-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đề cương kinh doanh xuất bản phẩm | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Trình bày khái niệm kinh doanh? Trình bày khái niệm xuất bản phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam? Hãy làm rõ giá trị hàng hoá của xuất bản phẩm? Trình bày hệ thống kinh doanh xuất bản phẩm tư nhân? Trình bày các cách hiểu về thị trường truyền thống? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Quản trị kinh doanh xuất bản phẩm 3 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Đề cương kinh doanh xuất bản phẩm | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Trình bày khái niệm kinh doanh? Trình bày khái niệm xuất bản phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam? Hãy làm rõ giá trị hàng hoá của xuất bản phẩm? Trình bày hệ thống kinh doanh xuất bản phẩm tư nhân? Trình bày các cách hiểu về thị trường truyền thống? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Quản trị kinh doanh xuất bản phẩm 3 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Câu 1 (2 điểm): Trình bày khái niệm kinh doanh?
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, kinh doanh là phương thức
hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn tại nền kinh tế hàng hoá, gồm tổng thể những
phương pháp, hình thức và phương tiện mà chủ thể kinh tế sử dụng để thực hiện
các hoạt động kinh tế của mình (bao gồm quá trình đầu tư, sản xuất, vận tải,
thương mại, dịch vụ, vv.) trên cơ sở vận dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật
khác, nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời cao nhất.
Theo Từ điển xuất bản – Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa Việt Nam, kinh
doanh là việc đầu tư tiền bạc, công sức để mở rộng hoặc tổ chức sản xuất, buôn
bán các xuất bản phẩm nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, điều 4, khoản 16, chương 1: Kinh doanh
được hiểu là việc thực hiện liên tục một, một số, hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục tiêu sinh lời.
Như vậy, kinh doanh là phương thức hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn
tại nền kinh tế hàng hoá. Đó là một quá trình đầu tư, có thể là một công đoạn/một
số công đoạn/hoặc toàn bộ quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, nhằm mục tiêu sinh lời
Câu 2 (2 điểm): Trình bày khái niệm xuất bản phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam?
Theo nghĩa thông thường, xuất bản phẩm là sản phẩm của hoạt động xuất
bản. Nói cách khác, xuất bản phẩm là các tác phẩm sau khi gia công biên tập, qua
chế bản, nhân bản để phát hành đến công chúng.
Luật xuất bản 1993, Điều 4, Chương 1
Xuất bản phẩm quy định tại Luật này là tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật và các sản phẩm khác được
xuất bản, in, nhân bản bằng các vật liệu, phương tiện kỹ thuật khác nhau, bằng
tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài, được xuất bản không định
kỳ nhằm phổ biến cho nhiều người.
Luật Xuất bản 2004, Điều 4, Chương 1
Xuất bản phẩm là tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản
bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài và còn được thể
hiện bằng hình ảnh, âm thanh trên các vật liệu, phương tiện kỹ thuật khác nhau.
Luật Xuất bản 2012, Điều 4, Chương 1
Xuất bản phẩm là tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản thông
qua nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản bằng các
ngôn ngữ khác nhau, bằng hình ảnh, âm thanh và được thể hiện dưới các hình thức sau đây: a) Sách in; b) Sách chữ nổi;
c) Tranh, ảnh, bản đồ, áp-phích, tờ rời, tờ gấp; d) Các loại lịch;
đ) Bản ghi âm, ghi hình có nội dung thay sách hoặc minh họa cho sách.
Câu 3 (2 điểm): Hãy làm rõ giá trị hàng hoá của xuất bản phẩm?
(1) Xuất bản phẩm là hàng hoá vật chất đặc biệt
Xuất bản phẩm là hàng hoá vật chất, được đem ra trao đổi trên thị trường.
Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản: giá trị sử dụng và giá trị.
Xuất bản phẩm là hàng hoá văn hoá. So với hàng hoá nói chung, đặc điểm
nổi bật nhất của hàng hoá sách nằm ở chỗ sách là một loại hàng hoá văn hoá, sản
phẩm hàng hoá tinh thần, trí tuệ.
(2) Hàng hoá xuất bản phẩm có tính cá biệt cao
Tính cá biệt của hàng hoá nói lên mức độ có thể thay thế giữa các loại hàng
hóa với nhau. Hàng hoá có tính cá biệt cao sẽ có tính chất lựa chọn đối tượng tiêu
dùng khá đặc biệt. Vì thế, khả năng thay thế nó của những hàng hóa tương tự càng thấp.
Tính cá biệt của hàng hoá sách bắt nguồn từ thuộc tính văn hoá của sách
(tính cá biệt của hàng hoá càng cao, thị trường hàng hoá và mức độ chia nhỏ người
tiêu dùng càng cao, chủng loại hàng hoá càng nhiều)
Tính cá biệt của sản phẩm càng cao, mức độ đàn hồi giá càng thấp. Khi mức
đàn hồi giá thấp sẽ cho phép nhà cung cấp nâng cao giá thành để thu được lợi nhuận cao hơn.
(3) Hàng hoá xuất bản phẩm có yếu tố bên ngoài tích cực
Yếu tố bên ngoài tiêu cực, có nghĩa là người khác hoặc xã hội bị tổn thất,
nhưng cá nhân hoặc tổ chức thương mại có hành vi gây ảnh hưởng lại không bỏ ra
chi phí bồi thường tương ứng, ví dụ như ô nhiễm, hút thuốc nơi công cộng, xả rác bừa bãi…
Nếu yếu tố bên ngoài là tích cực nghĩa là phúc lợi của người khác và xã hội
tăng lên, nhưng cá nhân hoặc tổ chức thương mại có hành vi ảnh hưởng tích cực lại
không nhận được sự bù đắp, hỗ trợ nào…
Dù là loại sản phẩm tinh thần nhưng xuất bản phẩm vẫn có thuộc tính là
hàng hóa buộc phải tuân thủ quy luật của cơ chế thị trường. Nó quyết định in ra sản
phẩm mà bạn đọc cần mua chứ không phải in ra các sản phẩm mà nhà xuất bản cần
bán. Vì vậy, xuất bản phải có kế hoạch phải trở thành một ngành kinh doanh xuất
phát từ lượng cầu về xuất bản phẩm mà xã hội đòi hỏi thị trường phải thỏa mãn.
Cầu ở đây là nhu cầu có khả năng thanh toán. Nó phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng
xuất bản phẩm của độc giả, thu nhập bằng tiền của độc giả, và giá bán lẻ xuất bản
phẩm trên thị trường phù hợp với sức mua của độc giả.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động xuất bản là hoạt động sản xuất đặc thù
vừa là sản xuất hàng hóa vừa sản xuất phi hàng hóa. Tính đặc thù đó thể hiện ở
tính chất hàng hóa ở mỗi loại xuất bản phẩm, mỗi loại mảng sách. Có loại xuất bản
phẩm bản thân có tính hàng hóa, có thể chuyển hóa trực tiếp thành của cải vật chất
khi sử dụng, tạo ra các giá trị vật chất mới như các bản vẽ kĩ thuật, mẫu thiết kế
thời trang, thiết kế nhà, phần mềm vi tính cho các dịch vụ… Có loại xuất bản phẩm
bản thân nó chỉ mang lại giá trị tinh thần, đáp ứng nhu cầu tinh thần. Nó vốn là các
tác phẩm được viết ra không nhằm mục đích thu lợi- là kết tinh lao động không
sinh lợi- các tác phẩm văn học, nghệ thuật, nó không trực tiếp làm tăng trưởng giá trị vật chất xã hội.
Cũng có loại xuất bản không thể là hàng hóa. Bởi nó là xuất bản phẩm được
sản xuất đặc biệt., có chi phí rất lớn, không thể trao đổi ngang giá, không thể cạnh
tranh, nó là sản phẩm phục vụ công cộng, mà nhà nước phải đảm nhận việc sản
xuất và cung cấp cho xã hội… Đó là các tác phẩm lý luận văn hóa, sưu tập văn
thóa được biên soạn công phu, tốn kém, làm nền tảng cho nền văn hóa dân tộc, cần
thiết cho mọi người nhưng không thể mua bán mà phải cung cấp vì sự nghiệp văn hóa giáo dục tư tưởng.
Hàng hóa xuất bản phẩm là loại hàng hóa đặc thù xét ở mặt giá trị và giá trị
sử dụng của nó. Trong cơ chế thị trường, xuất bản phẩm phải trở thành hàng hóa.
Nó đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của con người, được phổ biến rộng rãi trong
xã hội thông qua trao đổi mua bán. Tuy nhiên, xuất bản phẩm là hàng hóa đặc biệt.
Tính đặc biệt biểu hiện trên cả giá trị và giá trị sử dụng của nó.
Trong khi sử dụng, giá trị của xuất bản phẩm không mất đi, mà nó được bảo
tồn và nhân lên cùng thời gian, có sức lan tỏa, càng có nhiều người dùng, giá trị sử
dụng càng lớn. Một khi giá trị đó trở thành truyền thống, bản sắc dân tộc, nó sẽ
trường tồn với thời gian.
Giá trị sử dụng của xuất bản phẩm khi được sử dụng còn tạo ra những hiệu
ứng xã hội, tức là tạo ra các giá trị văn hóa-xã hội. Những giá trị này được giữ gìn
trong ý thức xã hội, dù hàng hóa xuất bản phẩm mất đi, giá trị sử dụng của nó tạo
ra vẫn còn. Một xuất bản phẩm nếu có nội dung lành mạnh, có tính tư tưởng và
nghệ thuật cao sẽ có tác dụng tích cực đến tiêu dùng và xã hội. Nó làm con người
sống nhân văn hơn, thương yêu nhau hơn. Nó khích lệ con người vượt qua những
khó khăn, gian khổ để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó, những
tác phẩm còn phê phán những thói hư tật xấu của con người, xã hội để cảnh tỉnh,
rút ra những bài học để phòng tránh, khắc phục.
Câu 4 (2 điểm): Trình bày hệ thống kinh doanh xuất bản phẩm nhà nước?
Hệ thống kinh doanh xuất bản phẩm nhà nước là lực lượng giữ vai trò quan trọng
trên thị trường và có quá trình phát triển lâu dài. Trong những năm gần đây, các
các đơn vị này giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội của đất nước. Do xu hướng phát triển tất yếu nền kinh tế trong điều kiện hiện
nay và sự phát triển không ngừng nhu cầu sách trong xã hội, từ Đại hội Đảng VII,
Nhà nước đã chủ trương đổi mới mạnh mẽ khu vực kinh tế quốc doanh. Trong điều
kiện hiện nay, các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh sách có sự biến động lớn cả
về mô hình, tính chất và quy mô hoạt động.
Thứ nhất, đơn vị sự nghiệp có thu. Đây là dạng doanh nghiệp nhà nước
hoạt động ở các vùng, miền, địa phương, thị trường khó khăn. Dạng tổ chức này
hoạt động nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục, và nâng cao dân trí đối với vùng
sâu, vùng xa, đồng bào các dân tộc thiểu số. Các đơn vị này không có khả năng
cạnh tranh trên thị trường, hiện nay chiếm 15% tổng số doanh nghiệp nhà nước.
Một số doanh nghiệp cụ thể: Công ty Điện ảnh và PHS Hà Giang, Trung tâm
phát hành văn hoá phẩm Yên bái; Trung tâm PHS Lai Châu, Trung tâm văn hoá
tổng hợp Tây Ninh, Trung tâm văn hoá tổng hợp An Giang…
Thứ hai, doanh nghiệp là công ty TNHH nhà nước một thành viên. Đây là
doanh nghiệp Nhà nước có hạn định, chịu sự quản lý của Nhà nước về các chỉ tiêu
hoạt động. Đồng thời với thực hiện mục tiêu kinh doanh phải thực hiện nhiệm vụ
chính trị Nhà nước giao. Dạng doanh nghiệp này trên thị trường còn rất ít, sức cạnh tranh không cao.
Thứ ba, dạng công ty cổ phần nhà nước. Dạng doanh nghiệp này trong
ngành phát hành phát triển mạnh. Nhìn chung, các doanh nghiệp cổ phần hoạt
động hiệu quả hơn, năng lực kinh doanh và cạnh tranh tốt hơn. Tiêu biểu: Công ty
phát sách hành sách Thành phố Hồ Chí Minh - FAHASA, Công ty cổ phần văn hoá
phương Nam, gọi tắt là PNC; Công ty cổ phần thiết bị giáo dục Hà Nội, Công ty cổ
phần sách giáo dục; Công ty cổ phần phát hành sách Phú Thọ, Công ty cổ phần
phát hành sách Thái Nguyên…
Đặc biệt, năm 2006, FAHASA là đơn vị phát hành sách duy nhất của Việt
Nam được tạp chí Retail ASIA bình chọn trong danh sách 500 nhà bán lẻ hàng đầu
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, và thứ 7 trong danh sách các nhà bán lẻ hàng đâu Việt Nam.
Năm 2017, Công ty phát sách hành sách Thành phố Hồ Chí Minh khai
trương thêm 10 nhà sách quy mô lớn, đưa số nhà sách của FAHASA lên 101 cơ sở
hiện đại, trên 42 tỉnh, thành phố trong cả nước. Đây là đơn vị đứng đầu toàn ngành
về doanh thu và mạng lưới cửa hàng.
Công ty cổ phần văn hoá Phương Nam đầu tư khai trương 12 nhà sách, trong
đó có 03 thành phố sách – Book city quy mô lến đến 3000m2 tại thành phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Bình Dương. Đây là mô hình có quy mô vào loại lớn và hiện đại ở khu vực và thế giới.
Thứ tư, doanh nghiệp Nhà nước, Đây là dạng doanh nghiệp do Nhà nước
thành lập. Hiện nay, loại này chiếm tỷ lệ nhỏ trong loại hình doanh nghiệp. Tính tự
chủ, hiệu quả, năng lực cạnh tranh thấp. Bởi nguyên nhân chính là doanh nghiệp
được Nhà nước bao cấp kinh phí , tính thụ động, trông chờ, kiến doanh nghiệp khó
thích nghi với cơ chế thị trường.
Câu 5 (2 điểm): Trình bày hệ thống kinh doanh xuất bản phẩm tư nhân?
Trong những năm gần đây, lực lượng tư nhân tham gia vào hoạt động phát
hành sách phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng với đa dạng các loại hình
doanh nghiệp: Công ty cổ phần, TNHH, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể.
Theo số lượng thống kê không đầy đủ của Bộ Văn hoá – Thông tin, cả nước
có khoảng hơn 15.000 hộ kinh doanh sách, phân bổ trên khắp cả nước. Trong đó
chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các trung tâm và hoạt động có hiệu quả.
Thành phố Hồ Chí Minh là thị trường có số lượng tư nhân tham gia kinh
doanh sách đông nhất. Tư nhân hoạt động với quy mô lớn, có mạng lưới kinh
doanh bao phủ nhiều tỉnh, thành phố các miền Bắc - Trung – Nam. Một số đơn vị
lớn như Công ty TNHH Văn hoá Văn Lang, Nhà sách Minh Khai, Công ty TNHH
Thương mại - Dịch vụ văn hoá Hương Trang, Nhà sách Trí Việt, Công ty sách
Thời đại, Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ văn hoá Gia Vũ…
Thành phố Hà Nội là thị trường có số lượng tư nhân tham gia kinh doanh
sách lớn thứ hai cả nước. So với thành phố Hồ Chí Minh, tư nhân kinh doanh sách
hoạt động với quy mô và phạm vi nhỏ hơn. Một số công ty lớn như Công ty cổ
phần sách Thái Hà, Công ty cổ phần sách Anpha, Công ty cổ phần văn hoá và
truyền thông Nhã Nam. Ngoài ra còn các tư nhân kinh doanh sách, tiêu điểm chính
như phố sách Đinh Lễ, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Đường Láng…
Câu 6 (2 điểm): Trình bày các cách hiểu về thị trường truyền thống?
Thị trường là một tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại
lẫn nhau dẫn đến khả năng trao đổi.
Thị trường là một tập hợp các dàn xếp mà thông qua đó, người bán và người
mua tác động qua lại để trao đổi hàng hóa với nhau.
Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua một
thứ hàng hoá thông qua tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hoá.
Thị trường là một hoạt động kinh tế rất phức tạp và là một thể tổng hợp
của các mối quan hệ kinh tế. Nó không chỉ liên quan trực tiếp, mà còn có
quan hệ mật thiết tới vận mệnh của các xí nghiệp và sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Khái niệm thị trường ra đời và phát triển cùng với sự phát
triển của việc trao đổi hàng hóa. Ban đầu, do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội còn thấp kém, việc trao đổi hàng hóa vẫn chưa được
phát triển, thị trường lúc đó chủ yếu chính là chỉ địa điểm cụ thể để trao đổi
hàng hóa, là nơi để tiến hành trao đổi hàng hóa, là một khái niệm không gian thuần túy.
Câu 7 (2 điểm): Hãy làm rõ vận động quy luật cung cầu trên thị trường xuất bản phẩm? Về cung cầu hàng hóa
Cầu hàng hóa là số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua có khả năng
và sẵn sàng mua ở mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định Cầu khác với nhu cầu: Cầu là giới hạn Nhu cầu là vô hạn
Cầu XBP không chỉ phụ thuộc vào: thu nhập của người tiêu dùng, giá cả của
các loại hàng hóa liên quan, dân số, thị hiếu, các kỳ vọng (của người tiêu dùng)
Cầu XBP chịu sự chi phối mạnh của các điều kiện chính trị, văn hóa và xã
hội và trình độ dân trí
Điều kiện để nhu cầu trở thành cầu:
Có mong muốn, đòi hỏi bức xúc:
Người có nhu cầu phải có một trình độ hiểu biết nhất định
Người có nhu cầu cần được tuyên truyền, vận động tích cực Có khả năng thanh toán Cung hàng hóa
Cung hàng hóa: là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người bán có khả
năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định
Các yếu tố tác động đến cung; công nghệ, giá cả của các yếu tố sản xuất,
chính sách thuế, số lượng người sản xuất, các kỳ vọng (của người sản xuất)
=> Cung không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố trên mà nó còn chịu sự tác động
mạnh của định hướng tiêu dùng văn hóa của quốc gia.
=> Không cầu, có cung (sản phẩm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà
nước) — Có cầu, không cung (sản phẩm không đúng định hướng)
=> Cung dẫn dắt định hướng nhu cầu của xã hội
Câu 8 (2 điểm): Trình bày các phương thức khai thác hàng hoá xuất bản phẩm hiện nay?
Thứ nhất, đặt mua sách từ các nhà xuất bản.
Có thể thực hiện bằng các phương thức sau:
Đặt sách trong kế hoạch của các nhà xuất bản.
Khi tiến hành khai thác theo hình thức này, người khai thác phải nghiên cứu
bản thảo sách trong kế hoạch xuất bản, tức là tìm hiểu giá trị nội dung giá trị nghệ
thuật hoặc giá trị thực tiễn của sách cũng như uy tín của tác giả.
Tìm hiểu về nhà xuất bản mà doanh nghiệp muốn đặt mối quan hệ hợp tác,
xem xét nhà xuất bản đó hoạt động như thế nào, sản phẩm họ đưa ra có uy tín trên
thị trường không, khả năng cung ứng của họ ra sao và đánh giá của khách hàng về
nhà xuất bản có tốt hay không? Tìm kiếm các thông tin về nhu cầu và sự biến động
của thị trường để có những dự báo về khả năng tiêu thụ hàng hóa trong tương lai
đồng thời căn cứ vào điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp để lên kế hoạch khai thác chính xác.
Các doanh nghiệp không chỉ mua sách ở các nhà xuất bản mà còn mua sách
qua các nhà trung gian và đại lý của nhà xuất bản.
Thứ hai, liên doanh liên kết xuất bản sách
Hình thức liên kết trọn gói với nhà xuất bản
Doanh nghiệp chi trả cho các nhà xuất bản để xuất bản một số đầu sách, đây
là việc làm khá phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Công việc được tiến hành theo
hai cách như sau: thứ nhất là tiến hành khai thác bản thảo tại các nhà xuất bản; thứ
hai là khai thác bản thảo trực tiếp từ tác giả.
Trường hợp khai thác bản thảo tại các nhà xuất bản: biên tập viên trực
tiếp xem xét kế hoạch đề tài xuất bản hàng năm của họ, chọn kỹ một số đầu sách
để liên kết xuất bản. Sau khi lựa chọn và đi đến quyết định, cả hai bên cùng cùng
thỏa thuận và ký hợp đồng, (thông thường hợp đồng được ký ngay từ đầu năm).
Căn cứ tình hình thực tiễn để triển khai hợp đồng chi tiết, lên kế hoạch xuất bản.
Trường hợp khai thác trực tiếp từ tác giả để liên kết xuất bản:
Đặt đề tài với tác giả, mục đích người khai thác đã nghiên cứu nhu cầu
khách hàng, nghiên cứu thị trường, và những cơ sở sản xuất …Tính toán các chi
phí với tác giả và đi đến thỏa thuận để có bản thảo.
Lên kế hoạch xuất bản với nhà xuất bản, tên nhà xuất bản phù hợp với tên đề
tài, tác giả, số lượng, thời gian, nhuận bút…
Tự tổ chức xuất bản, thông phương thức quản lý chi phí
Trường hợp này, đơn vị xuất bản chịu trách nhiệm toàn bộ đối quy trình xuất
bản, từ khai thác, tổ chức bản thảo, đến biên tập, chế bản, in ấn và phát hành. Với
phương thức này, nhà xuất bản duyệt và cung cấp giấy phép cho đơn vị xuất bản.
Phương thức liên kết để xuất bản sách là hình thức khai thác hàng hoá phổ
biến trong giai đoạn hiện nay. Hình thức này chiếm nhiều ưu thế trong kinh doanh
sách tạo được nhiều hàng tốt, hàng có chất lượng cao, nguồn hàng có sớm, phân bố
nơi tiêu thụ nhanh, chủ động nắm trọn nguồn hàng trên thị trường, làm chủ được
giá mua, giá bán và giá chiết khấu thương nghiệp. được lợi nhuận, có lợi nhiều cho doanh nghiệp.
Thứ ba, nhận sách ký gửi, trao đổi sách.
Sách ký gửi có một số những hạn chế như phương thức thanh toán chậm,
hình thức thanh toán được thỏa thuận cụ thể giữa các nhà xuất bản và người nhận
ký gửi. Sách ký gửi có thời hạn, không tiêu thụ được sẽ trả lại cho nhà xuất bản
hoặc đại lý, hoặc các tổ chức khác…những nơi đó, phải thanh toán các lệ phí như
phí kho, phí bảo quản, phí tuyên truyền giới thiệu.
Hình thức này có ưu điểm: không phải bỏ vốn kinh doanh mà vẫn có hàng
hoá; tạo cho doanh nghiệp phong phú nguồn hàng; tỷ lệ chiết khấu thương nghiệp cao.
Tuy nhiên, hình thức này vẫn còn những hạn chế đó là: tính thời sự của sách
ít nhiều có chậm hơn, nguồn hàng kinh doanh luôn phải được theo dõi, sức tiêu thụ
sẽ chậm, nếu như người bán thiếu trách nhiệm.
Trao đổi sách cũng là một hình thức khai thác khá phổ biến hiện nay. Nhiều
doanh nghiệp tiến hành liên kết xuất bản nên nắm trong tay một lượng lớn đầu
sách độc quyền, sẽ tiến hành trao đổi với các doanh nghiệp chưa sở hữu các đầu
sách đó. Điều này giúp cho cơ cấu hàng hóa của cả hai bên trở nên phong phú đồng
thời tăng cường các mối quan hệ hợp tác trên thị trường.
Câu 9 (2 điểm): Hãy làm rõ vai trò của tiêu thụ hàng hoá xuất bản phẩm?
Tiêu thụ xuất bản phẩm là khâu cuối cùng của của quá trình kinh doanh xuất
bản phẩm. Thực chất của tiêu thụ xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường là chỉ sự
bán ra xuất bản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để bán được xuất bản phẩm cần có sự vận động tích cực của người bán
với người mua bằng các kỹ xảo.
Theo ý nghĩa kinh tế, tiêu thụ xuất bản phẩm là quá trình chuyển giao quyền
sở hữu xuất bản phẩm nhằm thực hiện mục đích của các bên tham gia trao đổi, kết
thúc một quá trình tiêu thụ khi hàng hoá được mua và bán. Khách hàng mua xuất
bản phẩm thoả mãn nhu cầu hưởng thụ giá trị tri thức, doanh nghiệp thu tiền để tái
sản xuất sức lao động và kinh doanh. * Vai trò của tiêu thụ
- Thực hiện việc phổ biến xuất bản phẩm thông qua hình thức trao đổi hàng – tiền,
đưa xuất bản phẩm đến người tiêu dùng. Vì thế, tiêu thụ xuất bản phẩm góp phần
tích cực phổ biến tri thức.
- Tiêu thụ góp phần trực tiếp thoả mãn nhu cầu khách hàng về xuất bản phẩm.
- Tiêu thụ trực tiếp góp phần vào việc tái sản xuất – kinh doanh xuất bản phẩm.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sản xuất xuất bản phẩm là để bán. Xuất bản
phẩm bán được, bán nhanh sẽ thúc đẩy quá trình tái sản xuất xuất bản phẩm.
- Tiêu thụ góp phần tích cực thúc đẩy phát triển các khâu nghiệp vụ khác như
nghiên cứu thị trường, nghiên cứu mặt hàng, các nghiệp vụ tiêu thụ, tiếp thị khác.
Câu 10 (2 điểm): Hãy trình bày những quy định Luật xuất bản về kinh doanh xuất bản phẩm?
Điều 36 đến 42 chương 4 Luật xuất bản 2012
Câu 11 (2 điểm): Trình bày cách hiểu về thị trường hiện đại
Câu 12 (2 điểm): Trình bày biểu hiện của kinh doanh trong 3 khâu hoạt động xuất bản?
Câu 13 (2 điểm): Quan niệm về hàng hoá xuất bản phẩm theo theo kinh tế học?
Câu 14 (2 điểm): Hãy làm rõ giá trị sử dụng hàng hoá của xuất bản phẩm?
Trong nền kinh tế thị trường, xuất bản phẩm là một loại hàng hóa, nhưng là
hàng hoá đặc thù. Giá trị sử dụng hàng hóa của xuất bản phẩm được thể hiện rõ
thông qua tính chất hàng hóa của xuất bản phẩm. Phân tích từ góc độ kinh tế học,
tính chất hàng hoá của xuất bản phẩm thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
(1) Xuất bản phẩm là hàng hoá vật chất đặc biệt
Xuất bản phẩm là hàng hoá vật chất, được đem ra trao đổi trên thị trường.
Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản: giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của
hàng là ích dụng của hàng hóa thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ, công dụng của một cái kéo là để tạo nên giá trị sử dụng của nó là để cắt;
công dụng của bút để viết nên giá trị sử dụng của nó là để viết. Một hàng hóa có
thể có một công dụng hay nhiều công dụng nên nó có thể có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
=> Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa. Là sản phẩm của lao động, có lao động kết tinh vào trong đó.
Có sự chi phí về thời gian, sức lực và trí tuệ của con người khi sản xuất chúng.
Khi đưa ra ngoài thị trường để trao đổi, mua bán thì giá trị của hàng hóa thể hiện
qua giá trị trao đổi hay giá cả của hàng hóa.
Xuất bản phẩm là hàng hoá văn hoá. So với hàng hoá nói chung, đặc
điểm nổi bật nhất của hàng hoá sách nằm ở chỗ sách là một loại hàng hoá văn hoá,
sản phẩm hàng hoá tinh thần, trí tuệ. So với hàng hoá thông thường, xuất bản phẩm
có những đặc điểm riêng biệt:
Việc sử dụng xuất bản bản phẩm đòi hỏi yêu cầu cơ bản như:
1. Người tiêu dùng hàng hoá xuất bản phẩm (sách) phải có trình độ
văn hoá nhất định. Tỷ lệ mù chữ và bán mù chữ ảnh hưởng trực
tiếp đến thị phần của thị trường sách.
2. Thời gian trải nghiệm thực tiễn.
3. Người đọc cần được tuyên truyền vận động tích cực.
(2) Hàng hoá xuất bản phẩm có tính cá biệt cao
Tính cá biệt của hàng hoá nói lên mức độ có thể thay thế giữa các loại hàng
hóa với nhau. Hàng hoá có tính cá biệt cao sẽ có tính chất lựa chọn đối tượng tiêu
dùng khá đặc biệt. Vì thế, khả năng thay thế nó của những hàng hóa tương tự càng
thấp. Tính cá biệt của hàng hoá sách bắt nguồn từ thuộc tính văn hoá của sách.
Thông thường, tính cá biệt của hàng hoá càng cao, thị trường hàng hoá và mức độ
chia nhỏ người tiêu dùng càng cao, chủng loại hàng hoá càng nhiều. Xuất phát từ
nhu cầu tiêu dùng văn hoá ngày càng phong phú, đa dạng, chủng loại sách ngày
càng nhiều phù hợp dân tộc, độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, sở thích, tầng văn hoá…
Tính cá biệt của sản phẩm càng cao, mức độ đàn hồi giá càng thấp. Khi mức
đàn hồi giá thấp sẽ cho phép nhà cung cấp nâng cao giá thành để thu được lợi
nhuận cao hơn, đặc biệt đối với các loại sách học thuật và báo cáo nghiên cứu có
đối tượng độc giả đặc thù. Ví dụ ở nước ngoài, giá thành sách học thuật đều rất
cao, thường cao hơn sách đại chúng, phổ cập mấy lần, thậm chí mười mấy lần.
(3) Hàng hoá xuất bản phẩm có yếu tố bên ngoài tích cực
Khi hành vi của một cá nhân hay tổ thức thương mại ảnh hưởng trực tiếp
đến người khác hoặc không nhận được sự bù đắp nào, lúc đó sẽ xuất hiện yếu tố
bên ngoài. Nếu yếu tố bên ngoài là tiêu cực, có nghĩa là người khác hoặc xã hội bị
tổn thất, nhưng cá nhân hoặc tổ chức thương mại có hành vi gây ảnh hưởng lại
không bỏ ra chi phí bồi thường tương ứng, ví dụ như ô nhiễm, hút thuốc nơi công
cộng, xả rác bừa bãi…
Nếu yếu tố bên ngoài là tích cực nghĩa là phúc lợi của người khác và xã hội
tăng lên, nhưng cá nhân hoặc tổ chức thương mại có hành vi ảnh hưởng tích cực lại
không nhận được sự bù đắp, hỗ trợ nào… Sách với vai trò là hàng hoá văn hoá và
truyền tải tri thức, chủ yếu có chức năng truyền đạt và phổ cập kiến thức, vì thế,
sách là loại hàng hoá có yếu tố bên ngoài tích cực.
Giá trị của sách không thể so sánh với giá thành sản xuất ra cuốn sách đó.
Đối với xã hội, người đọc sách càng nhiều, lợi ích thu được càng lớn. Nhưng trên
phạm vi thị trường sách, yếu tố bên ngoài sách không cùng chủng loại là khác nhau.
Xét một cách tương đối, yếu tố bên ngoài tích cực của các loại sách như phổ
cập kiến thức, phổ cập giáo dục, kiến thức chuyên ngành, yếu tố bên ngoài tích
cực sẽ lớn. Đối với sách chỉ có tính chất giải trí đơn thuần, yếu tố bên ngoài tích
cực thường rất nhỏ, thậm chí không có. Tương tự sách không lành mạnh sẽ có yếu
tố bên ngoài tiêu cực. Vì thế, đối với những loại sách lợi ích xã hội cao, lợi ích cá
nhân thấp, tức là sách có yếu tố bên ngoài tích cực khá mạnh, nhà nước cần phải
trở thành nhà cung cấp để lấp đầy khoảng trống thị trường. Đối với các loại sách
khác, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội song hành, được cung ứng theo cơ chế kinh tế thị trường.
Câu 15 (2 điểm): Hãy làm rõ vận động quy luật giá trị trên thị trường xuất bản phẩm?
Giá trị của xuất bản phẩm vừa tuân theo quy luật giá trị vừa đi ngược quy
luật giá trị thông thường.
Có thể xảy ra các trường hợp sau: Giá trị =, < giá cả; Giá trị > giá cả Bản
chất hàng hoá văn hoá quy quyết định tính chất hai mặt về mục tiêu sản xuất: Với
vai trò là hàng hoá – lợi nhuận đặt lên hàng đầu; với vai trò là hàng hoá văn hoá -
phổ cập và nâng cao văn hoá được coi là tôn chỉ.
Từ góc độ nội dung, sách có thể chia thành hai loại lớn là sách học thuật,
nghiên cứu và sách đại chúng. Sách học thuật lấy việc nâng cao tri thức và nhận
thức văn hoá làm mục tiêu, sách đại chúng lấy mục tiêu phổ cập văn hoá làm mục
tiêu. Xét về tổng thể thị trường, sách đại chúng có thị phần lớn hơn nhiều, do đó
mục tiêu lợi nhuận và văn hoá có thể được dung hoà. Khi đó, doanh nghiệp vừa
đảm bảo 2 mục tiêu: lợi nhuận và phổ cập tri thức, khi đó “Giá trị =< Giá cả”.
Sách học thuật, phạm vi thị trường hẹp nên hai mục tiêu khó có thể dung hoà.
Trường hợp này cần sự bảo hộ của nhà nước để dung hòa mâu thuẫn trên, khi đó
“Giá trị > Giá cả”.
Câu 16 (5 điểm): Phân tích những vấn đề kinh tế cơ bản trong kinh doanh xuất bản phẩm?
Doanh nghiệp kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng
đều phải giải quyết 3 vấn đề kinh tế lớn: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
0. Vấn đề kinh tế thứ nhất - Sản xuất cái gì? Bao gồm việc giải quyết một
số vấn đề cụ thể như:
Sản xuất loại hình sản phẩm nào? (Loại hình xuất bản phẩm)
Loại hình sản phẩm cụ thể? (Mặt hàng xuất bản phẩm)
Nội dung sản phẩm? (Nội dung, chủ đề)
Số lượng sản phẩm? (Số bản)
Để giải quyết tốt vấn đề này, các doanh nghiệp phải làm tốt công tác điều tra
nhu cầu của thị trường. Từ nhu cầu vô cùng phong phú và đa dạng, các doanh
nghiệp phải xác định được các nhu cầu có khả năng thanh toán để xây dựng kế
hoạch sản xuất kinh doanh. Sự tương tác của cung và cầu, cạnh tranh trên thị
trường sẽ hình thành nên giá của hàng hóa và dịch vụ, là tín hiệu tốt cho việc phân
bố các nguồn lực xã hội.
Đối với hàng hoá xuất bản phẩm, quyết định sản xuất cái gì còn phải theo
định hướng của Đảng và Nhà nước và tôn chỉ mục đích của đơn vị xuất bản.
Như vậy, cơ sở khoa học quyết định sản xuất cái gì, dựa vào: Nhu cầu thị trường
Định hướng của Đảng và Nhà nước
Phù hợp với năng lực kinh doanh của doanh nghiệp (khả năng, trình độ của doanh nghiệp).
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp kinh doanh xuất bản
phẩm phải đảm bảo được cả ba tiêu chí trên. Ba tiêu chí này được ví như “Kiềng ba
chân” đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp đi đúng hướng, đúng tôn chỉ mục đích.
0. Vấn đề kinh tế thứ hai: Sản xuất như thế nào?
Sản xuất cái gì nói đến cách thức sản xuất, nguồn lực cần thiết cho sản xuất.
Sản xuất cái gì bao gồm các vấn đề:
Lựa chọn công nghệ sản xuất nào?
Lựa chọn các yếu tố đầu vào nào?
Lựa chọn phương pháp sản xuất nào?
Sử dụng nguồn lực nào?
Các doanh nghiệp phải luôn quan tâm để sản xuất ra hàng hóa nhanh, có chi
phí thấp để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Các biện pháp cơ bản các doanh
nghiệp áp dụng là thường xuyên đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ
công nhân và lao động quản lý nhằm tăng hàm lượng chất xám trong hàng hóa và dịch vụ.
b. Vấn đề thứ ba: Quyết định sản xuất cho ai?
Bao gồm việc xác định rõ ai sẽ được hưởng và được lợi từ những hàng hóa
và dịch vụ được sản xuất ra. Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập và giá cả xác
định ai sẽ nhận hàng hóa và dịch vụ cung cấp. Điều này được xác định thông qua
tương tác giữa người mua và bán trên thị trường sản phẩm và thị trường nguồn lực.
Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường, phân phối thực hiện thông qua
quan hệ cung cầu trên thị trường; và khả năng kích cầu của doanh nghiệp (hướng
đến nhu cầu có khả năng thanh toán).
Thu nhập chính là nguồn tạo ra năng lực mua bán của các cá nhân và phân
phối thu nhập được xác định thông qua tiền lương, tiền lãi, tiền cho thuế và lợi
nhuận trên thị trường nguồn lực sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, những ai có
nguồn tài nguyên, lao động, vốn và kỹ năng quản lý cao hơn sẽ nhận thu nhập cao
hơn. Với thu nhập này, các cá nhân đưa ra quyết định loại và số lượng sản phẩm sẽ
mua trên thị trường sản phẩm và giá cả định hướng cách thức phân bổ nguồn lực
cho những ai mong muốn trả với mức giá thị trường.
Bên cạnh đó, phân phối theo nhiệm vụ Đảng và Nhà nước, đối với những
đối tượng chính sách nhà nước.
Câu 17 ( 5 điểm) Phân tích mối quan hệ giữa xuất bản và kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường hiện nay?
Hoạt động xuất bản là tổ hợp hoạt động sản xuất được cấu thành bởi nhiều
thành phần, tạo thành các mắt xích trong dây chuyền sản xuất. Đó là sự chuyển
biến của các yếu tố: nhu cầu và cung cấp, khách hàng và tiêu dùng, sản phẩm và
thị trường… Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động
xuất bản. Từ quy luật vận hành kinh tế thị trường có thể nhìn thấy, giữa xuất bản
và kinh doanh có mối quan hệ mật thiết.
Thứ nhất, kinh doanh là một mắt xích quan trọng, thâm nhập sâu vào
trong lộ trình xuất bản
Dây chuyền xuất bản bao gồm các công đoạn: Kế hoạch lựa chọn đề tài, quá
trình trình biên tập, mở rộng thị trường, kênh bán hàng, người mua. Mỗi công đoạn
này đều có sự hiện diện của kinh doanh.
- Công đoạn biên tập được xây dựng dựa trên những nghiên cứu cơ bản về
nhu cầu thị trường của kinh doanh; đó là sự gia công chỉnh lý đối với đề tài có hiệu quả xã hội.
- Mở rộng thị trường từ trước đến nay vẫn là điểm quan trọng trong hoạt
động kinh doanh, sự thiết lập và mở rộng kênh bán hàng (kênh phân phối) cũng là
khâu không thể thiếu trong kinh doanh.
- Đối với hành vi mua của người tiêu dùng là một bộ phận cấu thành quan
trọng, là một trong các vấn đề kinh tế cơ bản. Thông qua phân tích những nhân tố
ảnh hưởng hành vi mua của người tiêu dùng, nhà kinh doanh xây dựng chiến lược
sản phẩm và hàng hoá phù hợp.
Thứ hai, nhìn từ khía cạnh sản xuất của xuất bản, kinh doanh là nhân tố
đảm bảo cho sự tham gia của doanh nghiệp xuất bản vào thị trường cạnh tranh.
Đơn vị xuất bản về thực chất là một tổ hợp cộng đồng lợi ích, bao gồm 3
bộ phận: sản xuất xuất bản phẩm, lưu thông xuất bản phẩm (đại lý bán sỉ),
doanh nghiệp bán lẻ xuất bản phẩm.
Đối với sự thúc đẩy tính cạnh tranh trong cả ba hoạt động này, kinh doanh
có tác dụng không thể thay thế. Sự thể hiện tính cạnh tranh chủ yếu trong hoạt
động sản xuất xuất bản bản phẩm là ở công đoạn gia công biên tập. Cụ thể là nâng
cao năng lực biên tập đưa được tác phẩm có đạt được hiệu quả cao ra thị trường.
Hoạt động lưu thông xuất bản phẩm, trong sự cạnh tranh quyết liệt trên thị
trường, thường hướng tới việc xây dựng thành công thương hiệu doanh nghiệp, coi
đó là sự thừa nhận của bạn đọc (khách hàng) đối với sự tồn tại của mình.
Doanh nghiệp (bộ phận) bán lẻ đối diện với sự biến đổi không ngừng của
nhu cầu bạn đọc, thông qua các nghiệp vụ bán hàng chuyên nghiệp nhằm thoả mãn
nhu cầu ngày càng cao của bạn đọc.
Thứ ba, nhìn từ góc độ hiệu quả của hoạt động xuất bản, kinh doanh góp
phần căn bản hiện thực hoá hiệu quả hoạt động xuất bản. Hoạt động xuất bản
hướng tới hai hiệu quả: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Về hiệu quả kinh tế, hoạt động xuất bản là hoạt động trên nền tảng kinh tế,
dựa vào các nghiệp vụ kinh tế cơ bản, tiến hành điều tra thị trường, nhu cầu bạn
đọc để cho ra những xuất bản phẩm đáp ứng đúng, trúng nhu cầu bạn đọc. Từ đó,
sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế, không chỉ duy trì, tái sản xuất và tái sản xuất
mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn góp phần mở rộng quy
mô toàn ngành; đóng góp quỹ ngân sách quốc gia.
Về hiệu quả xã hội, ngoài thực hiện chức năng kinh tế, hoạt động xuất bản
thường hướng tới hiệu quả xã hội. Cụ thể, đó là chức năng hình thành ý thức, thái
độ ở người tiêu dùng (bạn đọc, khách hàng). Chức năng hình thành ý thức thái độ
ở người tiêu dùng là hiệu ứng (giá trị sử dụng cơ bản) đặc biệt của hoạt động xuất
bản. Tác dụng của kinh doanh thể hiện ở chỗ, thông qua cung ứng các xuất bản
phẩm ra thị trường, một mặt vừa đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời cũng góp
phần định hướng nhu cầu thị trường. Điều này có tác dụng thúc đẩy to lớn đối với
sự phát triển của sản xuất xuất bản.
Câu 18 (5 điểm): Phân tích luận điểm sau: Trong nền kinh tế thị trường, xuất
bản phẩm là hàng hóa đặc thù?
Khác với hàng hóa thông thường, XBP là sản phẩm của lao động sáng tạo và công
nghệ chế bản, nhằm mục đích tuyên truyền giáo dục, phổ biến tri thức, thông qua
việc mua bán trên thị trường. Tuy nhiên kinh doanh xuất bản phẩm là kinh doanh
loại hàng hóa đặc thù, Là hàng hóa, XBP có những thuộc tính cơ bản bản: giá trị và giá trị sử dụng.
Hàng hóa XBP có những biểu hiện đặc thù như sau:
Trước hết, XBP là sản phẩm thuộc lĩnh vực văn hóa, tinh thần, trí tuệ, nhằm
đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người, nên nó hoàn toàn khác với các nhu cầu
khác, nó phải trải qua một quá trình trong nhận thức của người mua mới diễn ra
việc trao đổi buôn bán nó trên thị trường.
Thứ hai, giá trị sử dụng của xuất bản phẩm khó nhận biết. Để đánh giá được
giá trị sử dụng của xuất bản phải có một quá trình, người mua biến nội dung tư
tưởng của nó thành tư tưởng, hành động hay những phát minh về khoa học- công
nghệ mới. Tuy nhiên giá trị sử dụng của xuất bản phẩm lại có ý nghĩa rất lâu bền.
Tư tưởng của nó có thể được truyền bá từ người này sang người khác, từ thế hệ
này sang thế hệ khác mà các sản phẩm hàng hóa khác không có được.
Thứ ba, khác với các loại hàng hóa thông thường, giá trị và giá trị sử dụng của
xuất bản phẩm không đồng nhất.
Thứ tư, mỗi loại hàng hóa xuất bản phẩm chỉ có thể phù hợp với một hoặc vài
nhóm đối tượng nhất định. Đặc trưng này quy định bởi nội dung tri thức thể hiện
trong các xuất bản phẩm, có thể phù hợp với khả năng, trình độ tiếp nhận của các nhóm khách hàng.
Xuất phát từ tính đặc thù của hàng hóa xuất bản phẩm, và từ tính chất của
công tác phát hành trong nền kinh tế thị trường có định hướng mà khẳng định đặc
trưng, vị trí, vai trò và chức năng hoạt động của phát hành trong xã hội hiện nay.
NHÓM ĐĂNG: ĐÚNG HƠN NÀY =)) Giải thích khái niệm:
Nền kinh tế thị trường: được hiểu là một giai đoạn phát triển của nền kinh tế,
dùng để thể hiện nền văn minh của nhân loại, trong đó việc sản xuất phù hợp với
nhu cầu của con người, có sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong xã hội.
Xuất bản phẩm: được định nghĩa theo Khoản 4 Điều 4 Luật Xuất bản 2012,
được hiểu đơn giản là sản phẩm của hoạt động xuất bản, là sản phẩm tinh thần
được kết tinh dưới dạng vật chất hóa.
Hàng hóa: là sản phẩm của lao động, có giá trị có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người thông qua trao đổi hay buôn bán và được lưu thông trên thị
trường, có sẵn trên thị trường
Đặc thù: nét riêng biệt làm cho sự vật này khác với sự vật cùng loại khác,
tính chất của đặc thù là những đặc tính, đặc điểm nổi bật của sự vật, hiện tượng,
dùng để phân biệt giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Phân tích sâu:
+ Trong nền kinh tế thị trường, XBP là hàng hóa, vì: là sản phẩm của lao động trí
óc do con người sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và được đưa
lên thị trường để thực hiện chức năng mua-bán.
+ XBP là hàng hóa nhưng là loại hàng hóa đặc thù vì:
· XBP là hàng hóa văn hóa vừa mang tính chất văn hóa vừa mang tính
chất kinh tế (việc sử dụng xbp yêu cầu người sử dụng có trình độ văn
hóa nhất định; giá trị của xbp vừa tuân theo quy luật giá trị vừa đi
ngược quy luật giá trị thông thường): một mặt thu lợi nhuận một mặt phổ biến kiến thức
· XBP có tính cá biệt cao: khả năng bị thay thế bởi các hàng hóa khác thấp.
· XBP có giá trị và giá trị sử dụng không đồng nhất.
· XBP có yếu tố bên ngoài tích cực: sách truyền tải tri thức -> phúc lợi
của xã hội tăng lên nhưng cá nhân, tổ chức tạo ra ảnh hưởng tích cực
không nhận được bù đắp, hỗ trợ.
· Giá trị của XBP không thể so sánh với giá thành sản xuất ra cuốn
sách. Đối với xã hội, người đọc sách càng nhiều, lợi ích thu được càng lớn.
Khẳng định luận điểm trên là hoàn toàn chính xác.
Câu 19 (5 điểm): Phân tích đặc trưng cơ bản của kinh doanh xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay?
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến sâu
sắc, từng bước chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường với quy luật hoạt
động của nó đã tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt động của đời sống xã hội, đặc biệt
là các hoạt động kinh tế. Mặt khác, cơ chế kinh tế mới đã khẳng định vai trò tổ
chức lưu chuyển hàng hóa, góp phần làm cho nền kinh tế có nhiều khởi sắc.
0. Đặc trưng về hàng hoá xuất bản phẩm
Khác với hàng hoá thông thường, xuất bản phẩm là sản phẩm của lao động
sáng tạo và công nghệ chế bản, nhằm mục đích tuyên truyền giáo dục, phổ biến tri
thức, thông qua việc mua bán trên thị trường, nên xuất bản phẩm là hàng hoá, là
đối tượng của kinh doanh. Tuy nhiên kinh doanh xuất bản phẩm là kinh doanh loại
hàng hóa đặc thù. Là hàng hoá, xuất bản phẩm có những thuộc tính cơ bản: giá trị
và giá trị sử dụng. Hàng hóa xuất bản phẩm có những biểu hiện đặc biệt:
Trước hết, xuất bản phẩm là sản phẩm thuộc lĩnh vực văn hóa, tinh thần, trí
tuệ, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người, nên nó hoàn toàn khác với các nhu cầu khác.
Thứ hai, giá trị sử dụng của xuất bản phẩm khó nhận biết. Để đánh giá được
giá trị sử dụng của xuất bản phải có một quá trình, người mua biến nội dung tư
tưởng của nó thành tư tưởng, hành động hay những phát minh về khoa học- công nghệ mới.
Thứ ba, khác với các loại hàng hóa thông thường, giá trị và giá trị sử dụng
của xuất bản phẩm không đồng nhất.
Thứ tư, mỗi loại hàng hóa xuất bản phẩm chỉ có thể phù hợp với một hoặc
vài nhóm đối tượng nhất định. Đặc trưng này quy định bởi nội dung tri thức thể
hiện trong các xuất bản phẩm, có thể phù hợp với khả năng, trình độ tiếp nhận của các nhóm khách hàng.
b. Đặc trưng về cung – cầu hàng hóa xuất bản phẩm
(1) Cầu hàng hoá xuất bản phẩm
Cầu hàng hoá là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người mua có khả năng và
sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định. Nhu cầu về
xuất bản phẩm là nhu cầu đòi hỏi thỏa mãn về văn hóa, tinh thần và trí tuệ của con
người. Nhu cầu xuất bản phẩm phụ thuộc vào trình độ nhận thức, điều kiện kinh tế
- chính trị và môi trường sống của từng khách hàng. Cầu hàng hoá xuất bản được
hình thành từ nhu cầu, song phải có hai điều kiện cơ bản: có nhu cầu bức thiết về
xuất bản phẩm; có khả năng (khả năng bán và khả năng chi trả). Thiếu một trong
hai điều kiện trên, nhu cầu không trở thành cầu xuất bản phẩm.
(2) Cung hàng hoá xuất bản phẩm
Cung hàng hoá xuất bản phẩm là khả năng khai thác đề tài, khả năng in ấn
và khả năng mang xuất bản phẩm ra thị trường trao đổi mua bán ở một mức giá xác
định trong một thời điểm nhất định.
Cung hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các yếu tố chung như công
nghệ, giá cả yếu tố sản xuất, chính sách của chính phủ (thuế), kỳ vọng người sản
xuất (có thể sản xuất và bán hàng hoá với giá cao, thu được lợi nhuận tối đa).
Ngoài ra, cung hàng hoá xuất bản phẩm chịu sự tác động các yếu tố đặc thù ngành
như định hướng tiêu dùng văn hóa quốc gia; định hướng nhà nước, phong tục,
chuẩn mực đạo đức. Yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến đường cung, nhiều khi
không chịu sự cho phối về chi phí và giá cả sản xuất. Do đó, không phải bất kỳ hỏi
nào của khách hàng cũng được đáp ứng dễ dàng.
c. Đặc trưng về giá cả xuất bản phẩm
Giá cả hàng hoá là giá cả thị trường. Giá cả thị trường là hình thức biểu hiện
của giá trị hàng hoá. Giá cả thị trường chịu sự tác động của nhiều nhân tố như: quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ.
Xuất bản phẩm là loại hàng hoá đặc thù, giá của hàng hoá xuất bản phẩm
được tính bằng lao động sáng tạo ra xuất bản phẩm và chi phí của quá trình sản
xuất lưu thông. Song lao động sáng tạo ra xuất bản phẩm là lao động đặc thù, khó
có thể lượng hoá một cách chính xác.Trong nền kinh tế thị trường, việc xác định
giá cả hàng hóa tuân theo quy luật giá trị. Giá cả xoay xung quanh trục giá trị. Quy luật giá trị nói rằng:
Giá trị lớn thì giá cao, giá trị nhỏ thì giá nhỏ. Bên cạnh đó, giá cả còn phụ thuộc vào các yếu tố:
- Yếu tố cung cầu: Nếu cung lớn hơn cầu thì giá giảm; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá tăng.
- Yếu tố cạnh tranh: Cạnh cạnh giữa các đơn vị cung ứng trong thị trường ảnh
hưởng đến giá cả hàng hoá. Thị trường độc quyền, nhà sản xuất quyết định giá cả;
thị trường cạnh tranh, giá cả hàng hoá có xu hướng giảm, chất lượng có xu hướng tăng.
d. Đặc trưng về hiệu quả kinh doanh
Kinh doanh xuất bản phẩm là kinh doanh loại hàng hoá đặc thù, do đó
hiệu quả của nó phải được xem xét ở góc độ khác nhau:
Trước hết, là hoạt động kinh doanh đặc thù trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng,
kinh doanh hàng hoá xuất bản phẩm phải bảo đảm tính chất xã hội, phục vụ cho
mục tiêu phổ biến tri thức, nâng cao dân trí.
Thứ hai, là hoạt động kinh doanh, tạo ra và phổ biến các sản phẩm văn hoá
tinh thần phục vụ xã hội thông qua các mối quan hệ trao đổi mua bán trên thị
trường, nên mục tiêu kinh tế, hiệu quả kinh doanh đặc biệt coi trọng.
Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế trong quá trình kinh tế phải được xem
xét trên góc độ khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xã hội luôn song hành - Lấy hiệu quả kinh tế để thực hiện hiệu quả xã hội; đạt
hiệu quả xã hội để hướng tới thực hiện hiệu quả kinh tế. Đạt được mục tiêu lợi
nhuận để thực hiện mục tiêu xã; đạt mục tiêu xã hội trực tiếp thúc đẩy thực hiện
mục tiêu kinh tế (nâng cao dân trí, trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra thu nhập cá nhân và ngân sách quốc gia). NHÓM ĐĂNG: Khái niệm:
Là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa
Yêu cầu chung là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao
phí sức lao động xã hội cần thiết.
Vận động quy luật giá trị trên thị trường xuất bản phẩm:
Sự hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vận động của
giá cả xuất bản phẩm. Bởi lẽ giá trị là cơ sở của giá cả và giá cả là sự biểu hiện
bằng tiền của giá trị nên giá cả phụ thuộc vào giá trị.
Tuy nhiên trên thị trường ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố
khác như: cạnh tranh, cung – cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân
tố này làm cho giá cả xuất bản phẩm trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống
xoay quanh trục giá trị của nó.
Do vậy, giá trị xuất bản phẩm vừa tuân theo, vừa đi ngược với quy luật giá trị thông thường:
Tuân theo vì tác động, vận hành của quy luật giá trị được thể hiện thông qua
sự vận động của giá cả xuất bản phẩm. Vì giá trị là tiền đề của giá cả, còn
giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Vì vậy nên phụ thuộc vào giá trị
của xuất bản phẩm. Giá cả xoay quanh trục giá trị, giá trị lớn thì giá cao, giá trị nhỏ thì giá thấp.
Giá cả xbp có xu hướng đi ngược lại vì: trên thực tế, giá cả xbp ảnh hưởng
đến nhu cầu mua xbp > để đảm bảo được tính định hướng chính trị, văn hóa,
giáo dục…> nhiều xbp được bán dưới giá thành của nó, ngược lại 1 số xbp
giá trị nhỏ nhưng giá cao.
Câu 20 (5 điểm): Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa thị trường xuất
bản truyền thống và thị trường xuất bản hiện đại?
CÔ DUNG HƯỚNG DẪN- SỔ ĐOÀN VIÊN
Câu 21 (5 điểm): Phân tích tính đặc thù của yếu tố cấu thành thị trường xuất bản phẩm?
Câu 22 (5 điểm): Phân tích các hình thức tiêu thụ xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay?
Hình thức tiêu thụ xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay có 3 hình thức tiêu thụ XBP:
Thứ nhất, hình thức tiêu thụ xuất bản phẩm tại một điểm cố định
Là hình thức tiêu thụ xuất bản phẩm tại những cửa hàng sách, siêu thị sách
đảm bảo việc tổ chức kinh doanh thường xuyên liên tục, tận dụng và phát huy vai
trò, địa điểm, cơ sở vật chất của cửa hàng.
Thứ hai, hình thức tiêu thụ xuất bản phẩm lưu động.
Là hình thức tiêu thụ xuất bản phẩm tại những điểm đã được xác định trong
thời gian ngắn, với những đối tượng khách hàng cụ thế.
Hình thức kinh doanh này thể hiện ý nghĩa chính trì xã hội sâu sắc, thực hiện
khẩu hiệu “sách đi tìm người” và sứ mệnh của hoạt động xuất bản mang lại khả
năng kinh doanh của khối lượng xuất bản phẩm, phục vụ cho một nhóm khách
hàng trong một thời gian nhất định.
Đây là hình thức kinh doanh nhằm thỏa mãn nhu cầu xuất bản phẩm của các
đối tượng, các khu vực không có những điểm bán hàng cố định, mở rộng thị
trường, tạo nên hứng thú cho khách hàng.
Thứ ba, hình thức tiêu thụ xuất bản phẩm thông qua sàn thương mại điện tử.
Đây là hình thức mà người mua, người bán sử dụng mạng internet để thực
hiện giao dịch mua bán xuất bản phẩm. Hình thức tiêu thụ thông qua thương mại
điện tử xuất hiện trên thế giới từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Hiện
nay, được phổ biến trên toàn thế giới, mang lại nhiều lợi ích cho xã hội và hình
thức này sẽ phát triển mạnh trong tương lai.