và câu hỏi sáng tạo c. Ưu điểm
- Nếu sử dụng khéo léo, phối hợp với PPTT sẽ kích thích được tính tích cực tư
duy, năng lực diễn đạt bằng lời của HS
- Cả giáo viên và học sinh đều có thể nhanh chóng thu được tín hiệu ngược để
điều chỉnh HĐ của mình
- Tạo không khí sôi nổi trong giờ học
- Giáo viên có thể sửa chữa ngay những sai sót của học sinh.
d. Hạn chế: Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng đến KH dự kiến
e. Yêu cầu xây dựng câu hỏi:
- Câu hỏi phải rõ ràng, đơn giản, số lượng vừa phải, tập trung vào trọng tâm bài học
- Câu hỏi phải chính xác, giúp học sinh hiểu đúng và hình thành được câu trả lời đúng vấn đề
- Cần căn cứ vào ND bài học để XD câu hỏi lôgic, chặt chẽ
- Hệ thống câu được XD từ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái quát và ngược lại,
từ câu hỏi tái tạo đến câu hỏi sáng tạo
f. Yêu cầu khi nêu câu hỏi cho học sinh:
- Câu hỏi đưa ra một cách rõ ràng, hướng tới cả lớp
- Chỉ định một HS trả lời, cả lớp nghe và phân tích
- Bình tĩnh khi HS trả lời sai, tránh nôn nóng, vội vàng cắt ý HS - Giáo viên KL
9. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao đối với con người trong công tác giáo dục
 Khái niệm nguyên tắc giáo dục:
- Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy luật
của lí luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo việc lựa chọn và vận dụng nội dung,
phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu mục
đích và nhiệm vụ giáo dục.
- Nguyên tắc là những luận điểm được rút ra từ các quy luật, những nguyên lý
như những tiên đề có giá trị chỉ dẫn các hoạt động phức tạp có đông người
tham gia. Nắm được các nguyên tắc giáo dục sẽ giúp các nhà giáo dục kết
hợp được lí luận với thực tiễn giáo dục vận dụng một cách sáng tạo nhằm
đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao.
 Tôn trọng nhân cách học sinh là tôn trọng nhân phẩm, tài năng trí tuệ, tự do
tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng và thói quen sống của mỗi cá nhân: Tôn trọng
nhân cách còn bao gồm tôn trọng thân thể, không ai được xúc phạm đến phẩm
giá và thân thể con người.
- Tôn trọng nhân cách là tin tưởng con người, tin tưởng ở khả năng trí tuệ, khả
năng lao động sáng tạo của con người. Tin tưởng là thể hiện sự mong muốn
của các nhà giáo dục đối với đối tượng giáo dục và đồng thời cũng là một
biện pháp tế nhị buộc họ phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
- Yêu cầu hợp lí chính là sự đòi hỏi cao hơn thực tế các em phải phấn đấu.
Bằng hệ thống những mục tiêu, những tiêu chuẩn nâng dần từng bước, thúc
đẩy học sinh phải phấn đấu liên tục. Khi nhà giáo dục đặt ra những yêu cầu
hợp lí, học sinh sẽ cảm nhận được sự tin tưởng của giáo viên về mình, như là
tiếp thêm sức mạnh để cố gắng nhiều hơn. Yêu cầu cao chính là thể hiện
niềm tin và sự tôn trọng nhân cách con người.
 Muốn giáo dục con người phải tôn trọng nhân cách con người và phải có
những yêu cầu hợp lí đối với con người. Vì:
 Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp cho
học sinh vươn lên, phát triển nhân cách tốt hơn.
 Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong
quan hệ ứng xử sư phạm phải thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, dìu dắt các em tiến bộ.
 Yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc này
- Nhà giáo dục không được xúc phạm đến nhân cách học sinh, dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ lí do gì, tránh thành kiến đối với học sinh.
- Nhà giáo dục cần tránh những thái độ gay gắt, nhạo báng, mỉa mai, mệnh
lệnh, áp đặt, nhưng đồng thời tránh những dễ dãi, xuề xoà “vô nguyên tắc”.
- Luôn đánh giá cao hơn một chút so với cái mà họ có, đồng thời đòi hỏi cao
hơn một chút so với những gì họ đạt được. Tế nhị, khéo léo, có tình, có lý trong
ứng xử sư phạm của giáo viên.
- Cần xác nhận những ưu điểm, những thành công của học sinh dù đó là thành
công nhỏ bé, phát huy ưu điểm là cơ sở tạo ra những thành công mới trong quá
trình phấn đấu của học sinh.
10. Nguyên tắc phát huy ưu điểm để khắc phục nhược điểm
- Trong mỗi con người có những điểm mạnh và điểm yếu (do các nguyên nhân
và hoàn cảnh giáo dục khác nhau).
- Nhưng là con người ai cũng muốn được tôn trọng, muốn nghe những lời hay,
ý đẹp, muốn mọi người nhìn thấy mặt mạnh, ưu điểm của mình, không ai
muốn nghe những khuyết điểm, những lời phê bình, chỉ trích về mình.
- Từ đặc điểm tâm lý đó, giáo dục cần thực hiện một nguyên tắc giáo dục quan
trọng: Hãy nói nhiều ưu điểm của người khác, hãy giảm đến mức tối thiểu
những lời nói về khuyết điểm, sai lầm của người khác, đặc biệt là sai lầm quá khứ, nhất thời.
- Lấy ưu điểm để khắc phục khuyết điểm, động viên mặt mạnh bằng khen
thưởng chính là khuyến khích để phát triển những hành vi tốt
Đây là nguyên tắc: “Lấy xây để chống”, nguyên tắc giáo dục có hiệu quả
 Yêu cầu khi thực hiện
- Tổ chức tốt các phong trào thi đua, theo dõi các điển hình gương mẫu,
thường xuyên động viên, khen thưởng, khích lệ học sinh
- Mỗi năm có một tổng kết, đánh giá xếp loại và khen thưởng những học sinh
đã đạt thành tích cao trong học tập, tu dưỡng.
- Cần thiết có sự bao dung, độ lượng đối với học sinh, hãy nâng đỡ khi họ vấp
ngã, sai lầm, cảm hóa họ, dẫn họ đến các thành công mới.
- Điều đáng chú ý là sau khi phê bình, trách phạt, phải là lòng vị tha, nhân ái
vì sự tiến bộ của con người.
- Tuy nhiên, nguyên tắc này không đồng nghĩa với bao che khuyết điểm, thủ
tiêu đấu tranh, từ bỏ vũ khí phê và tự phê bình, hay ngược lại thổi phồng
thành tích dễ làm cho con người trở thành tự kiêu, tự phụ.
11. Phương pháp nêu gương
-
Khái niệm: Nêu gương là PP giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng những
tấm gương sáng của cá nhân hoặc tập thể hoặc bằng hành động của chính bản
thân mình như là một mẫu mực để kích thích người được giáo dục cảm phục,
noi theo và làm theo những gương đó nhằm đạt được mục đích giáo dục đã đề ra.
- Cơ sở của PP nêu gương là dựa vào tính hay bắt chước của trẻ em. Trẻ em
thường bắt chước những người xung quanh, nhất là những người gần gũi thân
thuộc như cha mẹ, thầy cô giáo. Sự bắt chước phụ thuộc vào độ tuổi, vốn kinh
nghiệm và trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức ở các em. Khi còn nhỏ, trẻ có thể
bắt chước một cách máy móc tất cả những biểu hiện hành vi của người lớn (kể
cả những hành vi tích cực và tiêu cực), khi lớn lên cùng với sự tích lũy của kinh
nghiệm và sự phát triển của trí tuệ, sự bắt chước mang tính lựa chọn và tổng
hợp hơn. Bắt chước ở tuổi thiếu niên đã mang tính lựa chọn, sang lứa tuổi thanh
niên, bắt chước mang tính khái quát và tổng hợp, những hành vi bắt chước đã
được biến đổi phù hợp với những điều kiện và tình huống nảy sinh trong cuộc sống của họ.
- Điều quan trọng trong phương pháp nêu gương đối với nhà giáo dục là sự
lựa chọn và sử dụng tấm gương để giáo dục học sinh. Nhà giáo dục cần căn cứ
vào mục tiêu và nội dung giáo dục mà lựa chọn tấm gương điển hình để giáo
dục các em. Việc nêu những tấm gương tốt như của các anh hùng, chiến sỹ thi
đua, những gương tốt trong lao động, sản xuất, trong đấu tranh với các thói hư
tật xấu, những tấm gương của học sinh nghèo vượt khó là điều rất quan trọng.
Đó là những hành vi nghĩa cử ngưỡng mộ và mong muốn có được hành vi cử
chỉ đó. Tuy nhiên, cũng có thể sử dụng cái phản diện để ngăn ngừa và loại bỏ
những thói hư tật xấu trong xã hội. Có thể kể lại và chỉ cho học sinh thấy số
phận của một người nghiện, một kẻ hư hỏng, kẻ lang thang bụi đời… để các em
có thể rút ra bài học về cách ứng xử với bản thân và cuộc đời, có thái độ tránh
xa những thói xấu và tệ nạn xã hội. Nên sử dụng những gương tốt là chủ yếu,
lạm dụng gương phản diện có thể phản tác dụng giáo dục.
- Khi sử dụng phương pháp nêu gương, điều quan trọng là phải giúp học sinh
có cách cư xử và thái độ đúng đắn với mọi hành vi cử chỉ của những người
xung quanh, tiếp thu và học tập cái tốt, lên án và phê phán cái xấu. Vì thế,
phương pháp nêu gương sẽ có hiệu quả hơn nếu người giáo viên biết phối hợp
giữa nêu gương với giải thích đàm thoại về các chuẩn mực và hành vi xã hội.
Tấm gương của chính bản thân nhà giáo dục là yếu tố có vị trí đặc biệt trong
giáo dục bằng nêu gương. Nếu như việc làm và lối sống của nhà giáo dục không
đi đôi với lời nói, hoặc lời nói cũng sai trái thì đó là nguyên nhân dẫn đến bất
lực và không có hiệu quả trong công tác giáo dục. Vì thế, người thầy giáo không
chỉ “nêu gương” của những người khác, mà bản thân mình phải làm gương sáng
cho học sinh noi theo. Tấm gương sống của giáo viên có sức mạnh thuyết phục
hơn mọi lời giải thích và động viên của họ đối với học sinh. - Ưu điểm:
 Phương pháp nêu gương luôn đưa đến cho các em những cơ sở chuẩn mực
về Đạo đức để các em xem đó là điểm tựa học tập và rèn luyện.
 Thông qua phương pháp nêu gương không chỉ giáo dục bổn phận, trách
nhiệm của học sinh đối với nhà trường, gia đình và xã hội mà còn giáo dục
học sinh có trách nhiệm đối với chính bản thân mình, biết quý trọng bản thân
và biết tự chăm sóc mình.
 Phương pháp nêu gương đem đến cho học sinh một số kĩ năng cơ bản như :
biết tự nhận thức; biết xác định giá trị và có khả năng ra quyết định
 Phương pháp nêu gương hướng dẫn các em có thể tự phát hiện và chiếm
lĩnh Đạo đức thông qua tấm gương mà giáo viên nêu ra.
 Qua hình thức nêu gương học sinh được hình thành năng lực quan sát và
đánh giá hành vi của người khác là phù hợp hay không phù hợp với chuẩn mực Đạo đức xã hội.
- Nhược điểm: Ở lứa tuổi lớp 2,3 là lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, các em
thường cảm nhận sự vật hiện tượng bằng trực quan sinh động, thường e ngại
trước đám động không dám nói ranhững điểm yếu của mình. Vì thế khi phê
bình những điểm xấu của học sinh nếu giáoviên không khéo léo sẽ gây mặc
cảm, tự ti cho học sinh trước tập thể lớp. Những tấm gương đưa ra mà xa lạ
với thực tế cuộc sống hằng ngày sẽ gây sự nhàm chán trước học sinh.Tóm lại
ở lứa tuổi học sinh tiểu học nói chung học sinh lớp 2,3 nói riêng, đặc điểm
tâm sinh lý của các em mới được hình thành, ý thức có chủ định chưa được
nâng cao, mọi hoạt động, việc làm của các em đều mang tính chất bột phát,
các em thường làm theo ý thích của mình nhiều hơn là gò ép. Đối với lứa
tuổi này các em thường không xét từ góc độ Đạo đức của bản thân trước mà
lấy điểm tựa của người khác để điều chỉnh cho hoạt động của bản thân.
Chính vì thế có thể khẳng định rằng phương pháp nêu gương là phương pháp
phù hợp tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học.
12. Phương pháp giao việc
- Phương pháp giao việc thuộc nhóm phương pháp tạo lập hành vi thói quen
- Giao việc là phân công cpng việc cho từng cá nhân trong một tập thể, để lôi
cuốn các em vào các hoạt động một cách tự giác, chủ động từ đó hình thành
kỹ năng hoạt động và những hành vi, thói quen có văn hóa
- Phân công phụ trách các mặt công tác của lớp, của đội (như văn nghệ, thể
dục thể thao, học tập, đội tự quản, giúp các bạn học yếu, có hoàn cảnh khó
khăn, chăm sóc mẹ liệt sĩ, gia đình thương binh, chăm sóc vườn hoa, cây cảnh,...)
- Khi giao việc, công việc được ghi lại theo một thời gian biểu có người thực
hiện, yêu cầu sản phẩm cần có, kiểm tra đôn đốc tiến trình công việc.
Phương pháp giao việc là phương pháp gắn đối tượng giáo dục với trách
nhiệm công việc, do đó mỗi cá nhân xây dựng cho mình một kế hoạch công
việc, qua đó tự giác phát huy khả năng sáng tạo để hoàn thành công việc một cách tốt nhất.
- Trong quá trình thực hiện công việc, mỗi cá nhân phối hợp với các thành
viên khác trong tập thể, từ đó hình thành tinh thần đoàn kết, ý thức hợp tác.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp:
 Giao công việc phải phù hợp với sở trường, hứng thú và năng lực của
từng cá nhân học sinh. Tạo điều kiện cho các em phương tiện, công cụ
làm việc, hướng dẫn về phương pháp làm việc cho các em.
 Thường xuyên theo dõi, giúp đỡ các em, động viên kịp thời để các em
hoàn thành nhiệm vụ được giao
 Phát huy tính độc lập, sáng tạo, chủ động của mỗi cá nhân
 Khuyến khích các cá nhân chia sẻ, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành tốt công việc
13.Nhiệm vụ và quyền của nhà giáo được đề cập trong Luật giáo dục 2019 a. Nhiệm vụ
● Giảng dạy, giáo dục theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục.
● Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, điều lệ nhà trường, quy tắc ứng xử của nhà giáo.
● Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng, đối xử công
bằng với người học; bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học.
● Học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người học. b. Quyền:
● Được giảng dạy theo chuyên môn đào tạo.
● Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ.
● Được hợp đồng thỉnh giảng, nghiên cứu khoa học tại cơ sở giáo dục khác
hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học.
● Được tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và thân thể.
● Được nghỉ hè theo quy định của Chính phủ và các ngày nghỉ khác theo
quy định của pháp luật.
14. Nhiệm vụ và quyền của người học được đề cập trong Luật giáo dục 2019
*Nhiệm vụ của người học
- Người học có trách nhiệm học tập và rèn luyện theo chương trình, kế hoạch
giáo dục, và quy tắc ứng xử của cơ sở giáo dục.
- Người học có trách nhiệm tôn trọng nhà giáo, cán bộ và người lao động của cơ
sở giáo dục, chấp hành nghiêm các nội quy, điều lệ, quy chế của cơ sở giáo dục;
chấp hành quy định của pháp luật.
- Những người học có trách nhiệm đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện.
- Có nhiệm vụ tham gia lao động và các hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi
trường phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và năng lực.
- Có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ tài sản của cơ sở giáo dục; góp phần xây dựng,
bảo vệ và phát huy truyền thống của cơ sở giáo dục.
*Quyền của người học :
- Người học được giáo dục, học tập, tạo điều kiện để phát triển toàn diện và
phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân; được đảm bảo môi trường học tập an toàn, lành mạnh.
- Được cơ sở giáo dục, giáo viên, giảng viên và người khác tôn trong, bình đẳng
về cơ hội giáo dục và học tập; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh.
- Được cung cấp thông tin, tài liệu về việc học tập rèn luyện, được sử dụng các
cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện của cơ sở giáo dụ để phục vụ cho việc
học tập, văn hoá, thể dục, thể thao phù hợp với quy định của cơ sở giáo dục.
- Được tham gia vào các hoạt động của đoàn thể, tổ chức xã hội trong cơ sở
giáo dục; được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị
với cơ sở giáo dục các giải pháp góp phần xây dựng cơ sở giáo dục, bảo vệ
quyền, lợi ích của người học; được cử người đại diện tham gia hội đồng trường theo quy định.
- Được cấp văn bằng, chứng chỉ, xác nhận sau khi tốt nghiệp cấp học, trình độ
đào tạo và hoàn thành chương trình giáo dục theo quy định.
- Được hưởng các chính sách trong học tập như học vượt lớp, học rút ngắn thời
gian thực hiện chương trình, học ở độ tuổi cao hơn tuổi quy định, học kéo dài
thời gian, học lưu ban, được tạo điều kiện để học các chương trình giáo dục theo
quy định của pháp luật; các chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng
vào các cơ quan nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi và có đạo đức tốt.
Các câu hỏi vận dụng :
1. Nhà văn người Pháp Anatole France đoạt giải Nobel văn học 1921 cho rằng:
“Giáo dục chín phần mười là động viên khích lệ”.
Suy nghĩ gì về quan điểm này?
Trong cuộc sống, mỗi người trong chúng ta ai cũng cần một lời động viên. Có thể
động viên trong công việc, học tập,... nhưng những lời động viên làm cho chúng ta
thấy mình được quan tâm, chia sẻ và yêu thương. Cho nên trong cuộc sống chúng ta
hãy giành thật nhiều những lời động viên, khích lệ cho người thân, bạn bè và mọi
người xung quanh.Trước tiên chúng ta cần hiểu động viên là gì?
Là một hình thức, có thể bằng lời nói hay một hành động cụ thể nào đó giúp chúng ta
cảm thấy thoải mái, phấn chấn và vui vẻ hơn. Động viên giúp chúng ta có thêm động
lựcvà quyết tâm hơn trong công việc mà mình sắp làm. Vậy vì sao động viên lại có ý
nghĩavà rất cần thiết trong cuộc sống?
Vì lời động viên có thể làm một người gặp bế tắc trong mọi việc sẽ giúp họ có thể
tìmra được hướng giải quyết tốt hoặc khi chúng ta cảm thấy bế tắc trong cuộc sống thì
có thể bố mẹ sẽ cho chúng ta những lời động viên, khích lệ làm cho chúng ta thấy cảm
giác bế tắc đó không còn nữa và thay vào đó chúng ta sẽ sống tích cực, vui vẻ lạc quan
hơn trong cuộc sống. Chúng ta có thể thấy các cầu thủ bóng đá ngoài kĩ năng của họ,
họ còn nhận được những lời động viên, khích lệ từ các cổ động viên, bố mẹ, người
thân giúp họ trở nên mạnh mẽ đương đầu với những khó khăn, thử thách đang ở phía
trước. Và sau đó họ mang lại cho chúng ta cảm giác vui sướng, xúc động trước những
bàn thắng đầy thuyết phục của họ, mang lại niềm tự hào dân tộc cho những người con
Việt Nam. Chúng ta có thể thấy những lời nói động viên không cần phải quá hoa mỹ,
phô trương chỉ cần nhữnglời nói ở tận sâu đáy lòng chúng ta cũng giúp họ trở nên kiên
cường, mạnh mẽ. Người nhận được những lời khích lệ sẽ thoát khỏi bờ vực của sự đau
khổ và từ đó cố gắng cống hiến cho đời. Người trao đi lời động viên không chỉ là
người cho mà còn là người nhận.Cái họ nhận được là sự yêu mến, là tâm hồn và nhân cách đẹp.
 Cho nên vì thế những lời cổ vũ động viên mang lợi lại rất nhiều lợi ích về mặt
tinh thần và nó cũng là truyền thống quý báu tốt đẹp của dân tộc, được gìn giữ
và phát huy từ bao đời nay. Như Anatole France từng nói: Giáo dục chín phần
mười là động viên, khích lệ hay có thể nói động viên, khích lệ cũng chính là
đang giáo dục. Nhưng thật đáng buồn vì còn có những con người vẫn còn
những lối cư xử chưa tốt hoặc chưa đúng đắn, có thể thấy ngoài những cổ động
viên khích lệ kể cả khi đội bóng thua thì họ vẫn giành những lời động viên tốt
đẹp, còn có những người chê bai hoặc cảm thấy đội nhà dở tệ thì đó là những
người không tốt. Cần loại bỏ những đức tính xấu này ra khỏi xã hội. Là sinh
viên vẫn đang được giáo dục và đào tạo chúng ta cần phải tập một đức tính tốt,
luôn thông cảm, chia sẻ với mọi người xung quanh và hãy luôn luôn giành
những lời động viên tốt đẹp nhất cho những người xung quanh mình.
2. Nhận định như thế nào về phát biểu sau của W illiam A. Warrd:
Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.
Em cho rằng Ward hoàn toàn đúng và câu nói trên của ông thật tuyệt vời để
phân biệt những kỹ năng cần thiết và nhiệm vụ cao cả mà một người thầy cần phải có.
Những kỹ năng "nói", "giải thích" và "minh họa" là những yêu cầu cơ bản, có
tính chất kỹ thuật đối với một giáo viên. Nhưng chỉ có "người thầy vĩ đại" mới
"biết cách truyền cảm hứng" cho học trò.
Để truyền được cảm hứng cho học trò thì những kỹ năng cơ bản và kỹ thuật khi
giảng bài của người thầy là chưa đủ, cho dù có thể rất nhiều và rất công phu.
"Truyền cảmhứng" cho học trò có nghĩa là không chỉ truyền đạt kiến thức, kinh
nghiệm thông thường mà ở mức cao nhất là truyền ngọn lửa tình yêu khoa học,
chất men say khoa học cho học trò để các em tiếp tục tự học thêm, tự hoàn thiện
mình, trong suốt cuộc đời mình.