Đề cương lý luận và phương pháp giáo dục thể chất | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ xã hội NT và xã hội CHNL? Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ XHPK và cận đại, đương đại? Hệ thống GDTC trong trường đại học? Chức năng giáo dục, chính trị, kinh tế của thể thao? Nguyên nhân và cách phòng chống chấn thương trong thể dục thể thao? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
25 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương lý luận và phương pháp giáo dục thể chất | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ xã hội NT và xã hội CHNL? Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ XHPK và cận đại, đương đại? Hệ thống GDTC trong trường đại học? Chức năng giáo dục, chính trị, kinh tế của thể thao? Nguyên nhân và cách phòng chống chấn thương trong thể dục thể thao? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

20 10 lượt tải Tải xuống
De cuong LLVPPGDTC
Câu 1: Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ xã hội NT và xã
hội CHNL?
Thời kỳ xã hội nguyên thủy
Trong quá trình tiến hóa thành người, lao động là nhân
tố quyết định.
Trong quá trình sản xuất, loài người nguyên thủy đã chế
tạo ra và sử dụng công cụ lao động.
Trong cuộc sống hàng ngày, để giải quyết các vấn đề sinh
hoạt như
như ăn, ở mặc, con người đã nâng cao trí lực và thể lực để
vượt qua điều kiện lao động gian khổ, khắc nghiệt với
công cụ lao động thô sơ. Họ phải đấu tranh với thiên tai dã
thú → dần hình thành các kỹ năng như chạy, nhảy, leo,
trèo, ném, bơi, mang vác nặng.
→ Những năng lực hoạt động đó cùng với kinh nghiệm đã trở
thành tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá trình độ, uy tín của con
người lúc bấy giờ. Mầm mống của hoạt động thể chất đã nảy
sinh từ chính thực tế của những hoạt động tự nhiên cùng những
kinh nghiệm trong cuộc sống.
Bản chất tự nhiên của con người được đặt lên hàng
đầu, mọi hành động chỉ nhằm mục đích đối phó, khắc
phục với đời sống hiện tại thông qua kinh nghiệm tích lũy.
Ngoài ra có các trò chơi, một số hoạt động rèn luyện thân
thể phòng chữa bệnh → phát triển bài tập thể chất.
GDTC chỉ thực sự ra đời khi con người ý thức được về
tác dụng và sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai
Thế hệ trẻ: kế thừa, truyền thụ và tiếp thu những kỹ năng
vận động → Nội dung chủ yếu của giáo dục thời cổ xưa.
GDTC là phương tiện giáo dục, 1 hiện tượng xã hội mà ở
con vật k thể có đc.
truyền thụ và áp dụng kinh nghiệm trong quá trình giao tiếp
chính là giáo dục
Kinh nghiệm sử dụng công cụ lao động hàng ngày cho
cng nhận thức thấy tác dụng của việc chuẩn bị trước
thông qua luyện tập. Các bài tập cho lao động dần dần
được tách khỏi cơ sở ban đầu là “lao động”, được khái quát
hoá, trừu tượng hoá để trở thành các môn thể thao.
→ TDTT thể hiện sự tiến hoá qua lao động đấu tranh sinh tồn.
Rèn luyện thể lực là hình thức GDTC đầu tiên
VD: Trên cơ sở tự nhiên lúc săn đuổi hay chạy trốn kẻ thù đã
dần dần hình thành môn chạy, nhảy, qua chướng ngại vật; ném
trúng đích thành môn ném…
Thời kỳ chiếm hữu nô lệ
Thị tộc xuất hiện (hình thức tổ chức xã hội đầu tiên): cng biết
làm ăn chung, phối hợp, phân công lao động, sở hữu chung về
công cụ sản xuất và phân phối sản phẩm lao động theo nguyên
tắc bình quân. Công cụ lao động phát triển, khả năng lao động
tăng cùng với kinh nghiệm tích lũy → sự phân công lao động,
khả năng bóc lột lao động đã xuất hiện → Việc biến các tù binh
bắt được thành nô lệ trở nên có lợi
→ Xã hội phân chia giai cấp:
GC thống trị bóc lột bị trị, tiến hành chiến tranh cướp đoạt
đất đai xây dựng nên đế quốc rộng lớn, thống trị và bóc lột
dân tộc khác.
Nguồn cung cấp nô lệ quan trọng nhất là thông qua chiến
tranh → đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt về thể lực cho các
binh sĩ, sức mạnh, sức bền, khéo léo, kỹ năng sd vũ khí →
Hệ thống GDTC, giáo dục qsu, huấn luyện thể lực ra đời.
Bơi chạy, đấu kiếm, cưỡi nga, vật là nội dung chính rèn
luyện thể lực và kỹ thuật chiến đấu cho quân đội.
Câu 2: Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ XHPK và cận đại,
đương đại?
Thời kỳ xã hội phong kiến
Thời kỳ phong kiến sơ kỳ:
Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ bị tan rã, phần lớn các
nước chế độ phong kiến đã thay đổi chế độ chiếm hữu nô
lệ. Các nước mạnh đã bắt đầu thực hiện các cuộc xâm lược
→ việc đào tạo quân sự là việc bắt buộc đối với các chúa
phong kiến.
Đối với nông dân, họ phải chú ý đến các trò chơi giải trí và
các bài tập phát triển sức mạnh, sức bền, khéo léo, và các
bài tập mang tính quân sự vì phải thường xuyên chống kẻ
thù để bảo vệ mình.
Thời kỳ chủ nghĩa phong kiến phát triển:
Đến khoảng thế kỉ IV, hệ thống huấn luyện quân sự và thể
lực cho các đẳng cấp quý tộc được phát triển gọi là hệ
thống giáo dục hiệp sĩ, có 3 cấp:
Từ 7 tuổi (cưỡi ngựa, đấu kiếm, bơi… đồng thời học các
quy tắc hiệp sĩ)
Từ 14 tuổi (sử dụng vũ khí để làm tuỳ tùng cho lãnh chúa
trong các cuộc hành quân và tham gia thi đấu hiệp sĩ,
tham gia chiến đấu)
21 tuổi (trở thành hiệp sĩ, tiếp tục tập luyện để thi đấu
hiệp sĩ và chiến đấu)
Trong thời gian này, các cuộc thi đấu có ý nghĩa lớn trong
việc phát triển TDTT. Các môn ném đá, đẩy tạ, ném búa
chim, chạy vượt chướng ngại vật hay các trò chơi đã hình
thành quy tắc trong thi đấu dần dần được mọi người thừa
nhận. Thi đấu mang tính chất thuần tuý, tham gia thi đấu
mang tính tự nguyện, thi đấu không gắn với tôn giáo, thi
đấu có tính hài hước và từ “thể thao” có lẽ ra đời từ thời
gian này.
Thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và sự ra đời của
chế độ tư bản:
Thời kỳ này, tư tưởng sử dụng giáo dục thể chất không chỉ
để huấn luyện quân sự mà còn để tăng cường sức khoẻ và
phát triển sức mạnh thể chất. Đó là một tư tưởng mới, tiến
bộ nhưng cũng còn hạn chế bởi có khuynh hướng chỉ
nhằm bảo đảm hạnh phúc cá nhân của con người.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa Ý đã thành lập trường học kiểu mới
nhà vui sướng”, có giảng dạy GDTC và TT. Một lượng thời gian
đáng kể được dành cho các trò chơi và các bài tập thể chất.
Người ta dạy cho các trẻ biết đấu kiếm, cưỡi ngựa, bơi và thực
hiện các quy tắc vệ sinh.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa người Pháp đề nghị luân phiên giờ học
văn hoá và tập thể dục, kết hợp bài tập của giới quý tộc
người nghèo vào mục đích giáo dục con người.
Thời kỳ cận đại và đương đại
Những cơ sở tư tưởng lý luận của giáo dục thể chất:
Rút xô đã phát triển tư tưởng về vai trò của môi trường
bên ngoài trong việc hình thành nhân cách con người. Ông
viết “thân thể sinh ra trước tâm hồn, nên việc quan tâm
đến thân thể phải là việc trước tiên”. Bắt đầu là rèn luyện
cơ thể sau đó là các trò chơi và các BTTC.
Các nhà giáo dục Thuỵ Sĩ có công lớn trong lĩnh vực GDTC,
ông đã soạn ra phương pháp phân tích, gọi các động tác ở
khớp là các động tác sơ đẳng, là cơ sở để giảng dạy động
tác phối hợp phức tạp.
Các nhà cách mạng tư sản pháp ở cuối thế kỉ XVIII có công
lớn trong cơ sở lý luận cho GDTC. Họ cho rằng cần phải
đưa giáo dục thể chất vào hệ thống giáo dục quốc dân.
Sự nảy sinh và phát triển của các hệ thống giáo dục thể
chất quốc gia:
Hệ thống giáo dục ở Đức cho rằng phương tiện GDTC gồm:
rèn luyện chống thời tiết xấu, biết chịu đói, khát, mất ngủ.
Các bài tập phát triển giác quan; các bài tập trượt băng,
mang vác vật nặng, các trò chơi giải trí, …
Hệ thống GDTC của Thụy Điển là tính đối xứng và thẳng
hàng. Tư thế đúng của tay chân và mình được đặc biệt chú
ý.
Hệ thống GDTC ở Pháp có tính chất ứng dụng quân sự đào
tạo binh sĩ. Các bài tập thể dục tốt nhất là bài tập phát
triển kỹ năng cần thiết trong đời sống, đặc biệt là trong
chiến tranh như các bài tập đi, chạy, nhảy, mang vác ở các
địa hình tự nhiên.
GDTC và thể thao của các nước Đan Mạch, Anh, Mỹ và một
số nước Đông Á, Đông Nam Á đã trở thành những trung
tâm chính phát triển TDTT. Tại các trường học xuất hiện
các nhóm thể thao nghiệp dư. Từ những năm 30 của thế
kỷ XI người ta tổ chức các cuộc thi thường xuyên về các
môn thể thao cho học sinh.
GDTC ở Việt Nam hiện nay:
Sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch HCM đã nêu ra
các nhiệm vụ cấp bách là tăng gia sản xuất, chống giặc
đói. Bác đã nêu lên một vấn đề có tính quốc sách là “phải
nâng cao sức khỏe cho toàn dân, một trong những biện
pháp tích cực là tập luyện thể dục – một công việc không
tốn kém khó khăn gì”.
Cũng vào thời gian này theo đề nghị của bộ trưởng bộ
thanh niên, Chủ Tịch HCM đã ký sắc lệnh số 14 về việc
thành lập một Nhà Thể dục Trung ương. Nhiệm vụ được
thể hiện ở 3 khẩu hiệu: Phổ thông thể dục; gây đời sống
mới; cải tạo nòi giống.
GDTC trong các trường đại học bắt đầu từ năm 1958 tiến
hành giảng dạy chính khóa. Chương trình quy định 120
tiết, nhưng còn mang tính chất tạm thời, chưa phải là văn
bản chính thức.
Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp ra chỉ thị về việc
thực hành tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi, quy
định sinh viên tốt nghiệp đại học phải đạt “tiêu chuẩn
chuẩn rèn luyện thân thể cấp II”.
Đến nay, GDTC là môn học bắt buộc trong hệ thống giáo
dục từ mầm non đến đại học. Ở bậc đại học chương trình
môn GDTC bao gồm các học phần bắt buộc và tự chọn.
Ngoài ra còn các quy định về hoạt động TDTT ngoại khóa
cho học sinh, sinh viên; đánh giá xếp loại thể lực cho học
sinh, sinh viên cũng được quy định cụ thể.
Câu 3: Hệ thống GDTC trong trường đại học?
GDTC trong trường đại học là quá trình giáo dục, rèn
luyện của nhà trường đối với tất cả các sinh viên nhằm
phát triển thể chất, nhân cách; bồi dưỡng và nâng cao tri
thức chuyên môn về lý luận và phương pháp GDTC, củng
cố và phát triển năng khiếu để sinh viên học tập và rèn
luyện đạt kết quả cao trong quá trình học tập.
Hệ thống GDTC cho sinh viên trong trường đại học là
những quan điểm, mục tiêu hệ thống tri thức GDTC; cấu
trúc, nội dung và hình thức GDTC; phương pháp GDTC; tổ
chức quản lý GDTC.
Chủ thể GDTC trong trường đại học
Nhà trường đề ra phương hướng công tác GDTC để thực
hiện chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành.
Khoa hoặc bộ môn GDTC chịu trách nhiệm giảng dạy, kiểm
tra, giám sát và đánh giá kết quả.
Phòng đào tạo, phòng Y tế cùng phối hợp với bộ môn
GDTC tham gia vào quản lý, kiểm tra sức khỏe và thể lực
định kỳ đối với sinh viên.
Đối tượng
Sinh viên các lớp bằng 1 chính quy tập trung bắt buộc
phải tham gia các chương trình chính khóa và ngoại
khóa.
Sinh viên hệ không tập trung có thể tham gia hoạt động
phong trào TD, TT của nhà trường.
Trách nhiệm của sinh viên: Tham gia giờ học theo quy định
Kiểm tra sức khỏe và thể lực định kỳ
Tích cực tìm hiểu các tài liệu về TD, TT
Có chế độ sinh hoạt nghỉ ngơi hợp lý
Tích cực tham gia các hoạt động TD, TT
Mục đích của GDTC trong trường đại học: Thực hiệu mục
tiêu đào tạo cán bộ phát triển cơ thể hài hòa, có thể chất
cường tráng nhằm đáp ứng được yêu cầu chuyên môn,
nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận thực tiễn lao động,
sản xuất… thời kỳ mới
Nhiệm vụ: Giáo dục đạo đức XHCN cho sinh viên, rèn
luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng
lối sống tích cực lành mạnh, tinh thần tự giác học tập rèn
luyện
Hình thức GDTC: Giảng dạy phần lý thuyết trên lớp;
tập luyện thực hành kỹ thuật ngoài sân vận động được
lồng ghép với lý thuyết chuyên môn; tổ chức các hoạt
động ngoại khóa để đẩy mạnh phong trào TD, TT của sinh
viên.
Phương tiện GDTC:
Phần lý thuyết chung: Phương tiện dạy học được trang
bị trong học đưng.
Phần thực hành kỹ thuật: Sân bãi, nhà tập, phương
tiện, dụng cụ... phục vụ cho tập luyện và thi đấu.
Câu 4: Chức năng giáo dục, chính trị, kinh tế của thể
thao?
Chức năng giáo dục: Tuy chế độ xã hội, quan niệm chính
trị, các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng và nhận thức của
các quốc gia trên thế giới không giống nhau, nhưng đều
rất coi trọng tác dụng của TT trong giáo dục. Chức năng
giáo dục của TT chủ yếu được biển hiện trên hai phương
diện:
Tác dụng của TT trong xã hội: Do TT có tính hoạt động,
tính cạnh tranh, tính nghệ thuật, lễ nghĩa và tính quốc tế
nên có thể kích thích được lòng yêu tổ quốc, tỉnh thần tự
hào, đoàn kết dân tộc.
Tác dụng giáo dục của TT trong trường học: Để thực hiện
mục tiêu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta
tạo nên những con người mới phát triển toàn diện về đức,
trí, thể, mỹ và lao động thì TT là một bộ phận không thể
thiếu. TT giúp cho việc nâng cao thể chất, giáo dục tinh
thần đoàn kết, các phẩm chất đạo đức và tâm lý... cho học
sinh.
Chức năng chính trị
Cùng với văn hoá nghệ thuật, TT đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong việc đặt nền móng cho các mối quan hệ
chính trị giữa các quốc gia.
Thể hiện thông qua việc tiến hành thi đấu giao hữu các
môn thể thao để làm tiền đề cho các đoàn ngoại giao làm
việc và hợp tác.
Trong các cuộc thi đấu quốc tế, khi VĐV của nước nào giành
được chức vô địch thì lá cờ của quốc gia đó được kéo lên cao
nhất và quốc ca của nước đó được cử hành. Vinh quang và ý
nghĩa về mặt chính trị này chỉ có thể có được khi các VĐV thi
đấu hết mình vì màu cờ sắc áo của dân tộc.
Chức năng kinh tế:
TT và kinh tế có mối quan hệ tương hỗ, đã có nhiều nhà
kinh tế cho rằng sức lao động và sản xuất được nâng cao
là tiêu chí quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong các loại tố chất của con người thì tố chất thể lực
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính vì vậy các
nước trên thế giới đã chú trọng đến tác dụng của TT đối
với việc phát triển thể lực cho người lao động, lấy việc làm
giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh làm thành mục tiêu thúc đẩy
sức lao động sản xuất của xã hội. Điều này thể hiện chức
năng kinh tế ban đầu của TT.
TT thành tích cao và các ngành kinh tế thương mại, du
lịch, ... có mối quan hệ hết sức mật thiết. Một cuộc thi đấu
TT được tổ chức ở một điểm nào đó sẽ kéo theo hàng loạt
các ngành nghề kinh tế như: Du lịch, thông tin, dịch vụ
phát triển.
Câu 5: Nguyên nhân và cách phòng chống chấn thương
trong thể dục thể thao?
Là các chấn thương xảy ra trong quá trình tập luyện TD,
TT
Chấn thương TT khác với chấn thương trong sinh hoạt và
lao động ở chỗ nó có liên quan trực tiếp với các nhân tố và
điều kiện tập luyện TT như các môn TT, kế hoạch huấn
luyện, động tác kỹ thuật, trình độ tập luyện…
Nguyên nhân: Nguyên nhân gây ra chấn thương có rất
nhiều, có thể phân thành 2 mặt nn cơ bản và nn tiềm ẩn
Nguyên nhân cơ bản
Tư tưởng không coi trọng hoặc thiếu tri thức đề phòng
Thiếu sót trong khởi động
Trình độ huấn luyện kém
Trạng thái cơ thể không tốt
Phương pháp tổ chức không thoả đáng
Vi phạm quy tắc TT
Sân bãi, dụng cụ, trang phục không phù hợp yêu cầu vs an
toàn, khí hậu thời tiết xấu
Nguyên nhân tiềm ẩn: Do 2 nhân tố tiềm ẩn về sinh lý, giải
phẫu của các bộ phận cơ thể nào đó và đặc điểm kỹ thuật
của bản thân môn TT quyết định. Chỉ khi có tác động của
nn trực tiếp thì những yếu tố tiềm ẩn này mới trở thành nn
gây ra chấn thương.
Những chấn thương thường gặp trong thể dục thể thao: Căng
cơ, trật mắt cá chân, chấn thương vai, chấn thương đầu gối,
đau cẳng chân, viêm gân (tổn thương dây chằng), bong gân và
trật khớp cổ tay.
Cách phòng tránh chấn thương trong thể dục thể thao:
Tăng cường giáo dục về mục đích của TD, TT:
Hiểu những kiến thức có liên quan về vấn đề chấn thương.
Tăng cường giáo dục tính tổ chức kỷ luật.
Sắp xếp hợp lý quá trình tập luyện và thi đấu:
Tìm hiểu kỹ trọng tâm và những nội dung khó của buổi tập. Đối
với những nội dung khó nắm vững, những khâu mà người tập
dễ mắc sai lầm hoặc những động tác có nhiều nguy cơ xảy ra
chấn thương thì phải có sự chuẩn bị, dự phòng tốt để đảm bảo
an toàn cho tập luyện.
Phải khởi động tốt:
Mục đích của khởi động là nâng cao tính hưng phấn của hệ
thống các trung khu thần kinh, tăng cường chức năng của các
hệ thống cơ quan, khắc phục tính ý sinh lý của các chức năng,
chuẩn bị tốt khả năng cơ thể cho phần tập luyện chính.
Tăng cường bảo hiểm và tự bảo hiểm:
Bảo hiểm là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa chấn
thương.
Người tham gia tập luyện TD, TT cần phải học được
phương pháp tự bảo hiểm.
Tăng cường công tác kiểm tra y học và chú ý vệ sinh sân
bãi dụng cụ:
Cần phải định kỳ tiến hành kiểm tra thể lực, sức khoẻ...
92
Cần phải tăng cường quan sát, kiểm tra y học và kiểm tra
sức khỏe định kỳ
Câu 6: Phân tích khái niệm thể thao và giáo dục thể
chất?
Thể thao được coi là một bộ phận chủ yếu, lớn, nổi bật trong
TDTT.
Người ta phân biệt thể thao theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng
Khái niệm thể thao theo nghĩa hẹp: TT là một hoạt động
mang tính trò chơi, một hình thức thi đấu đặc biệt chủ yếu
và phần nhiều bằng sự vận động thể lực, nhằm phát huy
những năng lực chuyên biệt, đạt thành tích cao, cao nhất
được so sánh trực tiếp và công bằng trong những điều kiện
chuyên môn như nhau.
→ Khái niệm này chỉ nêu lên những đặc điểm bên ngoài để
phân biệt TT với hiện tượng khác, không bao quát hết được
những biểu hiện cụ thể, phong phú của thể thao trong xã hội.
Bản chất của TT không chỉ giới hạn ở thành tích thể thao thuần
tuý, là hoạt động tác động toàn diện tới con người.
TT theo nghĩa rộng: Bao gồm hoạt động thi đấu, là sự
chuẩn bị tập luyện đặc biệt cho thi đấu. TT là mối quan hệ
đặc biệt giữa người với người trong thi đấu cùng với ý
nghĩa xã hội, với thành tích thi đấu gộp chung lại.
TT là hiện tượng xã hội: Đối với cá nhân TT là khát vọng của con
người không ngừng mở rộng giới hạn khả năng của mình được
thực hiện thông qua nhiệm vụ đặc biệt. TT còn là một trong
những hình thức vận động của xã hội thời đại, là tổng hợp phức
tạp quan hệ giữa người với người, là một hình thức hoạt động
của thời đại mang tính đại chúng.
Thể thao là một phương tiện, phương pháp hữu hiệu nhất để
phát triển thể chất, đạo đức, thẩm mỹ. TT là một trong những
phương tiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và hữu hiệu giữa
các dân tộc.
GDTC: Thông thường, người ta coi GDTC là một bộ phận của
TDTT.
GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy
học vận động (dạy học động tác) và phát triển có chủ định các
tố chất vận động của con người.
GDTC là một hiện tượng sư phạm với đầy đủ ý nghĩa của
nó. Đặc điểm nổi bật nhất của GDTC là một quá trình sư
phạm nhằm tác động lên các đối tượng giáo dục để đạt
được các nhiệm vụ:
Giáo dục các tố chất thể lực.
Giáo dục phẩm chất ý chí, đạo đức, nhân cách.
Giáo dưỡng.
Trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động.
Rèn luyện thói quen nếp sống lành mạnh. Tổng hợp những
quá trình đó xác định khả năng thích nghi thể lực của con
người
→Tổng hợp những quá trình đó xác định khả năng thích nghi
thể lực của con người.
Như vậy có thể định nghĩa: GDTC là một hình thức giáo
dục nhằm trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động và những tri
thức chuyên môn (giáo dưỡng). Phát triển tố chất thể lực,
tăng cường sức khỏe.
Câu 7: Phân tích cấu trúc một buổi tập thể dục, thể thao.
Để một buổi tập có hiệu quả cần lưu ý đến yếu tố nào?
Tại sao?
Một buổi tập được chia làm 3 phần, yêu cầu người tập phải tuân
theo để bảo đảm luyện tập có khoa học, có hệ thống và để thể
lực cùng thành tích thể thao được nâng cao dần, đồng thời giảm
tối đa các phản ứng xấu, chấn thương có thể xảy ra cho người
tập.
Phần chuẩn bị
Khởi động chung: Nhằm đưa cơ thể từ trạng thái bình
thường sang trạng thái vận động và vận động cường độ
cao. Gồm các bài tập thể dục tay không chạy, nhảy, các
khớp…
Khởi động chuyên môn: Gồm những bài tập chuẩn bị cho
phần chính (Cơ bản), những bài tập này gần giống hoặc là
phân đoạn của nội dung chính, có khi là những kỹ năng
vận động.
Mục đích: Bổ trợ cho nội dung chính trong phần cơ bản và ôn
tập những nội dung hoàn thiện.
Phần cơ bản
Phần cơ bản là phần chính của buổi tập, gồm những bài
tập mới (động tác mới) nên tập đầu tiên sau đó là những
bài tập đang hoàn thiện để trở thành KNKX vận động. Cuối
cùng giành 10-15 phút tập thể lực. Các bài tập nâng cao
sức bền sắp xếp vào cuối buổi tập, không tập tăng tốc độ
và các bài tập khéo léo khi cơ thể mệt mỏi.
Trong phần cơ bản, LVĐ là vấn đề người tập phải lưu ý. Hai
yếu tố cường độ vận động và khối lượng vận động liên
quan với nhau quyết định LVĐ lớn hay nhỏ. LVĐ phải phù
hợp với sức khỏe từng người. Nếu LVĐ nhỏ thì buổi tập ít
tác dụng. LVĐ hợp lý, vừa với sức chịu đựng, người tập
không phải gắng sức tối đa, tác dụng buổi tập có kết quả
tốt. LVĐ quá cao gây mệt mỏi quá sức chịu đựng, nếu kéo
dài nhiều buổi tập có thể gây ra chấn thương, mệt mỏi
quá độ, sức khỏe giảm sút dẫn tới không tập luyện tiếp
tục được, có khi phải nghỉ dài, điều trị an dưỡng.
Phần kết thúc
Sử dụng các bài tập thả lỏng cơ bắp, hồi tĩnh, tập thở, trò
chơi làm giảm căng thẳng, xoa bóp, tắm nước nóng, tắm
hơi...
Mục đích: Đưa cơ thể dần chuyển về trạng thái bình
thường để hồi phục thể lực chuẩn bị cho ngày học tập và
làm việc tiếp theo
Để một buổi tập có hiệu quả cần lưu ý đến yếu tố
Sự tự giác tích cực:
Câu 8: Phân tích kỹ năng vận động, các quá trình hình
thành kỹ năng vận động?
Là tất cả các hoạt động của con người, bao gồm cả hoạt
động vận động đều gọi là phản xạ.
Các phản xạ được di truyền, có sẵn trong cơ thể con người
từ khi mới ra đời được gọi là phản xạ không điều kiện.
Chúng có tính bẩm sinh và là cơ sở của các hành vi bản
năng.
Trong quá trình sống và rèn luyện trên cơ sở những phản
xạ không điều kiện, có thể hình thành những phản xạ mới
để thích nghi với điều kiện sống, những phản xạ này được
gọi là phản xạ có điều kiện.
Hoạt động của con người liên quan chặt chẽ với việc hình
thành các phản xạ có điều kiện. Các cử động, động tác,
hoạt động vận động cũng là các phản xạ. Con người sinh
ra với một số phản xạ vận động bẩm sinh rất hạn chế.
Phần lớn các động tác vận động là phản xạ có điều kiện,
tức là được hình thành trong quá trình sống, hoặc do tập
luyện.
Do yêu cầu của mục đích vận động và để thích nghi với điều
kiện sống các phản xạ vận động được phối hợp lại với nhau
thành một tổ hợp các động tác có ý nghĩa và trở thành kỹ năng
vận động.
là một hình thức hành động, được hình Kỹ năng vận động
thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện, nhờ quá trình tập luyện
thường xuyên. Kỹ năng vận động là các động tác được thực
hiện một cách tự động do đã thành thói quen. Đi, đứng, chạy,
nhảy,... là các kỹ năng vận động cơ bản. Tất cả các kỹ thuật thể
thao cũng đều là các kỹ năng vận động.
Các quá trình hình thành kỹ năng vận động: Kỹ năng vận
động được hình thành dần dần, theo 3 giai đoạn: Lan tỏa, tập
trung và tự động hóa.
Trong giai đoạn lan tỏa, hưng phấn lan rộng trên vỏ đại
não vì chưa hình thành được tổ hợp vận động tối ưu. Nhiều
nhóm cơ vận động cần thiết cũng tham gia vào vận động.
Động tác vì vậy không chính xác, nhiều cử động thừa,
không tinh tế.
Sau một thời gian lặp lại, giai đoạn lan tỏa chuyển sang
giai đoạn tập trung. Trong giai đoạn này, hưng phấn tập
trung ở một vùng nhất định trên vỏ não, cần thiết cho vận
động.
Vì thế, các động tác thừa mất đi, cơ căng và co bóp ở mức độ
hợp lý, động tác nhịp nhàng, chính xác, thoải mái hơn. Kỹ năng
vận động được hình thành tương đối ổn định.
Trong giai đoạn tự động hóa (kỹ xảo vận động), kỹ năng
vận động được củng cố đến mức được thực hiện gần như
tự động, không cần sự chú ý của ý thức. Kỹ năng vận động
cho phép thực hiện được nhiều động tác khác nhau cùng
một lúc.
Câu 9: Phân tích sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục,
thể thao đối với chức tuần hoàn và hô hấp của con
người?
Tập luyện TDTT là thay đổi huyết áp. Do mạng lưới mạch máu
dày đặc hơn và độ đàn hồi của thành mạch tốt hơn. Do đó
huyết áp tối đa giảm hơn so với người không tập luyện.
Tập luyện TDTT là tăng cường hô hấp, vì vậy cũng làm tăng
cường thể tích lồng ngực.
Tăng tần số hô hấp, thể tích hô hấp
Thông khí phổi
Dung tích sống. người bình thường 2,5-3,5 lít, VĐV 7-9 lít
Cơ hô hấp được phát triển dần, có lực, có sức bền, có thể
chịu đựng với lượng vận động lớn.
Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ O2 và thải
CO2: Dung tích sống là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá
trình độ sức khoẻ và sự sinh trưởng phát dục của thiếu
niên nhi đồng. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao
đặc biệt là làm các động tác gập duỗi ngực có thể làm cho
sức mạnh của cơ hô hấp được tăng cường, lồng ngực to
lên điều này có lợi cho sự sinh trưởng phát dục của tổ chức
phổi, cũng như sự khuyếch trương của phổi từ đó làm cho
dung tích sống tăng lên.
Tăng cường độ sâu hô hấp: Ở người bình thường hô hấp
nông và nhanh, khi yên tĩnh tần số yên tĩnh khoảng 12-18
lần/ phút, ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể
thao hô hấp sâu và chậm lúc yên tĩnh tần số hô hấp
khoảng 8-12 lần/ phút. Như vậy có nghĩa là các cơ hô hấp
có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Sự khác biệt này còn biểu
hiện rõ nét hơn trong khi vận động.
Câu 10: Phân tích cơ sở sinh lý để phát triển các tố chất
vận động?
Khái niệm tố chất vận động: ⁸Trong sinh hoạt, lao động,
cũng như tập luyện TD, TT, con người có lúc phải vận động rất
nhanh, có lúc cần phải làm việc lâu dài với lực tương đối nhỏ, có
lúc phải thực hiện các động tác mang vác rất nặng, tức là phải
thực hiện các mặt khác nhau của khả năng vận động. Các mặt
khác nhau của khả năng vận động được gọi là các tố chất vận
động hay tố chất thể lực.
Cơ sở sinh lý để phát triển các tố chất vận động: Khả
năng vận động của con người có thể hiện 4 loại tố chất: sức
nhanh, sức mạnh, sức bền và khéo léo.
Sức mạnh: là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài
của cơ bắp.
Cơ sở sinh lý phát triển sức mạnh: cần phải có số lượng lớn cơ
tham gia co cùng một lúc, thả lỏng lực đối kháng và kéo căng
các cơ cùng phía (cơ hưởng ứng), tăng cường sự phối hợp đồng
bộ hoạt động của nhóm cơ đối kháng
Sức nhanh: là khả năng thực hiện động tác với thời
gian ngắn nhất
Cơ sở sinh lý để phát triển sức nhanh/tốc độ: tăng cường độ linh
hoạt và tốc độ lan tỏa hưng phấn ở trung tâm thần kinh, tăng
tốc độ co cơ, tăng cường tính đồng bộ trong hoạt động của các
cơ khác nhau, tăng tốc độ thả lỏng cơ…
Sức bền: là khả năng thực hiện hoạt động trong thời
gian dài.
Cơ sở sinh lý để phát triển sức bền: là mức độ phát triển của
tim mạch và hô hấp. Đó là trạng thái máu; dự trữ chất dinh
dưỡng trong cơ thể và khả năng sử dụng chúng; công suất của
các quá trình trao đổi năng lượng có và không có oxi; đặc điểm
của quá trình điều nhiệt, trạng thái của các tuyến nội tiết.
Khéo léo: là khả năng thực hiện những động tác về
phối hợp vận động trong điều kiện môi trường thay
đổi.
Cơ sở sinh lý để phát triển khéo léo: là phản xạ phối hợp phức
tạp. Vì mức độ phát triển khéo léo phụ thuộc vào trạng thái hệ
thần kinh trung ương, tốc độ xử lý thông tin và hình thành các
chương trình hành động.
Tập luyện TD, TT có hệ thống phát triển tất cả các tố chất
vận động. Các tố chất vận động có nhiều điểm giống nhau
về cơ chế phát triển. Vì vậy khi hoàn thiện một tố chất thì
các tố chất khác ở một mức độ nhất định cũng biến đổi
theo. Ảnh hưởng hỗ trợ đó thể hiện rất rõ khi mới bắt đầu
tập luyện thường xuyên. Tuy nhiên, một số bài tập thể lực
có thể gây ảnh hưởng xấu đối với việc phát triển một tố
chất vận động.
VD: Tập tạ để phát triển sức mạnh lâu dài có thể ảnh hưởng
đến sức bền trong chạy cự ly.
Khi ngừng tập luyện có hệ thống, các tố chất vận động cũng
ngừng phát triển, các tố chất sẽ thoái hóa về trạng thái ban
đầu. Tố chất sức nhanh sẽ giảm sớm nhất rồi sau đó là sức
mạnh và cuối cùng là sức bền.
Câu 11: Đưa ra một lượng vận động bên ngoài. Đánh giá
các yếu tố ảnh hưởng đến việc tăng lượng vận động đó?
trong tất cả pp, lượng vận động và quãng nghỉ…
L là mức độ tác đng của bài tập thể chất lên cơ thể người
tập. LVĐ tác động lên cơ thể gây nên mệt mỏi, mệt mỏi thì
không mất đi hoàn toàn mà nó được giữ lại những dấu vết được
tích lũy dần lại gây nên những phản ứng thích nghi. Kết quả là
hình thái và chức năng cơ thể được hoàn thiện.
Lượng vận động bao gồm: LVĐ bên ngoài và LVĐ bên trong
Lượng vận động bên ngoài:
Là LVĐ tác động lên cơ thể người tập thông qua bài tập thể
lực. Có thể xác định bằng những thông số vận động theo
các hệ số đo lường như thời gian, độ dài, trọng lượng, L
bên ngoài.
Bao gồm 2 thành phần cơ bản là: khối lượng và cường độ
vận động.
Khối lượng vận động: là độ kéo dài thời gian của động tác như
tổng cự ly chạy, tổng trọng lượng gánh vác, tổng số lần lặp lại,
… và được đo bằng đơn vị: km, kg, tấn tạ,…
Cường độ: là mức căng thẳng chức năng do bài tập gây ra trong
một khoảng thời gian tác động cụ thể nào đó, có đơn vị là: mục
đích/giây, giây, …
Quãng nghỉ: là thời gian nghỉ ngơi giữa các lần tập, bài tập,
buổi tập, chu kỳ huấn luyện.
Ví dụ: Trong 1 buổi tập, yêu cầu đạp xe 5km x2 lần với
80-85% sức trong 35 phút thì chỉ thực hiện được một lần,
thời gian nghỉ là 15ph
Bài tập trên có khối lượng là 10km với 2 lần đạp xe và
cường độ là 80 - 85% sứ, quãng nghỉ 15 phút, khoảng nghỉ
sẽ là 15p
Nếu tăng khối lượng vận động thì cường độ vận động sẽ
giảm điều đó dẫn đến đau cơ, mỏi chân tốc độ đạp cũng
giảm sút. Những mệt mỏi này không mất đi hoàn toàn sau
buổi tập mà nó lưu lại những dấu vết, những dấu vết này
tích lũy dần dần gây ra những những phản ứng thích nghi,
rèn luyện sức bền. Kết quả là hình thái và chức năng của
cơ thể được hoàn thiện.
Nếu tăng cường độ từ 80 - 85% lên 90 - 95% thì khối lượng
vận động => Phương pháp này thường áp dụng để huấn
luyện tăng sức nhanh.
Từ 2 lần x5km lên 3 lần x 5km lượng vận động tăng =>
phương pháp dùng để huấn luyện tăng sức mạnh.
rút thời gian nghỉ xuống 10ph, khối lượng vận động tăng
=> phương pháp dùng để huấn luyện sức bền.
=> vì vậy tùy vào mục đích cta có thể sử dụng những cách
tăng lượng vđ khác nhau
Câu 12: Áp dụng phương pháp tập luyện vòng tròn
nhằm giáo dục tố chất sức bền trong thực tiễn tập luyện
thể dục, thể thao? Cho ví dụ?
khái niệm:
Quá trình thực hiện các bài tập theo thứ tự từng nhóm với
những bài tập đã được lựa chọn và hợp nhất lại thành bài
tập liên hợp. Các bài tập được thực hiện theo từng trạm kế
tiếp nhau, các trạm được bố trí theo dạng vòng tròn. Tại
mỗi trạm người tập thực hiện một loạt các động tác hoặc
những hành động nhất định. Số lần lặp lại ở mỗi trạm được
xác định theo đặc điểm của người tập, thông thường số lần
lặp lại được thực hiện 1/3 đến 2/3 số lần lặp lại tối đa.
Hình thức tập luyện vòng tròn nhằm giáo dục các tố chất
thể lực, khi thực hiện tập luyện theo PP vòng tròn thường
sử dụng những bài tập có kỹ thuật đơn giãn và người tập
đã nắm vững các kĩ thuật động tác trước đó.
Ưu điểm của PP vòng tròn là những ưu điểm của tác động
chọn lọc được kết hợp với tác động chung, tác động ổn
định được kết hợp với tác động biến đổi. Đặc biệt là hiệu
quả của sự chuyển (thay đổi hoạt động) quãng được sử
dụng rộng rãi. Nhờ vậy phát huy được khả năng vận động
thể lực và cảm xúc tích cực.
PP tập kéo dài liên tục chủ yếu được sử dụng để phát triển
sức bền chung: Tập luyện lặp lại các động tác một cách
liên tục không có quãng nghỉ
PP giãn cách với quãng nghỉ ngắn chủ yếu được sử dụng
để phát triển sức bền tốc độ và sức mạnh bền: Tập luyện
tương tự pp tập kéo dài nhưng giữa các bài tập có quãng
nghỉ ngắn
Sự lựa chọn chủ yếu phụ thuộc vào mục đích rèn luyện sức bền
mà người tập mong muốn hướng đến
Sức bền là gì…
VD: Nhiều trường học đã áp dụng các bài tập nhịp điệu cho học
sinh trong lúc giải lao nhằm tăng cường sức khỏe cũng như sức
bền. Bài tập gồm nhiều động tác biến đổi khác nhau được thực
hiện liên tục theo thứ tự tay, lườn, vặn mình, lưng bụng, chân,
toàn thân và thực hiện bài tập trong khoảng 10 phút. Các động
tác trên đều là những động tác quen thuộc dễ nhớ, phù hợp với
lứa tuổi học sinh. Thường xuyên tập luyện bài tập này theo
phương pháp vòng tròn góp phần tạo thói quen tốt, tăng cường
sức khỏe, giáo dục tố chất sức bền.
đánh số thứ tự theo vòng tròn, ngtac tập ngược chiều kim đồng
hồ
=> tối thiểu ⅓, tối đa 2/3
Xây dựng bt vòng tròn: 4 - 6 trạm (ngược kim đồng hồ sd các bt
từ trên xuống dưới từ dễ đến khó
Trạm 1 Nhảy dây: Nhảy bằng dây đơn nhảy bằng mũi bàn chân
Trạm 2:
Trạm 3:
Trạm 4:
Trạm 5:
Câu 13: Vận dụng nguyên tắc tăng tiến vào thực tiễn tập
luyện thể dục, thể thao? Cho ví dụ?
Nguyên tắc tăng tiến
Cần thường xuyên đổi mới nhiệm vụ vận động và L
Trong quá trình GDTC không ngừng tăng số lượng và chất
lượng KNKX (Kĩ năng kĩ xảo)
Tăng LVĐ là tăng vốn KNKX. Mức độ biến đổi thích nghi
trong cơ thể dưới sự tác động của bài tập thể chất trong
những giới hạn nhất định tỷ lệ thuận với cường độ và khối
lượng.
Vậy LVĐ lớn sẽ tạo nên sự biến đổi thích nghi lớn và q
trình hồi phục vượt mức ngày càng cao, cho nên LVĐ là
nguyên nhân của sự phát triển, vì sử dụng một LVĐ nào đó
trong một thời gian dài sẽ dẫn đến những phản ứng thích
nghi của cơ thể.
Các điều kiện tăng lượng vận động: Tăng LVĐ phải đảm
bảo các yêu cầu:
Yêu cầu nêu trong nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc hệ
thống, đảm bảo tính kế thừa của bài tập đó, lứa tuổi, giới
tính, trình độ tập luyện, trạng thái sức khoẻ.
Đảm bảo luôn phiên hợp lý giữa vận động và nghỉ ngơi.
Tăng LVĐ phải đảm bảo cho kỹ xảo cũ được củng cố vững
chắc.
Tăng LVĐ phải vừa sức với người tập vì những biến đổi
trong cơ thể xảy ra chậm phải trải qua một quá trình nhất
định để kịp xảy ra những biến đổi thích nghi. Do đó tăng
LVĐ phải tăng từ từ, dần dần.
Các hình thức tăng lượng vận động
| 1/25

Preview text:

De cuong LLVPPGDTC
Câu 1: Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ xã hội NT và xã hội CHNL?
Thời kỳ xã hội nguyên thủy

 Trong quá trình tiến hóa thành người, lao động là nhân
tố quyết định.
 Trong quá trình sản xuất, loài người nguyên thủy đã chế
tạo ra và sử dụng công cụ lao động.
 Trong cuộc sống hàng ngày, để giải quyết các vấn đề sinh hoạt như
 như ăn, ở mặc, con người đã nâng cao trí lực và thể lực để
vượt qua điều kiện lao động gian khổ, khắc nghiệt với
công cụ lao động thô sơ. Họ phải đấu tranh với thiên tai dã
thú → dần hình thành các kỹ năng như chạy, nhảy, leo,
trèo, ném, bơi, mang vác nặng.
→ Những năng lực hoạt động đó cùng với kinh nghiệm đã trở
thành tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá trình độ, uy tín của con
người lúc bấy giờ. Mầm mống của hoạt động thể chất đã nảy
sinh từ chính thực tế của những hoạt động tự nhiên cùng những
kinh nghiệm trong cuộc sống.
Bản chất tự nhiên của con người được đặt lên hàng
đầu, mọi hành động chỉ nhằm mục đích đối phó, khắc
phục với đời sống hiện tại thông qua kinh nghiệm tích lũy.
Ngoài ra có các trò chơi, một số hoạt động rèn luyện thân
thể phòng chữa bệnh → phát triển bài tập thể chất.
GDTC chỉ thực sự ra đời khi con người ý thức được về
tác dụng và sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai
 Thế hệ trẻ: kế thừa, truyền thụ và tiếp thu những kỹ năng
vận động → Nội dung chủ yếu của giáo dục thời cổ xưa.
 GDTC là phương tiện giáo dục, 1 hiện tượng xã hội mà ở con vật k thể có đc.
truyền thụ và áp dụng kinh nghiệm trong quá trình giao tiếp chính là giáo dục
Kinh nghiệm sử dụng công cụ lao động hàng ngày cho
cng nhận thức thấy tác dụng của việc chuẩn bị trước
thông qua luyện tập. Các bài tập cho lao động dần dần
được tách khỏi cơ sở ban đầu là “lao động”, được khái quát
hoá, trừu tượng hoá để trở thành các môn thể thao.
→ TDTT thể hiện sự tiến hoá qua lao động đấu tranh sinh tồn.
Rèn luyện thể lực là hình thức GDTC đầu tiên
VD: Trên cơ sở tự nhiên lúc săn đuổi hay chạy trốn kẻ thù đã
dần dần hình thành môn chạy, nhảy, qua chướng ngại vật; ném
trúng đích thành môn ném…
Thời kỳ chiếm hữu nô lệ
Thị tộc xuất hiện (hình thức tổ chức xã hội đầu tiên): cng biết
làm ăn chung, phối hợp, phân công lao động, sở hữu chung về
công cụ sản xuất và phân phối sản phẩm lao động theo nguyên
tắc bình quân. Công cụ lao động phát triển, khả năng lao động
tăng cùng với kinh nghiệm tích lũy → sự phân công lao động,
khả năng bóc lột lao động đã xuất hiện → Việc biến các tù binh
bắt được thành nô lệ trở nên có lợi
→ Xã hội phân chia giai cấp:
 GC thống trị bóc lột bị trị, tiến hành chiến tranh cướp đoạt
đất đai xây dựng nên đế quốc rộng lớn, thống trị và bóc lột dân tộc khác.
 Nguồn cung cấp nô lệ quan trọng nhất là thông qua chiến
tranh → đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt về thể lực cho các
binh sĩ, sức mạnh, sức bền, khéo léo, kỹ năng sd vũ khí →
Hệ thống GDTC, giáo dục qsu, huấn luyện thể lực ra đời.
Bơi chạy, đấu kiếm, cưỡi ngựa, vật là nội dung chính rèn
luyện thể lực và kỹ thuật chiến đấu cho quân đội.
Câu 2: Lịch sử phát triển GDTC thời kỳ XHPK và cận đại, đương đại?
Thời kỳ xã hội phong kiến

Thời kỳ phong kiến sơ kỳ:
 Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ bị tan rã, phần lớn các
nước chế độ phong kiến đã thay đổi chế độ chiếm hữu nô
lệ. Các nước mạnh đã bắt đầu thực hiện các cuộc xâm lược
→ việc đào tạo quân sự là việc bắt buộc đối với các chúa phong kiến.
 Đối với nông dân, họ phải chú ý đến các trò chơi giải trí và
các bài tập phát triển sức mạnh, sức bền, khéo léo, và các
bài tập mang tính quân sự vì phải thường xuyên chống kẻ thù để bảo vệ mình.
Thời kỳ chủ nghĩa phong kiến phát triển:
 Đến khoảng thế kỉ IV, hệ thống huấn luyện quân sự và thể
lực cho các đẳng cấp quý tộc được phát triển gọi là hệ
thống giáo dục hiệp sĩ, có 3 cấp:
 Từ 7 tuổi (cưỡi ngựa, đấu kiếm, bơi… đồng thời học các quy tắc hiệp sĩ)
 Từ 14 tuổi (sử dụng vũ khí để làm tuỳ tùng cho lãnh chúa
trong các cuộc hành quân và tham gia thi đấu hiệp sĩ, tham gia chiến đấu)
 21 tuổi (trở thành hiệp sĩ, tiếp tục tập luyện để thi đấu hiệp sĩ và chiến đấu)
 Trong thời gian này, các cuộc thi đấu có ý nghĩa lớn trong
việc phát triển TDTT. Các môn ném đá, đẩy tạ, ném búa
chim, chạy vượt chướng ngại vật hay các trò chơi đã hình
thành quy tắc trong thi đấu dần dần được mọi người thừa
nhận. Thi đấu mang tính chất thuần tuý, tham gia thi đấu
mang tính tự nguyện, thi đấu không gắn với tôn giáo, thi
đấu có tính hài hước và từ “thể thao” có lẽ ra đời từ thời gian này.
Thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và sự ra đời của
chế độ tư bản
:

 Thời kỳ này, tư tưởng sử dụng giáo dục thể chất không chỉ
để huấn luyện quân sự mà còn để tăng cường sức khoẻ và
phát triển sức mạnh thể chất. Đó là một tư tưởng mới, tiến
bộ nhưng cũng còn hạn chế bởi có khuynh hướng chỉ
nhằm bảo đảm hạnh phúc cá nhân của con người.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa Ý đã thành lập trường học kiểu mới
“nhà vui sướng”, có giảng dạy GDTC và TT. Một lượng thời gian
đáng kể được dành cho các trò chơi và các bài tập thể chất.
Người ta dạy cho các trẻ biết đấu kiếm, cưỡi ngựa, bơi và thực
hiện các quy tắc vệ sinh.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa người Pháp đề nghị luân phiên giờ học
văn hoá và tập thể dục, kết hợp bài tập của giới quý tộc và
người nghèo vào mục đích giáo dục con người.
Thời kỳ cận đại và đương đại
Những cơ sở tư tưởng lý luận của giáo dục thể chất
:
 Rút xô đã phát triển tư tưởng về vai trò của môi trường
bên ngoài trong việc hình thành nhân cách con người. Ông
viết “thân thể sinh ra trước tâm hồn, nên việc quan tâm
đến thân thể phải là việc trước tiên”. Bắt đầu là rèn luyện
cơ thể sau đó là các trò chơi và các BTTC.
 Các nhà giáo dục Thuỵ Sĩ có công lớn trong lĩnh vực GDTC,
ông đã soạn ra phương pháp phân tích, gọi các động tác ở
khớp là các động tác sơ đẳng, là cơ sở để giảng dạy động
tác phối hợp phức tạp.
 Các nhà cách mạng tư sản pháp ở cuối thế kỉ XVIII có công
lớn trong cơ sở lý luận cho GDTC. Họ cho rằng cần phải
đưa giáo dục thể chất vào hệ thống giáo dục quốc dân.
Sự nảy sinh và phát triển của các hệ thống giáo dục thể
chất quốc gia:
 Hệ thống giáo dục ở Đức cho rằng phương tiện GDTC gồm:
rèn luyện chống thời tiết xấu, biết chịu đói, khát, mất ngủ.
Các bài tập phát triển giác quan; các bài tập trượt băng,
mang vác vật nặng, các trò chơi giải trí, …
 Hệ thống GDTC của Thụy Điển là tính đối xứng và thẳng
hàng. Tư thế đúng của tay chân và mình được đặc biệt chú ý.
 Hệ thống GDTC ở Pháp có tính chất ứng dụng quân sự đào
tạo binh sĩ. Các bài tập thể dục tốt nhất là bài tập phát
triển kỹ năng cần thiết trong đời sống, đặc biệt là trong
chiến tranh như các bài tập đi, chạy, nhảy, mang vác ở các địa hình tự nhiên.
 GDTC và thể thao của các nước Đan Mạch, Anh, Mỹ và một
số nước Đông Á, Đông Nam Á đã trở thành những trung
tâm chính phát triển TDTT. Tại các trường học xuất hiện
các nhóm thể thao nghiệp dư. Từ những năm 30 của thế
kỷ XI người ta tổ chức các cuộc thi thường xuyên về các
môn thể thao cho học sinh.
GDTC ở Việt Nam hiện nay:
 Sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch HCM đã nêu ra
các nhiệm vụ cấp bách là tăng gia sản xuất, chống giặc
đói. Bác đã nêu lên một vấn đề có tính quốc sách là “phải
nâng cao sức khỏe cho toàn dân, một trong những biện
pháp tích cực là tập luyện thể dục – một công việc không tốn kém khó khăn gì”.
 Cũng vào thời gian này theo đề nghị của bộ trưởng bộ
thanh niên, Chủ Tịch HCM đã ký sắc lệnh số 14 về việc
thành lập một Nhà Thể dục Trung ương. Nhiệm vụ được
thể hiện ở 3 khẩu hiệu: Phổ thông thể dục; gây đời sống
mới; cải tạo nòi giống.
 GDTC trong các trường đại học bắt đầu từ năm 1958 tiến
hành giảng dạy chính khóa. Chương trình quy định 120
tiết, nhưng còn mang tính chất tạm thời, chưa phải là văn bản chính thức.
 Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp ra chỉ thị về việc
thực hành tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi, quy
định sinh viên tốt nghiệp đại học phải đạt “tiêu chuẩn
chuẩn rèn luyện thân thể cấp II”.
 Đến nay, GDTC là môn học bắt buộc trong hệ thống giáo
dục từ mầm non đến đại học. Ở bậc đại học chương trình
môn GDTC bao gồm các học phần bắt buộc và tự chọn.
Ngoài ra còn các quy định về hoạt động TDTT ngoại khóa
cho học sinh, sinh viên; đánh giá xếp loại thể lực cho học
sinh, sinh viên cũng được quy định cụ thể.
Câu 3: Hệ thống GDTC trong trường đại học?
GDTC trong trường đại học là quá trình giáo dục, rèn
luyện của nhà trường đối với tất cả các sinh viên nhằm
phát triển thể chất, nhân cách; bồi dưỡng và nâng cao tri
thức chuyên môn về lý luận và phương pháp GDTC, củng
cố và phát triển năng khiếu để sinh viên học tập và rèn
luyện đạt kết quả cao trong quá trình học tập.
Hệ thống GDTC cho sinh viên trong trường đại học là
những quan điểm, mục tiêu hệ thống tri thức GDTC; cấu
trúc, nội dung và hình thức GDTC; phương pháp GDTC; tổ chức quản lý GDTC.
Chủ thể GDTC trong trường đại học
 Nhà trường đề ra phương hướng công tác GDTC để thực
hiện chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
 Khoa hoặc bộ môn GDTC chịu trách nhiệm giảng dạy, kiểm
tra, giám sát và đánh giá kết quả.
 Phòng đào tạo, phòng Y tế cùng phối hợp với bộ môn
GDTC tham gia vào quản lý, kiểm tra sức khỏe và thể lực
định kỳ đối với sinh viên.
Đối tượng
 Sinh viên các lớp bằng 1 chính quy tập trung bắt buộc
phải tham gia các chương trình chính khóa và ngoại khóa.
 Sinh viên hệ không tập trung có thể tham gia hoạt động
phong trào TD, TT của nhà trường.
Trách nhiệm của sinh viên: Tham gia giờ học theo quy định
Kiểm tra sức khỏe và thể lực định kỳ
Tích cực tìm hiểu các tài liệu về TD, TT
Có chế độ sinh hoạt nghỉ ngơi hợp lý
Tích cực tham gia các hoạt động TD, TT
Mục đích của GDTC trong trường đại học: Thực hiệu mục
tiêu đào tạo cán bộ phát triển cơ thể hài hòa, có thể chất
cường tráng nhằm đáp ứng được yêu cầu chuyên môn,
nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận thực tiễn lao động,
sản xuất… thời kỳ mới
Nhiệm vụ: Giáo dục đạo đức XHCN cho sinh viên, rèn
luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng
lối sống tích cực lành mạnh, tinh thần tự giác học tập rèn luyện
Hình thức GDTC: Giảng dạy phần lý thuyết trên lớp;
tập luyện thực hành kỹ thuật ngoài sân vận động được
lồng ghép với lý thuyết chuyên môn; tổ chức các hoạt
động ngoại khóa để đẩy mạnh phong trào TD, TT của sinh viên.
Phương tiện GDTC:
 Phần lý thuyết chung: Phương tiện dạy học được trang bị trong học đường.
 Phần thực hành kỹ thuật: Sân bãi, nhà tập, phương
tiện, dụng cụ... phục vụ cho tập luyện và thi đấu.
Câu 4: Chức năng giáo dục, chính trị, kinh tế của thể thao?
Chức năng giáo dục: Tuy chế độ xã hội, quan niệm chính
trị, các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng và nhận thức của
các quốc gia trên thế giới không giống nhau, nhưng đều
rất coi trọng tác dụng của TT trong giáo dục. Chức năng
giáo dục của TT chủ yếu được biển hiện trên hai phương diện:
 Tác dụng của TT trong xã hội: Do TT có tính hoạt động,
tính cạnh tranh, tính nghệ thuật, lễ nghĩa và tính quốc tế
nên có thể kích thích được lòng yêu tổ quốc, tỉnh thần tự
hào, đoàn kết dân tộc.
 Tác dụng giáo dục của TT trong trường học: Để thực hiện
mục tiêu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta là
tạo nên những con người mới phát triển toàn diện về đức,
trí, thể, mỹ và lao động thì TT là một bộ phận không thể
thiếu. TT giúp cho việc nâng cao thể chất, giáo dục tinh
thần đoàn kết, các phẩm chất đạo đức và tâm lý... cho học sinh.
Chức năng chính trị
 Cùng với văn hoá nghệ thuật, TT đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong việc đặt nền móng cho các mối quan hệ
chính trị giữa các quốc gia.
 Thể hiện thông qua việc tiến hành thi đấu giao hữu các
môn thể thao để làm tiền đề cho các đoàn ngoại giao làm việc và hợp tác.
Trong các cuộc thi đấu quốc tế, khi VĐV của nước nào giành
được chức vô địch thì lá cờ của quốc gia đó được kéo lên cao
nhất và quốc ca của nước đó được cử hành. Vinh quang và ý
nghĩa về mặt chính trị này chỉ có thể có được khi các VĐV thi
đấu hết mình vì màu cờ sắc áo của dân tộc.
Chức năng kinh tế:
 TT và kinh tế có mối quan hệ tương hỗ, đã có nhiều nhà
kinh tế cho rằng sức lao động và sản xuất được nâng cao
là tiêu chí quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội.
 Trong các loại tố chất của con người thì tố chất thể lực
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính vì vậy các
nước trên thế giới đã chú trọng đến tác dụng của TT đối
với việc phát triển thể lực cho người lao động, lấy việc làm
giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh làm thành mục tiêu thúc đẩy
sức lao động sản xuất của xã hội. Điều này thể hiện chức
năng kinh tế ban đầu của TT.
 TT thành tích cao và các ngành kinh tế thương mại, du
lịch, ... có mối quan hệ hết sức mật thiết. Một cuộc thi đấu
TT được tổ chức ở một điểm nào đó sẽ kéo theo hàng loạt
các ngành nghề kinh tế như: Du lịch, thông tin, dịch vụ phát triển.
Câu 5: Nguyên nhân và cách phòng chống chấn thương
trong thể dục thể thao?

 Là các chấn thương xảy ra trong quá trình tập luyện TD, TT
 Chấn thương TT khác với chấn thương trong sinh hoạt và
lao động ở chỗ nó có liên quan trực tiếp với các nhân tố và
điều kiện tập luyện TT như các môn TT, kế hoạch huấn
luyện, động tác kỹ thuật, trình độ tập luyện…
Nguyên nhân: Nguyên nhân gây ra chấn thương có rất
nhiều, có thể phân thành 2 mặt nn cơ bản và nn tiềm ẩn  Nguyên nhân cơ bản
 Tư tưởng không coi trọng hoặc thiếu tri thức đề phòng
 Thiếu sót trong khởi động
 Trình độ huấn luyện kém
 Trạng thái cơ thể không tốt
 Phương pháp tổ chức không thoả đáng  Vi phạm quy tắc TT
 Sân bãi, dụng cụ, trang phục không phù hợp yêu cầu vs an
toàn, khí hậu thời tiết xấu
 Nguyên nhân tiềm ẩn: Do 2 nhân tố tiềm ẩn về sinh lý, giải
phẫu của các bộ phận cơ thể nào đó và đặc điểm kỹ thuật
của bản thân môn TT quyết định. Chỉ khi có tác động của
nn trực tiếp thì những yếu tố tiềm ẩn này mới trở thành nn gây ra chấn thương.
Những chấn thương thường gặp trong thể dục thể thao: Căng
cơ, trật mắt cá chân, chấn thương vai, chấn thương đầu gối,
đau cẳng chân, viêm gân (tổn thương dây chằng), bong gân và trật khớp cổ tay.
Cách phòng tránh chấn thương trong thể dục thể thao:
Tăng cường giáo dục về mục đích của TD, TT:
 Hiểu những kiến thức có liên quan về vấn đề chấn thương.
 Tăng cường giáo dục tính tổ chức kỷ luật.
Sắp xếp hợp lý quá trình tập luyện và thi đấu:
Tìm hiểu kỹ trọng tâm và những nội dung khó của buổi tập. Đối
với những nội dung khó nắm vững, những khâu mà người tập
dễ mắc sai lầm hoặc những động tác có nhiều nguy cơ xảy ra
chấn thương thì phải có sự chuẩn bị, dự phòng tốt để đảm bảo an toàn cho tập luyện.
Phải khởi động tốt:
Mục đích của khởi động là nâng cao tính hưng phấn của hệ
thống các trung khu thần kinh, tăng cường chức năng của các
hệ thống cơ quan, khắc phục tính ý sinh lý của các chức năng,
chuẩn bị tốt khả năng cơ thể cho phần tập luyện chính.
Tăng cường bảo hiểm và tự bảo hiểm:
 Bảo hiểm là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa chấn thương.
 Người tham gia tập luyện TD, TT cần phải học được
phương pháp tự bảo hiểm.
Tăng cường công tác kiểm tra y học và chú ý vệ sinh sân bãi dụng cụ:
 Cần phải định kỳ tiến hành kiểm tra thể lực, sức khoẻ... 92
 Cần phải tăng cường quan sát, kiểm tra y học và kiểm tra sức khỏe định kỳ
Câu 6: Phân tích khái niệm thể thao và giáo dục thể chất?
Thể thao
được coi là một bộ phận chủ yếu, lớn, nổi bật trong TDTT.
Người ta phân biệt thể thao theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng
Khái niệm thể thao theo nghĩa hẹp: TT là một hoạt động
mang tính trò chơi, một hình thức thi đấu đặc biệt chủ yếu
và phần nhiều bằng sự vận động thể lực, nhằm phát huy
những năng lực chuyên biệt, đạt thành tích cao, cao nhất
được so sánh trực tiếp và công bằng trong những điều kiện chuyên môn như nhau.
→ Khái niệm này chỉ nêu lên những đặc điểm bên ngoài để
phân biệt TT với hiện tượng khác, không bao quát hết được
những biểu hiện cụ thể, phong phú của thể thao trong xã hội.
Bản chất của TT không chỉ giới hạn ở thành tích thể thao thuần
tuý, là hoạt động tác động toàn diện tới con người.
TT theo nghĩa rộng: Bao gồm hoạt động thi đấu, là sự
chuẩn bị tập luyện đặc biệt cho thi đấu. TT là mối quan hệ
đặc biệt giữa người với người trong thi đấu cùng với ý
nghĩa xã hội, với thành tích thi đấu gộp chung lại.
TT là hiện tượng xã hội: Đối với cá nhân TT là khát vọng của con
người không ngừng mở rộng giới hạn khả năng của mình được
thực hiện thông qua nhiệm vụ đặc biệt. TT còn là một trong
những hình thức vận động của xã hội thời đại, là tổng hợp phức
tạp quan hệ giữa người với người, là một hình thức hoạt động
của thời đại mang tính đại chúng.
Thể thao là một phương tiện, phương pháp hữu hiệu nhất để
phát triển thể chất, đạo đức, thẩm mỹ. TT là một trong những
phương tiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và hữu hiệu giữa các dân tộc.
GDTC: Thông thường, người ta coi GDTC là một bộ phận của TDTT.
GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy
học vận động (dạy học động tác) và phát triển có chủ định các
tố chất vận động của con người.
 GDTC là một hiện tượng sư phạm với đầy đủ ý nghĩa của
nó. Đặc điểm nổi bật nhất của GDTC là một quá trình sư
phạm nhằm tác động lên các đối tượng giáo dục để đạt được các nhiệm vụ:
 Giáo dục các tố chất thể lực.
 Giáo dục phẩm chất ý chí, đạo đức, nhân cách.  Giáo dưỡng.
 Trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động.
 Rèn luyện thói quen nếp sống lành mạnh. Tổng hợp những
quá trình đó xác định khả năng thích nghi thể lực của con người
→Tổng hợp những quá trình đó xác định khả năng thích nghi
thể lực của con người.
 Như vậy có thể định nghĩa: GDTC là một hình thức giáo
dục nhằm trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động và những tri
thức chuyên môn (giáo dưỡng). Phát triển tố chất thể lực, tăng cường sức khỏe.
Câu 7: Phân tích cấu trúc một buổi tập thể dục, thể thao.
Để một buổi tập có hiệu quả cần lưu ý đến yếu tố nào? Tại sao?
Một buổi tập được chia làm 3 phần, yêu cầu người tập phải tuân
theo để bảo đảm luyện tập có khoa học, có hệ thống và để thể
lực cùng thành tích thể thao được nâng cao dần, đồng thời giảm
tối đa các phản ứng xấu, chấn thương có thể xảy ra cho người tập.
Phần chuẩn bị
 Khởi động chung: Nhằm đưa cơ thể từ trạng thái bình
thường sang trạng thái vận động và vận động cường độ
cao. Gồm các bài tập thể dục tay không chạy, nhảy, các khớp…
 Khởi động chuyên môn: Gồm những bài tập chuẩn bị cho
phần chính (Cơ bản), những bài tập này gần giống hoặc là
phân đoạn của nội dung chính, có khi là những kỹ năng vận động.
Mục đích: Bổ trợ cho nội dung chính trong phần cơ bản và ôn
tập những nội dung hoàn thiện.
Phần cơ bản
 Phần cơ bản là phần chính của buổi tập, gồm những bài
tập mới (động tác mới) nên tập đầu tiên sau đó là những
bài tập đang hoàn thiện để trở thành KNKX vận động. Cuối
cùng giành 10-15 phút tập thể lực. Các bài tập nâng cao
sức bền sắp xếp vào cuối buổi tập, không tập tăng tốc độ
và các bài tập khéo léo khi cơ thể mệt mỏi.
 Trong phần cơ bản, LVĐ là vấn đề người tập phải lưu ý. Hai
yếu tố cường độ vận động và khối lượng vận động liên
quan với nhau quyết định LVĐ lớn hay nhỏ. LVĐ phải phù
hợp với sức khỏe từng người. Nếu LVĐ nhỏ thì buổi tập ít
tác dụng. LVĐ hợp lý, vừa với sức chịu đựng, người tập
không phải gắng sức tối đa, tác dụng buổi tập có kết quả
tốt. LVĐ quá cao gây mệt mỏi quá sức chịu đựng, nếu kéo
dài nhiều buổi tập có thể gây ra chấn thương, mệt mỏi
quá độ, sức khỏe giảm sút dẫn tới không tập luyện tiếp
tục được, có khi phải nghỉ dài, điều trị an dưỡng.
Phần kết thúc
 Sử dụng các bài tập thả lỏng cơ bắp, hồi tĩnh, tập thở, trò
chơi làm giảm căng thẳng, xoa bóp, tắm nước nóng, tắm hơi...
 Mục đích: Đưa cơ thể dần chuyển về trạng thái bình
thường để hồi phục thể lực chuẩn bị cho ngày học tập và làm việc tiếp theo
Để một buổi tập có hiệu quả cần lưu ý đến yếu tố
 Sự tự giác tích cực: 
Câu 8: Phân tích kỹ năng vận động, các quá trình hình
thành kỹ năng vận động?
 Là tất cả các hoạt động của con người, bao gồm cả hoạt
động vận động đều gọi là phản xạ.
 Các phản xạ được di truyền, có sẵn trong cơ thể con người
từ khi mới ra đời được gọi là phản xạ không điều kiện.
Chúng có tính bẩm sinh và là cơ sở của các hành vi bản năng.
 Trong quá trình sống và rèn luyện trên cơ sở những phản
xạ không điều kiện, có thể hình thành những phản xạ mới
để thích nghi với điều kiện sống, những phản xạ này được
gọi là phản xạ có điều kiện.
 Hoạt động của con người liên quan chặt chẽ với việc hình
thành các phản xạ có điều kiện. Các cử động, động tác,
hoạt động vận động cũng là các phản xạ. Con người sinh
ra với một số phản xạ vận động bẩm sinh rất hạn chế.
Phần lớn các động tác vận động là phản xạ có điều kiện,
tức là được hình thành trong quá trình sống, hoặc do tập luyện.
Do yêu cầu của mục đích vận động và để thích nghi với điều
kiện sống các phản xạ vận động được phối hợp lại với nhau
thành một tổ hợp các động tác có ý nghĩa và trở thành kỹ năng vận động.
Kỹ năng vận động là một hình thức hành động, được hình
thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện, nhờ quá trình tập luyện
thường xuyên. Kỹ năng vận động là các động tác được thực
hiện một cách tự động do đã thành thói quen. Đi, đứng, chạy,
nhảy,... là các kỹ năng vận động cơ bản. Tất cả các kỹ thuật thể
thao cũng đều là các kỹ năng vận động.
Các quá trình hình thành kỹ năng vận động: Kỹ năng vận
động được hình thành dần dần, theo 3 giai đoạn: Lan tỏa, tập trung và tự động hóa.
 Trong giai đoạn lan tỏa, hưng phấn lan rộng trên vỏ đại
não vì chưa hình thành được tổ hợp vận động tối ưu. Nhiều
nhóm cơ vận động cần thiết cũng tham gia vào vận động.
Động tác vì vậy không chính xác, nhiều cử động thừa, không tinh tế.
 Sau một thời gian lặp lại, giai đoạn lan tỏa chuyển sang
giai đoạn tập trung. Trong giai đoạn này, hưng phấn tập
trung ở một vùng nhất định trên vỏ não, cần thiết cho vận động.
Vì thế, các động tác thừa mất đi, cơ căng và co bóp ở mức độ
hợp lý, động tác nhịp nhàng, chính xác, thoải mái hơn. Kỹ năng
vận động được hình thành tương đối ổn định.
 Trong giai đoạn tự động hóa (kỹ xảo vận động), kỹ năng
vận động được củng cố đến mức được thực hiện gần như
tự động, không cần sự chú ý của ý thức. Kỹ năng vận động
cho phép thực hiện được nhiều động tác khác nhau cùng một lúc.
Câu 9: Phân tích sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục,
thể thao đối với chức tuần hoàn và hô hấp của con người?
Tập luyện TDTT là thay đổi huyết áp. Do mạng lưới mạch máu
dày đặc hơn và độ đàn hồi của thành mạch tốt hơn. Do đó
huyết áp tối đa giảm hơn so với người không tập luyện.
Tập luyện TDTT là tăng cường hô hấp, vì vậy cũng làm tăng
cường thể tích lồng ngực.
 Tăng tần số hô hấp, thể tích hô hấp  Thông khí phổi
 Dung tích sống. người bình thường 2,5-3,5 lít, VĐV 7-9 lít
 Cơ hô hấp được phát triển dần, có lực, có sức bền, có thể
chịu đựng với lượng vận động lớn.
 Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ O2 và thải
CO2: Dung tích sống là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá
trình độ sức khoẻ và sự sinh trưởng phát dục của thiếu
niên nhi đồng. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao
đặc biệt là làm các động tác gập duỗi ngực có thể làm cho
sức mạnh của cơ hô hấp được tăng cường, lồng ngực to
lên điều này có lợi cho sự sinh trưởng phát dục của tổ chức
phổi, cũng như sự khuyếch trương của phổi từ đó làm cho dung tích sống tăng lên.
 Tăng cường độ sâu hô hấp: Ở người bình thường hô hấp
nông và nhanh, khi yên tĩnh tần số yên tĩnh khoảng 12-18
lần/ phút, ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể
thao hô hấp sâu và chậm lúc yên tĩnh tần số hô hấp
khoảng 8-12 lần/ phút. Như vậy có nghĩa là các cơ hô hấp
có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Sự khác biệt này còn biểu
hiện rõ nét hơn trong khi vận động.
Câu 10: Phân tích cơ sở sinh lý để phát triển các tố chất vận động?
Khái niệm tố chất vận động
: ⁸Trong sinh hoạt, lao động,
cũng như tập luyện TD, TT, con người có lúc phải vận động rất
nhanh, có lúc cần phải làm việc lâu dài với lực tương đối nhỏ, có
lúc phải thực hiện các động tác mang vác rất nặng, tức là phải
thực hiện các mặt khác nhau của khả năng vận động. Các mặt
khác nhau của khả năng vận động được gọi là các tố chất vận
động hay tố chất thể lực.
Cơ sở sinh lý để phát triển các tố chất vận động: Khả
năng vận động của con người có thể hiện 4 loại tố chất: sức
nhanh, sức mạnh, sức bền và khéo léo.
Sức mạnh: là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài của cơ bắp.
Cơ sở sinh lý phát triển sức mạnh: cần phải có số lượng lớn cơ
tham gia co cùng một lúc, thả lỏng lực đối kháng và kéo căng
các cơ cùng phía (cơ hưởng ứng), tăng cường sự phối hợp đồng
bộ hoạt động của nhóm cơ đối kháng
Sức nhanh: là khả năng thực hiện động tác với thời
gian ngắn nhất
Cơ sở sinh lý để phát triển sức nhanh/tốc độ: tăng cường độ linh
hoạt và tốc độ lan tỏa hưng phấn ở trung tâm thần kinh, tăng
tốc độ co cơ, tăng cường tính đồng bộ trong hoạt động của các
cơ khác nhau, tăng tốc độ thả lỏng cơ…
Sức bền: là khả năng thực hiện hoạt động trong thời gian dài.
Cơ sở sinh lý để phát triển sức bền: là mức độ phát triển của
tim mạch và hô hấp. Đó là trạng thái máu; dự trữ chất dinh
dưỡng trong cơ thể và khả năng sử dụng chúng; công suất của
các quá trình trao đổi năng lượng có và không có oxi; đặc điểm
của quá trình điều nhiệt, trạng thái của các tuyến nội tiết.
Khéo léo: là khả năng thực hiện những động tác về
phối hợp vận động trong điều kiện môi trường thay đổi.
Cơ sở sinh lý để phát triển khéo léo: là phản xạ phối hợp phức
tạp. Vì mức độ phát triển khéo léo phụ thuộc vào trạng thái hệ
thần kinh trung ương, tốc độ xử lý thông tin và hình thành các chương trình hành động.
 Tập luyện TD, TT có hệ thống phát triển tất cả các tố chất
vận động. Các tố chất vận động có nhiều điểm giống nhau
về cơ chế phát triển. Vì vậy khi hoàn thiện một tố chất thì
các tố chất khác ở một mức độ nhất định cũng biến đổi
theo. Ảnh hưởng hỗ trợ đó thể hiện rất rõ khi mới bắt đầu
tập luyện thường xuyên. Tuy nhiên, một số bài tập thể lực
có thể gây ảnh hưởng xấu đối với việc phát triển một tố chất vận động.
VD: Tập tạ để phát triển sức mạnh lâu dài có thể ảnh hưởng
đến sức bền trong chạy cự ly.
Khi ngừng tập luyện có hệ thống, các tố chất vận động cũng
ngừng phát triển, các tố chất sẽ thoái hóa về trạng thái ban
đầu. Tố chất sức nhanh sẽ giảm sớm nhất rồi sau đó là sức
mạnh và cuối cùng là sức bền.
Câu 11: Đưa ra một lượng vận động bên ngoài. Đánh giá
các yếu tố ảnh hưởng đến việc tăng lượng vận động đó?
trong tất cả pp, lượng vận động và quãng nghỉ…
LVĐ là mức độ tác động của bài tập thể chất lên cơ thể người
tập. LVĐ tác động lên cơ thể gây nên mệt mỏi, mệt mỏi thì
không mất đi hoàn toàn mà nó được giữ lại những dấu vết được
tích lũy dần lại gây nên những phản ứng thích nghi. Kết quả là
hình thái và chức năng cơ thể được hoàn thiện.
Lượng vận động bao gồm: LVĐ bên ngoài và LVĐ bên trong
Lượng vận động bên ngoài:
 Là LVĐ tác động lên cơ thể người tập thông qua bài tập thể
lực. Có thể xác định bằng những thông số vận động theo
các hệ số đo lường như thời gian, độ dài, trọng lượng, LVĐ bên ngoài.
 Bao gồm 2 thành phần cơ bản là: khối lượng và cường độ vận động.
Khối lượng vận động: là độ kéo dài thời gian của động tác như
tổng cự ly chạy, tổng trọng lượng gánh vác, tổng số lần lặp lại,
… và được đo bằng đơn vị: km, kg, tấn tạ,…
Cường độ: là mức căng thẳng chức năng do bài tập gây ra trong
một khoảng thời gian tác động cụ thể nào đó, có đơn vị là: mục đích/giây, giây, …
Quãng nghỉ: là thời gian nghỉ ngơi giữa các lần tập, bài tập,
buổi tập, chu kỳ huấn luyện.
Ví dụ: Trong 1 buổi tập, yêu cầu đạp xe 5km x2 lần với
80-85% sức trong 35 phút thì chỉ thực hiện được một lần, thời gian nghỉ là 15ph
 Bài tập trên có khối lượng là 10km với 2 lần đạp xe và
cường độ là 80 - 85% sứ, quãng nghỉ 15 phút, khoảng nghỉ sẽ là 15p
 Nếu tăng khối lượng vận động thì cường độ vận động sẽ
giảm điều đó dẫn đến đau cơ, mỏi chân tốc độ đạp cũng
giảm sút. Những mệt mỏi này không mất đi hoàn toàn sau
buổi tập mà nó lưu lại những dấu vết, những dấu vết này
tích lũy dần dần gây ra những những phản ứng thích nghi,
rèn luyện sức bền. Kết quả là hình thái và chức năng của
cơ thể được hoàn thiện.
 Nếu tăng cường độ từ 80 - 85% lên 90 - 95% thì khối lượng
vận động => Phương pháp này thường áp dụng để huấn luyện tăng sức nhanh.
 Từ 2 lần x5km lên 3 lần x 5km lượng vận động tăng =>
phương pháp dùng để huấn luyện tăng sức mạnh.
 rút thời gian nghỉ xuống 10ph, khối lượng vận động tăng
=> phương pháp dùng để huấn luyện sức bền.
=> vì vậy tùy vào mục đích cta có thể sử dụng những cách tăng lượng vđ khác nhau
Câu 12: Áp dụng phương pháp tập luyện vòng tròn
nhằm giáo dục tố chất sức bền trong thực tiễn tập luyện
thể dục, thể thao? Cho ví dụ?
khái niệm:
 Quá trình thực hiện các bài tập theo thứ tự từng nhóm với
những bài tập đã được lựa chọn và hợp nhất lại thành bài
tập liên hợp. Các bài tập được thực hiện theo từng trạm kế
tiếp nhau, các trạm được bố trí theo dạng vòng tròn. Tại
mỗi trạm người tập thực hiện một loạt các động tác hoặc
những hành động nhất định. Số lần lặp lại ở mỗi trạm được
xác định theo đặc điểm của người tập, thông thường số lần
lặp lại được thực hiện 1/3 đến 2/3 số lần lặp lại tối đa.
 Hình thức tập luyện vòng tròn nhằm giáo dục các tố chất
thể lực, khi thực hiện tập luyện theo PP vòng tròn thường
sử dụng những bài tập có kỹ thuật đơn giãn và người tập
đã nắm vững các kĩ thuật động tác trước đó.
 Ưu điểm của PP vòng tròn là những ưu điểm của tác động
chọn lọc được kết hợp với tác động chung, tác động ổn
định được kết hợp với tác động biến đổi. Đặc biệt là hiệu
quả của sự chuyển (thay đổi hoạt động) quãng được sử
dụng rộng rãi. Nhờ vậy phát huy được khả năng vận động
thể lực và cảm xúc tích cực.
 PP tập kéo dài liên tục chủ yếu được sử dụng để phát triển
sức bền chung: Tập luyện lặp lại các động tác một cách
liên tục không có quãng nghỉ
 PP giãn cách với quãng nghỉ ngắn chủ yếu được sử dụng
để phát triển sức bền tốc độ và sức mạnh bền: Tập luyện
tương tự pp tập kéo dài nhưng giữa các bài tập có quãng nghỉ ngắn
Sự lựa chọn chủ yếu phụ thuộc vào mục đích rèn luyện sức bền
mà người tập mong muốn hướng đến  Sức bền là gì…
VD: Nhiều trường học đã áp dụng các bài tập nhịp điệu cho học
sinh trong lúc giải lao nhằm tăng cường sức khỏe cũng như sức
bền. Bài tập gồm nhiều động tác biến đổi khác nhau được thực
hiện liên tục theo thứ tự tay, lườn, vặn mình, lưng bụng, chân,
toàn thân và thực hiện bài tập trong khoảng 10 phút. Các động
tác trên đều là những động tác quen thuộc dễ nhớ, phù hợp với
lứa tuổi học sinh. Thường xuyên tập luyện bài tập này theo
phương pháp vòng tròn góp phần tạo thói quen tốt, tăng cường
sức khỏe, giáo dục tố chất sức bền.
đánh số thứ tự theo vòng tròn, ngtac tập ngược chiều kim đồng hồ
=> tối thiểu ⅓, tối đa 2/3
Xây dựng bt vòng tròn: 4 - 6 trạm (ngược kim đồng hồ sd các bt
từ trên xuống dưới từ dễ đến khó
Trạm 1 Nhảy dây: Nhảy bằng dây đơn nhảy bằng mũi bàn chân Trạm 2: Trạm 3: Trạm 4: Trạm 5:
Câu 13: Vận dụng nguyên tắc tăng tiến vào thực tiễn tập
luyện thể dục, thể thao? Cho ví dụ?
Nguyên tắc tăng tiến

Cần thường xuyên đổi mới nhiệm vụ vận động và LVĐ
 Trong quá trình GDTC không ngừng tăng số lượng và chất
lượng KNKX (Kĩ năng kĩ xảo)
 Tăng LVĐ là tăng vốn KNKX. Mức độ biến đổi thích nghi
trong cơ thể dưới sự tác động của bài tập thể chất trong
những giới hạn nhất định tỷ lệ thuận với cường độ và khối lượng.
 Vậy LVĐ lớn sẽ tạo nên sự biến đổi thích nghi lớn và quá
trình hồi phục vượt mức ngày càng cao, cho nên LVĐ là
nguyên nhân của sự phát triển, vì sử dụng một LVĐ nào đó
trong một thời gian dài sẽ dẫn đến những phản ứng thích nghi của cơ thể.
Các điều kiện tăng lượng vận động: Tăng LVĐ phải đảm bảo các yêu cầu:
 Yêu cầu nêu trong nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc hệ
thống, đảm bảo tính kế thừa của bài tập đó, lứa tuổi, giới
tính, trình độ tập luyện, trạng thái sức khoẻ.
 Đảm bảo luôn phiên hợp lý giữa vận động và nghỉ ngơi.
 Tăng LVĐ phải đảm bảo cho kỹ xảo cũ được củng cố vững chắc.
 Tăng LVĐ phải vừa sức với người tập vì những biến đổi
trong cơ thể xảy ra chậm phải trải qua một quá trình nhất
định để kịp xảy ra những biến đổi thích nghi. Do đó tăng
LVĐ phải tăng từ từ, dần dần.
Các hình thức tăng lượng vận động