ĐỀ CƯƠNG MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại nh văn hóa gốc chăn nuôi du mục
văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Mỗi quốc gia, dân tộc đều nền văn hóa riêng của mình, đó một tiêu chí
quan trọng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của
mỗi dân tộc phong phú, đa dạng đến mấy cũng đều nguồn gốc xuất phát từ một
trong hai loại hình văn hóa gốc của nhân loại gắn liền với hai phương thức sản xuất chủ
đạo: văn hóa gốc chăn nuôi du mc và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt.
Văn hóa gốc chăn nuôi du mục
Văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
Nguồ
n gốc
hình
thành
- Hình thành phương Tây (văn
hóa phương Tây) bao gồm toàn bộ
Châu Âu, trên sở của phương
thức sản xuất chăn nuôi du mục.
Phương Tây vùng k hậu lạnh,
khô, địa hình chủ yếu thảo
nguyên xứ sở của những đồng cỏ,
rất thích hợp cho nghề chăn nuôi,
bởi vậy chăn nuôi nghề truyền
thống của dân phương Tây cổ
a.
- Hình thành phương Đông (văn
hóa phương Đông), gồm Châu Á
Châu Phi. Phương Đông khu vực
khậu nóng m, mưa nhiều với
những con sông lớn, theo đó
những vùng đồng bằng trù phú, phì
nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt
phát triển. Điều kiện tự nhiên
phương thức sản xuất nông nghiệp
trồng
trọt
đã
hình
thành
một
loại
hình văn hóa khác với phương Tây.
Đặc
điểm
- Nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi cư
dân phải sống theo lối du cư, nay
đây mai đó, từ đó tạo thành thói
quen, lối sống thích di chuyển
(trọng động).
- luôn di chuyển nên cuộc sống
của dân du mục không phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên, từ đó nảy
sinh tâm lý coi thường tự nhiên và
tham vọng chinh phục, chế ngự
thiên nhiên.
- sống du nên tính gắn kết
cộng
đồng
của
dân
du
mc
- Nghề trồng trọt buộc con người
phải sống định cư. Do sống định
nên dân nông nghiệp phải lo tạo
dựng một cuộc sống ổn định lâu dài,
không thích sự di chuyển, đổi thay
(trọng tĩnh).
- nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều
vào thiên nhiên nên dân nông
nghiệp rất tôn thờ, sùng bái tự nhiên
mong muốn sống hòa hợp với
thiên nhiên.
- Cuộc sống định phải liên kết
để chống chọi, ứng phó với tự nhiên
không cao, yếu tố nhân được coi
trọng, dẫn đến m ganh đua,
cạnh tranh, hiếu thắng, lối ứng xử
độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận,
cứng rắn trong đối phó.
- Cũng cuộc sống du cần đến
sức mạnh bản lĩnh nên người đàn
ông vai tquan trọng, tưởng
trọng sức mạnh, trọng võ, trọng
nam giới cũng từ đó mà ra.
- Nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi s
khẳng định vai trò nhân, thêm
vào đó, đối tượng hàng ngày
con người tiếp xúc đàn gia súc
với từng thể độc lập, từ đó hình
thành kiểu tư duy phân tích chú
trọng vào từng yếu tố. Kiểu duy
này sở cho sự phát triển của
khoa học dựa trên những sở
khách quan, lý tính.
- Kiểu duy phân tích nguyên
nhân đẻ ra lối sống trọng lý, ứng xử
theo nguyên tắc; thói quen tôn trọng
pháp luật cũng vậy được hình
thành rất sớm phương Tây.
nên đã tạo cho dân nông nghiệp
tính gắn kết cộng đồng cao.
- Phương thức sản xuất nông nghiệp
sống định cư và tính gắn kết cộng
đồng đã tạo nên lối sống trọng tình
nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ (chế
độ mẫu hệ phương Đông tồn tại
lâu hơn phương Tây).
- Nghề trồng trọt phụ thuộc cùng
một lúc vào nhiều yếu tố với sự
tương tác lẫn nhau: thời tiết nắng,
mưa, đất đai, k hậu, giống cây
trồng, chế độ chăm sóc... nên từ đây
đã hình thành kiểu tư duy tổng hợp -
biện chứng, coi trọng mối quan hệ
giữa các yếu tố hơn sự tách bạch
từng thành tố riêng lẻ. Lối duy
tổng hợp, biện chứng nguyên nhân
dẫn đến thái độ ứng xử mềm dẻo,
linh hoạt.
- Phương thức sản xuất nông nghiệp
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đúc
kết từ thực tế nên từ đây cũng hình
thành biểu duy kinh nghiệm chủ
quan, cảm tính, thay vì duy khoa
học khám phá bản chất của đối
tượng trên sở khách quan khoa
học.
Trên đây sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc
trưng nổi bật khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều những điểm mạnh điểm yếu
của nó. Tuy nhiên, trong thực tế thường không nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang
tính chất nông nghiệp trồng trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt
hai loại hình văn hóa chỉ là tương đối, căn cứ vào các yếu tố có tính trội.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp trồng trọt điển hình.
Do vị trí địa nằm trung tâm khu vực Đông Nam Á nên Việt Nam thuộc loại
hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của loại
hình văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện nét trong đặc trung văn
hoá Việt Nam:
- Về vị trí địa lí, Việt Nam nằm trung tâm khu vực Đông Nam Á. Nơi địa
hình khá bằng phẳng với 2 vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn (ĐBSH, ĐBSCL), kết
hợp với khậu nhiệt đới ẩm gmùa, nhiều mưa hệ thống sông ngòi dày đặc thích
hợp cho nghề trồng trọt phát triển.
- Người Việt từ xưa đến nay đều ưa thích một cuộc định ổn định (An lạc
nghiệp), không thích di chuyển, vậy đã tạo nên tình cảm gắn với quê hương x
sở, với làng, nước. Nhưng cũng từ đây đã hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng
nội, hạn chế sự giao lưu, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
- dân VN rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa để
cuộc sống no đủ (câu cửa miệng của người Việt “lạy Trời, “ơn Trời”, “nhờ Trời”,...).
Các tín ngưỡng lễ hội sùng bái tự nhiên rất phổ biển các tộc người trên khắp mi
vùng miền đất nước, đặc biệt các dân tộc thiểu số, như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ, tín ngưỡng Phồn Thực, các lễ hội như Cầu mưa, hội Xuống đồng, hội Đâm trâu,
hội Cơm mới.
- Cuộc sống định tạo cho người Việt tính gắn kết cộng đồng cao (Bán anh em
xa mua láng giềng gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, Lụt thì lút cả làng, Nước nổi
thì bèo nổi...). Sự gắn cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa (Lá lành đùm lá
rách, Chị ngã em nàng, Bầu ơi thương lấy cùng… ), các quan hệ ứng xử thường đặt
tình cao hơn (Một bồ cái không bằng một cái tình; Nhất quen, nhì thân, tam
thần, tứ thế...). Từ đặc trưng sự gắn cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các
quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức
mạnh, bạo lực.
- Cuộc sống định ổn định cần đến vai trò của người phụ nữ. Họ người
vung vén, chăm lo cho gia đình, thêm nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng công việc
phù hợp với phụ nữ, do đó, vai trò của người phụ nữ được tôn trọng, đề cao. Đặc trưng
này hoàn toàn nhất quán và nét. Phụ nữ Việt Nam người quản kinh tế, tài
chính trong gia đình người nắm tay hòm chìa khóa biểu hiện (Ruộng trâu nái
không bằng con gái đầu lòng, Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng ; Ba
đồng một mở đàn ông đem bỏ vào lòng cho kiến tha, ba trăm một mụ đàn bà, đem
về trải chiếu hoa cho ngồi… ). Sau này, do sự ảnh hưởng, chi phối của tưởng
Nho giáo mới hình thành tưởng trọng nam khinh nữ. Hiện nay, các dân tộc không
chịu ảnh hưởng, hoặc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa (dân tộc Chăm, Êđê,
Giarai...) vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ.
- Vì nghề nông, nhất nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào
tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa, trông
gió, trông ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối duy tổng
hợp - biện chứng, nặng về tính kinh nghiệm, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn
sở khách quan và tri thức khoa học (Nhìn mặt mà bắt hình dong; Trăm hay không bằng
tay quen, Sống lâu lên lão làng…).
- Lối tư duy tổng hợp, biện chứng cũng nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm
dẻo, linh hoạt, được thể hiện qua quan niệm sống của người Việt (Tùy ứng biến;
Ở bầu thì tròn, ở ổng thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy ).
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt đều được thể hiện nét trong lối sống, phương thức duy và thói quen ứng
xử của ngưởi Việt, được thể hiện qua kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ - đó những
giá trị văn hóa phi vật thể được đúc kết qua nhiều thế hệ, được lưu truyền trong dân
gian.
Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi ứng phó với môi trường tự
nhiên của người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất.
Để đáp ứng nhu cầu sinh tồn, con người phải thực hiện các hoạt động vật chất
như: lao động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại… Sản phẩm của các hoạt động vật chất thể
hiện trong đó các năng lực tinh thần của con người, phản ánh thói quen, lối sống,
phong tục, tập quán,… của một cộng đồng. Đó kết quả của sự thích nghi và ứng phó
của con người với môi trường tự nhiên và hội cụ thể, làm nên dấu ấn riêng của mỗi
cộng.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, cha ông ta xây dựng đưc
một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận dụng, thích nghi ứng phó với
môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Trong văn hoá ẩm thực:
Trong rất nhiều những yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày của con người từ
phía tự nhiên, các nhà nghiên cứu văn hóa VN đều thừa nhận hai yếu tố có tính trội chi
phối đến văn hóa vật chất của người Việt, đó là tính chất sông nước thực vật. Sự chi
phối của 2 yếu tố tự nhiên này được thể hiện cấu 1 bữa ăn truyền thống với 3
thành phần chính: cơm – rau cá.
+ Cơm là món ăn cung cấp tinh bột chủ yếu trong bữa ăn (người sống vì gạo, bạo
về nước). VN quốc gia văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình, nhiều điều
kiện thuận lợi cho việc trồng lúa nước thế không phải ngẫu nhiên cơm món
chủ yếu trong bữa ăn. Ngoài cơm, từ gạo, nếp thì người Việt còn chế biến ra nhiều món
ăn khác như cháo, bún, bánh chưng, bánh giầy….
+ Sau m thì đến rau, tầm quan trọng của rau trong bữa ăn người Việt được khái
quát: Đói ăn rau, đau ăn thuốc… Việc dùng rau trong bữa ăn chứng tỏ khả năng tận
dụng môi trường tự nhiên của người Việt, do nằm xứ nhiệt đới nên rau quả của Việt
Nam cùng phong phú, đa dạng, mùa nào thức nấy nên rau thành phần chính
không thể thiếu của 1 bữa ăn truyền thống. Cùng với rau, dưa, thì còn các gia vị
khác như ớt, sả, gừng...
+ thức ăn cung cấp nhiều đạm động vật sản phầm của vùng sông nước (Cơm
với như với con). Đặc trưng của tự nhiên Việt Nam hệ thống ng ngòi
chằng chịt với 2360 con sông trải dài cả nước, với nhiều loài phong phú đa dạng.
Ngoài ra, từ các loại thuỷ sản, hải sản thể chế biến ra các loại mắm đặc biệt
nước mắm – món chấm không thể thiếu trong bữa cơm.
+ Ngoài ra thì còn thức uống đồ hút. Thức uống thông dụng chè xanh
rựợu (đồ uống nấu từ gạo nếp). Đồ hút thông dụng thuốc lào. Ăn trầu một phong
tục độc đáo và lâu đời của người Việt.
Tính tổng hợp trong văn hóa ẩm thực: Trong cách chế biến: hầu hết các món ăn VN
điều sản phẩm của sự pha chế tổng, được chế biến đa dạng hợp như xào, hấp, luộc,
chiên... Trong cách ăn: trong mâm m của người Việt bao giờ cũng có đồng thời
nhiều loại thức ăn như: canh, rau, cá, dưa, thịtQuá trình ăn cũng sự tổng hợp các
món ăn.
Tính linh hoạt: Sự tận dụng, thích nghi ng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt còn được thể hiện nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mềm dẻo,
linh hoạt của dân nông nghiệp Việt Nam. Trước hết việc ăn uống theo mùa, theo
vùng miền, đó một biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng
vừa một cách tự thích nghi của nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp. Tính linh hoạt
cũng thế hiện ở việc chế biến và lựa chọn các món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các
trạng thái của thể (điều hòa âm - dương, nóng - lạnh), giữa thể với môi trường để
ứng phó với thời tiết.
- Trong văn hóa trang phục:
Việt Nam, với nghề chính trồng trọt sống xứ nhiệt đới nên người Việt ch
yếu sử dụng các chất liệu may mặc sẵn trong tự nhiên, mỏng, nhẹ nguồn gốc
từ thực vật như: tơ tằm, sợi bông, sợi đay, sợi gai…
Trang phục truyền thống của phụ nthời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân,
quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như một trong
những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu. Trong các
dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc).
Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt chủ yếu những gam màu trầm
tối: Miền Bắc màu nâu (màu đất) và Miền Nam màu đen (màu bùn). Điều đó phản
ánh phong cách truyền thống của người VN là ưa sự kín đáo, giản dị, đồng thời cũng
thể hiện sự thích nghi với môi trường sống và sinh hoạt của nghề nông trồng lúa nước
“chân lấm tay bùn”.
Ngoài ra chiếc nón cũng một bộ phận kèm theo không ththiếu trong trang
phục của phụ nữ VN truyền thống. Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù khậu
nắng lắm mưa nhiều.
Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày áo cánh, quần tọa phù hợp
với khậu nóng bức công việc đồng áng, ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc
áo the, quần ống sớ.
- Về văn hóa sinh hoạt:
Ngôi nhà một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho cuộc sống định ổn
định (An lạc nghiệp). Vật liệu làm nhà sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa… thể
hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN.
Kiến trúc nhà của người Việt mang dấu ấn của vùng sông nước với nhà sàn là kiểu
nhà phổ biến, thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác
động xấu của môi trường (tránh côn trùng, thú dữ, lũ, ngập lụt…). Sang thời phong
kiến thì nhà đất bằng phổ biến, song dấu ấn văn hóa sông nước còn thể hiện kiểu
nhà mái cong phỏng hình mũi thuyền, thậm chí dân sống bằng nghề sông nước
còn dùng thuyền làm nhà ở. Không gian ngôi nhà Việt không gian mở, cửa rộng,
thoáng mát, giao hoà với tự nhiên, xung quanh cây xanh bao bọc che chở. Về việc
chọn hướng nhà chọn đất m nhà được đặc biệt coi trọng, dựa theo thuật phong
thủy hướng nhà ưa thích của người Việt hướng nam hoặc đông nam (Lấy vợ hiền
hòa, làm nhà hướng nam) các hướng này sẽ tận dụng được gió mát từ biển thổi vào
tránh được nắng nóng từ phía tây, gió lạnh từ phía bắc xuống… Chọn đất làm nhà chịu
sự ảnh hưởng của quan niệm âm dương ngũ hành.
- Về văn hóa giao thông đi lại:
Giao thông đường thủy do đặc điểm vùng sông nước, với hệ thống sông ngòi
chằng chịt, bờ biển dài... nên giao thông đường thủy chiếm ưu thế, nời Việt đi lại
chủ yếu bằng thuyền, ghe, xuồng, đò... đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị
các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...) Cuộc sống sinh hoạt
gắn liền với sông nước đã khiến hình ảnh ng sông, con đò đã ăn sâu vào trong
duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về nhớ bến chăng...)
Trong khi đó giao thông đường bộ lại hạn chế (do: phương thức sản xuất nông nghiệp
định cư, khép kín ít có nhu cầu di chuyển, địa hình bị chia cắt bởi núi non sông ngòi
dày đặc...)
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, đi lại - đó những hoạt động để đáp
ứng các nhu cầu vật chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể
hiện sự ứng xvăn hóa của con người với môi trường tnhiên với cộng đồng
hội. Sự ứng xử văn hóa của người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện nét
dấu ấn của loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng
tận dụng, thích nghi ứng phó linh hoạt của người Việt đối với môi trường tự nhiên
vùng sông nước và xứ sở thực vật, qua đó góp phần thể hiện các đặc trưng bản sắc văn
hóa Việt Nam.
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường hội của người Việt được thể hiện
lĩnh vực văn hóa vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch stừ buổi đầu dựng nước, đặc biệt qua mười thế k
xây dựng quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự ờng và truyền thống lao động
cần cù, cha ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng,
trên nền tảng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng
xử văn hoá của người Việt với môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Trong văn hóa m thực, hành vi ăn uống biểu hiện của văn hóa khi nó được
thực hiện một cách ý thức và hình thành như một thói quen đó vừa là văn hóa ứng
xử với môi trường tự nhiên, vừa là văn hóa ứng xử xã hội.
Trước hết ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền, đó một biểu hiện của lối ứng
xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa một cách tự thích nghi của nền kinh
tế tiểu nông tự túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc chế biến và lựa chọn các
món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của thể (điều hòa âm - dương,
nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi trường để ứng phó với thời tiết.
Bữa ăn của người Việt ăn chung, các thành viên trong bữa ăn liên quan phụ
thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). mang tính cộng đồng nên
trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng đồng cùng với sự
chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng n ti, thứ bậc nên người Việt rất coi trọng
nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Thể hiện trong dụng cụ ăn đôi đũa. Đôi đũa thể dùng một cách linh hoạt với
nhiều chức năng khác nhau. Tập quán dùng đũa lâu đời làm hình thành nên nhiều triết
như tính cặp đôi (Vợ chồng như đũa đôi), tính cân xứng (Vợ dại không hại bằng
đũa vênh), tính tập thể (Vơ đũa cả nắm)
- Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính
bền chắc “ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm
tính: nâu, đen, chàm, gụ, mphù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu
sắc dương tính (đỏ, vàng, xanh cây…) chỉ mặc vào các dịp lễ, hội và người Việt rất
ý thức vviệc làm đẹp (Người đẹp lụa, lúa tốt phân, cau già khéo bổ thì ngon,
nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa).
Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân,
quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như một trong
những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu. Trong các
dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc).
Ngoài ra chiếc nón cũng một bộ phận kèm theo không ththiếu trong trang
phục của phụ nữ VN truyền thống. Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù k hậu
nắng lắm mưa nhiều.
Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày áo cánh, quần tọa phù hợp
với khậu nóng bức công việc đồng áng, ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc
áo the, quần ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường hội, trang phục của người Việt
thể hiện quan niệm thẩm mvề vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
- Về văn hóa ở sinh hoạt, ngôi nhà một trong những yếu tố quan trọng đảm
bảo cho cuộc sống định ổn định (an lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt
mang tính cộng đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều
phòng biệt lập thì nhà Việt truyền thống 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các
thành viên trong gia đình, các gian nhà thường để thông nhau, không vách ngăn.
Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng
một hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi...) được xén thấp để dễ qua lại.
- Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển lối sống định nên
dân ít nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi,
mua bán giữa các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới những con đường
nhỏ, dân chủ yếu đi bộ, vận chuyển nhngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng,
kiệu.
giao thông đường thủy đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị các
cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn
liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong duy, trong
cách nghĩ (Thuyền theo lái,gái theo chồng; Thuyền về nhớ bến chăng...). Ngay khi
đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước: lặn lội, quá
giang, xe đò...
Tóm lại, ăn, mặc, đi lại - đó những hoạt động để đáp ứng các nhu cầu vật
chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn hóa
của con người với môi trường tự nhiên với cộng đồng hội. Sứng xử văn a
của người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện nét dấu ấn của loại hình văn
hóa nông nghiệp trồng trọt.
Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với sự hình thành
triết lý sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương ngũ hành, đây hệ
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất qui luật tồn tại của vạn
vật trong trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống hội con người. Trong
văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các
hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm vsự đối xứng, các
tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Đó sở để thuyết âm dương ngũ
hành ăn sâu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở thành sở nhận
thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền cho thế hệ sau thể
hiện qua các mối liên hệ:
Mối quan hệ giữa thuyết âm dương nhành với triết về sự cân xứng, cặp đôi:
trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân
bằng ân dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm
dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước… Các câu
ca dao, tục ngữ của người Việt cũng hình thành theo nguyên lý âm dương tương xứng:
công cha như núi thái sơn-nghĩa mnhư nước trong nguồn chảy ra; ông nói -bà nói
vịt; lệnh ông k bằng cồng bà…
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết sống quân bình, hài hòa âm - dương:
từ triết âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng,
hài hòa âm dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo
triết quân bình, duy trì trạng thái âm dương trừ nhau từ việc ăn uống tời việc m
nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất
lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận với những mình đang có, không
hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan. (Già néo đứt dây, đầy quá sẽ
đổ, tham thì thâm, trèo cao ngã đau, tức nước vỡ bờ…).
Mối quan hệ giữa âm dương nhành với triết sống lạc quan của người Việt: do
nhận thức được qui luật trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt
thường cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến: trong rủi may, trong hỏa
phúc, trong dở hay… Nhận thức được qui luật chuyển hóa âm dương nên cái
nhìn biện chứng về cuộc sống (không ai giàu ba họ, không ai khó 3 đời, khổ trước
sướng sau…). Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho con người một triết sống lạc
quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến tiêu cực, tự bằng lòng an bài với
cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Phật giáo Việt Nam vai
trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo ra đời tại Ấn Độ (TK VI V TCN), do thái tử Siddhartha sáng lập. Nói
đến Phật giáo trước hết nói đến tưởng vị tha, vị nhân sinh. Phật cho rằng đời
khổ đã m lấy sự giải thoát khỏi cái khổ. Bởi vậy Phật xướng lên thuyết Tứ thánh
đế hay Tứ diệu đế. Đó là Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo đế.
Phật giáo đã lịch sử hơn 2500 m và du nhập vào Việt Nam từ rất sớm bằng 2
con đường chủ yếu đó đường bộ từ phía Bắc xuống mang tưởng Đại Thừa (phật
giáo Bắc tông) đường biển từ phía Nam lên mang tưởng Tiểu thừa (phật giáo
Nam tông).
Các giai đoạn phát triển của phật giáo VN:
+ Giai đoạn 1: Giai đoạn du nhập, từ TK I đến TK III: Được người dân chấp
nhận rộng rãi và có chỗ đứng trong đời sống văn hoá tinh thần của người Việt.
+ Giai đoạn 2: Thời Lý Trần, từ TK XI đến TK XIII: phật giáo phát triển cực
thịnh, nhiều chùa tháp có quy mô được xây dựng.
+ Giai đoạn 3: Thời nhà Nguyễn TK XIX đến nay: Sau thời chiến tranh
loạn. Nhà Nguyễn lên ngôi, Phật giáo dần dần khôi phục v trí của mình. Tháng
11/1981, tại chùa Quán Sứ với sự hiện diện của 165 vị đại biểu đại diện cho 9 tổ chức
hệ phái Phật giáo cả nước, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất 9 hệ phái một với danh
xưng “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Đây tổ chức hợp pháp, duy nhất đại diện cho
toàn thể Tăng ni phật tử trong lẫn ngoài nước. Hiện nay, Phật giáo tôn giáo
nhiều tín đồ nhất ở Việt Nam.
Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam:
- Tính nhập thế: giáo của Phật giáo cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh,
luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các
hoạt động xã hội: nhà chùa mtrường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều nhà
đồng thời nhà đồng thời thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo Phật giáo được
người Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.
- Tính tổng hợp một trong những đặc trưng của lối duy nông nghiệp, chi
phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng truyền thống văn hóa bản địa:
dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật
với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…
+ Dung hợp giữa các tông phái Phật go.
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như Nho giáo, đạo giáo và bổ
sung cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
*Vai trò của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa nay:
- Phật giáo góp phần củng cố, duy trì các phong tục, tập quán của người Việt
Nam: Bên cạnh tín ngưỡng thờ ba mẹ (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn,
Mẫu Thoải), dân tộc ta còn tục lệ thờ các vị thần nông nghiệp, các vị thần về hiện
tượng tự nhiên. Phật giáo đã và đang góp phần vào việc duy trì, chuyển tải đạo uống
nước nhớ nguồn của dân tộc Việt. Bởi đa phần các vị thần trong tâm thức dân gian Việt
Nam đều là những nời có công với làng xã, đất nước được cộng đồng tôn vinh.
- Phật giáo nh hưởng đến tập tục đi lễ chùa, cúng Rằm, mùng Một: Đi chùa lễ
Phật đã trở thành nếp sống quen thuộc không thể thiếu trong đời sống m linh của rất
nhiều người dân Việt Nam. Người Việt Nam còn đi lễ chùa theo truyền thống. Người
Việt Nam đến chùa với lòng thành tâm của mỗi người, để cầu bình an, phúc lộ cho bản
thân gia đình. người đến chùa để m hối, nhưng người đến để vãn cảnh
chùa. Những ngày lễ hội lớn trong năm bắt đầu từ Phật giáo như lễ Phật Đản, lễ Vu
Lan, lễ tắm Phật… thực sự đã trở thành một trong những ngày hội văn hóa của người
dân Việt Nam.
- Phật giáo ảnh hưởng trong tục ăn chay, phóng sinh bố thí: Việc ăn chay
niệm Phật vào các ngày mồng một, rằm… hàng tháng cũng nếp sống của một bộ
phận không nhỏ trong dân chúng. Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu
ảnh hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của
Phật giáo. Đạo Phật không muốn sát sinh hại vật trái lại phải thương yêu mọi loài.
Cũng chính quan niệm “Phật tại m” cho nên bằng tấm lòng chân thành, từ bi của
đạo Phật mà tục lệ bố thí, phóng sinh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng.
Ngày rằm, mùng một, nhiều người Việt thường mua chim, cá, ốc, rùa… về chùa chú
nguyện rồi đem phóng sinh.
- Phật giáo nh hưởng đến nghi thức ma chay, cưới hỏi: Hiện nay, đối với việc
cưới hỏi, người Việt Nam nhiều i đưa dâu, chú rể tới chùa để các thầy làm lễ
“Hằng thuận quy y” nhằm chúc phúc cho dâu, chú rể khuyên dạy họ một số
nguyên tắc đạo đức Phật giáo làm 83 hành trang cho họ trong cuộc sống vợ chồng. Đặc
biệt, ngày nay nhiều đôi bạn trẻ khi yêu nhau, mến mộ nhau thường dẫn nhau tới chùa
để cùng nhau khấn nguyện cho mối lương duyên của mình ngày một bền vững. Họ tin
rằng, trước sự thành kính của mình, Đức Phật sẽ thấu tỏ phù hộ cho. Trong hình
thức ma chay, người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Với sự dẫn dắt của
các chư tăng tang lễ diễn ra đơn giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình theo đạo
Phật người qua đời thì thân quyến đến chùa thỉnh các chư tăng về nhà để giúp đỡ
phần tang lễ. Nhiều người dù không theo đạo Phật song do tin Phật, một lòng hướng tới
Đức Phật họ đã mời các tăng ni đến tụng kinh để cầu siêu cho hương hồn người
khut
- Phật giáo ảnh hưởng đến phương thức ứng xử, triết sống của người Việt
Nam: Phật giáo với những giáo như từ bi, cứu khổ cứu nạn… nghiêng về triết
học, tâm linh. Quan niệm, học thuyết về khổ của Phật giáo đã ảnh hưởng đến duy,
lối sống người Việt khá sâu đậm, làm cho người Việt Nam sức chịu đựng
cùng dẻo dai, một đức tính nhẫn nại, bền bỉ, cam chịu. Phật giáo đã hướng con người
vào việc thiện, xa lánh điều ác. Phật dạy chỉ chính ta mới chủ nhân thực sự cuộc
sống của ta nên ta phải gắng sức rèn luyện để trở thành người tốt không trông chờ
một thế lực siêu tự nhiên nào ngoài bản thân mình.
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo Việt Nam vai trò
của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay.
Nho giáo một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tưởng
giáo lý nhằm quản duy trì sự ổn định của trật tự hội bằng biện pháp nhân trị - đức
trị. tưởng giáo của Nho giáo được thể hiện qua Tam cương, Ngũ thường
thuyết Chính danh.
Sau thời kỳ Bắc thuộc, đất nước ta vẫn khuynh hướng lệ thuộc tương đối
phương Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi để Nho giáo đc du nhập ngày càng phát triển
nước ta. Cùng với sự lớn mạnh của các nhà nước trung ương tập quyền, học thuyết
Nho giáo cùng những nội dung của ngày càng được coi trọng và trở thành công cụ
để bảo vệ nhà nước trải qua các triều đại.
Trong suốt lịch sử tồn tại lâu dài Việt Nam, Nho giáo luôn đc ng Việt khai thác, s
dụng dựa trên việc kết hợp với những truyền thống văn hóa vốn có của dân tộc. vậy
Nho giáo Việt Nam những nét riêng biệt so với Nho giáo Trung Quốc. Sự
khác biệt thể hiện chỗ Nho giáo trong quan niệm của của các nhà nho Việt nam
phần tiến bộ, nhân văn và bớt khắc n. dụ như: tưởng trung quân gắn liền
với ái quốc, trong nhiều trường hợp nước đề cao hơn vua, các khái niệm nhân nghĩa
cũng bị khúc xạ qua lăng kính người Việt, làm nhẹ tưởng trọng nam khinh nữ bởi
truyền thống trọng phụ nữ vốn trong văn hóa bản địa. Thêm nữa Nho giáo Việt
Nam không phải thuần Nho đã sự pha trộn, dung hợp với các tưởng, học
thuyết khác. Từ TK XVI - XVIII, Nho giáo Việt Nam suy vong không thể cứu vãn.
*Vai trò của Nho giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa nay:
Trong gần 10 thế kỉ xây dựng củng cố nhà nước phong kiến, Nho giáo khẳng
định vai trò nền tảng tưởng chi phối đến mọi mặt đời sống hội Việt Nam:
nền tảng tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước; hình thành chuẩn mực đạo
đức và xây dựng hình nhân cách con người Việt Nam truyền thống với các tiêu chí:
đạt đức (Trai thời trung hiếu m đầu, gái thời tiết hạnh m câu sửa mình; Một lòng
thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới đạo con); đạt đạo (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín).
Ảnh hưởng tích cực đến việc giáo dục mỗi cá nhân ý thức tự tu dưỡng đạo đức của bản
thân. ảnh hưởng ch cực trong việc giáo dục con người ý thức tôn trọng trật tự, k
cương, tinh thần trách nhiệm với các mối quan hệ của mình từ gia đình cho đến
ngoài xã hội. Xây dựng nền tảng giáo dục, thi cử.
Cho đến ngày nay, Nho giáo vẫn giữ được vị trí trong đời sống văn hóa tinh thần
người Việt. Tư tưởng giáo lý của Nho giáo đã góp phần xây dựng xã hội ổn định, nề
nếp theo tôn ti trật tự, thứ bậc, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong cuộc
sống hiện đại, vai trò của pháp luật được đề cao, không những pháp luật hình sự như
thời xa xưa cả pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình… Tuy nhiên,
điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo đức và thuần phong mtục người Việt
đã xây dựng hàng ngàn m nay, trong đó tưởng Nho giáo đóng góp một phần
không nhỏ.
Câu 8: Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao
tiếp ứng xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào cần
được giữ gìn và phát huy.
Giao tiếp ứng xử một hình thức biểu đạt văn hóa của nhân, cộng đồng khá
nét. Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp tưởng Nho giáo nên văn hóa giao
tiếp, ứng xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người
Việt coi trọng việc giao tiếp thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem một nghi
thức ứng xử văn hóa quan trọng của người Việt “Lời chào cao hơn mâm cổ”, thích
thăm viếng nhau, coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt
chặt thêm quan hệ giàu tính hiểu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm
nở, chu đáo, tận tình).
Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích
tìm hiểu, quan sát, đánh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin nhân
của đối tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...).
Đặc điểm này cũng nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối sống trọng tình (quan tâm
đến người khác).
Tuy nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm n trí. Trong
thực tế người Việt Nam vẫn coi trọng cái tình” n cả, bất đắc lắm mới dùng “cái
lý” để giải quyết những mâu thuẫn (phúc đáo tụng đình). “Cái tình” sẽ m cho
người gần người n. Xử sự với nhau bằng “cái tình” rất đẹp, để rồi Một trăm chỗ
lệch cũng cho bằng”, để không phải hối hận vsau. Người ta thường nói tình làng
nghĩa xóm lúc tắt lửa tối đèn” để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa cái lý” ra làm
thước đo con nời. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình n nên trong một số trường hợp
ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt: Người càng thân ta thì càng đúng
hơn. “Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. thế mọi người mới kiểu xưng
hùng xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
Tiếp theo, trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt cách xưng theo
quan hệ thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như con họ hàng: cô, bác, chú, dì,
cháu, con… Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng
hơn giá trị vật chất (Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng
giữa làng bằng một sàng bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...) . coi
trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc.
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam
phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm.
Chính quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh diện “Ở đời
muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng thôi”; “Đem chuông đi đánh
nước người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “Một quan tiền công không bằng
một đồng tiền thưởng”. trọng danh dự và diện nên người Việt rất sợ luận, bởi
vậy, luận trở thành một thứ khí lợi hại, một sợi dây hình để ràng buộc nhân
với cộng đồng, nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán
trong giao tiếp, không đi thẳng vào vấn đề cần nói, thường hay mở đầu “vòng vo
tam quốc” để đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm thái độ của đối tượng giao
tiếp. Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam nhược điểm thiếu
tính quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để
giữ được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười một bộ phận
quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt.
Do giữ ý nên trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ trọng
sự hòa thuận. Người Việt thường không biểu lộ trực tiếp cảm úc của mình với đối
tượng giao tiếp thông qua các câu ca dao, thành ngữ, thơ ca thường dùng hinhtượng
ẩn dụ, bóng gió “Trăm dâu đổ một đầu tằm”; “Tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài,
ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm
nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lơi
mà nói chovừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự lành”;… hệ quả của việc giữ ý, cả
nề dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp
“Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo”; “uốn lưỡi ba lần
trước khi nói”...
Chính thói quen ứng xử nặng tình cảm hơn trí thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính
quyết đoán trong giao tiếp đã khiến cho người Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan
điểm trái chiều, cũng như không m quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái
ác, cái tiêu cực để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính một nguyên nhân dẫn
đến thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con
người diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc
ViệtNam qua hàng nghìn m dựng nước giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh làm
nên nét đẹp chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. vậy, mỗi nét
đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền
văn hóa ứng xử muôn màu, phong phú thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét
đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì
vạn vật tất yếu đều phải những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hai yếu tố này luôn
song hành cùng nhau như ánh sáng bóng tối, nếu không ánh sáng thì không thể
nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu cực này
mà có thể thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồnphát
huy các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền
thống Việt Nam nói chung.
Câu 9: Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống giải
nguyên nhân hình thành đặc điểm ấy, qua đó chỉ ra vai trò của gia đình trong việc
hình thành nhân cách cá nhân.
- Đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình tế bào của hội, một đơn vị cộng đồng ra đời cùng với hội loài
người, bắt nguồn từ quan hệ nam nữ việc sinh đẻ, nuôi dạy con cái. Do sự chi phối
của phương thức sản xuất nông nghiệp và tư tưởng nho giáo nên văn hóa gia đình Việt
Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
+ Gia đình tiểu nông (nhiều thế hệ sống chung, cố kết bền vững).
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn
với nền văn hoá nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình.
Tính cộng đồng lối sống trọng tình: mỗi gia đình thường ba, bốn thế hệ cùng
chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vậy các thành viên trong gia
đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau. (Trẻ cậy cha, già cậy con;
Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng; Anh em như thể tay chân...).
Gia đình tiểu nông: Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt đối của tập
thể gia đình đối với mỗi thành viên), tinh thần lợi ích chung, vừa coi trọng đúng mức
vai trò nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn trọng giới hạn tự do nhân.
Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể thường lấn át, tới mức, người
phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
+ Gia đình Nho giáo (phụ quyền, đa thê)
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn
hoá gia đình Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ quyền uy
tuyệt đổi chịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy;
Cha mẹ đặt đầu con ngồi đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản nhiệm vụ thở cúng tổ
tiên.
Chế độ phong kiến chấp nhận gia đình đa thê (trai năm thê bảy thiếp, gái chính
chuyên chỉ có một chồng).
hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề v tưởng
phong kiến, phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng đức, chấp nhận gia
đình đa thê, "trai chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"....
Quan niệm gia đình đông con phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ thực tiễn
của cuộc sống nông nghiệp. Sinh con để người lo việc đồng áng, lập gia đình
để có người phụ giúp nông trang (đông con hơn nhiều của)
Quan hệ các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ của
giáo lý Nho giáo (Quyền huynh thế phụ)
tưởng Nho giáo chế độ gia đình phụ quyền nguyên nhân của quan niệm trọng
nam khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô).
Đây nguyên nhân gây ra nhiều thiệt thòi bi kịch cho thân phận phụ nữ trong
hội phong kiến.
Trong thời kphong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông hạn. Từ quyền
phân công lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác
trong gia đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông quyền đánh
đập. “bán vợ, đợ con”, hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền
lực chính trong gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, cho vai trò của họ
vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội.
- Vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách nhân.
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn một thiết chế hội tồn tại mang tính bền
vững, gia đình luôn tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất
tiếc khóc chào đời đến khi mất đi. hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn luôn
nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức
năng quan trọng của gia đình.
1. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên để mỗi cá nhân hình thành, hoàn thiện nhân
cách.
Mỗi con người khi sinh ra thông thường đều một gia đình, được sinh ra từ
người cha, người mẹ…vì thế, ánh mắt đầu tiên cái nhìn về cha mẹ, âm thanh đầu tiên
tiếp nhận là âm thanh từ cha mẹ, ông bà, anh chị là âm thanh của gia đình.
Mỗi nhân, từ khi lọt lòng mđến khi trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời
ăn, tiếng nói, từ cách ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với cộng đồng thế nào
cho đúng, cho lễ phép. Gia đình là nhân tố đầu tiên chỉ bảo, dạy dỗ cho các em hành vi
ứng xử theo chuẩn mực và các giá trị tốt đẹp của hội: “Học ăn, học nói, học gói, học
mở .. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng; Trên kính duới nhường. ”
Chính vậy hành vi đầu đời của các em dấu ấn sâu sắc của gia đình. Trẻ em
hành vi tốt hay xấu trước hết chủ yếu do môi trường giáo dục của gia đình tạo
nên.
2. Gia đình chuẩn bị hành trang cho các em bước vào cuộc sống
Trên những bước đường trưởng thành những ức của tuổi thơ luôn đọng lại
theo chân các em trên mỗi hành trình đó thể ức buồn khổ hoặc ký ức êm
đềm ngọt ngào trong vòng tay yêu thương của gia đình… tất cả đều trở thành hành
trang, động lực giúp các em vươn lên, quyết tâm n trên mỗi bước đi của cuộc đời
mình.
3. Gia đình là nhịp cầu nối với nhà trường
Gia đình cái nôi giáo dục đầu tiên, giai đoạn sau các em tiếp tục được sự giáo
dục của nhà trường. Đó môi trường rộng lớn hơn, bạn nhiều hơn, kiến thức được
mở mang, thể chất ngày càng phát triển, theo đó nhận thức nhân cách được phát
triển rất mạnh ở thời kỳ này.
Để định hướng, uốn nắn điều chỉnh về nhân cách của các em gia đình phải
luôn liên hệ với nhà trường. Sự hợp tác này sẽ đạt hiệu quả rất cao vì nhà trường chính
là môi trường thuận lợi nhất, tốt nhất để các em học tập và rèn luyện.
Câu 10: Hãy trình bày đặc trưng của văn hóa của làng ảnh hưởng của đến
thói quen, lối sống, cách duy, ứng xử của người việt (ảnh hưởng đến pháp luật).
Sưu tầm những câu thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt.
Đặc trưng của văn hóa làng Việt
Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo
làm nên bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã củng
gặp nhau khi khái quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó tinh cộng đồng
và tính tự trị.
+ Tính cộng đồng
- Tính cộng đồng: sự liên kết, gắn chặc chẽ, giữa các gia đình, gia tộc, giữa các
thành viên trong làng với nhau, ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong
làng với nhau
- Tính cộng đồng như một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam, được biểu hiện
nét cách thức tổ chức các mối quan hệ trong các đơn vị cộng đồng, từ gia đình -
gia tộc đến làng quốc gia, trong đó tính cộng đồng thể hiện nhất văn hóa
ng
a.
sở hình thành tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa ớc đòi hỏi phải sống định cư. vậy,
người Việt đã sống quần tụ thành cộng đồng dựa trên hai mối quan hệ huyết thống
và láng giềng. Cùng gắn kết để nương tựa, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, cùng
đoàn kết ứng phó với thiên tai và giặc ngoại xâm.
b, Biểu hiện của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Về kinh tế: n trong cùng một làng luôn tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động
sản xuất, chống thiên tai (hạn hán, lụt), khi đói kém, mất mùa (Một miếng khi đói
bằng một gói khi no; lành đùm rách; Lụt thì lút cả làng, đắp để chống lụt thuếp
chàng cùng lo...).
- Về tình cảm: dân trong làng đều mối quan hệ thân tộc nên luôn giúp đỡ nhau
khi khó khăn hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Bầu
ơi thương lẩy bị cùng...).
- Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, củng thờ
chung Thành Hoàng làng, cùng tham gia các hội hè, định đảm...; hôn nhân phải được
lảng công nhận (nộp cheo cho lảng).
- Về luật pháp: mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với
cách nhân, bị hòa tan trong cộng đồng họ mạc, làng xã. vậy, trong hội
phong kiến, một người làm quan cả họ được nhờ”, nhưng một người phạm tội thì cả
cộng đồng phải chịu vạ lây (Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu).
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả về
quan hệ hội cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật... Tính cộng đồng được
bảo tồn, nuôi dưỡng từ cái nôi văn hóa làng là một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân
tộc, và cũng là sở để hình thành tinh thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần
truyền thống quý báu, làm nên cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta.
c. Biểu tượng của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
Trong không gian sống của mỗi làng quê Bắc Bộ, đình làng cây đa, bến nước những
hình ảnh vô cùng quen thuộc, gắn bó thân thuộc, bởi đây những địa điểm thưởng tập
trung đông người, là nơi sinh hoạt cộng đồng.
d.Tác động của tính cộng đồng đến lối sống, cách duy, ứng xử của người Việt,
Tính cộng đồng như một đặc trưng bản sắc của văn hóa làng đã in đậm dấu ấn trong
tâm lý, tính cách, đã tác động đến lối sống, cách duy, ứng xử (nói chung) văn hóa
ứng xử với pháp luật (nói riêng) của người Việt với cả hai mặt tích cực và tiêu cực:

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục và
văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.

Mỗi quốc gia, dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là một tiêu chí
quan trọng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của
mỗi dân tộc dù phong phú, đa dạng đến mấy cũng đều có nguồn gốc xuất phát từ một
trong hai loại hình văn hóa gốc của nhân loại gắn liền với hai phương thức sản xuất chủ
đạo: văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt.
Văn hóa gốc chăn nuôi du mục
Văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt Nguồ
- Hình thành ở phương Tây (văn - Hình thành ở phương Đông (văn n gốc
hóa phương Tây) bao gồm toàn bộ hóa phương Đông), gồm Châu Á và hình
Châu Âu, trên cơ sở của phương Châu Phi. Phương Đông là khu vực thành
thức sản xuất chăn nuôi du mục. có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều với
Phương Tây là vùng khí hậu lạnh, những con sông lớn, theo đó là
khô, địa hình chủ yếu là thảo những vùng đồng bằng trù phú, phì
nguyên – xứ sở của những đồng cỏ, nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt
rất thích hợp cho nghề chăn nuôi, phát triển. Điều kiện tự nhiên và
bởi vậy chăn nuôi là nghề truyền phương thức sản xuất nông nghiệp
thống của cư dân phương Tây cổ trồng trọt đã hình thành một loại xưa.
hình văn hóa khác với phương Tây. Đặc
- Nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi cư - Nghề trồng trọt buộc con người điểm
dân phải sống theo lối du cư, nay phải sống định cư. Do sống định cư
đây mai đó, từ đó tạo thành thói nên cư dân nông nghiệp phải lo tạo
quen, lối sống thích di chuyển dựng một cuộc sống ổn định lâu dài, (trọng động).
không thích sự di chuyển, đổi thay
- Vì luôn di chuyển nên cuộc sống (trọng tĩnh).
của dân du mục không phụ thuộc - Vì nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều
nhiều vào thiên nhiên, từ đó nảy vào thiên nhiên nên cư dân nông
sinh tâm lý coi thường tự nhiên và nghiệp rất tôn thờ, sùng bái tự nhiên
có tham vọng chinh phục, chế ngự và mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên. thiên nhiên.
- Vì sống du cư nên tính gắn kết - Cuộc sống định cư và phải liên kết
cộng đồng của cư dân du mục để chống chọi, ứng phó với tự nhiên
không cao, yếu tố cá nhân được coi nên đã tạo cho cư dân nông nghiệp
trọng, dẫn đến tâm lý ganh đua, tính gắn kết cộng đồng cao.
cạnh tranh, hiếu thắng, lối ứng xử - Phương thức sản xuất nông nghiệp
độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận, sống định cư và tính gắn kết cộng
cứng rắn trong đối phó.
đồng đã tạo nên lối sống trọng tình
- Cũng vì cuộc sống du cư cần đến nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ (chế
sức mạnh và bản lĩnh nên người đàn độ mẫu hệ ở phương Đông tồn tại
ông có vai trò quan trọng, tư tưởng lâu hơn phương Tây).
trọng sức mạnh, trọng võ, trọng - Nghề trồng trọt phụ thuộc cùng
nam giới cũng từ đó mà ra.
một lúc vào nhiều yếu tố với sự
- Nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự tương tác lẫn nhau: thời tiết nắng,
khẳng định vai trò cá nhân, thêm mưa, đất đai, khí hậu, giống cây
vào đó, đối tượng mà hàng ngày trồng, chế độ chăm sóc... nên từ đây
con người tiếp xúc là đàn gia súc đã hình thành kiểu tư duy tổng hợp -
với từng cá thể độc lập, từ đó hình biện chứng, coi trọng mối quan hệ
thành kiểu tư duy phân tích chú giữa các yếu tố hơn là sự tách bạch
trọng vào từng yếu tố. Kiểu tư duy từng thành tố riêng lẻ. Lối tư duy
này là cơ sở cho sự phát triển của tổng hợp, biện chứng là nguyên nhân
khoa học dựa trên những cơ sở dẫn đến thái độ ứng xử mềm dẻo, khách quan, lý tính. linh hoạt.
- Kiểu tư duy phân tích là nguyên - Phương thức sản xuất nông nghiệp
nhân đẻ ra lối sống trọng lý, ứng xử chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đúc
theo nguyên tắc; thói quen tôn trọng kết từ thực tế nên từ đây cũng hình
pháp luật cũng vì vậy mà được hình thành biểu tư duy kinh nghiệm chủ
thành rất sớm ở phương Tây.
quan, cảm tính, thay vì tư duy khoa
học khám phá bản chất của đối
tượng trên cơ sở khách quan và khoa học.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc
trưng nổi bật khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu
của nó. Tuy nhiên, trong thực tế thường không có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang
tính chất nông nghiệp trồng trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt
hai loại hình văn hóa chỉ là tương đối, căn cứ vào các yếu tố có tính trội.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp trồng trọt điển hình.

Do vị trí địa lý nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á nên Việt Nam thuộc loại
hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của loại
hình văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong đặc trung văn hoá Việt Nam:
- Về vị trí địa lí, Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á. Nơi có địa
hình khá bằng phẳng với 2 vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn (ĐBSH, ĐBSCL), kết
hợp với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nhiều mưa và hệ thống sông ngòi dày đặc thích
hợp cho nghề trồng trọt phát triển.
- Người Việt từ xưa đến nay đều ưa thích một cuộc định cư ổn định (An cư lạc
nghiệp), không thích di chuyển, vì vậy đã tạo nên tình cảm gắn bó với quê hương xứ
sở, với làng, nước. Nhưng cũng từ đây đã hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng
nội, hạn chế sự giao lưu, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
- Cư dân VN rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa để có
cuộc sống no đủ (câu cửa miệng của người Việt là “lạy Trời, “ơn Trời”, “nhờ Trời”,...).
Các tín ngưỡng và lễ hội sùng bái tự nhiên rất phổ biển ở các tộc người trên khắp mọi
vùng miền đất nước, đặc biệt là các dân tộc thiểu số, như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ, tín ngưỡng Phồn Thực, các lễ hội như Cầu mưa, hội Xuống đồng, hội Đâm trâu, hội Cơm mới.
- Cuộc sống định cư tạo cho người Việt tính gắn kết cộng đồng cao (Bán anh em
xa mua láng giềng gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, Lụt thì lút cả làng, Nước nổi
thì bèo nổi...).
Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa (Lá lành đùm lá
rách, Chị ngã em nàng, Bầu ơi thương lấy bí cùng… )
, các quan hệ ứng xử thường đặt
tình cao hơn lý (Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; Nhất quen, nhì thân, tam
thần, tứ thế...).
Từ đặc trưng sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các
quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực.
- Cuộc sống định cư ổn định cần đến vai trò của người phụ nữ. Họ là người
vung vén, chăm lo cho gia đình, thêm nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng là công việc
phù hợp với phụ nữ, do đó, vai trò của người phụ nữ được tôn trọng, đề cao. Đặc trưng
này là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Phụ nữ Việt Nam là người quản lí kinh tế, tài
chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa biểu hiện ở (Ruộng và trâu nái
không bằng con gái đầu lòng, Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà; Ba
đồng một mở đàn ông đem bỏ vào lòng cho kiến nó tha, ba trăm một mụ đàn bà, đem
về mà trải chiếu hoa cho ngồi… ).
Sau này, do sự ảnh hưởng, chi phối của tư tưởng
Nho giáo mới hình thành tư tưởng trọng nam khinh nữ. Hiện nay, các dân tộc không
chịu ảnh hưởng, hoặc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa (dân tộc Chăm, Êđê,
Giarai...) vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ.
- Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào
tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa, trông
gió, trông ngày, trông đêm
…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng
hợp - biện chứng, nặng về tính kinh nghiệm, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ
sở khách quan và tri thức khoa học (Nhìn mặt mà bắt hình dong; Trăm hay không bằng
tay quen, Sống lâu lên lão làng…).
- Lối tư duy tổng hợp, biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm
dẻo, linh hoạt, được thể hiện rõ qua quan niệm sống của người Việt (Tùy cơ ứng biến;
Ở bầu thì tròn, ở ổng thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy
).
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong lối sống, phương thức tư duy và thói quen ứng
xử của ngưởi Việt, được thể hiện qua kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ - đó là những
giá trị văn hóa phi vật thể được đúc kết qua nhiều thế hệ, được lưu truyền trong dân gian.
Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự
nhiên của người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất.

Để đáp ứng nhu cầu sinh tồn, con người phải thực hiện các hoạt động vật chất
như: lao động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại… Sản phẩm của các hoạt động vật chất thể
hiện trong đó các năng lực tinh thần của con người, phản ánh thói quen, lối sống,
phong tục, tập quán,… của một cộng đồng. Đó là kết quả của sự thích nghi và ứng phó
của con người với môi trường tự nhiên và xã hội cụ thể, làm nên dấu ấn riêng của mỗi cộng.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, cha ông ta xây dựng được
một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với
môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Trong văn hoá ẩm thực:
Trong rất nhiều những yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày của con người từ
phía tự nhiên, các nhà nghiên cứu văn hóa VN đều thừa nhận hai yếu tố có tính trội chi
phối đến văn hóa vật chất của người Việt, đó là tính chất sông nước thực vật. Sự chi
phối của 2 yếu tố tự nhiên này được thể hiện ở cơ cấu 1 bữa ăn truyền thống với 3
thành phần chính: cơm – rau – cá.
+ Cơm là món ăn cung cấp tinh bột chủ yếu trong bữa ăn (người sống vì gạo, cá bạo
về nước). VN là quốc gia văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình, có nhiều điều
kiện thuận lợi cho việc trồng lúa nước vì thế không phải ngẫu nhiên mà cơm là món
chủ yếu trong bữa ăn. Ngoài cơm, từ gạo, nếp thì người Việt còn chế biến ra nhiều món
ăn khác như cháo, bún, bánh chưng, bánh giầy….
+ Sau cơm thì đến rau, tầm quan trọng của rau trong bữa ăn người Việt được khái
quát: Đói ăn rau, đau ăn thuốc… Việc dùng rau trong bữa ăn chứng tỏ khả năng tận
dụng môi trường tự nhiên của người Việt, do nằm ở xứ nhiệt đới nên rau quả của Việt
Nam vô cùng phong phú, đa dạng, mùa nào thức nấy nên rau là thành phần chính
không thể thiếu của 1 bữa ăn truyền thống. Cùng với rau, dưa, cà thì còn có các gia vị
khác như ớt, sả, gừng...
+ Cá là thức ăn cung cấp nhiều đạm động vật – sản phầm của vùng sông nước (Cơm
với cá như má với con). Đặc trưng của tự nhiên Việt Nam là có hệ thống sông ngòi
chằng chịt với 2360 con sông trải dài cả nước, với nhiều loài cá phong phú đa dạng.
Ngoài ra, từ các loại thuỷ sản, hải sản có thể chế biến ra các loại mắm và đặc biệt là
nước mắm – món chấm không thể thiếu trong bữa cơm.
+ Ngoài ra thì còn có thức uống và đồ hút. Thức uống thông dụng là chè xanh và
rựợu (đồ uống nấu từ gạo nếp). Đồ hút thông dụng là thuốc lào. Ăn trầu là một phong
tục độc đáo và lâu đời của người Việt.
Tính tổng hợp trong văn hóa ẩm thực: Trong cách chế biến: hầu hết các món ăn VN
điều là sản phẩm của sự pha chế tổng, được chế biến đa dạng hợp như xào, hấp, luộc,
chiên... Trong cách ăn: trong mâm cơm của người Việt bao giờ cũng có đồng thời
nhiều loại thức ăn như: canh, rau, cá, dưa, thịt… Quá trình ăn cũng là sự tổng hợp các món ăn.
Tính linh hoạt: Sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt còn được thể hiện rõ nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mềm dẻo,
linh hoạt của cư dân nông nghiệp Việt Nam. Trước hết ở việc ăn uống theo mùa, theo
vùng miền, đó là một biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng
vừa là một cách tự thích nghi của nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp. Tính linh hoạt
cũng thế hiện ở việc chế biến và lựa chọn các món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các
trạng thái của cơ thể (điều hòa âm - dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi trường để
ứng phó với thời tiết.
- Trong văn hóa trang phục:
Việt Nam, với nghề chính là trồng trọt và sống ở xứ nhiệt đới nên người Việt chủ
yếu sử dụng các chất liệu may mặc có sẵn trong tự nhiên, mỏng, nhẹ và có nguồn gốc
từ thực vật như: tơ tằm, sợi bông, sợi đay, sợi gai…
Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân,
quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là một trong
những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu. Trong các
dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc).
Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt chủ yếu là những gam màu trầm
tối: Miền Bắc là màu nâu (màu đất) và Miền Nam là màu đen (màu bùn). Điều đó phản
ánh phong cách truyền thống của người VN là ưa sự kín đáo, giản dị, đồng thời cũng
thể hiện sự thích nghi với môi trường sống và sinh hoạt của nghề nông trồng lúa nước
“chân lấm tay bùn”.
Ngoài ra chiếc nón lá cũng là một bộ phận kèm theo không thể thiếu trong trang
phục của phụ nữ VN truyền thống. Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm mưa nhiều.
Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp
với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng, ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ.
- Về văn hóa ở và sinh hoạt:
Ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho cuộc sống định cư ổn
định (An cư lạc nghiệp). Vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa… thể
hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN.
Kiến trúc nhà ở của người Việt mang dấu ấn của vùng sông nước với nhà sàn là kiểu
nhà phổ biến, thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác
động xấu của môi trường (tránh côn trùng, thú dữ, lũ, ngập lụt…). Sang thời phong
kiến thì nhà đất bằng là phổ biến, song dấu ấn văn hóa sông nước còn thể hiện ở kiểu
nhà mái cong mô phỏng hình mũi thuyền, thậm chí cư dân sống bằng nghề sông nước
còn dùng thuyền làm nhà ở. Không gian ngôi nhà Việt là không gian mở, có cửa rộng,
thoáng mát, giao hoà với tự nhiên, xung quanh có cây xanh bao bọc che chở. Về việc
chọn hướng nhà và chọn đất làm nhà được đặc biệt coi trọng, dựa theo thuật phong
thủy hướng nhà ưa thích của người Việt là hướng nam hoặc đông nam (Lấy vợ hiền
hòa, làm nhà hướng nam) các hướng này sẽ tận dụng được gió mát từ biển thổi vào và
tránh được nắng nóng từ phía tây, gió lạnh từ phía bắc xuống… Chọn đất làm nhà chịu
sự ảnh hưởng của quan niệm âm dương – ngũ hành.
- Về văn hóa giao thông đi lại:
Giao thông đường thủy do đặc điểm là vùng sông nước, với hệ thống sông ngòi
chằng chịt, có bờ biển dài... nên giao thông đường thủy chiếm ưu thế, người Việt đi lại
chủ yếu bằng thuyền, ghe, xuồng, đò... Vì đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị
là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...) Cuộc sống sinh hoạt
gắn liền với sông nước đã khiến hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong tư
duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...)
Trong khi đó giao thông đường bộ lại hạn chế (do: phương thức sản xuất nông nghiệp
định cư, khép kín ít có nhu cầu di chuyển, địa hình bị chia cắt bởi núi non và sông ngòi dày đặc...)
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại - đó là những hoạt động để đáp
ứng các nhu cầu vật chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể
hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường tự nhiên và với cộng đồng xã
hội. Sự ứng xử văn hóa của người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện rõ nét
dấu ấn của loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng
tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt của người Việt đối với môi trường tự nhiên
vùng sông nước và xứ sở thực vật, qua đó góp phần thể hiện các đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam.
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được thể hiện ở
lĩnh vực văn hóa vật chất.

Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ
xây dựng quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động
cần cù, cha ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng,
trên nền tảng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng
xử văn hoá của người Việt với môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Trong văn hóa ẩm thực, hành vi ăn uống là biểu hiện của văn hóa khi nó được
thực hiện một cách có ý thức và hình thành như một thói quen – đó vừa là văn hóa ứng
xử với môi trường tự nhiên, vừa là văn hóa ứng xử xã hội.
Trước hết ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền, đó là một biểu hiện của lối ứng
xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa là một cách tự thích nghi của nền kinh
tế tiểu nông tự túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc chế biến và lựa chọn các
món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của cơ thể (điều hòa âm - dương,
nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi trường để ứng phó với thời tiết.
Bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành viên trong bữa ăn liên quan và phụ
thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì mang tính cộng đồng nên
trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng đồng cùng với sự
chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việt rất coi trọng
nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Thể hiện trong dụng cụ ăn là đôi đũa. Đôi đũa có thể dùng một cách linh hoạt với
nhiều chức năng khác nhau. Tập quán dùng đũa lâu đời làm hình thành nên nhiều triết
lý như tính cặp đôi (Vợ chồng như đũa có đôi), tính cân xứng (Vợ dại không hại bằng
đũa vênh), tính tập thể (Vơ đũa cả nắm)
- Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính
bền chắc “ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm
tính: nâu, đen, chàm, gụ, tím… phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu
sắc dương tính (đỏ, vàng, xanh lá cây…) chỉ mặc vào các dịp lễ, hội và người Việt rất
có ý thức về việc làm đẹp (Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, cau già khéo bổ thì ngon,
nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa).

Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân,
quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là một trong
những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu. Trong các
dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc).
Ngoài ra chiếc nón lá cũng là một bộ phận kèm theo không thể thiếu trong trang
phục của phụ nữ VN truyền thống. Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm mưa nhiều.
Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp
với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng, ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc
áo the, quần ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt
thể hiện quan niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
- Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm
bảo cho cuộc sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt
mang tính cộng đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều
phòng biệt lập thì nhà Việt truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các
thành viên trong gia đình, các gian nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn.
Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng
một hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi...) được xén thấp để dễ qua lại.
- Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên
cư dân ít có nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi,
mua bán giữa các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường
nhỏ, cư dân chủ yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu.
Ở giao thông đường thủy vì đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các
cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn
liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong tư duy, trong
cách nghĩ (Thuyền theo lái,gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...). Ngay khi
đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, ăn, mặc, ở và đi lại - đó là những hoạt động để đáp ứng các nhu cầu vật
chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn hóa
của con người với môi trường tự nhiên và với cộng đồng xã hội. Sự ứng xử văn hóa
của người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện rõ nét dấu ấn của loại hình văn
hóa nông nghiệp trồng trọt.
Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với sự hình thành
triết lý sống của người Việt.

Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây là hệ
tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn
vật trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Trong
văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các
hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các
tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Đó là cơ sở để thuyết âm dương ngũ
hành ăn sâu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở thành cơ sở nhận
thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể
hiện qua các mối liên hệ:
Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp đôi:
trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân
bằng ân dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm
dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước… Các câu
ca dao, tục ngữ của người Việt cũng hình thành theo nguyên lý âm dương tương xứng:
công cha như núi thái sơn-nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra; ông nói gà-bà nói
vịt; lệnh ông k bằng cồng bà…
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm - dương:
từ triết lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng,
hài hòa âm dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo
triết lí quân bình, duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc làm
nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất
lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không
hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan. (Già néo đứt dây, đầy quá sẽ
đổ, tham thì thâm, trèo cao ngã đau, tức nước vỡ bờ…).
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do
nhận thức được qui luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt
thường có cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến: trong rủi có may, trong hỏa
có phúc, trong dở có hay…
Nhận thức được qui luật chuyển hóa âm dương nên có cái
nhìn biện chứng về cuộc sống (không ai giàu ba họ, không ai khó 3 đời, khổ trước
sướng sau…)
. Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc
quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với
cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Phật giáo ở Việt Nam và vai
trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay.

Phật giáo ra đời tại Ấn Độ (TK VI – V TCN), do thái tử Siddhartha sáng lập. Nói
đến Phật giáo trước hết là nói đến tư tưởng vị tha, vị nhân sinh. Phật cho rằng đời là
khổ và đã tìm lấy sự giải thoát khỏi cái khổ. Bởi vậy Phật xướng lên thuyết Tứ thánh
đế hay Tứ diệu đế. Đó là Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo đế.
Phật giáo đã có lịch sử hơn 2500 năm và du nhập vào Việt Nam từ rất sớm bằng 2
con đường chủ yếu đó là đường bộ từ phía Bắc xuống mang tư tưởng Đại Thừa (phật
giáo Bắc tông) và đường biển từ phía Nam lên mang tư tưởng Tiểu thừa (phật giáo Nam tông).
Các giai đoạn phát triển của phật giáo VN:
+ Giai đoạn 1: Giai đoạn du nhập, từ TK I đến TK III: Được người dân chấp
nhận rộng rãi và có chỗ đứng trong đời sống văn hoá tinh thần của người Việt.
+ Giai đoạn 2: Thời Lý – Trần, từ TK XI đến TK XIII: phật giáo phát triển cực
thịnh, nhiều chùa tháp có quy mô được xây dựng.
+ Giai đoạn 3: Thời nhà Nguyễn – TK XIX đến nay: Sau thời kì chiến tranh
loạn. Nhà Nguyễn lên ngôi, Phật giáo dần dần khôi phục vị trí của mình. Tháng
11/1981, tại chùa Quán Sứ với sự hiện diện của 165 vị đại biểu đại diện cho 9 tổ chức
hệ phái Phật giáo cả nước, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất 9 hệ phái và một với danh
xưng “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Đây là tổ chức hợp pháp, duy nhất đại diện cho
toàn thể Tăng ni và phật tử trong lẫn ngoài nước. Hiện nay, Phật giáo là tôn giáo có
nhiều tín đồ nhất ở Việt Nam.
Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam:
- Tính nhập thế: giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh,
luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các
hoạt động xã hội: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều nhà sư
đồng thời nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được
người Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.
- Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi
phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa:
dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật
với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…
+ Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo.
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như Nho giáo, đạo giáo và bổ
sung cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
*Vai trò của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa và nay:
- Phật giáo góp phần củng cố, duy trì các phong tục, tập quán của người Việt
Nam: Bên cạnh tín ngưỡng thờ ba bà mẹ (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn,
Mẫu Thoải), dân tộc ta còn có tục lệ thờ các vị thần nông nghiệp, các vị thần về hiện
tượng tự nhiên. Phật giáo đã và đang góp phần vào việc duy trì, chuyển tải đạo lý uống
nước nhớ nguồn của dân tộc Việt. Bởi đa phần các vị thần trong tâm thức dân gian Việt
Nam đều là những người có công với làng xã, đất nước được cộng đồng tôn vinh.
- Phật giáo ảnh hưởng đến tập tục đi lễ chùa, cúng Rằm, mùng Một: Đi chùa lễ
Phật đã trở thành nếp sống quen thuộc không thể thiếu trong đời sống tâm linh của rất
nhiều người dân Việt Nam. Người Việt Nam còn đi lễ chùa theo truyền thống. Người
Việt Nam đến chùa với lòng thành tâm của mỗi người, để cầu bình an, phúc lộ cho bản
thân và gia đình. Có người đến chùa để xám hối, nhưng có người đến để vãn cảnh
chùa. Những ngày lễ hội lớn trong năm bắt đầu từ Phật giáo như lễ Phật Đản, lễ Vu
Lan, lễ tắm Phật… thực sự đã trở thành một trong những ngày hội văn hóa của người dân Việt Nam.
- Phật giáo ảnh hưởng trong tục ăn chay, phóng sinh và bố thí: Việc ăn chay
niệm Phật vào các ngày mồng một, rằm… hàng tháng cũng là nếp sống của một bộ
phận không nhỏ trong dân chúng. Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu
ảnh hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của
Phật giáo. Đạo Phật không muốn sát sinh hại vật mà trái lại phải thương yêu mọi loài.
Cũng chính vì quan niệm “Phật tại tâm” cho nên bằng tấm lòng chân thành, từ bi của
đạo Phật mà tục lệ bố thí, phóng sinh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng.
Ngày rằm, mùng một, nhiều người Việt thường mua chim, cá, ốc, rùa… về chùa chú
nguyện rồi đem phóng sinh.
- Phật giáo ảnh hưởng đến nghi thức ma chay, cưới hỏi: Hiện nay, đối với việc
cưới hỏi, người Việt Nam nhiều nơi đưa cô dâu, chú rể tới chùa để các thầy sư làm lễ
“Hằng thuận quy y” nhằm chúc phúc cho cô dâu, chú rể và khuyên dạy họ một số
nguyên tắc đạo đức Phật giáo làm 83 hành trang cho họ trong cuộc sống vợ chồng. Đặc
biệt, ngày nay nhiều đôi bạn trẻ khi yêu nhau, mến mộ nhau thường dẫn nhau tới chùa
để cùng nhau khấn nguyện cho mối lương duyên của mình ngày một bền vững. Họ tin
rằng, trước sự thành kính của mình, Đức Phật sẽ thấu tỏ và phù hộ cho. Trong hình
thức ma chay, người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Với sự dẫn dắt của
các chư tăng tang lễ diễn ra đơn giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình theo đạo
Phật có người qua đời thì thân quyến đến chùa thỉnh các chư tăng về nhà để giúp đỡ
phần tang lễ. Nhiều người dù không theo đạo Phật song do tin Phật, một lòng hướng tới
Đức Phật mà họ đã mời các tăng ni đến tụng kinh để cầu siêu cho hương hồn người khuất -
Phật giáo ảnh hưởng đến phương thức ứng xử, triết lý sống của người Việt
Nam: Phật giáo với những giáo lý như từ bi, cứu khổ cứu nạn… nó nghiêng về triết
học, tâm linh. Quan niệm, học thuyết về khổ của Phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy,
lối sống người Việt khá sâu đậm, nó làm cho người Việt Nam có sức chịu đựng vô
cùng dẻo dai, một đức tính nhẫn nại, bền bỉ, cam chịu. Phật giáo đã hướng con người
vào việc thiện, xa lánh điều ác. Phật dạy chỉ có chính ta mới là chủ nhân thực sự cuộc
sống của ta nên ta phải gắng sức rèn luyện để trở thành người tốt mà không trông chờ ở
một thế lực siêu tự nhiên nào ngoài bản thân mình.
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò
của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay.

Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tư tưởng
giáo lý nhằm quản lý duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức
trị. Tư tưởng giáo lý của Nho giáo được thể hiện qua Tam cương, Ngũ thường và thuyết Chính danh.
Sau thời kỳ Bắc thuộc, đất nước ta vẫn có khuynh hướng lệ thuộc tương đối và
phương Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi để Nho giáo đc du nhập và ngày càng phát triển
ở nước ta. Cùng với sự lớn mạnh của các nhà nước trung ương tập quyền, học thuyết
Nho giáo cùng những nội dung của nó ngày càng được coi trọng và trở thành công cụ
để bảo vệ nhà nước trải qua các triều đại.
Trong suốt lịch sử tồn tại lâu dài ở Việt Nam, Nho giáo luôn đc ng Việt khai thác, sử
dụng dựa trên việc kết hợp với những truyền thống văn hóa vốn có của dân tộc. Vì vậy
mà Nho giáo Việt Nam có những nét riêng biệt so với Nho giáo ở Trung Quốc. Sự
khác biệt thể hiện ở chỗ Nho giáo trong quan niệm của của các nhà nho Việt nam có
phần tiến bộ, nhân văn và bớt hà khắc hơn. Ví dụ như: Tư tưởng trung quân gắn liền
với ái quốc, trong nhiều trường hợp nước đề cao hơn vua, các khái niệm nhân nghĩa
cũng bị khúc xạ qua lăng kính người Việt, làm nhẹ tư tưởng trọng nam khinh nữ bởi
truyền thống trọng phụ nữ vốn có trong văn hóa bản địa. Thêm nữa Nho giáo ở Việt
Nam không phải là thuần Nho mà nó đã có sự pha trộn, dung hợp với các tư tưởng, học
thuyết khác. Từ TK XVI - XVIII, Nho giáo Việt Nam suy vong không thể cứu vãn.
*Vai trò của Nho giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa và nay:
Trong gần 10 thế kỉ xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến, Nho giáo khẳng
định vai trò là nền tảng tư tưởng chi phối đến mọi mặt đời sống xã hội Việt Nam: là
nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước; hình thành chuẩn mực đạo
đức và xây dựng mô hình nhân cách con người Việt Nam truyền thống với các tiêu chí:
đạt đức (Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình; Một lòng
thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con); đạt đạo (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín).
Ảnh hưởng tích cực đến việc giáo dục mỗi cá nhân ý thức tự tu dưỡng đạo đức của bản
thân. Có ảnh hưởng tích cực trong việc giáo dục con người ý thức tôn trọng trật tự, kỷ
cương, có tinh thần trách nhiệm với các mối quan hệ của mình từ gia đình cho đến
ngoài xã hội. Xây dựng nền tảng giáo dục, thi cử.
Cho đến ngày nay, Nho giáo vẫn giữ được vị trí trong đời sống văn hóa tinh thần
người Việt. Tư tưởng và giáo lý của Nho giáo đã góp phần xây dựng xã hội ổn định, nề
nếp theo tôn ti trật tự, thứ bậc, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong cuộc
sống hiện đại, vai trò của pháp luật được đề cao, không những pháp luật hình sự như
thời xa xưa mà cả pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình… Tuy nhiên,
điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo đức và thuần phong mỹ tục mà người Việt
đã xây dựng hàng ngàn năm nay, trong đó tư tưởng Nho giáo đóng góp một phần không nhỏ.
Câu 8: Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao
tiếp ứng xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào cần
được giữ gìn và phát huy.

Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá
rõ nét. Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao
tiếp, ứng xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người
Việt coi trọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi
thức ứng xử văn hóa quan trọng của người Việt “Lời chào cao hơn mâm cổ”, thích
thăm viếng nhau, coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt
chặt thêm quan hệ và giàu tính hiểu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm
nở, chu đáo, tận tình).
Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích
tìm hiểu, quan sát, đánh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân
của đối tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...).
Đặc điểm này cũng có nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối sống trọng tình (quan tâm đến người khác).
Tuy nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí. Trong
thực tế người Việt Nam vẫn coi trọng “cái tình” hơn cả, bất đắc dĩ lắm mới dùng “cái
lý” để giải quyết những mâu thuẫn (vô phúc đáo tụng đình). “Cái tình” sẽ làm cho
người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng “cái tình” là rất đẹp, để rồi “Một trăm chỗ
lệch cũng kê cho bằng”, để không phải hối hận về sau. Người ta thường nói tình làng
nghĩa xóm lúc “tắt lửa tối đèn” là để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa “cái lý” ra làm
thước đo con người. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số trường hợp
ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt: Người càng thân ta thì càng đúng
hơn. “Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có kiểu xưng
hùng xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo
quan hệ thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì,
cháu, con… Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng
hơn là giá trị vật chất (Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng
giữa làng bằng một sàng xó bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...)
. Vì coi
trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc.
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam
phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm.
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện “Ở đời
muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “Đem chuông đi đánh
nước người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “Một quan tiền công không bằng
một đồng tiền thưởng”.
Vì trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi
vậy, dư luận trở thành một thứ vũ khí lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá nhân
với cộng đồng, nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán
trong giao tiếp, không đi thẳng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo
tam quốc” để đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao
tiếp. Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu
tính quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để
giữ được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận
quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt.
Do giữ ý nên trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng
sự hòa thuận. Người Việt thường không biểu lộ trực tiếp cảm úc của mình với đối
tượng giao tiếp mà thông qua các câu ca dao, thành ngữ, thơ ca thường dùng hinhtượng
ẩn dụ, bóng gió “Trăm dâu đổ một đầu tằm”; “Tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài,
ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý
nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lơi
mà nói chovừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự lành”;… Và hệ quả của việc giữ ý, cả
nề dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp
“Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo”; “uốn lưỡi ba lần trước khi nói”...
Chính thói quen ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính
quyết đoán trong giao tiếp đã khiến cho người Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan
điểm trái chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái
ác, cái tiêu cực để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn
đến thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con
người diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc
ViệtNam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh làm
nên nét đẹp và là chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi nét
đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền
văn hóa ứng xử muôn màu, phong phú thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét
đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì
vạn vật tất yếu đều phải có những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hai yếu tố này luôn
song hành cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh sáng thì không thể
nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu cực này
mà có thể thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát
huy các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền
thống Việt Nam nói chung.
Câu 9: Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống và lý giải
nguyên nhân hình thành đặc điểm ấy, qua đó chỉ ra vai trò của gia đình trong việc
hình thành nhân cách cá nhân.

- Đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình là tế bào của xã hội, là một đơn vị cộng đồng ra đời cùng với xã hội loài
người, bắt nguồn từ quan hệ nam nữ và việc sinh đẻ, nuôi dạy con cái. Do sự chi phối
của phương thức sản xuất nông nghiệp và tư tưởng nho giáo nên văn hóa gia đình Việt
Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
+ Gia đình tiểu nông (nhiều thế hệ sống chung, cố kết bền vững).
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn
với nền văn hoá nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình.
Tính cộng đồng và lối sống trọng tình: mỗi gia đình thường có ba, bốn thế hệ cùng
chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vì vậy các thành viên trong gia
đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau. (Trẻ cậy cha, già cậy con;
Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng; Anh em như thể tay chân...).
Gia đình tiểu nông: Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt đối của tập
thể gia đình đối với mỗi thành viên), tinh thần vì lợi ích chung, vừa coi trọng đúng mức
vai trò cá nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn trọng giới hạn tự do cá nhân.
Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể thường lấn át, tới mức, người
phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
+ Gia đình Nho giáo (phụ quyền, đa thê)
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sự ảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn
hoá gia đình Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ có quyền uy
tuyệt đổi và chịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy;
Cha mẹ đặt đầu con ngồi đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
Chế độ phong kiến chấp nhận gia đình đa thê (trai năm thê bảy thiếp, gái chính
chuyên chỉ có một chồng).
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng
phong kiến, phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng tư đức, chấp nhận gia
đình đa thê, "trai chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"....
Quan niệm gia đình đông con là phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ thực tiễn
của cuộc sống nông nghiệp. Sinh con là để có người lo việc đồng áng, và lập gia đình
để có người phụ giúp nông trang (đông con hơn nhiều của)
Quan hệ các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ của
giáo lý Nho giáo (Quyền huynh thế phụ)
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng
nam khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô).
Đây là nguyên nhân gây ra nhiều thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trong thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền
phân công lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác
trong gia đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền đánh
đập. “bán vợ, đợ con”, xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền
lực chính trong gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò của họ
vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội.
- Vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính bền
vững, gia đình luôn là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất
tiếc khóc chào đời đến khi mất đi. Ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn luôn
là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức
năng quan trọng của gia đình.
1. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên để mỗi cá nhân hình thành, hoàn thiện nhân cách.
Mỗi con người khi sinh ra thông thường đều có một gia đình, được sinh ra từ
người cha, người mẹ…vì thế, ánh mắt đầu tiên là cái nhìn về cha mẹ, âm thanh đầu tiên
tiếp nhận là âm thanh từ cha mẹ, ông bà, anh chị là âm thanh của gia đình.
Mỗi cá nhân, từ khi lọt lòng mẹ đến khi trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời
ăn, tiếng nói, từ cách ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với cộng đồng thế nào
cho đúng, cho lễ phép. Gia đình là nhân tố đầu tiên chỉ bảo, dạy dỗ cho các em hành vi
ứng xử theo chuẩn mực và các giá trị tốt đẹp của xã hội: “Học ăn, học nói, học gói, học
mở .. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng; Trên kính duới nhường. ”
⇨ Chính vì vậy hành vi đầu đời của các em có dấu ấn sâu sắc của gia đình. Trẻ em có
hành vi tốt hay xấu trước hết và chủ yếu là do môi trường giáo dục của gia đình tạo nên.
2. Gia đình chuẩn bị hành trang cho các em bước vào cuộc sống
Trên những bước đường trưởng thành những ký ức của tuổi thơ luôn đọng lại
theo chân các em trên mỗi hành trình mà ở đó có thể là ký ức buồn khổ hoặc ký ức êm
đềm ngọt ngào trong vòng tay yêu thương của gia đình… tất cả đều trở thành hành
trang, động lực giúp các em vươn lên, quyết tâm hơn trên mỗi bước đi của cuộc đời mình.
3. Gia đình là nhịp cầu nối với nhà trường
Gia đình là cái nôi giáo dục đầu tiên, giai đoạn sau các em tiếp tục được sự giáo
dục của nhà trường. Đó là môi trường rộng lớn hơn, bạn bè nhiều hơn, kiến thức được
mở mang, thể chất ngày càng phát triển, theo đó nhận thức và nhân cách được phát
triển rất mạnh ở thời kỳ này.
Để định hướng, uốn nắn và điều chỉnh về nhân cách của các em gia đình phải
luôn liên hệ với nhà trường. Sự hợp tác này sẽ đạt hiệu quả rất cao vì nhà trường chính
là môi trường thuận lợi nhất, tốt nhất để các em học tập và rèn luyện.
Câu 10: Hãy trình bày đặc trưng của văn hóa của làng và ảnh hưởng của nó đến
thói quen, lối sống, cách tư duy, ứng xử của người việt (ảnh hưởng đến pháp luật).
Sưu tầm những câu thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt.

Đặc trưng của văn hóa làng Việt
Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo
làm nên bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã củng
gặp nhau khi khái quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tinh cộng đồng và tính tự trị. + Tính cộng đồng
- Tính cộng đồng: là sự liên kết, gắn bó chặc chẽ, giữa các gia đình, gia tộc, giữa các
thành viên trong làng với nhau, là ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng với nhau
- Tính cộng đồng như một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam, được biểu hiện rõ
nét ở cách thức tổ chức và các mối quan hệ trong các đơn vị cộng đồng, từ gia đình -
gia tộc đến làng xã và quốc gia, trong đó tính cộng đồng thể hiện rõ nhất là ở văn hóa làng
a. Cơ sở hình thành tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải sống định cư. Vì vậy,
người Việt đã sống quần tụ thành cộng đồng dựa trên hai mối quan hệ là huyết thống
và láng giềng. Cùng gắn kết để nương tựa, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, cùng
đoàn kết ứng phó với thiên tai và giặc ngoại xâm.
b, Biểu hiện của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Về kinh tế: cư dân trong cùng một làng luôn tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động
sản xuất, chống thiên tai (hạn hán, lũ lụt), khi đói kém, mất mùa (Một miếng khi đói
bằng một gói khi no; Lá lành đùm lá rách; Lụt thì lút cả làng, đắp để chống lụt thuếp
chàng cùng lo...
).
- Về tình cảm: cư dân trong làng đều có mối quan hệ thân tộc nên luôn giúp đỡ nhau
khi khó khăn hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Bầu
ơi thương lẩy bị cùng...).

- Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, củng thờ
chung Thành Hoàng làng, cùng tham gia các hội hè, định đảm...; hôn nhân phải được
lảng công nhận (nộp cheo cho lảng).
- Về luật pháp: mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với
tư cách cá nhân, mà bị hòa tan trong cộng đồng họ mạc, làng xã. Vì vậy, trong xã hội
phong kiến, một người làm quan cả họ được nhờ”, nhưng một người phạm tội thì cả
cộng đồng phải chịu vạ lây (Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu).
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả về
quan hệ xã hội cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật... Tính cộng đồng được
bảo tồn, nuôi dưỡng từ cái nôi văn hóa làng là một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân
tộc, và cũng là cơ sở để hình thành tinh thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần
truyền thống quý báu, làm nên cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta.
c. Biểu tượng của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
Trong không gian sống của mỗi làng quê Bắc Bộ, đình làng cây đa, bến nước là những
hình ảnh vô cùng quen thuộc, gắn bó thân thuộc, bởi đây là những địa điểm thưởng tập
trung đông người, là nơi sinh hoạt cộng đồng.
d.Tác động của tính cộng đồng đến lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt,
Tính cộng đồng như một đặc trưng bản sắc của văn hóa làng đã in đậm dấu ấn trong
tâm lý, tính cách, đã tác động đến lối sống, cách tư duy, ứng xử (nói chung) và văn hóa
ứng xử với pháp luật (nói riêng) của người Việt với cả hai mặt tích cực và tiêu cực: