










Preview text:
CÂU HỎI VỀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
1. Lịch sử đạo Thiên chúa? (Quá trình hình thành và phân chia các dòng
nhánh của đạo Thiên chúa? Sự ra đời của Kitô giáo/Công giáo? Các kinh sách
kinh điển của Công giáo?...)
Dưới thời vua Herode, tại xứ Galile nước Do Thái, Đức chúa Jesus Christ đã
mở ra Thiên chúa giáo. Đức Chúa Jesus đã bắt đầu giảng đạo khi Ngài được
30 tuổi. Ngài nhận 12 môn đệ, và rao giảng nước trời được 3 năm. Ngài đã bị
thầy Cả giáo phẩm tên là Cai-phe đạo Do Thái đã hợp tác với chính quyền
Tổng Đốc Pilate thời đó bắt giữ và giết cho đến chết. Họ đã tra tấn cực hình
Đức chúa Jesus dã man bằng cách đóng đinh tay chân Ngài trên Thập tự giá.
Năm Ngài sinh ra đời đã được định làm năm khởi đầu cho kỷ nguyên Dương
Lịch. Thiên chúa giáo được hình thành nhờ cơ sở Kinh Thánh Cựu Ước của
đạo Do Thái. Đạo Thiên chúa giáo nhìn nhận những điều được ghi chép lại
trong quyển Kinh Thánh Cựu Ước là đúng. Có thể nói Thiên chúa giáo là nối
tiếp và phát triển của Do Thái giáo.
Kito giáo là tên gọi chung của các tôn giáo cùng thờ chúa Giêsu, bao gồm đạo
Công giáo (với nghĩa là phổ quát). Ở Việt Nam, đạo Công giáo còn gọi là
Thiên chúa giáo. Ra đời ở các tỉnh phía Đông của đế quốc La Mã cổ đại,
nguồn gốc của Kitô giáo như F. Ăngghen đã nhận xét: “Nguồn gốc của Kitô
giáo nguyên thủy là cuộc vận động của những người bị áp bức, đạo đó xuất
hiện trước hết như một thứ tôn giáo của người nô lệ và bán tự do, của những
người nghèo khổ và những người bị tước hết mọi quyền lợi, các dân tộc bị
Rôma đô hộ hay làm tan tác”. Sự phát triển của đạo Kitô trong lịch sử nhân
loại lúc thăng, lúc trầm và đến hiện nay, Kitô giáo là tôn giáo có mặt ở hầu
khắp các nước của các châu lục, chứ không riêng gì ở Châu Âu.
2. Những nội dung trọng tâm của đạo Công giáo (tư tưởng chủ đạo, các hình
thức lễ nghi, cơ cấu tổ chức, giới luật )
* Tư tưởng chủ đạo
Quan niệm về thế giới của Công giáo là niềm tin vào Thiên chúa và sự màu
nhiệm của Thiên chúa tiền định. Vì thế, con người là do Thiên chúa sáng tạo,
có nghĩa vụ thờ phụng chía và tiếp tục công việc của chúa ở trái đất này.
* Các hình thức lễ nghi, giới luật
Ngay từ đầu, Giáo hội Công giáo đã xây dựng được một hệ thống các luật lệ,
lễ nghi khá chi tiết, cụ thể và được thống nhất thực hiện trên phạm vị toàn thế
giới. Trước đây, luật lệ, lễ nghi và thiết chế của Giáo hội được ghi trong Bộ
Giáo luật Ca-non(xuất bản năm 1917) gồm 2.000 điều. Ngày 25/1/1983, Giáo
hội Công giáo ban hành bộ giáo luật mới thay thế cho bộ Giáo luật Ca-non
gọi là bộ Giáo luật năm 1983 bao gồm 1.752 điều, chia gồm 7 quyển.
- Mười điều răn của Thiên Chúa (được Thiên Chúa ban cho Maisen tổ phụ
của dân Do Thái và được khắc vào bia đá để làm luật pháp cai trị dân Do
Thái): 1. Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự; 2. Không được lấy danh
Thiên Chúa để làm những việc tầm thường; 3. Giành ngày chủ nhật để thờ
phụng Thiên Chúa; 4. Thảo kính cha mẹ; 5. Không được giết người; 6. Không
được tà dâm; 7. Không được gian tham lấy của người khác; 8. Không được
làm chứng dối, che dấu sự gian dối; 9. Không được ham muốn vợ (hoặc
chồng) người khác; 10. Không được ham muốn của cải trái lẽ.
- Sáu điều răn của Giáo hội: 1. Xem lễ ngày chủ nhật và các ngày lễ buộc; 2.
Kiêng việc xác ngày chủ nhật; 3. Xưng tội mỗi năm một lần; 4. Chịu lễ mùa
phục sinh; 5. Giữ chay những ngày quy định; 6. Kiêng ăn thịt những ngày quy định.
- Bảy phép Bí tích:Một nghi lễ của Công giáo, theo đó ơn Chúa sẽ được đem
đến cho các tín đồ.Trong các nghi lễ, phép bí tích là quan trọng nhất, thể hiện
mối quan hệ giao tiếp giữa con người với Chúa. Có 7 bí tích: 1. Bí tích rửa
tội; 2. Bí tích thêm sức: để củng cố đức tin kính Chúa; 3. Bí tích thánh thể
hay còn gọi là phép Mình Thánh Chúa, có bánh (làm bằng bột mì) và rượu
(làm bằng rượu nho) tượng trưng cho mình và máu Chúa Giê-su. Tín đồ sau
khi xưng tội và được giải tội thì được chịu phép Mình Thánh; 4. Bí tích giải
tội: dành cho người sám hối tội lỗi; 5. Bí tích truyền chức thánh: chỉ dành cho
giám mục và linh mục đã được tuyển chọn để họ có quyền tế lễ chăn dắt dân
chúa; 6. Bí tích hôn phối: là bí tích kết hợp hai tín hữu 1 nam, 1 nữ thành vợ
chồng trước mặt Chúa; 7. Bí tích xức dầu bệnh nhân: là bí tích nâng đỡ bệnh
nhân về phần hồn và phần xác, giúp tín đồ chịu đựng đau khổ, dọn mình trước cái chết.
* Cơ cấu tổ chức
Về cơ cấu tổ chức chung Giáo hội Công giáo được tổ chức theo 3 cấp hành
chính chính thức, gồm: Giáo triều Rô-ma, Giáo phận, Giáo xứ. Có một cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, thống nhất, lâu dài và ổn định.
- Giáo triều Rô-ma: là cơ quan điều hành trung ương của Tòa thánh Va-ti-căn
và Giáo hội Công giáo, gồm: Phủ Quốc Vụ Khanh, đặc trách những công việc
thường vụ của Giáo Hội và phụ trách liên lạc các quốc gia; 09 Bộ của tòa
thánh, chịu trách nhiệm về những lãnh vực nhất định của đời sống Giáo Hội;
12 Hội Đồng Tòa Thánh, là những bộ phận chuyên nghiên cứu và tìm kiếm
trong những lãnh vực quan trọng, 3 Văn Phòng, giúp điều hành công việc của
Tòa Thánh và quản lý tài chính, 3 Tòa Án, để giải quyết các công việc liên
quan đến Xá giải, Ấn tín Tông tòa và Hôn phối.
- Giáo phận: Nhiều Giáo xứ hợp lại thành một Giáo phận. Giáo phận là cấp
hành chính chính thức của Giáo hội trực thuộc Toà Thánh Vatican về mọi
phương diện; việc thành lập, bãi bỏ, thay đổi một Giáo hội địa phương do
Giáo hoàng quyết định. Cai quản Giáo phận là một Giám mục, theo Giáo luật
Giám mục có tất cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi tôn giáo.
- Giáo xứ: Giáo xứ là đơn vị cuối cùng có tư cách pháp nhân của Giáo hội.
Đứng đầu giáo xứ là một Linh mục chính xứ do Giám mục giáo phận bổ
nhiệm và dưới quyền Giám mục giáo phận. Trong điều kiện thiếu Linh mục
thì có thể một Linh mục cai quản nhiều giáo xứ; một giáo xứ có thể có nhiều
giáo họ, trong trường hợp có nhiều linh mục thì một linh mục có thể coi sóc
một hoặc nhiều giáo họ. Ngoài ra, còn có các cấp trung gian mang tính liên
hiệp gồm: Giáo tỉnh, Giáo hạt.
3. Lịch sử phát triển Công giáo Việt Nam (Du nhập từ bao giờ? Các giai đoạn
phát triển, đặc điểm của từng giai đoạn..)
Quá trình truyền bá Công giáo vào Việt Nam bắt đầu từ các thập kỷ đầu của
thế kỷ XVI (1533), song thực tế phải đầu đầu thế kỷ XVII, hoạt động truyền
bá mới được tổ chức một cách có quy mô và đạt hiệu quả. Có thể phân chia
quá trình truyền giáo và phát triển đạo vào Việt Nam qua 3 giai đoạn chủ yếu:
a) Giai đoạn thứ nhất: từ ngày đầu truyền giáo đến năm 1884
Ở Việt Nam, từ những thập niên đầu của thế kỷ XVI đã có các giáo sĩ phương
Tây đến để truyền giáo. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép
rằng “Gia tô theo sách dã lục thì tháng 3 năm Nguyên Hoàng đời vua Lê
Trang Tôn (1533) có một dương nhân là Inikhu đã đi đường biển để vào
giảng đạo Gia tô ở Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chấn và làng
Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy…”. Giới nghiên cứu lịch sử đạo Công giáo đã
thống nhất lấy năm 1533 là thời mốc đánh dấu việc truyền bá đạo Công giáo vào Việt Nam.
Tiếp theo sau đó, năm 1558 các linh mục như: Luis de Fonseca, Gregoire de
la Motte… đã đến truyền giáo ở miền Trung; năm 1583, các linh mục Diego
Doropesa, Pedro Ortiz đến truyền giáo ở vùng ven biển Quảng Ninh…Thời
kỳ từ năm 1533 đến 1614, chủ yếu là các giáo sĩ dòng Phanxico thuộc Bồ
Đào Nha và dòng Đa Minh thuộc Tây ban Nha, đi theo đường thuyền buôn
vào truyền giáo ở nước ta, nhưng do không quen thông thổ, chưa thạo ngôn
ngữ nên việc truyền giáo không có mấy kết quả.
Tuy nhiên, đến thế kỷ XVII, các giáo sỹ Công giáo người Châu Âu đã bắt
đầu đến Hội An (Đàng trong) để giảng đạo cho người Việt và người Nhật
buôn bán ở đây. Sau đó, từ năm 1615 đến 1625 có 21 thừa sai đến Đàng trong
để truyền giáo. Năm 1615, ngôi nhà thờ đầu tiên đã được xây dựng ở Đàng trong.
Công cuộc truyền giáo của Đàng ngoài diễn ra muộn hơn so với Đàng trong.
Năm 1626, linh mục Giuliano cùng một số người Nhật đến Đàng ngoài trên
một chiếc tàu buôn của người Bồ Đào Nha để truyền đạo. Theo tài liệu của
Giáo hội Công giáo, ở Đàng ngoài sau 37 năm truyền giáo đã có 25 linh mục,
05 thầy giảng; ở Đàng trong sau 50 năm truyền giáo đã có 39 linh mục. Số tín
đồ đạo Công giáo trong khoảng thời gian này có gần 100 ngàn người (trong
đó khoảng 20 ngàn ở Đàng trong và 80 ngàn ở Đàng ngoài). Riêng ở Nghệ
An, năm 1593 đã có 12 làng theo đạo Công giáo toàn tong.
Khi đạo Công giáo phát triển mạnh, các giáo sĩ Dòng Tên nghĩ đến việc cần
có các Giám mục phụ trách để thúc đẩy công cuộc truyền giáo ở bước cao
hơn. Tuy nhiên, khi đề chọn các giáo sĩ để làm Giám mục ở Việt Nam,
Alexandre De Rhode không chọn giáo sĩ Dòng Tên là người Bồ Đào Nha mà
lại chọn Giáo sĩ người Pháp. Năm 1664, Hội Thừa sai Paris chính thức ra đời
và được giáo hoàng A- Lếc- Xăng- Đrơ VII giao truyền đạo ở 03 khu vực,
trong đó khu vực thứ nhất có Đàng ngoài, Lào và Nam Trung Quốc; khu vực
thứ hai ở Đàng Trong, Campuchia và khu vực thứ ba ở một số tỉnh Bắc Trung
Quốc, Triều Tiên và Mông Cổ. Những việc trên đây đã tạo ra mâu thuẫn giữa
các giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha với các giáo sĩ của Hội Thừa sai
Paris, cuối thế kỷ XVII, Giáo hoàng Clê- Măng IX đã ra lệnh cho các Giáo sĩ
Dòng Tên rút khỏi Đông Dương.
Như vậy, nhìn lại giai đoạn này cho thấy thế kỷ XVI, XVII là thời kỳ truyền
giáo của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Càng về sau, vai trò của
các giáo sĩ người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha càng lu mờ, trong khi đó vai
trò của các giáo sĩ người Pháp ngày càng thể hiện rõ hơn. Theo số liệu của
Giáo hội Công giáo, năm 1644, ở Đàng trong có 100 ngàn người và Đàng
ngoài năm 1737 có 250 ngàn người theo đạo Công giáo.
Năm 1844, Giáo hoàng Gregory XVI chia Địa phận Đàng trong thành hai địa
phận mới là Tây đàng trong (Sài Gòn) gồm có 06 tỉnh Nam kỳ và Campuchia
do Giám mục Lefèbvere cai quản và Đông Đàng trong (Qui Nhơn) do Giám
mục Cuénot (tên Việt gọi là Thể) cai quản; năm 1846, Gregory XVI chia địa
phận Tây Đàng ngoài thành 02 địa phận là Tây Đàng ngoài (Hà Nội) do Giám
mục Retord cai quản và Nam Đàng ngoài (Vinh) do Giám mục Ganthier cai
quản; năm 1848, Giáo hoàng Piô IX chia địa phận Đông Đàng ngoài thành 02
địa phận là Đông Đàng ngoài (Hải phòng) do Giám mục Jenonimo
Hermosilla cai quản và Trung Đàng ngoài (Bùi Chu) do Giám mục Domigo
Marrti cai quản; năm 1850 Giáo hoàng Piô IX lại chia địa phận Tây Đàng
trong thành 02 địa phận là Tây Đàng trong do Giám mục Lefèbvere cai quản
và Phnông Pênh (Nam Vang) gồm Campuchia và một số tỉnh Nam Bộ do
Giám mục Michel cai quản; chia địa phận Đông Đàng trong thành 02 địa
phận là Bắc Đàng trong (Huế) do Giám mục Pellerin cai quản và địa phận
Đông Đàng trong do Giám mục Cuénot cai quản.
b) Giai đoạn thứ hai: từ năm 1884 đến 1954.
Năm 1890 cả nước có 708.000 giáo dân; 09 Giám mục, 575 linh mục, tu sĩ
(trong đó có 356 linh mục người Việt Nam), 930 nhà thờ; năm 1910 tăng lên
thành 900 ngàn giáo dân; năm 1939 có 1.544.756 giáo dân, 1.662 linh muc, tu
sĩ (trong đó có 1.343 linh mục là người Việt Nam); 979 giáo xứ.
Về tổ chức, để đáp ứng việc cai quản khi số lượng tín đồ tăng khá nhanh, năm
1895, Giáo hoàng Lê Ông XIII lại tiếp tục chia địa phận Tây Đàng ngoài
thành 02 địa phận là Địa phận Tây (Hà Nội) và địa phận Đoài (Hưng Hóa);
sau đó năm 1901 Giáo hoàng Lê Ông XIII lại chia địa phận Tây thành 02 địa
phận là địa phận Tây và địa phận Thanh (Phát Diệm). Năm 1913, Giáo hoàng
Pi - Ô X chia địa phận Bắc Đàng trong thành 02 địa phận là địa phận Bắc
(Bắc Ninh) và Phủ doãn Tông tòa Lạng Sơn. Năm 1932, Giáo hoàng Pi- Ô XI
chia địa phận Thanh (Phát diệm) thành 02 địa phận là Địa phận Phát Diệm và
địa phận Thanh Hóa; chia địa phận Đông Đàng trong thành 02 địa phận là Địa
phận Quy Nhơn và địa phận Kon Tum.
Năm 1952, Tòa thánh Vatican bắt đầu thiết lập tòa Khâm sứ ở Đông Dương
và đặt tại Phú Cam (Huế); năm 1951, Tòa Khâm sứ chuyển về Hà Nội.
c) Giai đoạn thứ ba: từ 1954 đến nay
Theo thống kê của Giáo hội Công giáo, năm 1960 cả nước có 2.096.540 giáo
dân, 23 Giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 tu sĩ và 1.530 chủng sinh; năm
1975 cả nước có trên 3.5 triệu giáo dân. Cũng trong thời gian này các thừa sai
bắt đầu quan tâm hơn đến việc truyền giáo lên vùng đồng bào DTTS, vì trước
đây công cuộc truyền giáo đến vùng đồng bào DTTS phần lớn chỉ mới diễn ra
ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên.
Ở Tây Bắc, năm 1876, đạo Công giáo đã được truyền lên vùng này trước hết
là ở Lạng Sơn rồi sau đó mở rộng ra các vùng Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, song sự phát triển ở giai đoạn này mang lại
kết quả không cao. Đến năm 1954 cả vùng Tây Bắc có chưa đầy một trăm
người, chủ yếu là người Mông theo đạo Công giáo ở vùng Sa-Pa, nơi nghỉ
mát của các quan chức tư sản người Pháp. Hiện nay đã có trên 40 ngàn đồng
bào DTTS là tín đồ đạo Công giáo nằm rải rác ở các địa bàn Lạng Sơn, Phát
Diệm, Bắc Ninh, Thanh Hóa….
Ở vùng tây Nguyên, năm 1765 đạo Công giáo đã được truyền đến vùng Tây
Nguyên, đầu tiên là Kon Tum sau đó đến Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng…
Việc truyền bá đạo Công giáo ở vùng Tây Nguyên mang lại kết quả khả quan
hơn vùng Tây Bắc vì năm 1977 Tây Nguyên đã có trên 100 ngàn giáo dân là
đồng bào DTTS ở 03 địa phận Kon Tum, Buôn Mê Thuột, Lâm Đồng. Đến
năm 2004 tại 03 giáo phận Công giáo ở Tây Nguyên đã có trên 257 ngàn tín
đồ đạo Công giáo là người đồng bào DTTS.
Năm 1933, sau đúng 400 năm đạo Công giáo truyền vào Việt Nam, lần đầu
tiên Tòa Thánh Vatican phong chức Giám mục cho một người mang quốc
tịch Việt Nam đó là ông Nguyễn Bá Tòng. Sau đó, ngày 24/11/1960, Giáo
hoàng Gioan XXIII ra Tông hiến Venarabilium Nostrorum thiết lập hàng
Giáo phẩm Công giáo ở Việt Nam, đồng thời tất cả các Tòa Giám mục của
các địa phận lúc này đều được nâng từ Hiệu tòa lên Chính tòa.
Năm 1955, giáo hoàng Pi-ô XII lập địa phận Cần Thơ; năm 1957 Giáo hoàng
Pi- Ô XII lập địa phận Nha Trang; năm 1960, Giáo hoàng Gio- An XXIII lập
địa phận Long Xuyên, lập địa phận Đà Lạt; năm 1963, Giáo hoàng Gio-An
XXIII lập địa phận Quy nhơn; năm 1965, Giáo hoàng Phaolo VI lập địa phận
Xuân Lộc; năm 1967, Giáo hoàng Phao lô VI lập địa phận Buôn Mê Thuột;
năm 1975, Giáo hoàng Phaolô VI lập địa phận Phan Thiết; năm 2007 giáo
hoàng Benêdichto XVI lập địa phận Bà Rịa…Đặc biệt trong giai đoạn này
Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng đã thành lập 07 đại chủng viện để đào tạo nhân sự cho giáo hội.
Cũng trong giai đoạn này, một sự kiện quan trọng khác đánh dấu sự trưởng
thành của Giáo hội Công giáo Việt Nam đó là sau khi miền Nam giải phóng,
thống nhất đất nước; ngày 24/4 đến ngày 01/5/1980, tại Hà Nội đã triệu tập
Đại hội toàn thể Giám mục ở Việt Nam để thống nhất thành lập Hội đồng
Giám mục Việt Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam bao gồm tất cả các
Giám mục đang thi hành phận sự mục vụ tại các địa phận Công giáo ở Việt
Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam có nhiệm vụ “cổ vũ tính liên đới để phát
huy các thiện tích mà Giáo hội dâng hiến cho Chúa bằng các hình thức tông
đồ và các phương pháp thích hợp với hoàn cảnh của thời đại, trong tinh thần
gắn bó với dân tộc và đất nước”.
Từ năm 1989, cùng với quá trình đối mới đất nước và việc mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, giữa Nhà nước Việt Nam và Vatican đã có mối quan hệ hợp
tác quốc tế thông qua việc hai bên định kỳ gặp nhau để trao đổi các vấn đề hai
bên cùng quan tâm. Ngày 01/7/1989, Hồng y Roger Etchagaray đại diện Giáo
hoàng Gio-an Phao -lô II đã đến Việt Nam mở đầu cho mối quan hệ giữa Nhà
nước Việt Nam và Vatican. Ngày 25/01/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
đến thăm Vatican và có cuộc hội kiến với Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô XVI
đánh dấu bước tiến mới trong quan hệ giữa hai bên. Đặc biệt, tháng 12/2009,
tại Vatican đã diễn ra cuộc gặp lịch sử giữa Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô XVI
với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Tháng 02/2009, Tổ công tác hỗn hợp
Việt Nam- Vatican được thành lập để xây dựng lộ trình quan hệ Việt Nam-
Vatican. Tháng 4/2011, Việt Nam chấp thuận đại diện không thường trú của
Vatican – Tổng Giám mục leopoldo Girelli được ra vào Việt Nam trong mối
quan hệ với Giáo hội Công giáo Việt Nam và Nhà nước Việt Nam.
Hiện nay, ở Việt Nam, đạo Công giáo có trên 7 triệu tín đồ, 47 Giám mục,
gần 4.000 linh mục, hơn 3.000 giáo xứ khoảng 9.000 giáo họ, hơn 100 dòng
tu hoạt động với trên 15.000 tu sĩ hoạt động ở 27 giáo phận.
4. Ảnh hưởng của Công giáo đến xã hội Việt Nam truyền thống (chính trị,
giáo dục, tổ chức xã hội )
Việt Nam tiếp xúc với Công giáo và văn hóa Công giáo từ khá lâu. Trong đó,
tính cách quốc tế của việc truyền giáo ở Việt Nam đã dẫn đến những điều
kiện thuận lợi để người Việt Nam tiếp thu văn minh phương Tây và văn hóa
Công giáo. Các loại hình văn hóa mới ở Việt Nam tương đối tiêu biểu ở hình
loại và những kết quả trong thực tiễn, từ kiến trúc, nghề in, báo chí, văn học,
đến sân khấu, kịch, điêu khắc, nghệ thuật… đã xuất hiện mhiều nét mới lạ.
Cùng với thời gian dần dần Công giáo đã trở thành mạch sống bên trong bản
sắc dân tộc. Giáo sư sử học Phạm Cao Dương, một học giả không Công giáo,
đã viết: “Ngày nay người ta không thể nói tới văn hoá của dân tộc Việt Nam
hay cuộc sống của người Việt Nam trong bất cứ phạm vi nào mà không nói
tới sự hiện diện, vai trò và sự đóng góp của đạo Công giáo, dù đó là cuộc
sống ở trong nước hay cuộc sống ở nước ngoài”.
* Chữ viết và ngôn ngữ học
Các thừa sai và linh mục của đạo Thiên Chúa đã có công lao trong việc đưa
chữa cái Latinh vào xã hội Việt. Đặc biệt là khi cuốn từ điển Việt- Bồ - La
cùng với ngữ pháp tiếng Việt được biên soạn đã tạo một bước tiến rất mới
cho hệ thống chữ viết và ngôn ngữ Việt Nam. So với Chữ Nôm và chữ Hán
thì chữ Quốc ngữ được phát minh ra sẽ dễ học và dễ đọc hơn rất nhiều.
* Kỹ thuật in ấn báo chí
Trong quá trình truyền Đạo Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, các giáo sĩ cũng đã
mang vào xã hội Việt nhiều công nghệ kỹ thuật rất hiện đại. Đặc biệt là công
nghệ in ấn. Các xưởng in ra đời cũng là điều kiện để lĩnh vực báo chí trong
nước phát triển. Đây là một lĩnh vực văn hóa được du nhập từ Phương Tây
vào nước ta và có sự phát triển rầm rộ vào thế kỷ XX.
* Khoa học và y khoa
Các giáo sĩ đã mang khoa học kỹ thuật phương Tây vào thị trường Việt.Đặc
biệt là phương pháp chữa bệnh theo phương pháp Tây y. Ngoài ra, kỹ thuật
dệt vải mịn cũng bắt đầu xuất hiện trên thị trường Việt, góp phần không nhỏ
trong việc phát triển nền kinh tế- xã hội Việt Nam cho đến ngày hôm nay.
* Văn hóa thờ cúng của Đạo Thiên Chúa giáo ở Việt Nam
Sự khác biệt lớn nhất của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam chính là trong văn hóa
thờ cúng. Các tín đồ của tôn giáo này thường lựa chọn thờ tượng Chúa. Theo
nghiên cứu của các chuyên gia về lĩnh vực tâm kinh thì việc thờ tượng Chúa
chính là mối giao tiếp tuyệt hảo giữa tâm linh con người với Thiên Chúa. Thờ
tượng cũng là cách giúp các tín đồ của tôn giáo này được soi sáng tâm hồn và
hướng tới đức tin tuyệt đối về đấng tối cao là Chúa Giê su.
Việc thờ tượng chúa được xem là một biểu tượng cho Thiên Chúa - đấng tối
cao của tôn giáo này. Cũng chính vì điều này nên để tránh việc “phạm
thượng”, ô uế, khi thi công, xây dựng tượng Chúa, việc lựa chọn vật liệu thi
công luôn được xem trọng. Tượng thường được làm từ nhiều vật liệu khác
nhau như: gỗ, đá, xi măng, composite...Ngoài ra, trước khi đưa vào thờ cúng,
bức tượng sẽ được các Đức Giám mục thực hiện các nghi thức cung hiến
bằng nước thánh hay dầu thánh để mang đến sự trong sạch, linh thiêng trong quá trình thờ cúng.
5. Đặc điểm của Công giáo Việt Nam (phân tích qua các ví dụ)
- Đời sống văn hoá của người Công giáo diễn ra rất sôi nổi với nhiều hoạt
động trên nhiều lĩnh vực.
VD: Đối với Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là nét văn hóa rất đặc trưng, có mặt ở
khắp mọi miền đất nước. Theo thống kê, hiện nay cả nước có gần 8000 lễ hội,
tức là trung bình mỗi ngày có 22 lễ hội (6), thành ra người Việt Nam quanh
năm sống với các lễ hội. Tuy nhiên, nếu tính ở phạm vi làng thì trung bình
một năm, một làng cũng chỉ có 1 lễ hội để tưởng nhớ các vị thần, mẫu, thành
hoàng làng,…, còn đối với người Công giáo thì khác, hàng năm, một giáo xứ
có tới hàng chục ngày lễ trọng (không tính lễ chủ nhật - người Công giáo gọi
là Chúa nhật) buộc giáo dân tham dự, trong đó có 3, 4 ngày lễ được tổ chức
rất long trọng và linh đình: đó là ngày lễ mừng Chúa Giáng sinh (Noel), lễ
mừng Chúa Phục sinh, lễ Thánh Quan thầy, tuần chầu lượt. Ở mức độ nào đó
có thể nói, đây cũng chính là các lễ hội hàng năm của người Công giáo. Mỗi
lễ hội này thường kéo dài vài ngày, trong khi công tác chuẩn bị kéo dài cả
tuần, thậm chí cả tháng. Bên cạnh các nghi thức tôn giáo là các trò diễn
xướng, các tiết mục văn nghệ hay các đêm diễn nguyện, không chỉ thu hút
đông đảo giáo dân mà còn hấp dẫn cả những người không Công giáo trong vùng.
- Yếu tố văn hóa tôn giáo chiếm một phần quan trọng, không thể thiếu trong
đời sống văn hoá của người Công giáo.
VD: Lúc mới sinh thì đến nhà thờ làm lễ Rửa tội, đến tuổi đi học thì làm lễ
Xưng tội lần đầu và lễ Thêm sức, khi lập gia đình thì đến nhà thờ làm lễ Hôn
phối và khi mất đi thì được đưa đến nhà thờ làm thánh lễ an táng. Có thể nói,
việc thực hành các Bí tích trong đạo Công giáo cũng giống như việc thực hiện
các nghi thức vòng đời người.
Ở các giáo xứ, thánh lễ được tổ chức đều đặn hàng ngày, có thể vào buổi sáng
hoặc buổi chiều. Riêng ngày chủ nhật thường có 2 thánh lễ vào hai buổi sáng
và chiều. Thánh lễ ngày thường kéo dài 30 - 40 phút, còn thánh lễ ngày chủ
nhật thì khoảng 1 tiếng. Ngoài tham dự thánh lễ, ngày thường giáo dân có các
buổi đọc kinh cầu nguyện chung tại nhà thờ, mỗi ngày 3 buổi: buổi sáng sau
thánh lễ, buổi trưa lúc 12 giờ và buổi chiều lúc 6 giờ. Các giờ kinh này
thường kéo dài khoảng 30 phút. Bên cạnh các hoạt động tôn giáo tại nhà thờ,
thường ngày còn có các buổi cầu nguyện riêng tại các gia đình. Buổi cầu
nguyện này thường diễn ra sau bữa ăn tối, khi đã hoàn tất các công việc thường ngày.
- Đời sống văn hoá của người Công giáo thể hiện sự hội nhập giữa văn hoá
Công giáo và văn hoá truyền thống Việt Nam.
VD: Mừng lễ Giáng sinh, thay vì làm hang đá như trước đây, một số giáo xứ
lại dựng một cái lều lợp toàn cỏ tranh hay lá cọ đậm chất Việt Nam. Hay như
nghi thức tháo đanh và mai táng Chúa (trong chiều thứ sáu Tuần thánh) cũng
mang đậm màu sắc tang chế của người Việt: hai ông thánh tháo đanh Chúa là
ông Giu-se và Nê-côđê-mô mặc bộ áo dài trắng, đầu quấn khăn tang trắng;
xác Chúa được quấn chặt trong tấm vải trắng, được khâm liệm y như người
Việt Nam; khiêng quan tài là đội trắc gồm 20 người, đi đầu cũng là thanh la
và thanh trắc y như người dân nơi đây vẫn đi mai táng người thường. Còn các
bài ngắm đứng, vãn hang đá thì cũng ngân nga theo gia điệu í..i..í..a… như
dân ca quan họ. Trong các cuộc rước, các quan viên mặc áo dài xanh chấm bi,
đầu đội khăn xếp; còn phụ nữ mặc áo dài truyền thống, mỗi đoàn hội một
màu áo khác nhau, tương tự các đám rước ở đình làng. Đặc biệt, ngày Lễ
Thánh Quan thầy có rất nhiều điểm tương đồng với hội làng. Thánh Quan
thầy của giáo xứ, giáo họ cũng giống như Thành hoàng làng là người có vai
trò bảo trợ cho làng. Ngoài ra, tổ chức của xứ, họ đạo cũng mang nhiều cơ
cấu giống cơ cấu hành chính làng xã…
Trong việc tôn kính tổ tiên, người Công giáo ngày nay cũng lập bàn thờ tổ
tiên như mọi gia đình người Việt khác. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang
trọng trong nhà (thấp hơn bàn thờ Chúa), trên bàn thờ đặt di ảnh tổ tiên, hàng
ngày thắp hương thắp nến… Đám tang của người Công giáo cũng diễn ra
những lễ thức truyền thống, con cái vẫn mặc áo xô gai; sau đám tang người ta
cũng giữ phong tục 3 ngày, 100 ngày, 3 năm. Cũng giống như người Phật tử
có mùa Vu Lan là dịp để con cái thể hiện lòng hiếu thảo đặc biệt với các đấng
sinh thành, người Công giáo dành riêng tháng 11 dương lịch hàng năm để
kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời. Tháng 11 được gọi là Tháng Các
Linh hồn, cũng chính là “mùa báo hiếu” của người tín hữu.
Trong hôn nhân, điểm nổi bật chính là bí tích Hôn phối, thường được thực
hiện trong thánh lễ tại nhà thờ, gọi là lễ Hôn phối hay lễ cưới. Theo luật của
Giáo hội, sau khi lãnh nhận bí tích Hôn phối này, việc hôn nhân coi như hoàn
tất, hai người chính thức là vợ chồng. Tuy nhiên, đối với người Công giáo
Việt, ngoài nghi lễ tôn giáo trên, đôi nam nữ chỉ thực sự được công nhận là
vợ chồng khi hai bên gia đình thực hiện các nghi lễ truyền thống khác như:
Lễ dạm; Lễ đính hôn (hay lễ hỏi, đám nói) và Lễ cưới (nhà gái là lễ vu quy,
nhà trai là lễ thành hôn). Trong những buổi lễ này, các đồ vật như tráp, cau,
trầu, rượu, cỗ bàn,... cùng các tiết mục khác như đón dâu, tặng quà, ca nhạc,
lễ gia tiên,... đều theo phong tục truyền thống ở trong vùng.
Dù các hoạt động tôn giáo được tính theo dương lịch nhưng người Công giáo
Việt Nam vẫn gắn bó với văn hoá truyền thống qua cách dùng lịch âm và đón
Tết cổ truyền. Trong dịp Tết, người Công giáo cũng có tục dọn nhà cửa để
“tống cựu nghinh tân”, cũng có tục dọn tất niên cùng với thánh lễ Tất niên
trang trọng tại nhà thờ, cũng có nghi thức đón giao thừa, cũng hái lộc xuân,
cũng có phong tục 3 ngày Tết, rồi chúc tết, mừng tuổi. Đặc biệt, trong ba
ngày tết, trên bàn thờ tổ tiên không lúc nào thiếu hương thơm. Người Công
giáo Việt Nam ngày nay cũng thắp hương trên bàn thờ tổ tiên có ý nghĩa dâng
lên tổ tiên tấm lòng hiếu thảo của con cháu. Họ cũng thường thắp hương theo
số lẻ với niệm rằng số lẻ thuộc dương (số chẵn thuộc âm). Đối với họ, tổ tiên
tuy đã qua đời nhưng vẫn sống trong một tình trạng siêu nhiên như trong
Kinh thánh có viết: “…Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng
là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”.
- Đời sống văn hoá của người Công giáo có những khác biệt nhất định với
những tập tục, văn hoá truyền thống người Việt.
VD: Trong việc tôn kính tổ tiên, người Công giáo có những quan niệm khác
nhau về nguồn gốc con người, về linh hồn và sự tồn tại của linh hồn sau khi
chết. Do đó, những lễ thức đối với tổ tiên cũng có những khác biệt so với
truyền thống. Trong những ngày giỗ, người Công giáo thường chú trọng đến
việc xin lễ, đọc kinh chung và làm những việc lành để hướng về ông bà tổ
tiên, không có các hành vi đốt vàng mã, cũng tế. Trên bàn thờ tổ tiên cũng
bày hoa quả, bánh kẹo thể hiện sự biết ơn, tôn kính ông bà cha mẹ chứ không
hàm ý mời ông bà cha mẹ về dùng. Qua những việc làm này, người Công
giáo không nghĩ tổ tiên sẽ “phù hộ độ trì” cho mình, nhưng họ tin rằng thông
qua lời cầu xin của các ngài mà Chúa sẽ ban ơn lành cho con cháu.
Hôn nhân của người Công giáo mang hơi thở của truyền thống dân tộc nhưng
cũng in đậm màu sắc tôn giáo với những nét khác biệt. Đối với người Công
giáo, hôn nhân không chỉ mang tính xã hội - thế tục mà còn mang tính thiêng
liêng: Hôn nhân là một bí tích, một dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa xác lập
trên con người. Do đó, để hai người thực sự thành vợ chồng, họ phải được
lãnh nhận Bí tích Hôn phối. Thông qua Bí tích này, hai người nam nữ xác
nhận sự tự do và ưng thuận của mình. Trước mặt vị đại diện Thiên Chúa
(thường là linh mục) và cộng đoàn, họ thề hứa chung thuỷ với nhau trọn đời,
cùng nhau nuôi dưỡng, giáo dục con cái và gánh vác những nghĩa vụ khác của gia đình.
Trong dịp Tết, bên cạnh những phong tục truyền thống, người Công giáo còn
đón Tết theo những cách rất riêng. Người Công giáo cũng giữ tục 3 ngày tết
nhưng với một nghĩa khác: Mồng một Tết Cầu bình an cho năm mới; mồng
hai Tết kính nhớ Tổ tiên, ông bà cha mẹ; mồng ba Tết Thánh hoá công ăn
việc làm. Trước thời khắc giao thừa, mọi người tập trung ở nhà thờ tham dự
Thánh lễ Tất niên để tạ ơn Thiên Chúa về một năm đã qua an lành và cầu xin
bình an cho năm mới. Sau Thánh lễ, các giáo dân được rút lộc tại nhà thờ.
“Lộc” ở đây chính là những tấm thiệp có ghi lời Chúa, các giáo dân sẽ mang
“Lộc” này về để ở vị trí trang trọng trong nhà, coi đó như là lời dạy của Chúa
về cách sống trong năm mới. Không tới thăm mộ của tổ tiên vào Tiết Thanh
minh, người Công giáo có riêng một ngày Tết để nhớ tới những người đã
khuất, đó chính là ngày mồng hai Tết. Vào ngày này, con cháu tụ họp tại đất
Thánh (nghĩa trang) để sửa sang mộ phần cho ông bà cha mẹ. Thánh lễ cầu
cho tiên nhân được tổ chức ngay tại nghĩa trang thay vì tại nhà thờ như mọi
ngày. Không có quan niệm “trần sao, âm vậy” nên thay vì gửi xuống ông bà
tổ tiên những vật dụng tiện nghi như quần áo, vàng mã, nhà cửa... thì các giáo
dân gửi tới Thiên Chúa những lời cầu nguyện để cầu mong linh hồn ông bà tổ
tiên sớm được tha thứ những tội lỗi đã phạm trên trần gian để được về nơi Thiên Đàng...
- Đời sống văn hoá của người Công giáo đã và đang có sự vận động, biến đổi.
VD: Trong việc tôn kính tổ tiên, các nghi lễ không còn dài dòng, rườm rà.
Ngày giỗ không cần phải tiên thường (vọng) và ngày chính, mà là đúng ngày,
có khi gần sát ngày cho tiện lịch làm việc của mọi người. Trang phục trong
tang lễ của người Công giáo hiện nay đã bỏ các hình thức như đội mũ rơm,
thắt lưng dây chuối, chống gậy, xoã tóc,... Thời gian tổ chức tang lễ cũng theo
quy định của địa phương. Một vài giáo xứ trước đây có hình thức khóc kèn
trong đám tang thì nay Giáo hội khuyên nhủ các tín đồ hạn chế tối đa việc
khóc lóc, đau khổ làm ảnh hưởng đến tinh thần sức khoẻ. Việc ăn uống trong
đám tang, đám giỗ trước đây cũng rất nặng nề, nhiều khi trở nên nặng gánh
cho gia đình tang quyến và có thể gây cãi lộn, chia rẽ trong gia đình thì nay
Giáo hội cũng đưa ra những quy định nhằm hạn chế tối đa các hình thức này.