Bài làm giữa đại cương văn hóa
Câu 1: “Ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu
ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít những món hết sức cầu kỳ, không
hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện tính thẩm mỹ
cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món
ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không
thực sự bổ béo”.
Em đồng ý với nhận định này. Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong
cuộc sống. Đối với nhiều dân tộc, quốc gia, ẩm thực không chỉ là nét văn hóa vvật chất
mà còn là văn hóa về tinh thần. Qua ẩm thực người ta có thể hiểu được nét văn hóa thể
hiện phẩm giá con người, trình độ văn hóa của dân tộc với những đạo lý, phép tắc, phong
tục trong cách ăn uống. Mỗi quốc gia đều có nét đặc trưng ăn uống riêng, như Trung
Quốc có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ; hoặc Nhật Bản thiên về bày biện
có tính thẩm mỹ cao độ,… ẩm thực Việt Nam cũngnét đặc trưng riêng: chú trọng ăn
ngon tuy đôi khi không bổ, sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị
không thực sự bổ béo. Sở dĩ, ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon hơn ăn bổ vì:
Thứ nhất: một trong những đặc tính của ẩm thực nước ta là tính tận dụng phản ánh rõ
nhất khả năng tận dụng từ những yếu tố từ môi trường tự nhiên. Việt Nam nước nông
nghiệp gió mùa nên các nguyên liệu hay gia vcũng phong phú đa dạng, việc dùng rau
trong bữa cơm người Việt cùng tất yếu, người Việt thường hay nói Đói ăn rau, đau
uống thuốc”, “Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ”, “Ăn cơm không
rau như người giàu chết không kèn trống”,… ngoài ra thành phần không thể thiếu trong
các loại gia vị như: hành, gừng, ớt, tỏi, rau răm, rau diếp cá,… Khi chế biến món ăn Việt
Nam thường sử dụng nước mắm để nêm nếm, kết hợp với rất nhiều loại gia vkhác…
nên món ăn rất đậm đà. Chẳng hạn như nấu cá kho thì cho nhiều nước mắm và tiêu, nấu
canh khổ qua cũng đừng quên dằm thêm chút nước mắm, nướng thịt thì phải ướp tẩm
nhiều gia vị đậm đà, … Mỗi món khác nhau nước chấm tương ứng với khẩu vị. Ví dụ:
Nếu ăn bún măng vịt thì phải chấm với nước mm gừng, nếu ăn bánh xèot hì phải chấm
với nước mắm chua ngọt, nếu ăn bún đậu thì phải chấm với mắm tôm;… Nên việc phối
trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai,
giòn thưởng thức rất thú vị là điều dễ hiểu.
Thứ hai, mặc dù những món ăn người Việt ngon nhưng đôi khi lại không bổ, vì thời xa
xưa, Việt Nam ớc nông nghiệp nghèo, người dân kkhăn không thể “ăn ngon mặc
ấm” nên việc dinh dưỡng ở các bữa ăn cũng không được chú trọng, phần lớn người Việt
dùng thời gian để lao động nên cũng việc nấu nướng cũng không có quá nhiều thời gian
như ẩm thực Trung Hoa hay bày vẽ bắt mắt thiên về tính thẩm mỹ cao như ẩm thực Nhật
Bản. Dù không thể đủ dinh dưỡng nên họ chú trọng ăn ngon để bữa cơm được trọn vẹn
hơn, bằng cách kết hợp các loại gia vị khác nhau, người Việt đã tạo ra các món ăn ngon
miệng.
Tuy nhiên, ngày nay con người cũng chú trọng hơn về ăn uống, những món ăn không chỉ
ngon còn rất bổ chú trọng dinh dưỡng hơn. Ẩm thực Viê
t ngày nay sự kết hợp, giao
thoa giữa ẩm thực truyền thống của dân tô
c với những tinh túy từ nhiều quốc gia trên thế
giới. Mă
c dù nền ẩm thực Viê
t ngày nay đã nhiều đổi mới nhưng v n không làm mất
đi nền văn hóa đâ
m đà bản sắc dân
c mà tổ tiên lưu truyền bao đời.
Một số món ăn truyền thống của Việt Nam thể điều này:
- Nậm pịa: đượcm từ nội tạng của các con vật kết hợp các gia vị đó là: ớt, tỏi và
gia vị đặc trưng vùng Tây Bắc mắc khén.
- Nộm chân gà rút xương trộn hoa chuối: với sự kết hợp của chân gà đã rút xương
trộn với hoa chuối cùng với các gia vị như: chanh, tỏi, ớt, muối, đường,… món ăn
thường xuất hiện ở các mâm cỗ.
- Thắng cố ngựa: Món ăn được chế biến từ phần nội tạng của ngựa, kết hợp cùng
rau củ tươi các loại, được nêm nếm bởi các loại gia vkhác nhau.
Câu 2 (6 điểm): Việt Nam một nền văn a phong phú đa dạng trên tất cả các
khía cạnh, trong đó sự linh hoạt mm dẻo trong tiếp nhận n ngưỡng sự
khoan dung trong tưởng tôn giáo. Hãy chứng minh nhn định này thông qua các
đặc trưng tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam.
Việt Nam một nền văn hóa phong phú đa dạng trên tất cả các khía cạnh. Văn hóa
một tổng thể được tạo thành từ nhiều yếu tố có quan hệ hữu cơ, sống động, bao trùm chi
phối và thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đời sống vật chất (lao động
sản xuất, ăn, mặc,…) cho đến đời sống tinh thần (nhận thức, ngôn ngữ, tôn giáo, tín
ngưỡng, phong tục,…). Trong đó, sự linh hoạt mm dẻo trong tiếp nhận tín ngưỡng
và sự khoan dung trong tư tưởng tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượnghội, tồn tại cùng với chiều dài lịch sử xã hội loài người.
Tôn giáo xuất hiện ngay từ khi con người còn chốn hoang sơ, một nhu cầu của tín đồ
và những người theo tôn giáo. Một nhu cầu có tính cộng đồng, dân tộc, khu vực và toàn
nhân loại. Tôn giáo không chỉ việc đạo, còn việc đời; nó không chỉ liên quan đến
viễn cảnh về cuộc sống ngày mai trên thiên đường hay nơi địa ngục, mà còn ảnh hưởng
đến cuộc sống hiện tại của con người. trong nền văn hóa truyền thống Việt Nam, cấc hệ
tư tưởng tôn giáo có ảnh hưởng, chi phối sâu sắc đó là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo.
Về phật giáo: Phật giáo là 1 trong 3 luồng tư tưởng nổi bật của tư tưởng và tôn giáo
thời Đại Việt và cho đến ngày nay. Phật giáo truyền vào nước ta từ khoảng TK II - TK I
TCN. Vào những TK đầu thời Đại Việt, Phật giáo phát triển rất nhanh, đạt cực thịnh vào
thời - Trần được xem quốc giáo, tạo nên sắc thái với các đặc điểm nổi bật như
sau:
- Khuynh hướng nhập thế: Phật giáo đồng hành vi con người bằng những việc thiết
thực (nhà chùa mở trường học, nhiều nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh
dân chúng,…), Phật giáo là cứu khổ, cứu nạn, phổ độ chúng sinh.
- Tính tổng hợp: Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông
nghiệp, chi phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật
giáo Việt Nam:
Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡngtruyền thống văn hóa bản
địa: dung hợp với tín nỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ M u
giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, M u, Thành Hoàng, Thổ
địa…
Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo.
Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và
bổ sung cho nhau để cùng hướng về một mục đích cuộc sống tốt đẹp cho
con người.
Về Nho giáo: Du nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn
hóa nên suốt 1.000 năm, Nho giáo chưa được chỗ đứng trong cư dân Việt. Sang thời
Đại Việt, Nho giáo nội dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trường nên càng được
phổ biến rộng rãi. Từ đó Nho giáo chiếm lĩnh dần luôn cả lĩnh vực chính trị tưởng
với các đặc điểm:
- Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua
được đề cao tuyệt đối, thì Nho giáo VN tuy v n đề cao tưởng này nhưng không cực
đoan đến mức đòi hỏi phải hy sinh tính mạng vì vua. Mặc khác, quan niệm trung quân ở
VN luôn gắn liền với ái quốc. Và trong nhiều trường hợp, nước được đề cao hơn vua.
Người Việt đề cao tinh thần yêu nước, thương dân, lấy dân làm gc
- Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa cũng đã bị khúc xạ qua lăng kính
của người Việt. Theo đókhông chỉ một khái niệm đạo đức hạn hẹp trong ứng xử
nhân mà còn trở thành một lý tưởng xã hội cao đẹp đó là vì cuộc sống hạnh phúc, bình
yên của nhân dân (Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân).
- tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào VN cũng bị làm cho nhẹ bớt đi bởi
truyền thống trọng phụ nữ vốn có trong văn hóa bản địa.
- Đến thời kì Trịnh Nguyễn phân tranh, nho giáo VN đi vào giai đoạn suy vong không
thể cứu vãn được nữa. Dù các vua nhà Nguyễn đã tìm mọi cách để củng cố địa vị của
Nho giáo nhưng v n không thể m cho Nho giáo được vị thế như đã từng TK
XV.
* Sự khoan dung trong tưởng tôn giáo:
Với các đặc điểm trên, tôn giáo đã thể hiện rõ sự khoan dung cụ thể ở: Dung hợp giữa
Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa, dung hợp giữa các tông
phái Phật giáo, dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo”.
Như vậy ta thấy, trong tư tưởng tôn giáo không có vị trí độc tôn cực đoan mà có sự hòa
quyện vào nhau làm cho các phía những biến thái nhất định, dụ: việc thờ M u
Việt Nam rất thịnh hành, tính đa thần dân chủ cộng đồng được thể hiện qua việc lập bàn
thờ gia viên, thờ nhiểu cặp thần thành, vào một ngôi chùa không chỉ thấy thờ phật còn
thờ nhiều vị thần linh khác. Đây chính là nét riêng tôn giáo Việt Nam. Ngoài ra, còn thể
hiện Nho giáo VN tuy v n đề cao ởng trung quân ái quốc nhưng không cực đoan
đến mức đòi hỏi phải hy sinh tính mạng vua” điều này cho thấy sự khoan dung của nho
giáo, việc phá bỏ khuôn khổ và linh hoạt trong tư tưởng tôn giáo. Các triều đại phong
kiến Việt Nam thườngthái độ khoan dung tôn giáo, có thời kỳ coi một tôn giáo là
“quốc giáo” ( thời nhà coi Nho giáo “Quốc giáo”). Các triều đình thể trọng tôn
giáo này và coi là chỗ dựa tinh thần cho xã hội (Từ những năm đầu của thời kỳ xây dựng
nền độc lập cho đến cuối vương triều Trần, Phật giáo là tôn giáo chủ lưu làm nền tảng
tinh thần cho quốc gia Đại Việt), nhưng nhìn chung v n cho phép các tôn giáo, tín
ngưỡng khác hoạt động chứ không cấm cản như ở các triều đình phong kiến châu Âu.
Tín ngưỡng: Khái niệm tín ngưỡng được dùng để chỉ những trạng thái tâm đặc biệt của
con người (cá nhân hoặc cộng đồng), bao gồm: niềm tin, sự tôn thờ đối với những đối
tượng được thần thánh hóa. Sự tôn thờ và thành kính ấy được biểu hiện qua những hoạt
động mang sắc thái tâm linh (thờ cúng). Các loại tín ngưỡng chủ yếu của người Việt: tín
ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ M u tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng thờ
Thành Hoàng,.. Chung quy lại, tín ngưỡng Việt Nam sẽ có những đặc điểm sau đây:
- Tín ngưỡng Việt tôn trọng gắn với thiên nhiên
- Tín ngưỡng Việt chú trọng việc hài hòa âm dương: Điều này được thể hiện việc thờ
cúng các đối tượng như Trời - Đất, Ông đồng - đồng, Tiên - Rồng,...
- Tín ngưỡng đề cao phụ nữ: Đặc điểm này thể nhận diện rất khi người Việt thờ các
vị M u như M u Tam ph, M u T phủ,...
- Tín ngưỡng sở hữu tính tổng hợp linh hoạt: Đây hệ quả của tôn giáo đa thần thay
vì tôn giáo độc thần như nhiều tôn giáo khác.
*Sự mềm dẻo linh hoạt trong tiếp nhận tưởng
Sự linh hoạt mềm dẻo trong tín ngưỡng thể được thể hiện qua sự đa dạng của các
phong trào tôn giáo, khả năng thích nghi với thay đôi trong xã hội và cuộc sống, cũng
như khả năng chấp nhận và kính trọng sự khác biệt giữa các quan điểm tôn giáo khác
nhau.
Tín ngưỡng Việt Nam thường thể hiện sự linh hoạt qua việc kết hợp giữa các gtrị tôn
giáo" truyền thống với ảnh hưởng từ các yếu tố văn hóa khác, đồng thời cũng sự chấp
nhận và tôn trọng đối với sự đa dạng tín ngưỡng, cho phép người dân thể hiện sự linh
hoạt trong cách tiếp cận và thực hành tôn giáo

Preview text:

Bài làm giữa kì đại cương văn hóa
Câu 1: “Ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là
ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, không
hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ
cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món
ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo”.
Em đồng ý với nhận định này. Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong
cuộc sống. Đối với nhiều dân tộc, quốc gia, ẩm thực không chỉ là nét văn hóa về vật chất
mà còn là văn hóa về tinh thần. Qua ẩm thực người ta có thể hiểu được nét văn hóa thể
hiện phẩm giá con người, trình độ văn hóa của dân tộc với những đạo lý, phép tắc, phong
tục trong cách ăn uống. Mỗi quốc gia đều có nét đặc trưng ăn uống riêng, như Trung
Quốc có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ; hoặc Nhật Bản thiên về bày biện
có tính thẩm mỹ cao độ,… ẩm thực Việt Nam cũng có nét đặc trưng riêng: chú trọng ăn
ngon tuy đôi khi không bổ, sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù
không thực sự bổ béo. Sở dĩ, ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon hơn ăn bổ vì:
Thứ nhất: một trong những đặc tính của ẩm thực nước ta là tính tận dụng – phản ánh rõ
nhất ở khả năng tận dụng từ những yếu tố từ môi trường tự nhiên. Việt Nam là nước nông
nghiệp gió mùa nên các nguyên liệu hay gia vị cũng phong phú đa dạng, việc dùng rau
trong bữa cơm người Việt là vô cùng tất yếu, người Việt thường hay nói “Đói ăn rau, đau
uống thuốc”, “Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ”, “Ăn cơm không
rau như người giàu chết không kèn trống”,… ngoài ra thành phần không thể thiếu trong
các loại gia vị như: hành, gừng, ớt, tỏi, rau răm, rau diếp cá,… Khi chế biến món ăn Việt
Nam thường sử dụng nước mắm để nêm nếm, kết hợp với rất nhiều loại gia vị khác…
nên món ăn rất đậm đà. Chẳng hạn như nấu cá kho thì cho nhiều nước mắm và tiêu, nấu
canh khổ qua cũng đừng quên dằm thêm chút nước mắm, nướng thịt thì phải ướp tẩm
nhiều gia vị đậm đà, … Mỗi món khác nhau nước chấm tương ứng với khẩu vị. Ví dụ:
Nếu ăn bún măng vịt thì phải chấm với nước mắm gừng, nếu ăn bánh xèot hì phải chấm
với nước mắm chua ngọt, nếu ăn bún đậu thì phải chấm với mắm tôm;… Nên việc phối
trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai,
giòn thưởng thức rất thú vị là điều dễ hiểu.
Thứ hai, mặc dù những món ăn người Việt ngon nhưng đôi khi lại không bổ, vì thời xa
xưa, Việt Nam là nước nông nghiệp nghèo, người dân khó khăn không thể “ăn ngon mặc
ấm” nên việc dinh dưỡng ở các bữa ăn cũng không được chú trọng, phần lớn người Việt
dùng thời gian để lao động nên cũng việc nấu nướng cũng không có quá nhiều thời gian
như ẩm thực Trung Hoa hay bày vẽ bắt mắt thiên về tính thẩm mỹ cao như ẩm thực Nhật
Bản. Dù không thể đủ dinh dưỡng nên họ chú trọng ăn ngon để bữa cơm được trọn vẹn
hơn, bằng cách kết hợp các loại gia vị khác nhau, người Việt đã tạo ra các món ăn ngon miệng.
Tuy nhiên, ngày nay con người cũng chú trọng hơn về ăn uống, những món ăn không chỉ
ngon mà còn rất bổ chú trọng dinh dưỡng hơn. Ẩm thực Viê ̣t ngày nay là sự kết hợp, giao
thoa giữa ẩm thực truyền thống của dân tô ̣c với những tinh túy từ nhiều quốc gia trên thế
giới. Mă ̣c dù nền ẩm thực Viê ̣t ngày nay đã có nhiều đổi mới nhưng v n không làm mất
đi nền văn hóa đâ ̣m đà bản sắc dân tô ̣c mà tổ tiên lưu truyền bao đời.
Một số món ăn truyền thống của Việt Nam thể rõ điều này:
- Nậm pịa: được làm từ nội tạng của các con vật kết hợp các gia vị đó là: ớt, tỏi và
gia vị đặc trưng vùng Tây Bắc mắc khén.
- Nộm chân gà rút xương trộn hoa chuối: với sự kết hợp của chân gà đã rút xương
trộn với hoa chuối cùng với các gia vị như: chanh, tỏi, ớt, muối, đường,… món ăn
thường xuất hiện ở các mâm cỗ.
- Thắng cố ngựa: Món ăn được chế biến từ phần nội tạng của ngựa, kết hợp cùng
rau củ tươi các loại, được nêm nếm bởi các loại gia vị khác nhau.
Câu 2 (6 điểm): Việt Nam một nền văn hóa phong phú đa dạng trên tất cả các
khía cạnh, trong đó sự linh hoạt mềm dẻo trong tiếp nhận tín ngưỡng sự
khoan dung trong tưởng tôn giáo. Hãy chứng minh nhận định này thông qua các
đặc trưng tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam.
Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh. Văn hóa là
một tổng thể được tạo thành từ nhiều yếu tố có quan hệ hữu cơ, sống động, bao trùm chi
phối và thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đời sống vật chất (lao động
sản xuất, ăn, mặc,…) cho đến đời sống tinh thần (nhận thức, ngôn ngữ, tôn giáo, tín
ngưỡng, phong tục,…). Trong đó, có sự linh hoạt và mềm dẻo trong tiếp nhận tín ngưỡng
và sự khoan dung trong tư tưởng tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, tồn tại cùng với chiều dài lịch sử xã hội loài người.
Tôn giáo xuất hiện ngay từ khi con người còn ở chốn hoang sơ, là một nhu cầu của tín đồ
và những người theo tôn giáo. Một nhu cầu có tính cộng đồng, dân tộc, khu vực và toàn
nhân loại. Tôn giáo không chỉ là việc đạo, mà còn là việc đời; nó không chỉ liên quan đến
viễn cảnh về cuộc sống ngày mai trên thiên đường hay nơi địa ngục, mà còn ảnh hưởng
đến cuộc sống hiện tại của con người. trong nền văn hóa truyền thống Việt Nam, cấc hệ
tư tưởng tôn giáo có ảnh hưởng, chi phối sâu sắc đó là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo.
Về phật giáo: Phật giáo là 1 trong 3 luồng tư tưởng nổi bật của tư tưởng và tôn giáo
thời Đại Việt và cho đến ngày nay. Phật giáo truyền vào nước ta từ khoảng TK II - TK I
TCN. Vào những TK đầu thời Đại Việt, Phật giáo phát triển rất nhanh, đạt cực thịnh vào
thời Lý - Trần và được xem là quốc giáo, tạo nên sắc thái với các đặc điểm nổi bật như sau:
- Khuynh hướng nhập thế: Phật giáo đồng hành với con người bằng những việc thiết
thực (nhà chùa mở trường học, nhiều nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh
dân chúng,…), Phật giáo là cứu khổ, cứu nạn, phổ độ chúng sinh.
- Tính tổng hợp: Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông
nghiệp, chi phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
 Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản
địa: dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ M u
giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, M u, Thành Hoàng, Thổ địa…
 Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo.
 Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và
bổ sung cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Về Nho giáo: Du nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn
hóa nên suốt 1.000 năm, Nho giáo chưa có được chỗ đứng trong cư dân Việt. Sang thời
Đại Việt, Nho giáo là nội dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trường nên càng được
phổ biến rộng rãi. Từ đó Nho giáo chiếm lĩnh dần luôn cả lĩnh vực chính trị và tư tưởng với các đặc điểm:
- Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua
được đề cao tuyệt đối, thì Nho giáo VN tuy v n đề cao tư tưởng này nhưng không cực
đoan đến mức đòi hỏi phải hy sinh tính mạng vì vua. Mặc khác, quan niệm trung quân ở
VN luôn gắn liền với ái quốc. Và trong nhiều trường hợp, nước được đề cao hơn vua.
Người Việt đề cao tinh thần yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc
- Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa cũng đã bị khúc xạ qua lăng kính
của người Việt. Theo đó nó không chỉ là một khái niệm đạo đức hạn hẹp trong ứng xử cá
nhân mà còn trở thành một lý tưởng xã hội cao đẹp đó là vì cuộc sống hạnh phúc, bình
yên của nhân dân (Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân).
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào VN cũng bị làm cho nhẹ bớt đi bởi
truyền thống trọng phụ nữ vốn có trong văn hóa bản địa.
- Đến thời kì Trịnh – Nguyễn phân tranh, nho giáo VN đi vào giai đoạn suy vong không
thể cứu vãn được nữa. Dù các vua nhà Nguyễn đã tìm mọi cách để củng cố địa vị của
Nho giáo nhưng v n không thể làm cho Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở TK XV.
* Sự khoan dung trong tưởng tôn giáo:
Với các đặc điểm trên, tôn giáo đã thể hiện rõ sự khoan dung cụ thể ở: “Dung hợp giữa
Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa, dung hợp giữa các tông
phái Phật giáo, dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo”.
Như vậy ta thấy, trong tư tưởng tôn giáo không có vị trí độc tôn cực đoan mà có sự hòa
quyện vào nhau làm cho các phía có những biến thái nhất định, ví dụ: việc thờ M u ở
Việt Nam rất thịnh hành, tính đa thần dân chủ cộng đồng được thể hiện qua việc lập bàn
thờ gia viên, thờ nhiểu cặp thần thành, vào một ngôi chùa không chỉ thấy thờ phật mà còn
thờ nhiều vị thần linh khác. Đây chính là nét riêng tôn giáo Việt Nam. Ngoài ra, còn thể
hiện ở “Nho giáo VN tuy v n đề cao tư tưởng trung quân ái quốc nhưng không cực đoan
đến mức đòi hỏi phải hy sinh tính mạng vì vua” điều này cho thấy sự khoan dung của nho
giáo, việc phá bỏ khuôn khổ và linh hoạt trong tư tưởng tôn giáo. Các triều đại phong
kiến Việt Nam thường có thái độ khoan dung tôn giáo, có thời kỳ coi một tôn giáo là
“quốc giáo” ( Ở thời nhà Lê coi Nho giáo là “Quốc giáo”). Các triều đình có thể trọng tôn
giáo này và coi là chỗ dựa tinh thần cho xã hội (Từ những năm đầu của thời kỳ xây dựng
nền độc lập cho đến cuối vương triều Trần, Phật giáo là tôn giáo chủ lưu làm nền tảng
tinh thần cho quốc gia Đại Việt), nhưng nhìn chung v n cho phép các tôn giáo, tín
ngưỡng khác hoạt động chứ không cấm cản như ở các triều đình phong kiến châu Âu.
Tín ngưỡng: Khái niệm tín ngưỡng được dùng để chỉ những trạng thái tâm lý đặc biệt của
con người (cá nhân hoặc cộng đồng), bao gồm: niềm tin, sự tôn thờ đối với những đối
tượng được thần thánh hóa. Sự tôn thờ và thành kính ấy được biểu hiện qua những hoạt
động mang sắc thái tâm linh (thờ cúng). Các loại tín ngưỡng chủ yếu của người Việt: tín
ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ M u và tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng thờ
Thành Hoàng,.. Chung quy lại, tín ngưỡng Việt Nam sẽ có những đặc điểm sau đây:
- Tín ngưỡng Việt tôn trọng và gắn bó với thiên nhiên
- Tín ngưỡng Việt chú trọng việc hài hòa âm dương: Điều này được thể hiện ở việc thờ
cúng các đối tượng như Trời - Đất, Ông đồng - Bà đồng, Tiên - Rồng,...
- Tín ngưỡng đề cao phụ nữ: Đặc điểm này có thể nhận diện rất rõ khi người Việt thờ các
vị M u như M u Tam phủ, M u Tứ phủ,...
- Tín ngưỡng sở hữu tính tổng hợp và linh hoạt: Đây là hệ quả của tôn giáo đa thần thay
vì tôn giáo độc thần như nhiều tôn giáo khác.
*Sự mềm dẻo linh hoạt trong tiếp nhận tư tưởng
Sự linh hoạt và mềm dẻo trong tín ngưỡng có thể được thể hiện qua sự đa dạng của các
phong trào tôn giáo, khả năng thích nghi với thay đôi trong xã hội và cuộc sống, cũng
như khả năng chấp nhận và kính trọng sự khác biệt giữa các quan điểm tôn giáo khác nhau.
Tín ngưỡng ở Việt Nam thường thể hiện sự linh hoạt qua việc kết hợp giữa các giá trị tôn
giáo" truyền thống với ảnh hưởng từ các yếu tố văn hóa khác, đồng thời cũng có sự chấp
nhận và tôn trọng đối với sự đa dạng tín ngưỡng, cho phép người dân thể hiện sự linh
hoạt trong cách tiếp cận và thực hành tôn giáo