








Preview text:
BÀI KIỂM TRA TỰ LUẬN
HỌC PHẦN: ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM ĐỀ SỐ 4
Dựa trên nội dung của Đại cương văn hóa Việt Nam, Anh (Chị) hãy
cho biết: Những luận điểm sau đúng hay sai? Tại sao?
Luận điểm 1 (2,5 điểm). Văn vật là khái niệm dùng để chỉ các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần.
Luận điểm 2 (2,5 điểm). Văn hóa Phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp với Nho giáo và Đạo giáo.
Luận điểm 3 (2,5 điểm). Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng xã Việt Nam
truyền thống là lợi ích của họ.
Luận điểm 4 (2,5 điểm). Sự ra đời của các trường học, viện nghiên cứu ở Việt Nam
là kết quả giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa BÀI LÀM:
Luận điểm 1: Văn vật là khái niệm dùng để chỉ các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần.
Câu trả lời: Luận điểm trên là sai. Giải thích:
Văn vật và văn hiến đều là một bộ phận của văn hóa.
Văn vật là khái niệm để chỉ những công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch
sử; khái niệm văn vật cũng thể hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử. 1
Trải qua quá trình phát triển, Việt Nam tự hào có nhiều văn vật tiêu biểu cho một
nền văn hóa với bề dày lịch sử, có thể kể đến như:
- Nghìn năm văn vật đất Thăng Long (Hà Nội) nơi đã trở thành kinh đô của nước
ta trong hơn nghìn năm lịch sử.
- Văn vật xứ Thanh (Thanh Hóa) là nơi phát tích nhiều triệu đại phong kiến của
Việt Nam, tiêu biểu với di tích thành nhà Hồ,…
- Quảng Bình là vùng đất “địa linh, nhân kiệt” và “văn vật,” là một trong những
cái nôi thu hút sản sinh ra nhiều hào kiệt như Lý Thường Kiệt, Trần Bang Cẩn, Hồ
Cưỡng, Hoàng Hối Khanh, Đào Duy Từ...
Còn văn hiến là khái niệm dùng để cho các giá trị văn hóa thiên về về tinh thần
do hiền tài sáng tạo ra. Ví dụ: chữ viết, thơ văn, phong tục tập quán
Do đó, văn vật là khái niệm dùng để chỉ các giá trị văn hóa vật chất. Luật điểm trên là sai.
Luận điểm 2: Văn hóa Phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp với Nho giáo và Đạo giáo.
Câu trả lời: Luận điểm trên là đúng. Giải thích:
Trong suốt trường sử Việt Nam, đạo Phật là một tôn giáo ngoại nhập lâu đời nhất,
cũng là tôn giáo có tiềm năng nhất và tồn tại lâu dài nhất. Dù là một tôn giáo lớn,
một hệ tư tưởng triết học sâu sắc và có tính hệ thống, song Phật giáo vẫn rất gần gũi,
có phần bình dân, phù hợp với nền tảng đạo đức, văn hoá của người Việt.
Trong những năm đầu Công nguyên, Việt Nam đang ở thời kỳ Bắc thuộc, về tôn
giáo tầng lớp trên của xã hội bắt đầu chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, tầng
lớp dưới có quan niệm về ông trời, gây phúc họa cho con người và quan niệm đa
thần giáo trong tín ngưỡng dân gian.Trong thời kỳ này còn có các tín ngưỡng bản 2
địa của cư dân nông nghiệp lúa nước, cộng với sự tồn tại của Nho giáo, Đạo giáo
được Trung Quốc truyền vào, tuy nhiên các tín ngưỡng, tôn giáo đó còn có nhiều
mặt khiếm khuyết đối với đời sống tâm linh cộng đồng và đạo Phật đã bổ sung vào
chỗ thiếu hụt ấy. Vì vậy đạo Phật ở Việt Nam được giao thoa bởi các tín ngưỡng bản
địa, cũng như ảnh hưởng bởi Đạo giáo ở Việt Nam.
Nho giáo là học thuyết triết học, chính trị, đạo đức của Trung Quốc được hình
thành và phát triển qua ba giai đoạn lớn, từ Nho thời Tiên Tần đến Nho Lưỡng Hán
và Nho thời Tống - Minh - Thanh. Được truyền vào Việt Nam từ đầu Công nguyên,
tuy ban đầu vấp phải sự phản kháng của người Việt nhưng về sau Nho giáo đã dần
được các triều đại Việt Nam chủ động tiếp nhận, sử dụng làm công cụ trị nước trong
suốt nhiều thế kỷ cho đến khi chế độ phong kiến lụi tàn.
Đạo giáo là một trong Tam giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại, song song với
Nho giáo và Phật giáo. Đạo giáo du nhập vào Việt Nam ở cuối thế kỷ thứ II, khi
người phương Bắc xuống phương Nam lánh nạn chiến tranh.
Dung hợp Tam giáo là khái niệm xuất hiện ở Trung Hoa, nhưng đối với bối cảnh
xã hội Đại Việt thời bấy giờ, các nhà tư tưởng đã vận dụng tinh tế dung hợp những
yếu tố đặc sắc trong Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo để tạo nên hiện tượng Tam
giáo đồng nguyên. Đây cũng là biểu hiện của tinh thần khoan dung, hòa hợp văn hóa của dân tộc Việt.
Đạo giáo và Nho giáo, thời Lý – Trần là giai đoạn phát triển cực thịnh ở nước ta.
Văn hóa Phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp với Nho giáo và Đạo giáo được thể
hiện trong các tác phẩm văn học Phật giáo Lý – Trần. Đó là sự phân công hợp tác
giữa Phật và Thánh (Nho); là sự kết hợp rất uyển chuyển giữa Phật với Lão – Trang
để đi đến thống nhất: Tam giáo đồng nguyên. Tư tưởng Phật giáo không phải là hệ
tư tưởng đóng kín trong khuôn khổ, trong quy tắc giáo điều mà là tư tưởng mở, đầy
khai phóng. Nhờ thế mà các nhà tu hành có cái nhìn thông thoáng, có thái độ sống
cởi mở, phá chấp. Người tu hành không bắt buộc phải cạo đầu xuất gia, phải từ giã 3
gia đình vào chùa mà họ có thể tu tập, Thiền định ngay giữa cuộc đời, trong gia đình
và cũng có thể chứng ngộ. Điều này thực tế lịch sử đã chứng minh: Trần Thái Tông,
Trần Tung (Tuệ Trung), Trần Nhân Tông v.v. Đó là chưa kể các Thiền sư vào đời
giúp vua trị nước an dân mà vẫn làm tròn bổn phận của người tu hành. Chất rộng mở
phóng khoáng này còn thể hiện qua hệ thống kiến trúc nhà chùa. Nhà chùa không
chỉ là chốn thâm nghiêm huyền diệu, mà ngược lại, cửa từ bi luôn rộng mở đón nhận
khách thập phương, sẵn sàng cứu vớt kẻ trầm luân. Cảnh bụt bao giờ cũng hữu tình
kỳ thú, luôn là chốn đi về của những ai muốn quên đi bao nỗi phiền muộn, bao điều
trắc trở nhọc nhằn của cuộc đời. Họ đến viếng cảnh già lam để tìm sự thư thái, sự
thanh thản của tâm hồn. Chất dân chủ rộng mở ấy còn biểu hiện qua hệ thống triết
lý, kinh điển với chủ trương tâm không phân biệt. Tất cả đều sẽ giác ngộ. Cơ sở của
tinh thần dung hợp là vậy.
Thời nhà Trần, khi Phật giáo được coi trọng, Nho giáo đóng vai trò thứ yếu. Phật
giáo với tinh thần khoan dung và tự do đã cùng Nho giáo và Đạo giáo tự do phát
triển và còn mở rộng Nho giáo. Các chùa chiền ngoài việc in ấn kinh sách, thuyết
pháp, còn dạy cả chữ Hán, dạy các tri thức Nho học. Như vậy các thiền sư có vai trò
quan trọng trong việc truyền bá tư tưởng Nho học đến mọi người. Sự dung hợp được
thể hiện qua sự phát triển đời sống tâm linh lẫn nhau, giúp đỡ nhau trong quá trình
xây dựng đời sống tinh thần cho dân tộc.
Sự dung hợp tam giáo còn được biểu hiện qua các công trình kiến trúc, điêu khắc,
các không gian sinh hoạt văn hóa. Ngôi chùa Phật giáo ngoài Phật điện thường có
thêm gian thờ Mẫu, có ban hoặc điện Mẫu Tam phủ, Tứ phủ; có chùa thờ các danh
nhân văn hóa, lịch sử, người có công với cộng đồng, dân tộc, hoặc những người có
công xây cất, tôn tạo ngôi chùa,…
Một vài ví dụ trên cho thấy ba tôn giáo Phật- Nho- Đạo đã đồng hành với con
người trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nên đã trở thành một phần
tài sản văn hoá của dân tộc. Trong quá trình du nhập và phát triển, các tôn giáo
không những chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai trò, hoà nhập văn 4
hoá và văn minh, góp phần duy trì đạo đức, xây dựng xã hội. Nó có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Qua những biểu hiện của dung hợp
Tam giáo trên phương diện đời sống tâm linh, hướng con người đến cuộc sống chân
- thiện - mỹ. Có thể thấy, Phật giáo – Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ
sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội.
Luận điểm 3: Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng xã Việt Nam
truyền thống là lợi ích của họ.
Câu trả lời: Luận điểm trên không đúng. Giải thích:
-Trong lịch sử Việt Nam, làng xã đóng vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của đất nước. Việt Nam là một nước nông
nghiệp, làng xã là xã hội thu nhỏ của đất nước. Làng xã chứa đựng nhiều tinh hoa
của đất nước và con người Việt Nam.
⁃ Làng xã là một cộng đồng cư trú cơ bản của con người, có nguồn gốc
xuất hiện từ sớm và có vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam.
⁃ Làng xã vừa là một cộng đồng kinh tế, vừa là cộng đồng văn hóa, vừa
là một đơn vị hành chính (trước cách mạng). Về vấn đề kinh tế, điểm nổi bật
của làng Việt Nam truyền thống là gắn liền với sản xuất nông nghiệp. Về vấn
đề văn hóa – xã hội, văn hóa làng xã không chỉ phản ánh, mà còn có mối
quan hệ nhân quả với đặc điểm sinh hoạt và lịch sử cộng đồng làng.
- Về cư dân cơ cấu tổ chức. Trong đó, cư dân có cấu trúc khá phức tạp,
những người có cùng một họ (hoặc nhiều họ) có tổ tiên đến cư trú khai hoang
hợp thành bộ phận chính của làng. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức của làng xã
truyền thống là các thiết chế có tính ổn định, bền vững cao và được chứng minh trong lịch sử. 5
Căn cứ vào ba nội dung nói trên, có thể khái quát vai trò của làng xã trong xã hội
Việt Nam truyền thống như sau:
Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết, tập hợp cộng đồng người
có những mối liên hệ mật thiết với nhau để hình thành nên làng. Những mối liên hệ
đó có thể là địa vực, nghề nghiệp, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo hay dựa trên những
biến cố chính trị - lịch sử nhất định.
Thứ hai, làng xã đóng vai trò to lớn trong việc quản lý, tổ chức đời sống kinh tế,
chính trị - xã hội của người dân. Trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, hương
ước (của làng xã) đang tồn tại (cùng với pháp luật của Nhà nước) như là những
chuẩn mực xã hội. Hương ước là văn bản quy phạm xã hội, trong đó quy định các
quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra để điều chỉnh các
quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân dân nhằm giữ gìn phát huy những phong
tục, tập quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa trên địa bàn thôn.
Thứ ba, là vai trò của làng xã trong việc dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Làng Việt góp phần quan trọng trong việc khẳng định chủ quyền của quốc gia,
dân tộc, đơn vị chiến đấu giữ nước; đơn vị tổ chức hậu phương cơ bản; đơn vị bảo
tồn, phát triển các bản sắc văn hóa dân tộc, chống lại sự đồng hóa; môi trường xã hội
đào luyện những con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có tinh thần kiên cường,
bất khuất. Làng Việt đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành thế trận chiến
tranh nhân dân rộng khắp. Thời kỳ chống phong kiến phương Bắc cũng như chống
thực dân Pháp, đế quốc Mĩ xâm lược, sự đóng góp của Làng là rất lớn. Làng Việt là
pháo đài chiến đấu, biểu tượng của tinh thần kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại
xâm, giữ gìn non sông bờ cõi của dân tộc Việt Nam. Thực tế lịch sử hơn mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã xác nhận sự gắn bó giữa làng
với nước. Không có Làng Việt thì không có quốc gia Việt Nam. Có làng mới có
nước, mất làng sẽ mất nước, còn nước thì còn Làng; làng xã là một thành tố, một
đỉnh của tam giác văn hóa giữ nước: Nhà – Làng – Nước. 6
Với những vai trò phân tích ở trên cho thấy công cụ điều chỉnh hành vi của cư
dân làng xã Việt Nam truyền thống không chỉ đơn thuần là lợi ích của họ mà là mối
liên hệ cộng đồng và quản lý đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
Luận điểm 4: Sự ra đời của các trường học, viện nghiên cứu ở Việt Nam là
kết quả giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa.
Câu trả lời: Luận điểm trên là sai. Giải thích:
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, giáo
dục đã tồn tại, phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc và luôn đóng
vai trò quan trọng như một trụ cột cơ bản của việc xây dựng và vun đắp cho nền văn
hiến lâu đời của đất nước.
Trải qua các thời kỳ: thời tiền sử, thời trước Bắc thuộc, thời Bắc thuộc, thời độc
lập trung đại và cận đại, thời thuộc Pháp và thời độc lập hiện đại, nền giáo dục đã
từng phải đương đầu với âm mưu xâm lược và đồng hóa của các thế lực phong kiến,
thực dân, song vẫn giữ được những truyền thống dân tộc tốt đẹp, tiếp thu có chọn
lọc những gì tinh túy nhất của các trào lưu văn minh nhân loại để hình thành một
nền giáo dục đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ và xây dựng đất nước, vừa có khả năng
hội nhập vừa bảo toàn bản sắc dân tộc của riêng mình.
Từ khi Lập Nước Việt Thường – Âu Lạc đến năm 218 Tr. CN bị Tần Thủy
Hoàng sai Hiệu úy Đồ Thư cầm 500,000. quân cùng mấy chục vạn tội nhân dân binh
vượt sông Dương Tử xâm lược Bách Việt. Sau khoảng 3 năm chiếm được một vùng
rộng lớn gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam,… tiến vào đất Lạc Việt. Người
Lạc Việt thời Hùng Duệ Vương thứ 18 đã liên kết Thục Phán gồm Tây Âu – Lạc
Việt đã tiến hành Chiến tranh Nhân dân đầu tiên trong lịch sử loài người kéo dài gần
10 năm diệt mấy trăm vạn quân Tần và Hiệu úy Đồ Thư. Thất bại nặng trước Lạc
Việt nên năm 207 Tr.CN Nhà Tần phải rút quân về phương Bắc. 7
Để có sự thống nhất ý chí của Tây Âu – Lạc Việt cần phải có Giáo dục Tư tưởng
và Nhân cách. Rất tiếc cho đến nay với các phát hiện thư tịch cổ, di vật khảo cổ học
về sự kiện trên không còn dấu tích cách thức Giáo dục của thời kỳ này. Tuy nhiên
các bằng chứng khoa học khảo cổ, lịch sử đã xác nhận lúc đó Người Lạc Việt đã có
chữ viết gọi là Khoa Đẩu (Cũng được gọi là Nòng nọc) và Tôn giáo bản địa Việt. Vì
thế sau khi xâm lược bách việt, Tần Thủy Hoàng đã ban chế: “ Cấm không được
thờ,…” – Sử ký Tư Mã Thiên, sách đã dẫn.
Trước thời nhà Lý, lịch sử gần như không có ghi chép về hệ thống trường học.
Nhưng chúng ta biết rằng, vẫn rất nhiều người biết chữ và thậm chí có những người
tài năng uyên bác. Điều đó có thể đưa ra hình dung, giáo dục thời đó có thể theo
cách “cha truyền con nối”, cha dạy con, anh dạy em. Hoặc cũng có thể có những
trường lớp nhỏ, học tại nhà…-
Từ khi chữ Hán du nhập vào nước ta, Thái thú Sĩ Nhiếp được hậu thế tôn làm
“Nam Giao họ tổ”. Hiện, ở khu vực Thuận Thành (Bắc Ninh) – nơi có thành Luy
Lâu thuở ấy vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện về việc học chữ, dạy chữ của Sĩ
Nhiếp- Nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Nước ta
thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức
ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau…”.- Tuy nhiên trong
thực tế, đất Âu Lạc đã từng có những người đỗ Mậu tài, Hiếu liêm, làm quan nhà
Hán. Điều này bác bỏ luận điểm của các nhà sử học Trung Quốc cho rằng đất Giao
Chỉ từ khi Sĩ Nhiếp (187 - 226) sang làm Thái thú, vǎn hóa mới phát triển, nền giáo
dục mới được mở mang là không đúng.
- Nền giáo dục Nho học của nhà nước phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI trải qua
các thời Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Sự ra đời và sử dụng rộng rãi chữ
quốc ngữ theo bảng chữ La tinh trong nhà trường từ cuối năm 1919 đã báo hiệu sự
chấm dứt nền cựu học truyền thống Nho giáo để thay thế bằng hệ thống tân học của
chủ nghĩa thực dânPháp. 8
- Cũng trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trào lưu giáo dục Duy Tân
yêu nước của Phan Bội Châu và Lương Văn Can, Nguyễn Quyền đã khởi xướng cho
khuynh hướng thực học, sử dụng chữ quốc ngữ trong dạy và học, tiếp cận với các
khoa học tự nhiên và kỹ nghệ, từ bỏ lối học từ chương khoa cử.
Từ những phân tích trên có thể thấy sự ra đời của các trường học, viện nghiên cứu
ở Việt Nam không phải là kết quả giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung
Hoa. Mà đó là sự phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Vũ Ngọc Phương, “Lược sử giáo dục và cải cách giáo dục ở Việt Nam”
https://nghiencuulichsu.com/2021/09/24/luoc-su-giao-duc-va-cai-cach- giao-duc-o-viet-nam/
2. Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Nguyễn Thị Hảo, “Đôi nét về văn hóa làng
xã và sự ảnh hưởng đến thực hiện dân chủ cơ sở”
http://vanhoanghethuat.vn/doi-net-ve-van-hoa-lang-xa-va-su-anh-
huong-den-thuc-hien-dan-chu-co-so.htm, 2023
3. Nghiên cứu lịch sử, Minh Chi, “Quan hệ giữa Nho giáo và Phật giáo ở
Việt Nam”, https://nghiencuulichsu.com/2014/06/24/quan-he-giua-nho-
giao-va-phat-giao-o-viet-nam/, 2001
4. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2000
5. Tài liệu học liệu, bài giảng E-learning môn Đại cương văn hóa Việt
Nam của Đại học Mở Hà Nội 9
Document Outline
- BÀI LÀM:
- Luận điểm 2: Văn hóa Phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp với Nho giáo và Đạo giáo.
- Luận điểm 3: Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng xã Việt Nam truyền thống là lợi ích của họ.
- Luận điểm 4: Sự ra đời của các trường học, viện nghiên cứu ở Việt Nam là kết quả giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa.