



















Preview text:
NỘI DUNG ÔN TẬP
MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM I. Lý thuyết
1. Chương II, định vị văn hoá Việt Nam -
Phân biệt và so sánh giữa loại hình văn hóa nông nghiệp, trồng trọt và loại hình chăn
nuôi, du mục. Từ đó suy ra loại hình văn hóa VN
2. Chương III, văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá xã hội -
Văn hoá vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại) - Văn hoá tinh thần. +
Âm dương – ngũ hành ảnh hưởng đến triết lý sống của người Việt ntn +
Tôn giáo (nho giáo, phật giáo), ảnh hưởng đến pháp luật + Giao tiếp ứng xử -
Văn hoá xã hội (nhà – làng – nước), ảnh hưởng của văn hóa làng đến pháp luật.
3. Văn hoá Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá.
II. Các câu hỏi cụ thể:
Câu 1. Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn
hoá gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó. TIÊU CHÍ
VĂN HÓA GỐC NÔNG NGHIỆP TRỒNG
VĂN HÓA GỐC CHĂN NUÔI DU MỤC
TRỌT (chủ yếu ở Phương Đông)
(Chủ yếu ở phương Tây) Đặc trưng gốc
- Đồng bằng (ẩm, thấp) - Đồng cỏ (khô cao) (Địa hình, nghề - Trồng trọt - Chăn nuôi chính, cách sống) - Cách sống: Định cư - Cách sống: Du cư Ứng xử với môi
Tôn trọng, sống hòa hợp với thiên nhiên, sùng bái
Coi thường, có tham vọng chế ngự thiên nhiên trường tự nhiên
thiên nhiên -> thờ thần
Lối nhận thức tư
- Thiên về tổng hợp và biện chứng (trọng quan
- Thiên về phân tích và siêu hình (trọng yếu duy hệ) tố) 1
- Chủ quan, cảm tính và kinh nghiệm
- Khách quan, lý tính và thực nghiệm Tổ chức cộng
- Trọng tình cảm, trọng đức, trọng văn, trọng phụ
- Trọng sức mạnh, năng lực, trọng võ, trọng đồng nữ nam giới
- Linh hoạt và dân chủ, coi trọng tính cộng đồng
- Nguyên tắc và quân chủ, coi trọng tính cá nhân Ứng xử với môi
Dung hợp trong tiếp nhận; mềm dẻo, hiếu hòa trong
Độc tôn trong tiếp nhận, cứng rắn, hiểu thắng trường xã hội đối phó trong đối phó Cơ sở hình thành
Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, sông ngòi chằng
Khí hậu lạnh khô, địa hình chủ yếu là thảo
chịt, đồng bằng phì nhiêu màu mỡ, nông nghiệp
nguyên, thích hợp cho chăn nuôi phát triển trồng trọt phát triển
→ Văn hoá chăn nuôi du mục được hình
→ Văn hóa nông nghiệp được hình thành thành Đặc điểm
- Sống định cư, không thích di chuyển → trọng
- Sống di cư nên có thói quen thích di tĩnh chuyển → trọng động
- Tôn thờ sùng bái tự nhiên, mong muốn hòa hợp
- Tham vọng chinh phục, chế ngự tự nhiên với thiên nhiên
- Yếu tố cá nhân được coi trọng
- Cuộc sống định cư tạo nên tính cộng đồng cao
→ Hình thành lối sống thích ganh đua,
→ Hình thành lối sống trọng tình, trọng văn,
cạnh tranh, ứng xử độc đoán trong giao tiếp trọng phụ nữ
- Chăn nuôi du mục hình thành kiểu tư duy
- Phương thức sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu
phân tích, chú trọng vào từng yếu tố
tố tự nhiên nên hình thành kiểu tư duy tổng hợp
- Do lối tư duy phân tích, chú trọng vào biện chứng
từng yếu tố nên đã hình thành lối sống trọng
- Do tư duy tổng hợp biện chứng nên hình thành
lý, ứng xử theo nguyên tắc
thái độ ứng xử linh hoạt, mềm dẻo.
→ Thói quen tôn trọng pháp luật được hình thành từ rất sớm.
Nguyên nhân có sự khác nhau: Văn hóa là sản phẩm của con người và tự nhiên. Vì vậy,
nguồn gốc của mọi sự khác biệt sâu xa về văn hóa là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên
(địa lý, khí hậu) và xã hội (lịch sử kinh tế) tạo nên. (theo tập bài giảng: sự khác biệt về vị trí
địa lý và đk tự nhiên -> sự khác biệt về nghề nghiệp -> văn hóa) 2
Câu 2. Hãy chứng minh rằng văn hoá Việt Nam thuộc loại hình văn hoá gốc nông
nghiệp trồng trọt điển hình.
Văn hóa Việt Nam thuộc về loại hình văn hóa gốc nông nghiệp điển hình với những đặc trưng chủ yếu sau đây:
- Trong ứng xử với môi trường tự nhiên luôn có ý thức tôn trọng và sống hòa hợp với
thiên nhiên, tôn sùng thiên nhiên, thể hiện đức hiếu sinh. Vì sống bằng kinh tế nông nghiệp,
nhất là nông nghiệp lúa nước, ở đó con người có sự phụ thuộc vào các hiện tượng tự nhiên
(như trời, đất, nước, nắng, mưa...), nên trong nhận thức đã hình thành một lối tư duy tổng hợp,
trọng quan hệ, trọng tình biện chứng, thiên về kinh nghiệm, trực giác, cảm tính và duy linh (linh cảm).
+ Do cư dân VN sống bằng nghề nông nghiệp nên rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn
mưa thuận gió hòa để có cuộc sống no đủ “lạy trời, ơn trời…” có nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng
bái tự nhiên. Vì vậy, phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước. Cuộc sống định
cư tạo cho người Việt có tính gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ vai trò cá nhân: “bán anh em xa,
mua láng giềng gần; Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ;…”. Lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ
- Trong tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội theo nguyên tắc trọng
tình, chuộng sự hòa thuận, tương trợ, quan tâm đến những láng giềng.
+ Lối sống trọng tình đưa đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng Mẫu đề cao nguyên lý Mẹ.
Cuộc sống định cư ổn định của nghề nông nghiệp trồng trọt cần đến vai trò chăm lo, thu vén
của người phụ nữ, vai trò của người phụ nữ được tôn trọng và đề cao.
+ Nguyên tắc trọng tình cũng là cơ sở của tâm lý hiếu hòa, chuộng sự bình đẳng, dân chủ,
đề cao tính cộng đồng, tính tập thể.
→ Lối tư duy tổng hợp biện chứng, cộng với nguyên tắc trọng tình dẫn đến lối sống linh
hoạt, luôn ứng biến cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Tư duy tổng hợp và phong cách
linh hoạt của văn hóa nông nghiệp còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận các yếu tố
khoan dung trong ứng xử, mềm dẻo trong đối phó. Tuy nhiên, mặt trái của tính linh hoạt và
trọng tình là nó dẫn đến thái độ tùy tiện, coi thường tính nguyên tắc, ý thức tổ chức kỷ luật kém. 3
- Người Việt thích cuộc sống định cư, ổn định, không thích sự di chuyển, thay đổi, tình cảm
gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… nên hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội.
- Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng thể hiện
rõ trong văn hóa, nhận thức, ứng xử của người Việt. Coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là
cơ sở khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kết hợp lối
sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.
Câu 3. Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên
của người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Lĩnh vực văn hóa vật chất được thể hiện qua 4 nội dung chính sau: -
Văn hóa sản xuất vật chất. - Văn hóa ẩm thực. - Văn hóa trang phục. - Văn hóa đi lại.
Trong văn hóa sản xuất vật chất, người Việt đã biết tận dụng và ứng phó với môi trường
tự nhiên. Từ điều kiện tự nhiên nóng ẩm, mưa nhiều… thuận lợi phát triển nghề nông trồng lúa
nước và giữ vị trí chủ đạo, chi phối toàn bộ nền kinh tế của XHVN truyền thống. Quá trình cải
tạo và chinh phục tự nhiên, chinh phục đầm lầy, lấn biển, đắp đê chống lụt… đã trở thành
những vùng đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ và Nam bộ để chuyên canh lúa nước. Ngoài ra,
với điều kiện tự nhiên thuận lợi, người Việt còn tận dụng để trồng các loại cây cho củ, cho quả,
cho lá cây, cho sợi để làm các nghề thủ công… Tận dụng điều kiện tự nhiên để chăn nuôi các
loại gia súc, gia cầm, các nguồn lợi thủy hải sản từ tự nhiên.
Trong văn hóa ẩm thực: Hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn hóa vật chất của người
Việt là tính chất sông nước và thực vật. Sự chi phối của hai yếu tố tự nhiên này được thể hiện
trước hết trong việc lựa chọn cơ cấu một bữa ăn truyền thống với 3 thành phần chính: cơm –
rau – cá. Cơm được làm từ gạo, đứng vị trí đầu tiên trong bữa ăn “Người sống vì gạo, cá bạo
vì nước”, bữa ăn của người Việt gọi là bữa cơm. Người Việt không chỉ tận dụng cây lúa thành
gạo để nấu cơm mà còn biết tận dụng từ gạo để làm bún và làm bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh
tráng… Gạo nếp dùng làm xôi, làm bánh mặn, bánh ngọt… Thành phần thứ hai trong cơ cấu
bữa ăn người Việt là rau quả. Là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông 4
nghiệp lại là ngành kinh tế chủ yếu nên rau quả vô cùng phong phú. Việc dùng rau trong cơ
cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt.
Người Việt thường hay nói “Đói ăn rau, đau uống thuốc”, “Ăn cơm không rau như đánh
nhau không có người gỡ”, “Ăn cơm không rau như người giàu chết không kèn trống”. Rau
quả đặc thù trong cơ cấu bữa ăn là rau muống và dưa cà: “Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh
rau muống, nhớ cà dầm tương”. Cà và dưa cà, dưa cải là những món ăn hợp thời tiết, được
người Việt ưa thích và thường được dự trữ để ăn thường xuyên: “có dưa chừa rau”, “có cà thì
tha gắp mắm”, “thịt cá là hoa, tương cà là gia bản”. Bên cạnh các loại rau quả là thành phần
chính trong cơ cấu bữa ăn còn có những loại rau quả dùng làm gia vị như: hành, gừng, ớt, tỏi,
rau răm, rau diếp cá… Gia vị cũng là thành phần không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt.
Thành phần thứ ba trong bữa ăn của người Việt là cá. Việt Nam có phía Đông giáp với biển
Đông lại có hệ thống sông ngòi, ao hồ chằng chịt nên dùng các trong cơ cấu bữa ăn cũng là khả
năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt. Cá đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và
đứng đầu trong bảng các loại thức ăn thủy sản (so với tôm, cua, mực…). Người Việt thường
nói: “Cơm với cá như má với con”. “Có cá đổ vạ cho cơm”, “con cá đánh ngã bát cơm”.
Người Việt còn tận dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước
mắm và mắm các loại: nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm sét, các loại nước mắm nổi tiếng: Nghệ
An, Phan Thiết, Phú Quốc. Thực phẩm được chế biến từ thủy sản cũng rất đa dạng: nấu chín,
ướp mắm, phơi khô. Chế biến cũng có nhiều cách: chiên, xào, kho, luộc, nướng, gỏi… Văn
hóa ẩm thực của người Việt thể hiện ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền. Đó là biểu hiện
của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên, thích nghi với nền kinh tế tự cung tự cấp.
Trong văn hóa trang phục, người Việt biết tận dụng các điều kiện tự nhiên chọn các màu sắc
trang phục phù hợp với môi trường sông nước như màu nâu, màu đen…, có ý thức làm đẹp.
Người Việt sử dụng các chất liệu may mặc có sẵn trong tự nhiên, mang đậm dấu ấn nông
nghiệp trồng trọt, sống ở xứ nóng nên chọn các chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như tơ tằm,
sợi bông, sợi đay… trang phục của phụ nữ: váy, yếm, áo tứ thân, áo dài, quần lĩnh… Ngoài ra
chiếc nón là phần không thể thiếu trong trang phục phụ nữ được tận dụng để che mưa, che
nắng. Trang phục của nam giới: áo cánh, quần ống rộng để phù hợp với khí hậu nóng bức và
công việc đồng áng. (quan niệm về mặc, chất liệu, kiểu trang phục truyền thống)
Văn hóa ở và đi lại: Văn hóa ở - Tận dụng điều kiện tự nhiên, có sẵn trong tự nhiên người
Việt xây nhà bằng các chất liệu như gỗ, tre, nứa, rơm rạ… Kiến trúc nhà mang dấu ấn của vùng
sông nước, lá nhà sàn thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác
động xấu của môi trường. Không gian nhà là không gian mở, có cửa rộng thoáng mát và giao 5
hợp với thiên nhiên. Trong quan niệm về kiến trúc, xây nhà, dựng cửa: người Việt biết chọn
hướng nhà, chọn đất, tránh hướng gió độc, đó lấy hướng mặt trời, hay xây dựng nhà cửa gần
sông suối để tiện nước sinh hoạt (“nhất cận thị, nhị cận giang”), trồng trọt. Một điểm đặc biệt
trong kiến trúc nhà cửa là các kiến trúc đều thuận theo phong thủy.
Đó là sự hài hòa giữa thề đất, thế núi, nguồn nước… Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc
thành quách như thành Thăng Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế… hay trong thuyết tam tài
của người dân: “thiên-địa- nhân”.
Văn hóa đi lại: do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều sông ngòi…tận dụng sông nước nên
phương tiện đi lại của người Việt chủ yếu là thuyền, ghe, đò, xuồng…
Tóm lại, ăn mặc, ở, đi lại là những nhu cầu tiết thân của con người nhưng cũng đồng thời
thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường tự nhiên. Thể hiện rõ nét dấu ấn loại
hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng
phó linh hoạt với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật.
Câu 4. Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được thể hiện ở
lĩnh vực văn hoá vật chất.
Việc coi trọng nông nghiệp, chính sách khuyến nông tích cực, khuyến khích khai hoang, mở
rộng diện tích canh tác, bảo vệ sức kéo trong văn hóa sản xuất vật chất.
Trong văn hóa ẩm thực thể hiện ở tính cộng đồng và tính mực thước, bữa ăn của người Việt
là ăn chung nên người Việt rất thích trò chuyện, qua đó cũng thể hiện thái độ ứng xử ý chừng
mực trong ăn uống. Ngoài ra trong văn hóa ẩm thực còn thể hiện tính linh hoạt theo mùa, theo
vùng miền, cách để chế biến và lựa chọn món ăn. Trong dụng cụ ăn đó là đôi đũa.
Trong ứng xử đối xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt luôn thể hiện vẻ kín đáo, tế nhị.
Kiến trúc nhà ở mang tính cộng đồng, giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thuỷ nên văn
hóa cũng gắn liền với những phương tiện đi lại, coi đó như là nền tảng cho thái độ ứng xử văn
hóa với môi trường xã hội.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua 10 thế kỷ xây dựng quốc
gia phong kiến tự chủ. Với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha ông ta xây
dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của người Việt với môi
trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất. 6
Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất tiêu
nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toàn bộ nền tảng kinh tế của hội
Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định hình từ thời
Văn Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, trong quá trình xây dựng quốc
gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông và có các chính sách
khuyến nông tích cực. Bằng những công cụ dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú
trong tự nhiên như: tơ chuối, sợi đay, sợi gai, tơ tằm và sợi bông, những người thợ thủ công đã
dệt ra nhiều loại vải, lụa rất phong phú, không chỉ đáp ứng được nhu câu may mặc trong nước
mà còn bán nước ngoài. Như vậy, từ thời Hùng Vương dựng nước cho đến suốt thời phong
kiến Đại Việt, phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước được duy trì và phát triển với vai
trò kinh tế chủ đạo. Cùng với nghề nông là sự mở rộng và phát triển các làng nghề thủ công
phục vụ cho các nhu cầu sản xuất và sinh sống hàng ngày. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương
thức sản xuất nông nghiệp tiêu nông tự cung tự cấp, các quan hệ giao lưu bị hạn chế, do đó sản
xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ của nền kinh tế tiểu nông đáp
ứng các nhu cầu tiêu dùng chứ không thế vươn tầm phát triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
Trong văn hóa ẩm thực, bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành viên trong bữa ăn liên
quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì mang tính cộng đồng
nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng đồng cùng với sự chi
phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việt rất coi trọng nghi lễ và
thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền chắc
“ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: nâu, đen,
chàm…phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ, vàng…)
chỉ mặc vào dịp lễ hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp (Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì
phân). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân,quần
lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là một trong những nét bản
sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu.
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc). Trang
phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng
bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ. Trong 7
sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt thể hiện quan niệm thẩm mỹ về
vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho cuộc
sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính cộng đồng.
Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập thì nhà Việt
truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình, các gian
nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn. Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng thường
chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi..) được xén thấp để dễ qua lại.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư dân ít có
nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa các
vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ yếu là đi
bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở giao thông đường thủy vì
đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng
Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con
đò đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có
nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông
nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các nhu cầu
cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường xã hội.
Câu 5. Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương – Ngũ hành với sự hình thành các
triết lý sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư tưởng
triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và quy luật tồn tại của vạn vật trong vũ trụ
bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Trong văn hóa bản địa của người
Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh,
sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần
thoại. Cơ sở để thuyết âm dương ngũ hành ăn sâu trong đời sống văn hóa tinh thần của người
Việt, trở thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lý sống cho mình và truyền
bá cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ với: 8
Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lý về sự cân xứng, cặp đôi: trong
tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân bằng âm
dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp quy luật. Các cặp âm dương thường
được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước…
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: từ
triết lý âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạng thái cân bằng, hài hòa
âm dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái (vì âm cực sinh dương, dương cực
sinh âm nên cái gì thái quá cũng dẫn đến nhưng bất cập và sinh biến: Già néo đứt dây, Hồng
nhan bạc mệnh, Tham thì thâm,..). Từ đó, Người Việt sống theo triết lý quân bình, duy trì trạng
thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tới việc làm nhà ở, cho đến việc ứng xử hài hòa
trong quan hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an
phận với những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực
đoan: Trèo cao ngã đau, Yêu nhau lắm, cắn nhau đau.
Triết lý sống quân bình cũng khiến người Việt thường tự bằng lòng, an phận với những gì
mình đang có, hạn chế sự cạnh tranh, hiếu thắng (dĩ hòa vi quý)
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lý sống lạc quan của người Việt: do
nhận thức được quy luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có
cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến: trong rủi có may, trong họa có phúc. Nhận thức
được quy luật chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống: Không ai giàu
ba họ, không ai khó ba đời. Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc quan.
Tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến tiêu cực: tự bằng lòng và an bài với cuộc sống
hiện tại, phó mặc cho số phận, không nỗ lực cố gắng hết mình.
Câu 6. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo ở Việt Nam và vai trò
của phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo ra đời tại Ấn Độ (TK VI - V) TCN, do Thái tử Siddhartha sáng lập, Phật giáo
chính thức du nhập vào nước ta thời bắc thuộc, theo chân quân xâm lược Trung Hoa và đã
nhanh chóng được người Việt tiếp cận một cách tự nhiên, tự nguyện.
Về tư tưởng, triết lý Phật giáo: phật giáo gồm 2 phái: Đại thừa và tiểu thừa -
Tiểu thừa (thượng tọa): từ Ấn Độ du nhập vào VN từ trước thời Bắc thuộc 9 -
Đại thừa (đại chúng): từ Trung Hoa du nhập vào VN từ khoảng TK IV - V. Phái Đại thừa gồm 3 tông phái: +
Thiền tông: lý giải nguyên nhân gây ra mọi nỗi khổ cho con người là từ tâm mà ra +
Tịnh độ tông: thâm nhập vào được quảng đại dân chúng theo đạo Phật ở Việt Nam +
Mật tông: hòa vào dòng tín ngưỡng dân gian với các hình thức hầu đồng, dùng pháp
thuật, yểm bùa trị tà ma và chữa bệnh.
Các giai đoạn phát triển của Phật giáo VN: gồm 3 giai đoạn: -
Giai đoạn 1: từ TK I đến TK III: được người dân chấp nhận rộng rãi và có chỗ đứng
trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt -
Giai đoạn 2: thời Lý - Trần, từ TK XI - XIII: +
Phật giáo phát triển cực thịnh vào thời Lý - Trần +
Nhiều chùa tháp có quy mô được xây dựng -
Giai đoạn 3: thời nhà Nguyễn, TK XIX - đến nay +
Sau thời kì chiến tranh loạn lạc, Trịnh - Nguyễn phân tranh, nhà Nguyễn lên ngôi, Phật
giáo dần dần khôi phục lại vị trí của mình +
Hiện nay, phật giáo là tôn giáo có nhiều tín đồ nhất tại VN.
Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam: - Khuynh hướng nhập thế: +
Phật giáo luôn đồng hành với cuộc sống người dân. Chùa là trung tâm tín ngưỡng, tôn
giáo, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng làng xã. +
Phật giáo được cụ thể hóa trong các mối quan hệ đời thường -
Tính tổng hợp: làm nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam
(1) Phật giáo dung hợp với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa: +
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên: vd về các vị thần mây, mưa, sấm, chớp đã được Phật hóa
thành Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi, Phật Pháp Điện +
Tín ngưỡng thờ Mẫu, Phật giáo VN có khuynh hướng thiên về nữ tính như các vị phật bà, quan âm,.. +
thờ các vị Thần, thánh mẫu, Thổ địa,...
(2) dung hợp giữa các tông phái Phật giáo
(3) dung hợp giữa phật giáo với các tôn giáo khác
Vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người việt xưa và nay: 10
- Tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh ý thức và
hành vi của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha, “khuyến thiện từ ác” đã
giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tư, góp phần đem lại sự bình yên, hòa mực cho cuộc sống.
Ở đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa, Phật giáo chiếm một vị trí quan trọng, các
triết lý, lời dạy của Phật giáo ăn sâu vào văn hóa tinh thần và do ảnh hưởng của thuyết “luân
hồi”, “quả báo” của Phật giáo, nhiều người Việt thường không chủ động sử dụng luật pháp là
công cụ bảo vệ mình khi quyền lợi bị xâm phạm, mà chọn phương pháp im lặng trông chờ vào
quả báo, tin vào sự trừng phạt của Luật trời hơn là luật pháp, vì vậy từ đây cũng không hình
thành thói quen sử dụng công cụ luật pháp trong đời sống dân sự. Còn ở đời sống văn hóa tinh
thần của người Việt nam ngày nay, Phật giáo vẫn chiếm một vị trí trong đời sống tinh thần của
con người, các ngôi chùa vẫn còn được giữ lại và mở rộng, người dân vẫn coi trọng việc thắp
hương khấn phật, rao giảng về các triết lý sống “từ bi” “bác ái” nhưng đồng thời người dân
cũng sử dụng các công cụ pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình, không còn phụ thuộc vào
các triết lý về “quả báo” để làm hạn chế khả năng bảo vệ vào công lý, vào lẽ phải.
Câu 7. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò
của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tư tưởng - giáo lý
nhằm tổ chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị. Khổng Tử
(Khổng Khâu, 551 - 479 trước Công Nguyên) được coi là người có công đầu trong việc hệ
thống hóa và hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Nho giáo của Trung Hoa.
Du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt
1000 năm, Nho giáo chưa có được chỗ đứng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Sang thời Đại Việt, tư tưởng Nho giáo ngày càng được phổ biến rộng rãi do Nho giáo là nội
dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trường. Từ chỗ chiếm được địa hạt giáo dục, Nho giáo
đã từng bước chiếm lĩnh dần địa hạt chính trị và tư tưởng. Đến TK XV. Nho giáo đạt đến cực
thịnh khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo
Nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo được biểu hiện trong hệ thống giáo lý Tam Cương,
Ngũ thường và thuyết Chính danh. 11 -
Tam cương (3 mqh rường cột để duy trì trật tự xã hội): Quân - thần (vua - tôi); Phụ tử
(cha - con); Phu - phụ (chồng - vợ). Trong đó, mqh vua - tôi là trọng tâm, vì vậy chữ trung
được đặc biệt đề cao. -
Ngũ thường (năm đức cơ bản, thường hằng của con người, làm nền tảng đạo đức cho
xh): Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong đó, chữ Nhân được coi là là trung tâm, là nền tảng chi
phối mọi quan hệ ứng xử. -
Thuyết chính danh: có nghĩa là muốn xây dựng xã hội ổn định, lý tưởng thì mỗi người
phải làm đúng vai trò, danh phận của mình (Thượng bất chính thì hạ tắc loạn)
Đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam -
Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua
được đề cao tuyệt đối thì Nho giáo Việt Nam quan niệm trung quân là luôn gắn liền với ái quốc
và trong nhiều trường hợp, nước được đề cao hơn vua. -
Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như: nhân, nghĩa đã được mở rộng khái niệm, cụ
thể là qua những đóng góp của Nguyễn Trãi - anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới -
khi ông mở rộng khái niệm nhân, nghĩa để nó không chỉ là một khái niệm đạo đức hạn hẹp
trong ứng xử cá nhân, mà trở thành một lý tưởng xã hội cao đẹp: vì cuộc sống hạnh phúc, bình
yên của nhân dân (Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân) -
Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào VN cũng đã được giảm bớt tính
cực đoan bởi sự ảnh hưởng của văn hóa mẫu hệ. -
Từ cuối TK XVI đến hết TK XVIII là thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại
Việt do Trịnh - Nguyễn phân tranh, Nho giáo VN đi vào giai đoạn suy vong không thể cứu
vãn. Dù đã cố gắng bằng mọi cách để củng cố địa vị của Nho giáo trong đời sống tư tưởng và
văn hóa, nhưng các vương triều phong kiến từ Gia Long đến Minh Mạng, Tự Đức đều không
thể làm cho Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở TK XV.
Vai trò của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa: -
Là nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, Nho giáo chủ trương đề
cao vai trò của đạo đức trong việc quản lý, duy trì sự ổn định của xh dựa trên các mối quan hệ Tam cương, Ngũ thường. -
Hình thành chuẩn mực đạo đức và xd mô hình nhân cách con người VN truyền thống
với các tiêu chí: đạt đức; đạt đạo -
Xây dựng nền tảng giáo dục thi cử, từ mục đích đến nội dung và phương pháp giáo dục 12 -
Tác động sâu sắc và toàn diện đến văn hóa VN ở cả 2 mặt tích cực và tiêu cực
Vai trò của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt ngày nay:
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm cho Nho giáo ở Việt Nam suy sụp hoàn toàn cùng
với sự sụp đổ của chế độ quân chủ. Nhưng từ cuối TK XX, việc Việt Nam chuyển đổi sang
kinh tế thị trường và hội nhập thế giới đã làm nảy sinh những nguy cơ lớn đối với Văn hóa Việt
Nam. Nguy cơ bên trong là sự xói mòn và băng hoại giá trị văn hoá truyền thống. Nguy cơ bên
ngoài là việc văn hoá, lối sống phương Tây xâm lấn văn hoá bản địa, tạo ra sự tiêu diệt bản sắc
văn hoá dân tộc. Do đó, Việt Nam tìm cách hướng về bảo lưu các giá trị truyền thống, tạo ra
những cơ hội cho Nho giáo tái sinh. Nho giáo là thành phần quan trọng hàng đầu đã kiến tạo
nên bản sắc văn hoá Việt Nam. Vậy nên bảo vệ truyền thống văn hóa Việt Nam sẽ là điều
không thể thực hiện được nếu gạt bỏ những gì thuộc về Nho giáo.
- Ngày nay, trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam, trong mỗi làng xã
Việt Nam, trong sinh hoạt cộng đồng, trong tô chức và hoạt động của bộ máy nhà mước, trong
tinh thần của dân tộc vẫn côn thẩm đượm những tư tưởng của Nho giáo. Tuy nhiên, trong phạm
vi quốc gia, nếu không có một định hướng đúng đắn thì những giá trị tích cực của Nho giáo sẽ
bị mai một, di sản quý báu đó trong văn hoá dân tộc sẽ không được phát huy, lớp bụi thời gian
ngày càng phủ dày và dần dần sẽ vùi lấp nó. Trách nhiệm của những người nghiên cứu văn hoá
nói chung và văn hoá pháp luật nói riêng là phải bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc. Tinh thần của Nho giáo trong cai trị xã hội là phải biết kết hợp “lễ,
nhạc, hình, chính" trong quản lý và xây dựng xã hội. Điều này cho đến nay vẫn còn mang tính
thời sự. Nhờ có “lễ" mà con người Việt Nam thường sống điều độ biết “kính trên, nhường
dưới", biết “ăn trông nồi, ngồi trông hướng", biết sống “có trước, có sau". Từ cách ăn, mặc, đi,
đứng, nằm, ngồi, đến nói, cười, nhày, múa, ca hát người Việt Nam thường chừng mực mà
không thái quá. Chính sự chừng mực, điều độ như uống không quá say, ăn không quá no, nói
không quá lời, áo không quá hở, váy không quá ngắn, tóc không quá dài mà trật tự xã hội được
thiết lập. Như vậy, trong xã hội hiện đại ngày nay, vai trò của pháp luật được để cao, không
những pháp luật hình sự như thời xa xưa mà cả pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia
đình... Tuy nhiên, điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo đức và các thuần phong, mỹ tục
mà người Việt Nam đã xây dựng hàng nghìn năm nay. Nếp sống hiền hòa, nhân hậu, lưrơng
thiện của người Việt Nam trong con mắt người nước ngoài chính là sản phẩm văn hóa được
hun đúc từ hàng nghìn năm mới có được, trong đó tư tưởng Nho giáo đóng góp một phần không 13
nhỏ. Sự hòa quyện của những quy tắc pháp luật, đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán đã tạo
nên một trật tự xã hội mà người Việt Nam nhiều khi chỉ cảm nhận được bằng linh cảm hoặc
bằng kinh nghiệm sống của mình. Văn hóa pháp luật Việt Nam như một tàng băng, phần nổi
chỉ là rất ít, chủ yếu là phần không nhìn thấy dưới tầng sâu, đôi hỏi phải nghiên cứu, khám phá
để có thể đưa ra những phương hướng, giải pháp đúng đắn nhằm làm cho nó ngày càng phong
phú và giàu có hơn trong đời sống pháp lý.
Tuy nhiên, vẫn có những mặt hạn chế như việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là nguyên nhân
làm hạn chế ý thức về quyền cả nhân, mà hệ quả trực tiếp là sự triệt tiều ý thức phản biện/
phản kháng của con người, đó cũng là nguyễn nhân làm hạn chế việc sử dụng công cụ pháp
luật để bảo vệ quyền cá nhân. Vi chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị nên Nho giáo khuyên
khích "vô tụng". Khổng Tử cho rằng: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải
làm cho dân không có việc kiện tụng". Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị
khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và pháp lý là một ranh giới mờ, nhập nhằng, khó phân
định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời phong kien Việt Nam, "Tam cương", "Ngũ
thường" là đạo ly nhưng cũng đồng thời là pháp lý. Điều này dẫn đến hệ quả là
Như vậy, trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã bộc lộ
những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho giáo ở Việt
Nam không còn trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà phù hợp với đời sống tư tưởng và văn
hóa tinh thần của người Việt xưa và nay. việc xét xử các vụ án thường khó tránh khỏi hiện
tượng “tội đồng luận dị" (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ
quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Tóm lại, trong nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng và chi phối
sâu sắc và toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, xét cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Câu 8. Hãy trình bày dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hoá giao
tiếp ứng xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp nào cần được giữ gìn và phát huy.
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ nét.
Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nền văn hóa giao tiếp, ứng xử
của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt coi
trọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức ứng xử văn 14
hóa quan trọng của người Việt "lời chào cao hơn mâm cỗ", thích thăm viếng nhau, coi việc
thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ và giàu tính hiếu
khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích tìm hiểu,
quan sát, đánh giá đối tượng trong giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân của đối
tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoàn cảnh gia đình,...). Đặc điểm này
cũng có nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối sống trọng tình (quan tâm đến người khác). Tuy
nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí. Trong thực tế, người
VN vẫn coi trọng cái "tình" hơn cả, bất đắc dĩ lắm mới dùng cái "lý" để giải quyết những mâu
thuẫn. "Cái tình" sẽ làm cho người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng cái tình là rất đẹp, để
rồi "một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng", để không phải hối hận về sau. Người ta thường nói
"tình làng nghĩa xóm" lúc "tắt lửa tối đèn có nhau" là để nhấn mạnh cái tình, chứ ít ai đưa "cái
lý" ra để làm thước đo con người. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số trường
hợp ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt Nam. Vì không giải quyết theo lý mà chỉ
lụy tình, người Việt thường có thói quen: Người càng thân thì ta càng đúng hơn. Thậm chí có
việc người nhà ta, người làng ta, người cơ quan ta sai, không còn cách nào khác, người đứng
ra bênh vực cho rằng: "Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai". Vì thế mọi người mới có
kiểu xưng hùng xưng bá địa phương: "Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng". Cũng vì trọng
tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo quan hệ thân tộc, coi mọi người
trong cộng đồng như bà con họ hàng. Ngoài ra, trong quan hệ ứng xử, người Việt coi trọng
danh dự, danh tiếng hơn là giá trị vật chất (Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho
thơm; Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng;...)
Vì coi trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc.
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người VN phân biệt kỹ
các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó, văn hóa phương Tây
ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như: chào gặp mặt, chào chia tay, chào
buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối,...
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện "ở đời muôn sự của
chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi"; "đem chuông đi đánh nước người, không kêu
cũng đánh ba hồi lấy danh"; "một quan tiền công không bằng một đồng tiền thưởng";... Vì
trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi vậy, dư luận ở thành một thứ vũ khí 15
lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá nhân với cộng đồng, nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thằng vào vấn đề cần nói mà thường hay mở đầu (vòng vo tam quốc) để
đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp. Chính sự đắn đo,
cân nhắc này đã khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh
phải quyết đoán và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết,
người VN rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người
Việt; người ra có thể gặp nụ cười VN vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên trong cách
thức giao tiếp, người VN ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Người Việt thường không
biểu lộ trực tiếp cảm xúc của mình với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu ca dao, thành
ngữ, thơ ca, thường dùng hình tượng ẩn dụ, bóng gió "trăm dâu đổ đầu tằm"; "tưởng giếng
nước sâu nối sợi gàu dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây";... Thái độ giữ ý trong giao tiếp
dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại "lời nói chẳng mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"; "một sự nhịn, chín sự lành";... Và hệ quả của việc giữ ý, cả
nể dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp "người khôn
ăn nói nửa chừng, để cho người khác nửa mừng nửa lo"; "uốn lưỡi ba lần trước khi nói";...).
Chính thói quen ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết
đoán trong giao tiếp đã khiến cho người Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm
trái chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái
tiêu cực để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn
đến thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người diễn
ra hằng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh mềm làm nên nét đẹp và
là chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi nét đặc trưng văn hóa ứng xử
giao tiếp VN đều quan trọng như nhau, tạo nên một nền văn hóa ứng xử muôn màu, phong phú
và thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc
trưng văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật tất yếu đều phải có những mặt tích cực và
tiêu cực, hai yếu tố này luôn song hành cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh
sáng thì không thể nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó mà có thể thông qua những 16
tác động tiêu cực này nhằm phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát
huy các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Câu 9. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai
trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Đặc điểm của gia đình VN truyền thống:
● Thứ nhất: cơ sở kinh tế - xã hội và văn hóa hình thành gia đình truyền thống Việt Nam: Gia
đình truyền thống Việt Nam là hình thức gia đình gắn liền với xã hội nông thôn - nông nghiệp,
ít biến đổi qua nhiều biến thiên của lịch sử. Tiêu biểu là đồng bằng Bắc Bộ là nông nghiệp
sản xuất lúa nước trong điều kiện công cụ sản xuất hết sức thô sơ lạc hậu, phù hợp với những
đơn vị sản xuất nhỏ, đó là gia đình. Hơn nữa, đó là gia đình nhỏ tức là những gia đình hạt
nhân hay nửa hạt nhân hóa. Điều này khác với những gia đình lớn, nhiều thế hệ (tam tứ đại
đồng đường như gia đình Trung Quốc và Nhật Bản)
Ở Việt Nam tồn tại phổ biến của gia đình nhỏ còn do tình trạng phân tán về ruộng đất. trong
đó, gia đình hạt nhân trung nông chiếm đa số. Ngoài ra, còn có gia đình Nho giáo và gia đình
danh giá (quan lại, giàu có). Là một đơn vị sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp khép kín,
những con người gắn bó với nhau trong cái tổ chức gia đình bé nhỏ. Đó là hộ nông - công
thương kết hợp. Trong lao động sản xuất, họ phân công theo giới tính. Người phụ nữ là người
bạn lao động với chồng, đàm dương những công việc thủ công, quản lý tiền nông và tài sån.
Tuy nhiên, nước ta nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa, bờ biển dài nên gặp nhiều thiên tai lũ lụt,
dịch họa, dịch bệnh, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc phần lớn vào thiên nhiên. Mỗi cá nhân
trở nên quá nhỏ yếu và mỏng manh trước sức mạnh của thiên nhiên. Vì thế, họ phải tin tưởng
dựa vào sự nâng đỡ của cộng đồng. Trước hết là cộng đồng trong gia đình rồi đến làng xã.
Niềm tin đó còn xuất phát từ yếu tố tín ngưỡng. Đối với người Việt Nam, thần Thành Hoàng
là vị thần phù hộ cho cộng đồng, làng xã, quyết định số phận của mỗi thành viên trong cộng
đồng. Vì gắn bó với cộng đồng nên người Việt Nam rất sợ phải bỏ cộng đồng làng xóm quê
hương, "tha phương cầu thực", "đất khách quê người". Khi buộc phải ra đi họ luôn thương nhớ
về cha mẹ, anh em, họ hàng, làng xóm:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai giải nắng dầm sương 17
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao" (Cadao)
Tinh thần trách nhiệm cộng đồng được đặt lên rất cao. Mỗi một thành viên có nhiều trách
nhiệm; đối với người sống, người chết, với hiện tại quá khứ và tương lai, trách nhiệm làm con,
làm cha, làm mẹ, làm bạn bè, làng xóm, làm dân Luật Trụ di tam tộc", "Tru di cửu tộc" thể
hiện trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng. “Một người làm xấu cả họ mang nhơ" . Ý kiến của
cá nhân phải thông qua các cấp, đại diện từ thấp đến cao: gia đình họ hàng làng xã. Sức mạnh
của cá nhân hòa vào sức mạnh cộng đồng. Xã hội điều khiển, kiểm soát cả nhân thông qua gia
đình. Trong tâm thức người Việt Nam, cộng đồng bao gồm những người đã chết, những người
đang sống và sắp sinh ra. Do đó, người đang sống có nhiệm vụ kính trọng tổ tiên và tiếp nối tổ
tiên sinh con đẻ cái. Những mối quan hệ chiều dọc(ông bà - cha mẹ - con cái) được coi trọng
hơn mối quan hệ chiều ngang(vợ - chồng). Mối quan hệ thứ nhất chi phối mối quan hệ thứ hai.
Trong hôn nhân, "cha mẹ đặt đâu con ngồi đây. Các nghi lễ xung quanh việc kết hôn cho
thấy hôn nhân là công việc cộng đồng chứ không phải cá nhân. Vì nó là điểm bắt đầu cho một
cộng đồng gia đình mới. Cho nên, người đàn bà lý tưởng phải có sức khỏe tốt, lao động tốt để
có thể đảm nhiệm một nhiệm vụ hết sức quan trọng là duy trì nòi giống cho gia đình, dòng họ
nhà chồng. Từ đó, dẫn đến quan niệm trọng nam khinh nữ, chế độ đa thế, chế độ phụ quyền.
Gia đình truyền thống Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng lớn của Trung Hoa do kếtquả hàng
ngàn năm tiếp xúc với Nho giáo. Nhưng nó không tuân thủ nghiêm ngặt những vi phạm khắt
khe của giáo lý Nho giáo như người Trung Quốc. Nó có xu hưởng gạt bỏ bớt những khuôn
phép nặng nề của gia đình phụ quyền và duy trì phát huy những yếu tố căn bản của cộng đồng
người Việt. Do đó, nếu đồng nhất gia đình truyền thống Việt Nam với gia đình truyền thống
Trung Quốc và Nhật Bản thì hết sức sai lầm.
● Thứ hai là nội dung giáo dục của gia đình truyền thống Việt Nam: Nếu như giáo dục gia đình
giữ vai trò quyết định trong giáo dục truyền thống thì giáo dục đạo đức là cốt lõi của giáo dục
gia đình. Trong giáo dục đạo đức, người ta đặc biệt chú ý đến giáo dục cách ứng xử với người
xung quanh. Họ dạy con "học ăn, chọc nói, học gói, học mở”, “tiên học lễ hậu học văn". Cá
nhân phải ứng xử, hành động theo chuẩn mực cộng đồng chứ không phải theo cái mà anh ta
cho là sai hay đúng. Vì trong gia đình truyền thống con người được sinh ra và lớn lên trong
cộng đồng. Trong gia đình truyền thống Việt Nam việc giáo dục tôn ti trật tự, thứ bậc trong
gia đình được đề cao. Người ta chú ý việc giáo dục cho các thành viên phải tôn kinh và thờ 18
phụng tổ tiên khi còn sống cũng như lúc qua đời. Thờ cúng tổ tiên cũng có thể coi như là hành
vi tôn giáo của gia đình người Việt và đây cũng là lý do con trai được coi trọng hơn con gái.
Do mục đích “thờ phụng tổ tiên, nối dõi tông đường" mà trong gia đình truyền thống Việt
Nam, con trai Ca(ở Bắc bộ), con trai út(ở Nam bộ) được giáo dục kĩ để sau này là người kế
thừa tài sản gia đình, thay cha quản lý gia đình. Gia đình truyền thống Việt Nam cũng giáo
dục đạo hiếu nhưng không khắt khe như quan niệm Khổng Giáo, nó mang yếu tố nhân bản
hơn nhiều. Việc con cái phụng dưỡng cha mẹ là xuất phát từ tình cảm kính yêu và trách
nhiệm, chứ không tôn sùng quyền uy một cách độc tài tuyệt đối. Vì thế, người Việt Nam quan
niệm "con hơn cha nhà có phúc". Ngoài ra, gia đình truyền thống Việt Nam còn chú ý việc
giáo dục tình yêu thương đùm bọc giữa cá nhân trong gia đình. Tình cảm anh em còn được
đề cao hơn tình cảm vợ chồng.
Gia đình truyền thống Việt Nam còn chú trọng đến việc giáo dục cách ứng xử trong dòng
họ. Những câu ca dao, tục ngữ:
“Con người có cố có ông
Như cây có cội như sông có nguồn"
“Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh"
chính là nói về cội nguồn, về quan hệ huyết thống của các thành viên trong gia đình, dòng họ.
Cho nên, ngay từ nhỏ, trẻ em đã được ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ với họ hàng. Cơ sở của sự
gắn bỏ dòng họ trước hết là ý thức về tổ tông, về cội nguồn. Pháp luật xưa qui định chức năng
xã hội của gia tộc. Đứng đầu dòng họ là tộc trưởng kiểm soát và chịu trách nhiệm về hành vi
của các thành viên trong họ. Mọi thành viên trong dòng họ phải tuân theo những “lệ hộ" do họ
đặt ra. Vì một người trong gia tộc phạm tội thì tất cả gia tộc phải liên đới trách nhiệm("con dại
cái mang", "quýt làm cam chịu"). Chính vì thế, người trong họ phải bênh vực và bảo vệ dòng
họ mình dù đúng hay sai. Ngoài cộng đồng gia đình và họ hàng, mỗi cá nhân còn tham gia vào
rất nhiều nhóm xã hội khác nhau trong khuôn khổ làng xã phe, giáp, hội, phường, xóm, ngô.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp khép kín với văn hóa riêng, với tôn giáo riêng, luật pháp riêng,
mỗi làng là một thế giới riêng gắn bó chặt chẽ với tùng cả nhân, thỏa mãn tất cả nhu cầu cuộc
sống người dân cũng như đối phó với thiên tai, giặc giã, "phép vua thua lệ làng". Vì thế, mà
đứa trẻ khi mới ra đời, nền giáo dục gia đình lo trước hết là làm sao để đứa trẻ nhanh chóng
hòa nhập vào cộng đồng làng xa theo cách giáo dục trung dung, yên phận: “Ở hẹp người cười
ở rộng người che", "Ở bầu thì tròn ở ống thi dài". 19
Nước ta là một nước nông nghiệp. Do đó người nông được đề cao nhất “Nhất sĩ nhì nông Hết gạo chạy rong Nhất nông nhỉ sĩ”
Một nghề nghiệp thứ hai được kính trọng ngưỡng mộ là nghề làm quan. Do đó, gia đình nào
cũng cố gắng cho con cháu ăn học để đỗ đạt làm quan. Ngoài ra, còn có nghề dạy học, làm
thuốc, ca hát, vẽ tranh, buôn bản nhưng không được coi trọng. Nhất là thương nghiệp, họ coi
thương nhân là hạng bét trong xã hội, là những bọn ăn gian nói dối.
Chính vì những đặc điểm trên, trong giáo dục lao động và nghề nghiệp của gia đình truyền
thống người ta không khuyến khích con cái làm giàu, chỉ nghĩ đến cái nghĩa, không nghĩ đến
cái lợi, vui lòng với cải ít. Vi theo quan niệm của Nho giáo mỗi người đều có mệnh của minh
và bằng lòng theo số mệnh đỏ.Ở gia đình người nông dẫn thường giáo dục con cái theo thói
quen lao động, đức tính siêng năng, chăm chỉ cần cù, chịu khó lao động, có ý thức tôn trọng
thành quả lao động và người lao động.
“Cây đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi ! Bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần" (Ca dao)
Ngoài ra, còn giáo dục con em có ý thức tiết kiệm trong tiêu dùng và tích trữ (tiền
bạc, thóc gạo, vật dụng), phỏng khi mất mùa đói kém “Tích các phòng cơ, tích y phong hàn".
Gia đình truyền thống Việt Nam rất khắt khe trong việc giáo dục giới tính. Họ
riêng với nhau. Như vậy là không đúng đắn, nhưng không được cha mẹ giải thích rõ
quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân" nghĩa là nam nữ không được gần gũi, thân mật ràng, cặn
kẽ về vấn đề tinh dục. Vì họ quan niệm đó là vấn đề thẩm kin. Gia đình theo quan niệm Nho
giáo, là nơi cá nhân thì hành nghĩa vụ với cộng đồng, chứ không phải thỏa mãn những nhu cầu
cá nhân và hạnh phúc riêng tư. Trong việc giáo dục giới tính họ còn khẳng định vai trò của
người đàn ông trong gia đình và xã hội. Phụ nữ không được học hành thi cử, kế thừa tải sản,
tham gia vào những hoạt động xã hội và bộ máy Nhà nước. Họ được giáo dục để trở thành
người phục tùng vào đàn ông, có nhiệm vụ gánh vác giang sơn nhà chồng. 20