







Preview text:
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ THÀNH TỰU CỦA HY LẠP
1. Địa lý cư dân và sơ lược lịch sử Hy Lạp cổ đại
a. Địa lý và cư dân
Từ xa xưa, các bộ lạc Hy Lạp gọi bộ lạc của mình bằng những tên riêng. Đến khoảng TK
VIII – VII TCN, người Hy Lạp mới gọi mình là Helen và gọi đất nước mình là Hela tức là Hy Lạp.
Lãnh thổ của Hy Lạp cổ đại bao gồm: Miền Nam bán đảo Ban Căng, các đảo trên biển
Êgiê và miền ven biển phía Tây Tiểu Á, trong dó quan trọng nhất là miền Nam bán đảo Ban
Căng tức là vùng lục địa Hy Lạp.
Miền lục địa Hy Lạp về mặt địa hình chia làm 3 khu vực: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.
- Từ Bắc Bộ xuống Trung Bộ phải qua đèo Técmôpin hẹp nằm gần sát bờ biển phía Đông.
- Trung Bộ tuy là vùng có nhiều dãy núi ngang dọc nhưng cũng có những đồng bằng trù
phú như đồng bằng Attích và đồng bằng Bêôxi
- Nam Bộ là một đảo hình bàn tay 4 ngón gọi là bán đảo Pêlôpôledơ, có nhiều đồng bằng
rộng và phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc trồng trọt.
Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu tạo nên nhiều vịnh và nhiều
hải cảng, rất thuận lợi cho việc phát triển hàng hải
Tiểu Á là một vùng giàu có và là chiếc cầu nối liền Hy Lạp với các nước phương Đông cổ
đại có nền văn minh phát triển sớm.
=> Với đk địa lý đó đã giúp cho Hy Lạp cổ đại trở thành nước có nền công thương nghiệp
phát triển, đồng thời có thể tiếp thu ảnh hưởng của nền văn minh cổ đại phương Đông.
Cư dân Hy Lạp cổ đại bao gồm nhiều tộc người: Người Êôliêng, người Iôniêng, người
Akêăng và người Đôniêng.
b. Sơ lược lịch sử Hy Lạp cổ đại
Lịch sử Hy Lạp cổ đại có thể chia thành 4 thời kỳ sau:
- Thời kỳ văn hóa Crét – Myxen: tồn tại trong khoảng 18 thế kỷ, từ đầu thế kỷ III đến thế
kỷ XII TCN. Chủ nhân của thời kỳ văn hóa Crét - Myxen là người Akêăng. Trên cơ sở công
cụ đồng thau, ở Crét và Myxen đã xây dựng những nhà nước tương đối hùng mạnh.
- Thời kỳ Hôme từ thế kỷ XI đến thế kỷ IX TCN, xã hội Hy Lạp thời Hôme là giai đoạn
cuối của xã hội nguyên thủy. Lúc bấy giờ, sự phân hóa giàu nghèo tuy đã diễn ra rõ rệt nhưng nhà nước chưa ra đời.
- Thời kỳ thành bang từ thế kỷ VIII đến IV TCN. Đây là thời kỳ quan trọng nhất trong
lịch sử Hy Lạp cổ đại, do sự phát triển của các ngành kinh tế và sự phân hóa giai cấp đến thế
kỷ VIII TCN ở Hy Lạp một lần nữa lại xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ, những nhà nước này
đều có một thành phố làm trung tâm nên gọi là những thành bang.
- Thời kỳ Makêđônia xuất hiện từ cuối thế kỷ V TCN, nước Makêđônia sau khi giành
chiến thắng quyết định đã thiết lập quyền bá chủ ở Hy Lạp và chinh phục phương Đông. Thời
kỳ này các thành bang Hy Lạp vẫn được độc lập nhưng thực chất đã biến thành chư hầu của Makêđônia.
2. Những thành tựu chủ yếu của văn minh Hy Lạp cổ đại 2.1. Văn học
a. Thần thoại
Ở Hy Lạp trong giai đoạn từ thế kỷ VIII đến VI TCN, nhân dân đã sáng tạo ra một kho
tàng thần thoại rất phong phú bao gồm những chuyện về khai thiên lập địa, về các vị thần
thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội và các anh hùng dũng sĩ. Đến thế kỷ VIII TCN, cùng với
sự phát triển của gia đình phụ quyền các vị thần được sắp xếp lại thành một hệ thống có tôn ti trật tự.
Theo tác phẩm gia phả các vị thần của Hêdiốt là nhà thơ Hy Lạp sống vào thế kỷ VIII
TCN, thì đầu tiên chỉ có Chaos là một khối hỗn mang vào mờ mịt, rồi Chaos sinh ra thần đất
Gaia rồi sinh ra thần ái tình Eros. Gaia sinh ra Uranut tức là trời được nhân cách hóa,
Uranut lại lấy Gaia làm vợ sinh được 12 vị thần gồm sáu Nam và 6 nữ gọi chung là thần tộc
Titanut. Trong số các thần ấy, Uranut lấy Rea rồi sinh ra các vị thần, người con út là Zeus đã
lật đổ cha mình và trở thành Chúa Tể Của Các Vị Thần và dưới Zeus cũng có các vị thần
khác được gọi là “12 vị thần trên đỉnh Olympus”, đứng đầu là thần sấm Zeus và các vị thần
khác điển hình như: thần biển cả Poseidon, nữ thần sắc đẹp Aphrodite, thần chiến tranh
Ares, nữ thần mùa màng Demete,...
Ngoài ra người Hy Lạp cổ đại còn sáng tạo ra các thần bảo hộ các ngành nghề và các
lĩnh vực khác trong cuộc sống
=>Thần Thoại Hy Lạp phản ánh nguyện vọng của nhân dân trong việc giải thích và đấu tranh
với tự nhiên, đồng thời phản ánh cuộc sống lao động và hoạt động xã hội. Thần thoại Hy Lạp
có ảnh hưởng rất quan trọng đối với nền văn học nghệ thuật Hy Lạp vì nó đã cung cấp một
kho đề tài và nguồn ảnh hưởng cho thơ, kịch, điêu khắc và hội họa của Hy Lạp cổ đại. b. Thơ ca
Nói về thơ ca của Hy Lạp cổ đại tiêu biểu phải kể đến 2 tập sử thi nổi tiếng: Iliát và Ôđixê.
Hai tập thơ này nói về cuộc chiến tranh giữa các quốc gia ở Hy Lạp với thành Tơroa ở Tiểu Á:
-Tập Iliát dài 15.683 câu miêu tả giai đoạn gây go nhất trong cuộc chiến vào năm thứ 10 của cuộc chiến tranh.
- Tập Ôđixê dài 12.110 câu miêu tả cảnh trở về của quân Hy Lạp, sau chiến thắng quân
Tơroa, vua Ôđixê phải trải qua 10 năm đầy gian nan Nguy Hiểm mới về đến quê hương của
mình là đảo Itac và được gặp lại người vợ chung thủy đã một lòng chờ đợi suốt 20 năm là Penelope.
=>Hai tập thơ Iliát và Ôđixê không những là hai tác phẩm quan trọng trong kho tàng văn học
thế giới mà còn là những tác phẩm có giá trị về lịch sử. 2.2. Sử học
Trước kia người ta biết được lịch sử xa xưa của Hy Lạp chủ yếu nhờ truyền thuyết và sử
thi.Đến thế kỷ V TCN Hy Lạp mới chính thức có lịch sử thành văn.
Những tác phẩm sử học têu biểu như: “Lịch sử chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư” của nhà sử
học Hêrôđốt, “Cuộc chiến tranh Pêlôpônedơ” của nhà sử học Tuxiđít, “Lịch sử Hy Lạp” của nhà sử học Xênêphôn.
2.3. Nghệ thuật a. Kiến trúc
Ban đầu kiến trúc Hy Lạp còn sơ giản, sử dụng gỗ, gạch và đá, càng về sau chất liệu đá
càng được sử dụng nhiều, kiểu cách và hoa văn càng trở nên phong phú và tinh tế.
Những công trình kiến trúc Hy Lạp nguy nga, đồ sộ xuất hiện chủ yếu trong hai thế kỷ V –
IV TCN, với nhiều kiệt tác. Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, đa phần các công trình không
còn nữa hoặc hư hại nặng nề, nhưng những tàn tích còn lại vẫn rất tuyệt mĩ, cùng với những
ảnh hưởng của kiến trúc Hy Lạp về sau đã cho thấy sự vĩ đại và trường tồn của các công trình kiến trúc Hy Lạp.
Một số công trình kiến trúc cổ đại Hy Lạp: Đền thờ thần Zeus Olympus, Đền thờ thần
Apollo Epicurius, Đền thờ thần Athena ở Delphi, v.v....
b. Điêu khắc
Nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp ra đời từ thế kỷ VIII TCN, ban đầu dùng chất liệu gỗ. Song
phải đến thế kỷ V TCN, nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp mới vươn lên đỉnh cao của nó, với hàng
loạt tên tuổi của những nhà điêu khắc danh tiếng. Chất liệu chủ yếu của nghệ thuật điêu khắc
Hy Lạp là đá. Một vài nhà điêu khắc tiêu biểu như:
- Mi rông (Myron, thế kỷ V TCN): tác giả bức tượng “Người ném đĩa”, diễn tả chuẩn xác
động tác và vẻ đẹp cơ thể.
- Phiđiat (Phidias, thế kỷ V TCN): ông là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất của Hi Lạp. Các
tác phẩm tiêu biểu của ông có tượng nữ thần Atena trong đền Pactênôn (Aten), tượng thần
Dớt ở Olimpia (một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại), tượng “Atena chiến đấu”, cao 17
mét bằng đồng, đặt trên Acrôpôn (Vệ thành) của Aten. c. Hội họa
Nghệ thuật hội họa của Hy Lạp rất đẹp nhưng tiếc là các tác phẩm về lĩnh vực này được
lưu truyền đến ngày nay còn rất ít. Những họa sĩ tiêu biểu của Hy Lạp cổ đai là Polygnote, Apollodore.
2.4 Khoa học tự nhiên
Về khoa học tự nhiên Hy Lạp cổ đại có những cống hiến quan trọng về các mặt Toán học,
Thiên văn học, Vật lý học, Y học những thành tựu ấy gắn liền với tên tuổi nhiều nhà khoa học nổi tiếng như:
- Talet: phát biể định lý Talet về tam giác đồng dạng, đo được chiều cao của kim tự tháp,
tính được chính xác ngày nhật thực ở Milê (28/5/585 TCN).
- Pitago (580 – 500 TCN), đứng đầu trường phái học thuật Pitago, đã phát biểu định luật
Pytago nổi tiếng “Tổng bình phương của hai cạnh góc vuông bằng bình phương của cạnh
huyền trong một tam giác”
- Acsimet (285 – 212 TCN), nhà toán học, vật lý, thiên văn, người khám phá ra sức đẩy
của nước, phát hiện ra nguyên lí của phép đòn bẩy, tìm ra trị số Pi.
- Ơcơlit (nửa đầu thế kỷ III TCN), nhà toán học quê Alếchxanđri, người đầu tiên biên
soạn sách giáo khoa hình học, tác giả của các định đề Ơcơlit trong toán học, ngày nay vẫn rất
quan trọng trong hìn học.
- Híppôcơrát (460 – 377 TCN), “ông tổ của y dược học phương Tây”, đả phá mê tín dị
đoan, đề ra phương pháp chữa bệnh khoa học, đề cao trách nhiệm của người thầy thuốc (Lời thề Híppôcơrát)…
2.5. Triết học
Hy Lạp và La Mã là quê hương của nền triết học phương Tây.Trên cơ sở chế độ chiếm
hữu nô lệ, đại biểu cho các khuynh hướng chính trị khác nhau, quan điểm của các nhà triết
học Hy Lạp rất đa dạng nhưng chung quy cũng bao gồm hai phái chính là triết học duy vật và triết học duy tâm.
2.6. Luật pháp
Hy Lạp cổ đại bao gồm rất nhiều thành bang, trong đó thành bang tiêu biểu là Aten. Vì
vậy, về mặt luật pháp tình hình ở Aten cũng tương đối tiêu biểu. Ban hành luật pháp ở Aten là
kết quả của sự đấu tranh của quần chúng và thường gắn liền với những cải cách về chính trị,
hiến pháp và luật Đracông.
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ THÀNH TỰU CỦA LA MÃ CỔ ĐẠI.
1. Địa Lí và dân cư.
- La Mã (Rôma) là tên một quốc gia cố đại, phát nguyên từ bán đảo Y.
Đây là một bán đảo dài và hẹp ở Nam Au, hình chiêc ủng vươn ra Địa
Trung Hải, diện tích khoảng 300.000 , phía Bắc có dãy Anpơ ngăn cách Ý
với châu Au; phía Nam có đảo Xixin, phía Tây có đảo Coocxơ và đảo Xacdennhơ. DARTHS
- Là vùng có nhiều đồng bằng màu mỡ và đồng cỏ thuận lợi cho việc chăn
nuôi gia súc. Ý còn nhiều kim loại như đồng, chì, sắt... để chế tạo
công cụ sản xuất, vũ khí. Bờ biển phía Đông không thuận tiện cho tàu bè đi lại nhưng phía
Nam có nhiều vịnh và cảng tốt.
Bán đảo Y lớn gâp 5 lân bán đảo Hy Lạp. Sau khi làm chủ bán đảo
Y, La Mã còn xâm chiêm các vùng bên ngoài, lập thành một đê quôc
rộng lớn bao gôm đât đai của 3 châu: Âu, Á, Phi, bao quanh Địa Trung Hải.
Cư dân chủ yếu và có mặt sớm nhất ở bán đảo Ý gọi là người Ý
(Italoes). Trong đó bộ phận sống ở vùng Latium được gọi là người
Latinh đã dựng lên thành La Mã trên sông Tibrơ, từ đó họ được gọi
là người La Mã. Ngoài ra còn có người Gôloa, người Etơruxcơ ở
miền Bắc và miền Trung, còn người Hy Lạp thì ở các thành phố ven
biển phía Nam và đảo Xixin.
2. Sơ lược lịch sử La Mã cổ đại: Có 2 thời kì a. Thời kì cộng hòa
Nhà nước La Mã ra đời vào giữa thế kỉ VI TCN, có vua, Viện
nguyên lão và Đại hội nhân dân. Vào khoảng 510 TCN, người La
Mã nôi dậy, bãi bỏ ngôi vua, thành lập chê độ cộng hòa. Bên trên
Viện nguyên lão và Đại hội nhân dân là 2 quan chấp chính có quyền
ngang nhau, nhiệm kì một năm.
Từ thế kỉ IV TCN, La Mã không ngừng tấn công bên ngoài, trải qua hơn một thê kỉ
La Mã chinh phục được toàn bộ bán đảo Y, mở rộng lãnh thô gôm vùng
bờ biên Băc Phi, miên Đông Tây Ban Nha, miên Nam xứ Gôlơ, bán đảo
Xácdennhơ, đảo Coocxơ. Đên giữa thế kỉ I TCN La Mã chiếm toàn bộ
vùng đất đai rộng lớn Địa Trung Hải, sát nhập Ai Cập vào bản đô La Mã
năm 30 TCN. La Mã trở thành đê quôc mênh mông. Địa Trung Hải trở
thành một cái hố nhỏ nằm gọn trong đế quốc La Mã. b. Thời kì quân chủ
Từ chế độ cộng hòa sang chế độ quân chủ
Từ thế kỉ I TCN, chế độ cộng hòa La Mã dần bị chế độ độc tài thay thế. Năm 82 TCN,
Xila tuyên bố làm độc tài suốt đời, nhưng đên năm 79 TCN vì ôm nặng
phải từ chức và đên năm 78 TCN thì chét. Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa
nô lệ Xpactacut ở La Mã đã xuất hiện chính quyên tay ba: Gratxut, Pômpê,
Xêda lân thứ nhât. Năm 43 TCN, La Mã xuất hiện chính quyên tay ba lần
thứ hai: Antôniút, Lêpiđút, Óctavianaút. Cuối cùng chính quyền nằm trong tay
Óctavianút với danh hiệu là Ôgút-Đấng chí tôn, tuy vẫn khoác cái áo chế
độ cộng hòa nhưng thực chất đã chuyển sang chế độ chuyên chế.
Sự suy vong của đế quốc La Mã
Đến thời quân chủ, chế độ nô lệ La Mã ngày càng khủng hoảng trầm
trọng, Năm 395, đế quốc La Mã bị chia thành hai đế quốc: Đông La
Mã đóng đô ở Cônxtantinốplơ và để quốc Tây La Mã đóng đô ở La
Mã. Thể kỉ IV, người Giecman bao gồm nhiều tộc người đã di cư ồ
ạt vào lãnh thổ của đế quốc La Mã.
Sang thế kỉ V, một số bộ lạc Giecman thành lập các vương quốc của
mình trên đất đai của Tây La Mã. Năm 476, thủ lĩnh quân đánh thuê
người Giecman đã lật đổ ông vua cuối cùng của đế quốc Tây La Mã
rồi tự xưng là hoàng đế. Sự kiện đó đánh dấu sự diệt vong của để
quốc Tây La Mã đồng thời chấm dứt chế độc chiếm hữu nô lệ.
Còn để quốc Đông La Mã thì vẫn tiếp tục tồn tại và đi dần vào con
đường phong kiến hóa, được gọi là đế quốc Bidantium đến 1459.
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN MINH LA MÃ CỔ ĐẠI 1. Văn học
Thơ La Mã: phát triển nhất dưới thời Ôctaviaút: nhóm tao đàn do
Mêxen được thành lập, Mêxen là một thân cận của Ôctaviaút đã
đứng ra bảo vệ các thi sĩ. Trong nhóm này có các nhà thơ nổi tiếng
như: Viêcgian, Hôratiut, Ôviđiút. Những nhà thơ xuất phát từ nhiều
nguồn gốc: nhân dân, nô lệ và kẻ sĩ... 2. Kịch
Kịch Hy Lạp có hai loại: bi kịch và hài kịch, có những nhà soạn kịch
nổi tiếng như: Etsin, Xôphôc, Oripit…. 3. Sử học
Nền sử học thật sự của La Mã đến cuối thế III TCN mới xuất hiện với
những nhà sử học nổi tiếng như: Noviút, Phabiut, Catông, Pôlibiút, Tilút, Liviut, Taxitut, Plutac. 4. Kiến trúc
Thành tựu về kiến trúc của La Mã lại càng rực rỡ. Người La Mã có rất
nhiều sáng tạo các công trình kiên trúc như: tường thành, đên miêu, cung
điện, rạp hát, khải hoàn môn, câu đường, ông dân nước... Trong đó, các
công trình kiên trúc ở La Mã nôi tiêng nhất là đên Păngtêông, rap hát, các khải hoàn môn. 5. Điêu Khắc
Nghệ thuật điêu khắc La Mã cùng một phong cách với Hy Lạp, chủ yếu
thể hiện ở hại mặt: tượng và phù điều. Để trang sức đường phố, quảng
trưởng, đền miếu, Lạ Mã đã tạo rất nhiều tượng, tượng của ông Ôguxtut
được dựng ở khắp nơi
Document Outline
- 2.1. Văn học
- b. Thơ ca
- 2.2. Sử học
- 2.3. Nghệ thuật
- b. Điêu khắc
- c. Hội họa
- 2.4 Khoa học tự nhiên
- 2.5. Triết học
- 2.6. Luật pháp