



















Preview text:
De cuong LLVPPGDTC
Câu 1: Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ xã hội NT và xã  hội CHNL?
Thời kỳ xã hội nguyên thủy
 Trong quá trình tiến hóa thành người, lao động là nhân 
tố quyết định. 
 Trong quá trình sản xuất, loài người nguyên thủy đã chế 
tạo ra và sử dụng công cụ lao động. 
 Trong cuộc sống hàng ngày, để giải quyết các vấn đề sinh  hoạt như 
 như ăn, ở mặc, con người đã nâng cao trí lực và thể lực để 
vượt qua điều kiện lao động gian khổ, khắc nghiệt với 
công cụ lao động thô sơ. Họ phải đấu tranh với thiên tai dã
thú → dần hình thành các kỹ năng như chạy, nhảy, leo, 
trèo, ném, bơi, mang vác nặng. 
→ Những năng lực hoạt động đó cùng với kinh nghiệm đã trở 
thành tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá trình độ, uy tín của con 
người lúc bấy giờ. Mầm mống của hoạt động thể chất đã nảy 
sinh từ chính thực tế của những hoạt động tự nhiên cùng những
kinh nghiệm trong cuộc sống.
 Bản chất tự nhiên của con người được đặt lên hàng 
đầu, mọi hành động chỉ nhằm mục đích đối phó, khắc 
phục với đời sống hiện tại thông qua kinh nghiệm tích lũy. 
Ngoài ra có các trò chơi, một số hoạt động rèn luyện thân 
thể phòng chữa bệnh → phát triển bài tập thể chất.
 GDTC chỉ thực sự ra đời khi con người ý thức được về 
tác dụng và sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai
 Thế hệ trẻ: kế thừa, truyền thụ và tiếp thu những kỹ năng 
vận động → Nội dung chủ yếu của giáo dục thời cổ xưa.
 GDTC là phương tiện giáo dục, 1 hiện tượng xã hội mà ở  con vật k thể có đc.
→ truyền thụ và áp dụng kinh nghiệm trong quá trình giao tiếp  chính là giáo dục
 Kinh nghiệm sử dụng công cụ lao động hàng ngày cho
cng nhận thức thấy tác dụng của việc chuẩn bị trước 
thông qua luyện tập. Các bài tập cho lao động dần dần 
được tách khỏi cơ sở ban đầu là “lao động”, được khái quát
hoá, trừu tượng hoá để trở thành các môn thể thao.
→ TDTT thể hiện sự tiến hoá qua lao động đấu tranh sinh tồn. 
Rèn luyện thể lực là hình thức GDTC đầu tiên
VD: Trên cơ sở tự nhiên lúc săn đuổi hay chạy trốn kẻ thù đã 
dần dần hình thành môn chạy, nhảy, qua chướng ngại vật; ném
trúng đích thành môn ném…
Thời kỳ chiếm hữu nô lệ
Thị tộc xuất hiện (hình thức tổ chức xã hội đầu tiên): cng biết 
làm ăn chung, phối hợp, phân công lao động, sở hữu chung về 
công cụ sản xuất và phân phối sản phẩm lao động theo nguyên
tắc bình quân. Công cụ lao động phát triển, khả năng lao động 
tăng cùng với kinh nghiệm tích lũy → sự phân công lao động, 
khả năng bóc lột lao động đã xuất hiện → Việc biến các tù binh 
bắt được thành nô lệ trở nên có lợi
→ Xã hội phân chia giai cấp: 
 GC thống trị bóc lột bị trị, tiến hành chiến tranh cướp đoạt 
đất đai xây dựng nên đế quốc rộng lớn, thống trị và bóc lột dân tộc khác.
 Nguồn cung cấp nô lệ quan trọng nhất là thông qua chiến 
tranh → đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt về thể lực cho các 
binh sĩ, sức mạnh, sức bền, khéo léo, kỹ năng sd vũ khí → 
Hệ thống GDTC, giáo dục qsu, huấn luyện thể lực ra đời. 
Bơi chạy, đấu kiếm, cưỡi ngựa, vật là nội dung chính rèn 
luyện thể lực và kỹ thuật chiến đấu cho quân đội.
Câu 2: Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ XHPK và cận đại,  đương đại?
Thời kỳ xã hội phong kiến 
Thời kỳ phong kiến sơ kỳ: 
 Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ bị tan rã, phần lớn các 
nước chế độ phong kiến đã thay đổi chế độ chiếm hữu nô 
lệ. Các nước mạnh đã bắt đầu thực hiện các cuộc xâm lược
→ việc đào tạo quân sự là việc bắt buộc đối với các chúa  phong kiến. 
 Đối với nông dân, họ phải chú ý đến các trò chơi giải trí và 
các bài tập phát triển sức mạnh, sức bền, khéo léo, và các 
bài tập mang tính quân sự vì phải thường xuyên chống kẻ  thù để bảo vệ mình.
Thời kỳ chủ nghĩa phong kiến phát triển: 
 Đến khoảng thế kỉ IV, hệ thống huấn luyện quân sự và thể 
lực cho các đẳng cấp quý tộc được phát triển gọi là hệ 
thống giáo dục hiệp sĩ, có 3 cấp: 
 Từ 7 tuổi (cưỡi ngựa, đấu kiếm, bơi… đồng thời học các  quy tắc hiệp sĩ)
 Từ 14 tuổi (sử dụng vũ khí để làm tuỳ tùng cho lãnh chúa 
trong các cuộc hành quân và tham gia thi đấu hiệp sĩ,  tham gia chiến đấu)
 21 tuổi (trở thành hiệp sĩ, tiếp tục tập luyện để thi đấu  hiệp sĩ và chiến đấu)
 Trong thời gian này, các cuộc thi đấu có ý nghĩa lớn trong 
việc phát triển TDTT. Các môn ném đá, đẩy tạ, ném búa 
chim, chạy vượt chướng ngại vật hay các trò chơi đã hình 
thành quy tắc trong thi đấu dần dần được mọi người thừa 
nhận. Thi đấu mang tính chất thuần tuý, tham gia thi đấu 
mang tính tự nguyện, thi đấu không gắn với tôn giáo, thi 
đấu có tính hài hước và từ “thể thao” có lẽ ra đời từ thời  gian này. 
Thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và sự ra đời của 
chế độ tư bản: 
 Thời kỳ này, tư tưởng sử dụng giáo dục thể chất không chỉ 
để huấn luyện quân sự mà còn để tăng cường sức khoẻ và 
phát triển sức mạnh thể chất. Đó là một tư tưởng mới, tiến
bộ nhưng cũng còn hạn chế bởi có khuynh hướng chỉ 
nhằm bảo đảm hạnh phúc cá nhân của con người. 
Nhà nhân đạo chủ nghĩa Ý đã thành lập trường học kiểu mới 
“nhà vui sướng”, có giảng dạy GDTC và TT. Một lượng thời gian 
đáng kể được dành cho các trò chơi và các bài tập thể chất. 
Người ta dạy cho các trẻ biết đấu kiếm, cưỡi ngựa, bơi và thực 
hiện các quy tắc vệ sinh. 
Nhà nhân đạo chủ nghĩa người Pháp đề nghị luân phiên giờ học 
văn hoá và tập thể dục, kết hợp bài tập của giới quý tộc và 
người nghèo vào mục đích giáo dục con người. 
Thời kỳ cận đại và đương đại 
Những cơ sở tư tưởng lý luận của giáo dục thể chất: 
 Rút xô đã phát triển tư tưởng về vai trò của môi trường 
bên ngoài trong việc hình thành nhân cách con người. Ông
viết “thân thể sinh ra trước tâm hồn, nên việc quan tâm 
đến thân thể phải là việc trước tiên”. Bắt đầu là rèn luyện 
cơ thể sau đó là các trò chơi và các BTTC. 
 Các nhà giáo dục Thuỵ Sĩ có công lớn trong lĩnh vực GDTC,
ông đã soạn ra phương pháp phân tích, gọi các động tác ở 
khớp là các động tác sơ đẳng, là cơ sở để giảng dạy động 
tác phối hợp phức tạp. 
 Các nhà cách mạng tư sản pháp ở cuối thế kỉ XVIII có công
lớn trong cơ sở lý luận cho GDTC. Họ cho rằng cần phải 
đưa giáo dục thể chất vào hệ thống giáo dục quốc dân. 
Sự nảy sinh và phát triển của các hệ thống giáo dục thể 
chất quốc gia: 
 Hệ thống giáo dục ở Đức cho rằng phương tiện GDTC gồm:
rèn luyện chống thời tiết xấu, biết chịu đói, khát, mất ngủ. 
Các bài tập phát triển giác quan; các bài tập trượt băng, 
mang vác vật nặng, các trò chơi giải trí, …
 Hệ thống GDTC của Thụy Điển là tính đối xứng và thẳng 
hàng. Tư thế đúng của tay chân và mình được đặc biệt chú ý. 
 Hệ thống GDTC ở Pháp có tính chất ứng dụng quân sự đào 
tạo binh sĩ. Các bài tập thể dục tốt nhất là bài tập phát 
triển kỹ năng cần thiết trong đời sống, đặc biệt là trong 
chiến tranh như các bài tập đi, chạy, nhảy, mang vác ở các địa hình tự nhiên. 
 GDTC và thể thao của các nước Đan Mạch, Anh, Mỹ và một
số nước Đông Á, Đông Nam Á đã trở thành những trung 
tâm chính phát triển TDTT. Tại các trường học xuất hiện 
các nhóm thể thao nghiệp dư. Từ những năm 30 của thế 
kỷ XI người ta tổ chức các cuộc thi thường xuyên về các 
môn thể thao cho học sinh. 
GDTC ở Việt Nam hiện nay: 
 Sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch HCM đã nêu ra 
các nhiệm vụ cấp bách là tăng gia sản xuất, chống giặc 
đói. Bác đã nêu lên một vấn đề có tính quốc sách là “phải 
nâng cao sức khỏe cho toàn dân, một trong những biện 
pháp tích cực là tập luyện thể dục – một công việc không  tốn kém khó khăn gì”. 
 Cũng vào thời gian này theo đề nghị của bộ trưởng bộ 
thanh niên, Chủ Tịch HCM đã ký sắc lệnh số 14 về việc 
thành lập một Nhà Thể dục Trung ương. Nhiệm vụ được 
thể hiện ở 3 khẩu hiệu: Phổ thông thể dục; gây đời sống 
mới; cải tạo nòi giống. 
 GDTC trong các trường đại học bắt đầu từ năm 1958 tiến 
hành giảng dạy chính khóa. Chương trình quy định 120 
tiết, nhưng còn mang tính chất tạm thời, chưa phải là văn  bản chính thức. 
 Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp ra chỉ thị về việc 
thực hành tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi, quy
định sinh viên tốt nghiệp đại học phải đạt “tiêu chuẩn 
chuẩn rèn luyện thân thể cấp II”. 
 Đến nay, GDTC là môn học bắt buộc trong hệ thống giáo 
dục từ mầm non đến đại học. Ở bậc đại học chương trình 
môn GDTC bao gồm các học phần bắt buộc và tự chọn. 
Ngoài ra còn các quy định về hoạt động TDTT ngoại khóa 
cho học sinh, sinh viên; đánh giá xếp loại thể lực cho học 
sinh, sinh viên cũng được quy định cụ thể. 
Câu 3: Hệ thống GDTC trong trường đại học?
 GDTC trong trường đại học là quá trình giáo dục, rèn 
luyện của nhà trường đối với tất cả các sinh viên nhằm 
phát triển thể chất, nhân cách; bồi dưỡng và nâng cao tri 
thức chuyên môn về lý luận và phương pháp GDTC, củng 
cố và phát triển năng khiếu để sinh viên học tập và rèn 
luyện đạt kết quả cao trong quá trình học tập. 
 Hệ thống GDTC cho sinh viên trong trường đại học là 
những quan điểm, mục tiêu hệ thống tri thức GDTC; cấu 
trúc, nội dung và hình thức GDTC; phương pháp GDTC; tổ  chức quản lý GDTC. 
 Chủ thể GDTC trong trường đại học
 Nhà trường đề ra phương hướng công tác GDTC để thực 
hiện chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo  ban hành. 
 Khoa hoặc bộ môn GDTC chịu trách nhiệm giảng dạy, kiểm
tra, giám sát và đánh giá kết quả. 
 Phòng đào tạo, phòng Y tế cùng phối hợp với bộ môn 
GDTC tham gia vào quản lý, kiểm tra sức khỏe và thể lực 
định kỳ đối với sinh viên. 
 Đối tượng
 Sinh viên các lớp bằng 1 chính quy tập trung bắt buộc 
phải tham gia các chương trình chính khóa và ngoại  khóa. 
 Sinh viên hệ không tập trung có thể tham gia hoạt động 
phong trào TD, TT của nhà trường. 
Trách nhiệm của sinh viên: Tham gia giờ học theo quy định 
 Kiểm tra sức khỏe và thể lực định kỳ 
 Tích cực tìm hiểu các tài liệu về TD, TT 
 Có chế độ sinh hoạt nghỉ ngơi hợp lý 
 Tích cực tham gia các hoạt động TD, TT 
 Mục đích của GDTC trong trường đại học: Thực hiệu mục 
tiêu đào tạo cán bộ phát triển cơ thể hài hòa, có thể chất 
cường tráng nhằm đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, 
nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận thực tiễn lao động, 
sản xuất… thời kỳ mới
 Nhiệm vụ: Giáo dục đạo đức XHCN cho sinh viên, rèn 
luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng 
lối sống tích cực lành mạnh, tinh thần tự giác học tập rèn  luyện
 Hình thức GDTC: Giảng dạy phần lý thuyết trên lớp; 
tập luyện thực hành kỹ thuật ngoài sân vận động được 
lồng ghép với lý thuyết chuyên môn; tổ chức các hoạt 
động ngoại khóa để đẩy mạnh phong trào TD, TT của sinh  viên.
 Phương tiện GDTC: 
 Phần lý thuyết chung: Phương tiện dạy học được trang  bị trong học đường.
 Phần thực hành kỹ thuật: Sân bãi, nhà tập, phương 
tiện, dụng cụ... phục vụ cho tập luyện và thi đấu.
Câu 4: Chức năng giáo dục, chính trị, kinh tế của thể  thao?
 Chức năng giáo dục: Tuy chế độ xã hội, quan niệm chính
trị, các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng và nhận thức của 
các quốc gia trên thế giới không giống nhau, nhưng đều 
rất coi trọng tác dụng của TT trong giáo dục. Chức năng 
giáo dục của TT chủ yếu được biển hiện trên hai phương  diện:
 Tác dụng của TT trong xã hội: Do TT có tính hoạt động, 
tính cạnh tranh, tính nghệ thuật, lễ nghĩa và tính quốc tế 
nên có thể kích thích được lòng yêu tổ quốc, tỉnh thần tự 
hào, đoàn kết dân tộc. 
 Tác dụng giáo dục của TT trong trường học: Để thực hiện 
mục tiêu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta là
tạo nên những con người mới phát triển toàn diện về đức, 
trí, thể, mỹ và lao động thì TT là một bộ phận không thể 
thiếu. TT giúp cho việc nâng cao thể chất, giáo dục tinh 
thần đoàn kết, các phẩm chất đạo đức và tâm lý... cho học sinh.
 Chức năng chính trị
 Cùng với văn hoá nghệ thuật, TT đóng một vai trò hết sức 
quan trọng trong việc đặt nền móng cho các mối quan hệ 
chính trị giữa các quốc gia.
 Thể hiện thông qua việc tiến hành thi đấu giao hữu các 
môn thể thao để làm tiền đề cho các đoàn ngoại giao làm  việc và hợp tác.
Trong các cuộc thi đấu quốc tế, khi VĐV của nước nào giành 
được chức vô địch thì lá cờ của quốc gia đó được kéo lên cao 
nhất và quốc ca của nước đó được cử hành. Vinh quang và ý 
nghĩa về mặt chính trị này chỉ có thể có được khi các VĐV thi 
đấu hết mình vì màu cờ sắc áo của dân tộc.
 Chức năng kinh tế:
 TT và kinh tế có mối quan hệ tương hỗ, đã có nhiều nhà 
kinh tế cho rằng sức lao động và sản xuất được nâng cao 
là tiêu chí quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội.
 Trong các loại tố chất của con người thì tố chất thể lực 
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính vì vậy các 
nước trên thế giới đã chú trọng đến tác dụng của TT đối 
với việc phát triển thể lực cho người lao động, lấy việc làm 
giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh làm thành mục tiêu thúc đẩy 
sức lao động sản xuất của xã hội. Điều này thể hiện chức 
năng kinh tế ban đầu của TT.
 TT thành tích cao và các ngành kinh tế thương mại, du 
lịch, ... có mối quan hệ hết sức mật thiết. Một cuộc thi đấu 
TT được tổ chức ở một điểm nào đó sẽ kéo theo hàng loạt 
các ngành nghề kinh tế như: Du lịch, thông tin, dịch vụ  phát triển.
Câu 5: Nguyên nhân và cách phòng chống chấn thương 
trong thể dục thể thao?
 Là các chấn thương xảy ra trong quá trình tập luyện TD,  TT
 Chấn thương TT khác với chấn thương trong sinh hoạt và 
lao động ở chỗ nó có liên quan trực tiếp với các nhân tố và
điều kiện tập luyện TT như các môn TT, kế hoạch huấn 
luyện, động tác kỹ thuật, trình độ tập luyện…
 Nguyên nhân: Nguyên nhân gây ra chấn thương có rất 
nhiều, có thể phân thành 2 mặt nn cơ bản và nn tiềm ẩn  Nguyên nhân cơ bản
 Tư tưởng không coi trọng hoặc thiếu tri thức đề phòng
 Thiếu sót trong khởi động
 Trình độ huấn luyện kém 
 Trạng thái cơ thể không tốt
 Phương pháp tổ chức không thoả đáng  Vi phạm quy tắc TT
 Sân bãi, dụng cụ, trang phục không phù hợp yêu cầu vs an
toàn, khí hậu thời tiết xấu
 Nguyên nhân tiềm ẩn: Do 2 nhân tố tiềm ẩn về sinh lý, giải
phẫu của các bộ phận cơ thể nào đó và đặc điểm kỹ thuật 
của bản thân môn TT quyết định. Chỉ khi có tác động của 
nn trực tiếp thì những yếu tố tiềm ẩn này mới trở thành nn gây ra chấn thương.
Những chấn thương thường gặp trong thể dục thể thao: Căng 
cơ, trật mắt cá chân, chấn thương vai, chấn thương đầu gối, 
đau cẳng chân, viêm gân (tổn thương dây chằng), bong gân và  trật khớp cổ tay.
Cách phòng tránh chấn thương trong thể dục thể thao:
 Tăng cường giáo dục về mục đích của TD, TT: 
 Hiểu những kiến thức có liên quan về vấn đề chấn thương. 
 Tăng cường giáo dục tính tổ chức kỷ luật. 
 Sắp xếp hợp lý quá trình tập luyện và thi đấu: 
Tìm hiểu kỹ trọng tâm và những nội dung khó của buổi tập. Đối 
với những nội dung khó nắm vững, những khâu mà người tập 
dễ mắc sai lầm hoặc những động tác có nhiều nguy cơ xảy ra 
chấn thương thì phải có sự chuẩn bị, dự phòng tốt để đảm bảo  an toàn cho tập luyện. 
 Phải khởi động tốt: 
Mục đích của khởi động là nâng cao tính hưng phấn của hệ 
thống các trung khu thần kinh, tăng cường chức năng của các 
hệ thống cơ quan, khắc phục tính ý sinh lý của các chức năng, 
chuẩn bị tốt khả năng cơ thể cho phần tập luyện chính. 
 Tăng cường bảo hiểm và tự bảo hiểm:
 Bảo hiểm là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa chấn thương. 
 Người tham gia tập luyện TD, TT cần phải học được 
phương pháp tự bảo hiểm. 
 Tăng cường công tác kiểm tra y học và chú ý vệ sinh sân  bãi dụng cụ: 
 Cần phải định kỳ tiến hành kiểm tra thể lực, sức khoẻ...  92 
 Cần phải tăng cường quan sát, kiểm tra y học và kiểm tra  sức khỏe định kỳ
Câu 6: Phân tích khái niệm thể thao và giáo dục thể  chất?
Thể thao được coi là một bộ phận chủ yếu, lớn, nổi bật trong  TDTT.
Người ta phân biệt thể thao theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng
 Khái niệm thể thao theo nghĩa hẹp: TT là một hoạt động 
mang tính trò chơi, một hình thức thi đấu đặc biệt chủ yếu 
và phần nhiều bằng sự vận động thể lực, nhằm phát huy 
những năng lực chuyên biệt, đạt thành tích cao, cao nhất 
được so sánh trực tiếp và công bằng trong những điều kiện chuyên môn như nhau. 
→ Khái niệm này chỉ nêu lên những đặc điểm bên ngoài để 
phân biệt TT với hiện tượng khác, không bao quát hết được 
những biểu hiện cụ thể, phong phú của thể thao trong xã hội. 
Bản chất của TT không chỉ giới hạn ở thành tích thể thao thuần 
tuý, là hoạt động tác động toàn diện tới con người.
 TT theo nghĩa rộng: Bao gồm hoạt động thi đấu, là sự 
chuẩn bị tập luyện đặc biệt cho thi đấu. TT là mối quan hệ 
đặc biệt giữa người với người trong thi đấu cùng với ý 
nghĩa xã hội, với thành tích thi đấu gộp chung lại. 
TT là hiện tượng xã hội: Đối với cá nhân TT là khát vọng của con
người không ngừng mở rộng giới hạn khả năng của mình được 
thực hiện thông qua nhiệm vụ đặc biệt. TT còn là một trong 
những hình thức vận động của xã hội thời đại, là tổng hợp phức 
tạp quan hệ giữa người với người, là một hình thức hoạt động 
của thời đại mang tính đại chúng. 
Thể thao là một phương tiện, phương pháp hữu hiệu nhất để 
phát triển thể chất, đạo đức, thẩm mỹ. TT là một trong những 
phương tiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và hữu hiệu giữa  các dân tộc. 
GDTC: Thông thường, người ta coi GDTC là một bộ phận của  TDTT. 
GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy 
học vận động (dạy học động tác) và phát triển có chủ định các 
tố chất vận động của con người. 
 GDTC là một hiện tượng sư phạm với đầy đủ ý nghĩa của 
nó. Đặc điểm nổi bật nhất của GDTC là một quá trình sư 
phạm nhằm tác động lên các đối tượng giáo dục để đạt  được các nhiệm vụ:
 Giáo dục các tố chất thể lực. 
 Giáo dục phẩm chất ý chí, đạo đức, nhân cách.   Giáo dưỡng. 
 Trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động. 
 Rèn luyện thói quen nếp sống lành mạnh. Tổng hợp những
quá trình đó xác định khả năng thích nghi thể lực của con  người
→Tổng hợp những quá trình đó xác định khả năng thích nghi 
thể lực của con người. 
 Như vậy có thể định nghĩa: GDTC là một hình thức giáo 
dục nhằm trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động và những tri 
thức chuyên môn (giáo dưỡng). Phát triển tố chất thể lực,  tăng cường sức khỏe.
Câu 7: Phân tích cấu trúc một buổi tập thể dục, thể thao.
Để một buổi tập có hiệu quả cần lưu ý đến yếu tố nào?  Tại sao?
Một buổi tập được chia làm 3 phần, yêu cầu người tập phải tuân
theo để bảo đảm luyện tập có khoa học, có hệ thống và để thể 
lực cùng thành tích thể thao được nâng cao dần, đồng thời giảm
tối đa các phản ứng xấu, chấn thương có thể xảy ra cho người  tập. 
Phần chuẩn bị 
 Khởi động chung: Nhằm đưa cơ thể từ trạng thái bình 
thường sang trạng thái vận động và vận động cường độ 
cao. Gồm các bài tập thể dục tay không chạy, nhảy, các  khớp… 
 Khởi động chuyên môn: Gồm những bài tập chuẩn bị cho 
phần chính (Cơ bản), những bài tập này gần giống hoặc là 
phân đoạn của nội dung chính, có khi là những kỹ năng  vận động. 
Mục đích: Bổ trợ cho nội dung chính trong phần cơ bản và ôn 
tập những nội dung hoàn thiện. 
Phần cơ bản 
 Phần cơ bản là phần chính của buổi tập, gồm những bài 
tập mới (động tác mới) nên tập đầu tiên sau đó là những 
bài tập đang hoàn thiện để trở thành KNKX vận động. Cuối
cùng giành 10-15 phút tập thể lực. Các bài tập nâng cao 
sức bền sắp xếp vào cuối buổi tập, không tập tăng tốc độ 
và các bài tập khéo léo khi cơ thể mệt mỏi. 
 Trong phần cơ bản, LVĐ là vấn đề người tập phải lưu ý. Hai 
yếu tố cường độ vận động và khối lượng vận động liên 
quan với nhau quyết định LVĐ lớn hay nhỏ. LVĐ phải phù 
hợp với sức khỏe từng người. Nếu LVĐ nhỏ thì buổi tập ít 
tác dụng. LVĐ hợp lý, vừa với sức chịu đựng, người tập 
không phải gắng sức tối đa, tác dụng buổi tập có kết quả 
tốt. LVĐ quá cao gây mệt mỏi quá sức chịu đựng, nếu kéo 
dài nhiều buổi tập có thể gây ra chấn thương, mệt mỏi 
quá độ, sức khỏe giảm sút dẫn tới không tập luyện tiếp 
tục được, có khi phải nghỉ dài, điều trị an dưỡng. 
Phần kết thúc 
 Sử dụng các bài tập thả lỏng cơ bắp, hồi tĩnh, tập thở, trò 
chơi làm giảm căng thẳng, xoa bóp, tắm nước nóng, tắm  hơi... 
 Mục đích: Đưa cơ thể dần chuyển về trạng thái bình 
thường để hồi phục thể lực chuẩn bị cho ngày học tập và  làm việc tiếp theo
Để một buổi tập có hiệu quả cần lưu ý đến yếu tố
 Sự tự giác tích cực:  
Câu 8: Phân tích kỹ năng vận động, các quá trình hình 
thành kỹ năng vận động?
 Là tất cả các hoạt động của con người, bao gồm cả hoạt 
động vận động đều gọi là phản xạ. 
 Các phản xạ được di truyền, có sẵn trong cơ thể con người 
từ khi mới ra đời được gọi là phản xạ không điều kiện. 
Chúng có tính bẩm sinh và là cơ sở của các hành vi bản  năng. 
 Trong quá trình sống và rèn luyện trên cơ sở những phản 
xạ không điều kiện, có thể hình thành những phản xạ mới 
để thích nghi với điều kiện sống, những phản xạ này được
gọi là phản xạ có điều kiện. 
 Hoạt động của con người liên quan chặt chẽ với việc hình 
thành các phản xạ có điều kiện. Các cử động, động tác, 
hoạt động vận động cũng là các phản xạ. Con người sinh 
ra với một số phản xạ vận động bẩm sinh rất hạn chế. 
Phần lớn các động tác vận động là phản xạ có điều kiện, 
tức là được hình thành trong quá trình sống, hoặc do tập  luyện. 
Do yêu cầu của mục đích vận động và để thích nghi với điều 
kiện sống các phản xạ vận động được phối hợp lại với nhau 
thành một tổ hợp các động tác có ý nghĩa và trở thành kỹ năng vận động. 
→ Kỹ năng vận động là một hình thức hành động, được hình 
thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện, nhờ quá trình tập luyện
thường xuyên. Kỹ năng vận động là các động tác được thực 
hiện một cách tự động do đã thành thói quen. Đi, đứng, chạy, 
nhảy,... là các kỹ năng vận động cơ bản. Tất cả các kỹ thuật thể
thao cũng đều là các kỹ năng vận động.
Các quá trình hình thành kỹ năng vận động: Kỹ năng vận 
động được hình thành dần dần, theo 3 giai đoạn: Lan tỏa, tập  trung và tự động hóa. 
 Trong giai đoạn lan tỏa, hưng phấn lan rộng trên vỏ đại 
não vì chưa hình thành được tổ hợp vận động tối ưu. Nhiều
nhóm cơ vận động cần thiết cũng tham gia vào vận động. 
Động tác vì vậy không chính xác, nhiều cử động thừa,  không tinh tế.
 Sau một thời gian lặp lại, giai đoạn lan tỏa chuyển sang 
giai đoạn tập trung. Trong giai đoạn này, hưng phấn tập 
trung ở một vùng nhất định trên vỏ não, cần thiết cho vận  động. 
Vì thế, các động tác thừa mất đi, cơ căng và co bóp ở mức độ 
hợp lý, động tác nhịp nhàng, chính xác, thoải mái hơn. Kỹ năng 
vận động được hình thành tương đối ổn định.
 Trong giai đoạn tự động hóa (kỹ xảo vận động), kỹ năng 
vận động được củng cố đến mức được thực hiện gần như 
tự động, không cần sự chú ý của ý thức. Kỹ năng vận động
cho phép thực hiện được nhiều động tác khác nhau cùng  một lúc. 
Câu 9: Phân tích sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục, 
thể thao đối với chức tuần hoàn và hô hấp của con  người?
Tập luyện TDTT là thay đổi huyết áp. Do mạng lưới mạch máu 
dày đặc hơn và độ đàn hồi của thành mạch tốt hơn. Do đó 
huyết áp tối đa giảm hơn so với người không tập luyện.
Tập luyện TDTT là tăng cường hô hấp, vì vậy cũng làm tăng 
cường thể tích lồng ngực.
 Tăng tần số hô hấp, thể tích hô hấp  Thông khí phổi
 Dung tích sống. người bình thường 2,5-3,5 lít, VĐV 7-9 lít
 Cơ hô hấp được phát triển dần, có lực, có sức bền, có thể 
chịu đựng với lượng vận động lớn.
 Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ O2 và thải 
CO2: Dung tích sống là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá 
trình độ sức khoẻ và sự sinh trưởng phát dục của thiếu 
niên nhi đồng. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao 
đặc biệt là làm các động tác gập duỗi ngực có thể làm cho 
sức mạnh của cơ hô hấp được tăng cường, lồng ngực to 
lên điều này có lợi cho sự sinh trưởng phát dục của tổ chức
phổi, cũng như sự khuyếch trương của phổi từ đó làm cho  dung tích sống tăng lên.
 Tăng cường độ sâu hô hấp: Ở người bình thường hô hấp 
nông và nhanh, khi yên tĩnh tần số yên tĩnh khoảng 12-18 
lần/ phút, ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể 
thao hô hấp sâu và chậm lúc yên tĩnh tần số hô hấp 
khoảng 8-12 lần/ phút. Như vậy có nghĩa là các cơ hô hấp 
có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Sự khác biệt này còn biểu 
hiện rõ nét hơn trong khi vận động.
Câu 10: Phân tích cơ sở sinh lý để phát triển các tố chất  vận động?
Khái niệm tố chất vận động: ⁸Trong sinh hoạt, lao động, 
cũng như tập luyện TD, TT, con người có lúc phải vận động rất 
nhanh, có lúc cần phải làm việc lâu dài với lực tương đối nhỏ, có
lúc phải thực hiện các động tác mang vác rất nặng, tức là phải 
thực hiện các mặt khác nhau của khả năng vận động. Các mặt 
khác nhau của khả năng vận động được gọi là các tố chất vận 
động hay tố chất thể lực.
Cơ sở sinh lý để phát triển các tố chất vận động: Khả 
năng vận động của con người có thể hiện 4 loại tố chất: sức 
nhanh, sức mạnh, sức bền và khéo léo.
 Sức mạnh: là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài  của cơ bắp.
Cơ sở sinh lý phát triển sức mạnh: cần phải có số lượng lớn cơ 
tham gia co cùng một lúc, thả lỏng lực đối kháng và kéo căng 
các cơ cùng phía (cơ hưởng ứng), tăng cường sự phối hợp đồng 
bộ hoạt động của nhóm cơ đối kháng 
 Sức nhanh: là khả năng thực hiện động tác với thời 
gian ngắn nhất
Cơ sở sinh lý để phát triển sức nhanh/tốc độ: tăng cường độ linh
hoạt và tốc độ lan tỏa hưng phấn ở trung tâm thần kinh, tăng 
tốc độ co cơ, tăng cường tính đồng bộ trong hoạt động của các 
cơ khác nhau, tăng tốc độ thả lỏng cơ…
 Sức bền: là khả năng thực hiện hoạt động trong thời gian dài.
Cơ sở sinh lý để phát triển sức bền: là mức độ phát triển của 
tim mạch và hô hấp. Đó là trạng thái máu; dự trữ chất dinh 
dưỡng trong cơ thể và khả năng sử dụng chúng; công suất của 
các quá trình trao đổi năng lượng có và không có oxi; đặc điểm 
của quá trình điều nhiệt, trạng thái của các tuyến nội tiết.
 Khéo léo: là khả năng thực hiện những động tác về 
phối hợp vận động trong điều kiện môi trường thay  đổi.
Cơ sở sinh lý để phát triển khéo léo: là phản xạ phối hợp phức 
tạp. Vì mức độ phát triển khéo léo phụ thuộc vào trạng thái hệ 
thần kinh trung ương, tốc độ xử lý thông tin và hình thành các  chương trình hành động.
 Tập luyện TD, TT có hệ thống phát triển tất cả các tố chất 
vận động. Các tố chất vận động có nhiều điểm giống nhau 
về cơ chế phát triển. Vì vậy khi hoàn thiện một tố chất thì 
các tố chất khác ở một mức độ nhất định cũng biến đổi 
theo. Ảnh hưởng hỗ trợ đó thể hiện rất rõ khi mới bắt đầu 
tập luyện thường xuyên. Tuy nhiên, một số bài tập thể lực 
có thể gây ảnh hưởng xấu đối với việc phát triển một tố  chất vận động.
VD: Tập tạ để phát triển sức mạnh lâu dài có thể ảnh hưởng 
đến sức bền trong chạy cự ly.
Khi ngừng tập luyện có hệ thống, các tố chất vận động cũng 
ngừng phát triển, các tố chất sẽ thoái hóa về trạng thái ban 
đầu. Tố chất sức nhanh sẽ giảm sớm nhất rồi sau đó là sức 
mạnh và cuối cùng là sức bền.
Câu 11: Đưa ra một lượng vận động bên ngoài. Đánh giá 
các yếu tố ảnh hưởng đến việc tăng lượng vận động đó?
trong tất cả pp, lượng vận động và quãng nghỉ…
LVĐ là mức độ tác động của bài tập thể chất lên cơ thể người 
tập. LVĐ tác động lên cơ thể gây nên mệt mỏi, mệt mỏi thì 
không mất đi hoàn toàn mà nó được giữ lại những dấu vết được
tích lũy dần lại gây nên những phản ứng thích nghi. Kết quả là 
hình thái và chức năng cơ thể được hoàn thiện.
Lượng vận động bao gồm: LVĐ bên ngoài và LVĐ bên trong
Lượng vận động bên ngoài:
 Là LVĐ tác động lên cơ thể người tập thông qua bài tập thể
lực. Có thể xác định bằng những thông số vận động theo 
các hệ số đo lường như thời gian, độ dài, trọng lượng, LVĐ  bên ngoài.
 Bao gồm 2 thành phần cơ bản là: khối lượng và cường độ  vận động.
Khối lượng vận động: là độ kéo dài thời gian của động tác như 
tổng cự ly chạy, tổng trọng lượng gánh vác, tổng số lần lặp lại,
… và được đo bằng đơn vị: km, kg, tấn tạ,…
Cường độ: là mức căng thẳng chức năng do bài tập gây ra trong
một khoảng thời gian tác động cụ thể nào đó, có đơn vị là: mục  đích/giây, giây, …
Quãng nghỉ: là thời gian nghỉ ngơi giữa các lần tập, bài tập, 
buổi tập, chu kỳ huấn luyện.
 Ví dụ: Trong 1 buổi tập, yêu cầu đạp xe 5km x2 lần với 
80-85% sức trong 35 phút thì chỉ thực hiện được một lần,  thời gian nghỉ là 15ph
 Bài tập trên có khối lượng là 10km với 2 lần đạp xe và 
cường độ là 80 - 85% sứ, quãng nghỉ 15 phút, khoảng nghỉ sẽ là 15p
 Nếu tăng khối lượng vận động thì cường độ vận động sẽ 
giảm điều đó dẫn đến đau cơ, mỏi chân tốc độ đạp cũng 
giảm sút. Những mệt mỏi này không mất đi hoàn toàn sau 
buổi tập mà nó lưu lại những dấu vết, những dấu vết này 
tích lũy dần dần gây ra những những phản ứng thích nghi, 
rèn luyện sức bền. Kết quả là hình thái và chức năng của 
cơ thể được hoàn thiện.
 Nếu tăng cường độ từ 80 - 85% lên 90 - 95% thì khối lượng
vận động => Phương pháp này thường áp dụng để huấn  luyện tăng sức nhanh. 
 Từ 2 lần x5km lên 3 lần x 5km lượng vận động tăng => 
phương pháp dùng để huấn luyện tăng sức mạnh.
 rút thời gian nghỉ xuống 10ph, khối lượng vận động tăng 
=> phương pháp dùng để huấn luyện sức bền.
=> vì vậy tùy vào mục đích cta có thể sử dụng những cách  tăng lượng vđ khác nhau
 Câu 12: Áp dụng phương pháp tập luyện vòng tròn 
nhằm giáo dục tố chất sức bền trong thực tiễn tập luyện 
thể dục, thể thao? Cho ví dụ? khái niệm: 
 Quá trình thực hiện các bài tập theo thứ tự từng nhóm với 
những bài tập đã được lựa chọn và hợp nhất lại thành bài 
tập liên hợp. Các bài tập được thực hiện theo từng trạm kế
tiếp nhau, các trạm được bố trí theo dạng vòng tròn. Tại 
mỗi trạm người tập thực hiện một loạt các động tác hoặc 
những hành động nhất định. Số lần lặp lại ở mỗi trạm được
xác định theo đặc điểm của người tập, thông thường số lần
lặp lại được thực hiện 1/3 đến 2/3 số lần lặp lại tối đa.
 Hình thức tập luyện vòng tròn nhằm giáo dục các tố chất 
thể lực, khi thực hiện tập luyện theo PP vòng tròn thường 
sử dụng những bài tập có kỹ thuật đơn giãn và người tập 
đã nắm vững các kĩ thuật động tác trước đó.
 Ưu điểm của PP vòng tròn là những ưu điểm của tác động 
chọn lọc được kết hợp với tác động chung, tác động ổn 
định được kết hợp với tác động biến đổi. Đặc biệt là hiệu 
quả của sự chuyển (thay đổi hoạt động) quãng được sử 
dụng rộng rãi. Nhờ vậy phát huy được khả năng vận động 
thể lực và cảm xúc tích cực.
 PP tập kéo dài liên tục chủ yếu được sử dụng để phát triển 
sức bền chung: Tập luyện lặp lại các động tác một cách 
liên tục không có quãng nghỉ
 PP giãn cách với quãng nghỉ ngắn chủ yếu được sử dụng 
để phát triển sức bền tốc độ và sức mạnh bền: Tập luyện 
tương tự pp tập kéo dài nhưng giữa các bài tập có quãng  nghỉ ngắn
Sự lựa chọn chủ yếu phụ thuộc vào mục đích rèn luyện sức bền 
mà người tập mong muốn hướng đến   Sức bền là gì… 
VD: Nhiều trường học đã áp dụng các bài tập nhịp điệu cho học 
sinh trong lúc giải lao nhằm tăng cường sức khỏe cũng như sức 
bền. Bài tập gồm nhiều động tác biến đổi khác nhau được thực 
hiện liên tục theo thứ tự tay, lườn, vặn mình, lưng bụng, chân, 
toàn thân và thực hiện bài tập trong khoảng 10 phút. Các động 
tác trên đều là những động tác quen thuộc dễ nhớ, phù hợp với 
lứa tuổi học sinh. Thường xuyên tập luyện bài tập này theo 
phương pháp vòng tròn góp phần tạo thói quen tốt, tăng cường 
sức khỏe, giáo dục tố chất sức bền.
đánh số thứ tự theo vòng tròn, ngtac tập ngược chiều kim đồng  hồ
=> tối thiểu ⅓, tối đa 2/3
Xây dựng bt vòng tròn: 4 - 6 trạm (ngược kim đồng hồ sd các bt
từ trên xuống dưới từ dễ đến khó
Trạm 1 Nhảy dây: Nhảy bằng dây đơn nhảy bằng mũi bàn chân  Trạm 2: Trạm 3:  Trạm 4: Trạm 5:
Câu 13: Vận dụng nguyên tắc tăng tiến vào thực tiễn tập
luyện thể dục, thể thao? Cho ví dụ?
Nguyên tắc tăng tiến
 Cần thường xuyên đổi mới nhiệm vụ vận động và LVĐ
 Trong quá trình GDTC không ngừng tăng số lượng và chất 
lượng KNKX (Kĩ năng kĩ xảo)
 Tăng LVĐ là tăng vốn KNKX. Mức độ biến đổi thích nghi 
trong cơ thể dưới sự tác động của bài tập thể chất trong 
những giới hạn nhất định tỷ lệ thuận với cường độ và khối  lượng.
 Vậy LVĐ lớn sẽ tạo nên sự biến đổi thích nghi lớn và quá 
trình hồi phục vượt mức ngày càng cao, cho nên LVĐ là 
nguyên nhân của sự phát triển, vì sử dụng một LVĐ nào đó
trong một thời gian dài sẽ dẫn đến những phản ứng thích  nghi của cơ thể.
 Các điều kiện tăng lượng vận động: Tăng LVĐ phải đảm  bảo các yêu cầu:
 Yêu cầu nêu trong nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc hệ 
thống, đảm bảo tính kế thừa của bài tập đó, lứa tuổi, giới 
tính, trình độ tập luyện, trạng thái sức khoẻ.
 Đảm bảo luôn phiên hợp lý giữa vận động và nghỉ ngơi.
 Tăng LVĐ phải đảm bảo cho kỹ xảo cũ được củng cố vững  chắc.
 Tăng LVĐ phải vừa sức với người tập vì những biến đổi 
trong cơ thể xảy ra chậm phải trải qua một quá trình nhất 
định để kịp xảy ra những biến đổi thích nghi. Do đó tăng 
LVĐ phải tăng từ từ, dần dần.
 Các hình thức tăng lượng vận động