



















Preview text:
ÔN TẬP MÔN ĐCVHVN
Câu 1. Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du
mục và văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự
khác nhau đó. TRẢ LỜI:
Do sự chi phối của điều kiện tự nhiên và xã hội nên mỗi quốc gia, dân tộc, vùng
miền trên thế giới đều có những đặc trưng văn hóa mang đậm dấu ấn riêng của
nó. Tuy nhiên, nếu truy nguyên về nguồn gốc xuất phát điểm thì các nền văn
hóa của các quốc gia, dân tộc hiện nay đều xuất phát từ một trong hai loại hình
văn hóa gốc của nhân loại – là hệ quả của hai phương thức sản xuất từ cổ xưa:
văn hóa gốc chăn nuôi du mục hoặc văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt. Mỗi
loại hình văn hóa này có những đặc điểm cơ bản nổi trội khác nhau.
*Về điều kiện tự nhiên và môi trường:
- Loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở
phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuôi vì vậy
nghề truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa là chăn nuôi. Trong khi loại
hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương Đông gồm
Châu Á và Châu Phi, với điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con
sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển. Về đặc điểm:
- Thứ nhất: Loại hình văn hóa phương Tây do là loại hình chăn nuôi gia súc nên
đòi hỏi phải sống du cư, thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại để tìm các
vùng đất mới, có thức ăn mới phù hợp để phát triển nghể chăn nuôi gia súc của
mình. Còn loại hình văn hóa phương Đông, do nghề trồng trọt buộc con người
phải sống định cư, phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển,
thích ổn định, trọng tĩnh, hướng nội.
- Thứ hai: Loại hình văn hóa phương tây vì luôn di chuyển nên cuộc sống của
dân du mục không phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi thường thiên
nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự tự nhiên. Trong khi loại hình văn
hóa phương Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân rất
tôn trọng và sùng bái thiên nhiên, đặt ra những vị thần bảo hộ mùa màn như
Thần Mưa, Thần Nắng,…với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên, hi vọng
Mẹ thiên nhiên sẽ hỗ trợ, giúp cho cuộc sống và mùa màn trở nên tốt hơn, được
bội thu. Biểu hiện của đặc điểm này còn được thể hiện rõ nét trong văn hóa gốc
nông nghiệp ở Việt Nam đã có từ xưa, trong những câu ca dao, tục ngữ mang đậm dấu ấn như:
“Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm”
- Thứ ba: Vì sống du cư nên tính gắng kết cộng đồng của dân du mục không
cao, đề cao tính cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối
sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận, cứng rắn trong đối phó. Trong khi loại
hình văn hóa phương Đông lại đề cao tính cộng đồng do cuộc sống nông
nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên, buộc cư dân phải sống định cư, tính cộng đồng
gắn kết, liên kết sức mạnh, tương thân tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất.
- Thứ tư: Do cuộc sống du cư nên cần đến sức mạnh để bảo vệ dân cư trong bộ
tộc chống lại sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên người đàn ông có vai trò
quan trọng, tư tưởng trọng sức mạnh, trọng võ, trọng nam giới của loại hình văn
hóa phương Tây khác với loại hình văn hóa phương Đông lại trọng tình nghĩa,
trọng văn, trọng phụ nữ, vai trò của người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ
giữ vai trò quan trọng trong gia đình, chăm lo vun vén cho gia đình và làm các
công việc đồng án. Ví dụ điển hình là trong văn hóa truyền thống Việt Nam,
tinh thần coi trọng ngôi nhà và coi trọng cái bếp, coi trọng người phụ nữ là hoàn
toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là người quản lí kinh tế, tài chính
trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa. Chính bởi vậy mà người Việt
Nam coi Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà…;
- Thứ năm: Loại hình văn hóa phương Tây thiên về tư duy phân tích, tư duy
khoa học, coi trọng vai trò của các yếu tố khách quan, từng yếu tố vì nghề chăn
nuôi du mục đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, đối tượng tiếp xúc hằng
ngày là đàn gia súc. Còn loại hình văn hóa phương Đông thì thiên về tư duy
tổng hợp – biện chứng, coi trọng các mối quan hệ, thiên về kinh nghiệm chủ
quan cảm tính hơn là coi trọng khách quan và khoa học thực nghiệm do trồng
trọt của cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…Ví dụ như
ở Việt Nam thì thông qua những câu ca dao, tục ngữ, bài thơ như: Rán mỡ gà,
có nhà thì giữ, tháng bảy kiến bò chỉ lo lại lục,….cũng sẽ biết được những yếu
tố điều kiện của thời tiết.
- Thứ sáu: Loại hình văn hóa phương Tây có lối sống trọng lí, ứng xử theo
nguyên tắc, thói quen tôn trọng pháp luật khác với loại hình văn hóa phương
Đông do cuộc sống cộng đồng, gắn kết với nhau nên sống trọng tình, giúp đỡ,
hòa hợp trong các mối quan hệ trong đời sống hằng ngày, có thái độ ứng xử
mềm dẻo, linh hoạt thông qua giao tiếp, lời nói để tránh làm mất lòng nhau.
(uốn lưỡi 7 lần trước khi nói) + (Một điều nhịn chín điều lành) + (lời nói chẳng
mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau)
- Trên đây là sự khác biệt đặc trưng của hai loại hình văn hóa gốc, mỗi loại hình
văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó nhưng chung quy lại đều
là những giá trị vô cùng tốt đẹp và đặc trưng của mỗi vùng miền văn hóa trên
thế giới nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng.
Câu 2. Hãy chứng minh rằng văn hoá Việt Nam thuộc loại hình văn hoá
gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình.
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mong biển lúa đâu trời đẹp hơn.
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”/
- Việt Nam là một nước có chiều dài hình chữ S và nằm trong khu vực Đông
Nam Á, với điều kiện vị trí địa lí, tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía
Đông – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như
sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ là điều kiện
thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước nên văn hóa Việt Nam thuộc loại
hình văn hóa nông nghiệp điển hình. Điển hình như vùng Đồng bằng sông Cửu
Long là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất Đông Nam Á, là vùng
sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam.
Phần lớn diện tích đồng bằng được bồi đắp phù sa hằng năm, rất màu mỡ, nhất
là dải đất phù sa ngọt dọc sông Tiền và sông Hậu cùng với mạng lưới sông ngòi,
kênh rạch chằng chịt, tạo điều kiện thuận lợi cung cấp nước cho sản xuất lúa.
Với những lợi thế đó, Đồng bằng sông Cửu Long tập trung sản xuất lúa và trở
thành vựa lúa số một cả nước.
- Đặc điểm tiếp theo là do Người Việt thích cuộc sống định cư, ổn định, không
thích sự di chuyển, thay đổi, có tình cảm gắn bó với quê hương xứ sở, với làng,
nước…nên hình thành lối sống tự trị, kép kín, hướng nội. Họ tôn trọng lối sống
định cư, tôn trọng thiên nhiên nên họ sống, tận dụng và pháp huy những điều
kiện sẵn có ở nơi đó để phát triển.
- Do cư dân Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp nên rất sùng bái tự nhiên,
tin vào thần linh như thần gió, thần mưa, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa
để có cuộc sống no đủ, nên chúng ta có thể thấy ở các câu cửa miệng luôn là
những từ câu cảm than như: “Lạy trời, ơn trời…” hay cái câu ca dao đậm dấu ấn: “Lạy trời mưa xuống Lấy nước tôi uống Lấy ruộng tôi cày Lấy đầy bát cơm Lấy rơm đun bếp”
Bên cạnh đó, họ còn có nhiều tín ngưỡng, phân chia tổ chức các lễ hội sùng bái
tự nhiên vì vậy phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước như lễ
hội cầu mưa của Dân tộc Chăm, Mường, Ê Đê,…
- Cuộc sống định cư tạo cho người Việt có tinh thần gắn kết cộng đồng cao,
xem nhẹ vai trò cá nhân: “Bán anh em xa mua láng giềng gần, Một con ngựa
đau cả tàu bỏ cỏ”. Bắt nguồn từ nền văn hóa nông nghiệp trồng trọt, mà điển
hình là trồng lúa nước, vì việc trồng lúa rất vất vả nên mọi người trong làng, xã
thường hỗ trợ cho nhau, giúp đỡ nhau để công việc năng suất nâng cao, nhanh
chóng hoàn thành. Hay một ví dụ khác là đặc trưng của văn hóa lối sống Làng
cũng được thừa hưởng từ nền văn hóa nông nghiệp trồng trọt điển hình nên
người dân, hàng xóm đều đoàn kết giúp đỡ nhau trong xây dựng, làm việc trong cuộc sống hằng ngày.
- Lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng
xử nhiều hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực. Thường giải quyết với
nhau bằng lời nói, bằng sự thân thiện để tránh mất lòng. (uốn lưỡi 7 lần trước
khi nói) + (Một điều nhịn chín điều lành) + (lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời
mà nói cho vừa lòng nhau)
- Cuộc sống định cư ổn định của nghề nông nghiệp trồng trọt cần đến vai trò
chăm lo thú vén của người phụ nữ, vai trò của người phụ nữ được tôn trọng và
đề cao. Bởi lẽ, Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong gia đình, chăm lo vun
vén cho gia đình và làm các công việc đồng án. Ví dụ điển hình là trong văn hóa
truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà và coi trọng cái bếp, coi
trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là người
quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa. Chính
bởi vậy mà người Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà…;
- Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính
cũng thể hiện rõ trong văn hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh
nghiệm chủ quan hơn là cơ sở khách quan và tri thức khoa học do người dân
Việt Nam sống bằng nghê trồng trọt nên cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
trời, đất, nắng, mưa…Ví dụ thì thông qua những câu ca dao, tục ngữ, bài thơ
như: Rán mỡ gà, có nhà thì giữ, tháng bảy kiến bò chỉ lo lại lục,…. Bên cạnh
đó, kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kêt hợp lối sống trọng tình đã tạo
nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.
- Không những thế, Lối tư duy tổng hợp – biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn
đến lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt của người dân Việt Nam trong đời sống hằng ngày.
=>> Như vậy, loại hình văn hóa Việt Nam được xem là loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp trồng trọt điển hình, đều được thể hiện rõ nét trong cách tổ chức
đời sống phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt và được xem là nét đặc
trưng trong văn hóa Việt Nam.
Câu 3. Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi
trường tự nhiên của người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Mỗi người sẽ có những cảm nhận riêng về giá trị của cuộc sống. Tuy nhiên, nói
một cách chung nhất, giá trị cuộc sống chính là: Những điều quý giá, hạnh
phúc, mang đến sự lạc quan, yêu đời, sống vô tư, vô lo và có ý nghĩa sâu sắc
đến tận khi chúng ta lìa khỏi cõi đời. Đối với giá trị của người dân Việt Nam,
được thừa hưởng từ những giá trị xuất phát từ nên văn hóa thuộc loại hình văn
hóa gốc nông nghiệp điển hình, nên trong đời sống tinh thần luôn tràn đầy tình
nghĩa, yêu thương giữa người với người với nhau. Còn đối với lĩnh vực văn hóa
vật chất thì được thể hiện qua 4 nội dung chính sau:
-Văn hóa sản xuất vật chất. -Văn hóa ẩm thực. -Văn hóa trang phục. -Văn hóa đi lại.
Trong văn hóa sản xuất vật chất, người Việt đã biết tận dụng và ứng phó với
môi trường tự nhiên. Từ điều kiện tự nhiên nóng ẩm, mưa nhiều… thuận lợi
phát triển nghề nông trồng lúa nước và giữa vị trí chủ đạo, chi phối toàn bộ nền
kinh tế của XH VN truyền thống. Quá trình cải tạo và chinh phục tự nhiên,
chinh phục đầm lầy, lấn biển, đắp đê chống lụt… đã trở thành những vùng đồng
bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ và Nam bộ để chuyên canh lúa nước. Ngoài ra, với
điều kiện tự nhiên thuận lợi, người Việt còn tận dụng để trồng các loại cây cho
củ, cho quả, cho lá cây, cho sợi để làm các nghề thủ công… Tận dụng điều kiện
tự nhiên để chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, các nguồn lợi thủy hải sản từ tự nhiên.
*Trong văn hóa ẩm thực: Hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn hóa vật chất
của người Việt là tính chất sông nước và thực vật. Sự chi phối của hai yếu tố tự
nhiên này được thể hiện trước hết trong việc lựa chọn cơ cấu một bữa ăn truyền
thống với 3 thành phần chính: cơm – rau – cá. Cơm được làm từ gạo, đứng vị trí
đầu tiên trong bữa ăn “Người sống vì gạo, các bạo vì nước”, bữa ăn của người
Việt gọi là bữa cơm, hay thường nói là ăn cơm. Người Việt không chỉ tận dụng
cây lúa thành gạo để nấu cơm mà còn biết tận dụng gạo để làm bún và làm
bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh tráng… Gạo nếp dùng làm xôi, làm bánh mặn,
bánh ngọt…Và gạo là một thành phần không thể thiếu trong các món ăn đặc
trưng của người dân Việt Nam, nhất là trong những ngày Tết như bánh Tét,
bánh chưng và bánh dày. Thành phần thứ hai trong cơ cấu bữa ăn người Việt là
rau quả. Vốn là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông
nghiệp lại là ngành kinh tế chủ yếu nên rau quả vô cùng phong phú. Việc dùng
rau trong cơ cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận dùng môi trường tự nhiên của
người Việt. Người Việt thường hay nói “Đói ăn rau, đau uống thuốc”, “Ăn cơm
không rau như đánh nhau không có người gỡ”, “Ăn cơm không rau như người
giàu chết không kèn trống”. Rau quả đặc thù trong cơ cấu bữa ăn là rau muống
và dưa cà, như câu ca dao giàu tình nghĩa : “Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh
rau muống, nhớ cà dầm tương”. Cà và dưa cà, dưa cải là những món ăn hợp thời
tiết, được người Việt ưa thích và thường được dự trữ để ăn thường xuyên: “có
dưa chừa rau”, “có cà thì tha gắp mắm”, “thịt cá là hoa, tương cà là gia bản”.
Bên cạnh các loại rau quả là thành phần chính trong cơ cấu bữa ăn còn có
những loại rau quả dùng làm gia vị như: hành, gừng, ớt, tỏi, rau răm, rau diếp
cá… Gia vị cũng là thành phần không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt.
Thành phần thứ ba trong bữa ăn của người Việt là cá. Việt Nam có phía Đông
giáp với biển Đông nên có hệ thống sông ngòi, ao hồ chằng chịt nên dùng cá
trong cơ cấu bữa ăn cũng là khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người
Việt. Cá đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong bảng các loại thức
ăn thủy sản (so với tôm, cua, mực…). Người Việt thường nói: “Cơm với cá như
má với con”. “Có cá đổ vạ cho cơm”, “con cá đành ngã bát cơm”. Một điều sâu
xa hơn trong thuyết âm dương ngũ hành, Cá sống dưới nước, là lạnh, thì trong
bữa ăn cá là đại diện là âm với cơm là dương, hài hòa làm một. Không những
thế, Người Việt còn tận dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ chấm
đặc biệt là nước mắm và mắm các loại: nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm sét, các
loại nước mắm nổi tiếng: Nghệ An, Phan Thiết, Phú Quốc. Thực phẩm được
chế biến từ thủy sản cũng rất đa dạng: nấu chin, ướp mắm, phơi khô. Chế biến
cũng có nhiều cách: chiên, xào, kho, luộc, nướng, gỏi… Văn hóa ẩm thực của
người Việt thể hiện ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền. Đó là biểu hiện
của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên, thích nghi với nền kinh tế tự cung tự cấp.
Trong văn hóa trang phục, người Việt biết tận dụng các điều kiện tự nhiên chọn
các màu sắc trang phục phù hợp với môi trường sông nước như màu nâu, màu
đen…, và có ý thức làm đẹp. Người Việt sử dụng các chất liệu may mặc có sẵn
trong tự nhiên, mang đậm dấu ấn nông nghiệp trồng trọt, sống ở xứ nóng nên
chọn các chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như tơ tằm, sợi bông, sợi đay… trang
phục của phụ nữ: váy, yếm, áo tứ thân, áo dài, quần lĩnh… Ngoài ra chiếc nón
là phần không thể thiếu trong trang phục phụ nữ được tận dụng để che mưa, che
nắng. Trang phục của nam giới: áo cánh, quần ống rộng để phù hợp với khí hậu
nóng bức và công việc đồng áng.
*Cuối cùng trong Văn hóa ở và đi lại:
+ Văn hóa ở – Tận dụng điều kiện tự nhiên, có sẵn trong tự nhiên người Việt
xây nhà bằng các chất liệu như gỗ, tre, nứa, rơm rạ… Kiến trúc nhà mang dấn
ấn của vùng sông nước, lá nhà sàn thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền
núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường. Không gian nhà là
không gian mở, có cửa rộng thoáng mát và giao hợp với thiên nhiên. Trong
quan niệm về kiến trúc, xây nhà, dựng cửa: người Việt biết chọn hướng nhà,
chọn đất, tránh hướng gió độc, đó lấy hướng mặt trời, hay xây dựng nhà cửa gần
sông suối để tiện nước sinh hoạt (“nhất cận thị, nhị cận giang”), trồng trọt. Một
điểm đặc biệt trong kiến trúc nhà cửa là các kiến trúc đều thuận theo phong
thủy. Đó là sự hài hòa giữa thề đất, thế núi, ngồn nước… Điều này thể hiện rất
rõ trong kiến trúc thành quách như thành Thăng Long, thành nhà Hồ, kinh thành
Huế… hay trong thuyết tam tài của người dân: “thiên-địa-nhân”.
+ Văn hóa đi lại: do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều sông ngòi…tận dụng
sông nước nên phương tiện đi lại của người Việt chủ yếu là thuyền, ghe, đò,
xuồng…lênh đênh trên sông nước. Không những thế, nhiều người còn tận dụng
các phương tiện như thuyền, ghe, đò để làm nhà ở.
=>>Tóm lại, văn hóa ăn, mặc, ở, đi lại là những nhu cầu tiết thân của con người
nhưng cũng đồng thời thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường
tự nhiên. Thể hiện rõ nét dấu ấn loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng
thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt với môi trường
tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật.
Câu 4. Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được thể
hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Đó là việc coi trọng nông nghiệp, chính sách khuyến nông tích cực, khuyến
khích khai hoang, mở rộng diện tích canh tác, bảo vệ sức kéo trong văn hóa sản xuất vật chất.
- Trong văn hóa ẩm thực thể hiện ở tính cộng đồng và tính mực thước, bữa ăn
của người Việt là ăn chung nên người Việt rất thích trò chuyện nên qua đó cũng
thể hiện thái độ ứng xử ý tứ mực thước chừng mực trong ăn uống. Ngoài ra
trong văn hóa ẩm thực còn thể hiện tính linh hoạt theo mùa, theo vùng miền,
cách chế biến và lựa chọn món ăn và trong dụng cụ ăn đó là đôi đũa.
- Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt luôn thể
hiện vẻ kín đáo, tế nhị, như áo dài thể hiện sự kín đáo.
- Kiến trúc nhà ở mang tính cộng đồng, gắn liền, nối san sát nhau thể hiện sự
gắn bó, giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thủy nên văn hóa cũng gắn liền
với những phương tiện đi lại, coi đó như là nền tảng cho thái độ ứng xử văn hóa
với môi trường xã hội.
Câu 5. Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương – Ngũ hành với
sự hình thành các triết lý sống của người Việt.
- Thuyết Âm Dương Ngũ Hành có nguồn gốc từ Trung Hoa xưa, lần đầu tiên
được tìm thấy trong sách “Quốc ngữ”. Theo đó, tài liệu này nhìn nhận rằng tất
cả vật chất trong vũ trụ đều mang hai dạng năng lượng: Âm và Dương. Dương
khí đại điện cho nguồn năng lượng nóng (nhiệt tình, hân hoan, phấn kích, mạnh
mẽ…), âm khí đại diện cho nguồn năng lượng lạnh (lãnh đạm, buồn bã, yếu
đuối…). Sự tác động qua lại giữa hai nguồn năng lượng này duy trì trạng thái
cân bằng của vạn vật trong vũ trụ.
- Việc vận dụng thuyết Âm Dương vào trong đời sống đánh dấu một bước phát
triển mới trong tư duy nhân loại của khoa học phương Đông, nhằm giải thoát
con người khỏi sự khống chế của khái niệm thượng đề, quỷ thần. Vì vậy, việc
thấu đạt học thuyết Âm Dương Ngũ Thần là điều kiện tiên quyết để lỹ giải màu
sắc của triết học phương Đông.
- Ngày nay, thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã đi vào đời sống dân gian, trở thành
kim chỉ nam trong tín ngưỡng và văn hóa của người Á châu, trong đó có Việt
Nam. Việc vận dụng tốt Âm Dương Ngũ Hành vào các hoạt động của đời sống
như xây nhà, cưới hỏi, mua bán…hay chỉ đơn giản là việc ăn uống, mặc, ở hằng
ngày cũng đem đến nhiều lợi ích thiết thực cho người dân.
- Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây
là hệ tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn
tại của vạn vật trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội
con người. Trang văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về
sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu
âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần
thoại. Là cơ sở để thuyết âm dương ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh
thần của người Việt, trở thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết
lí sống cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ với
các yếu tố không thể thiếu trong đời sống hằng ngày, cụ thể như sau:
- Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp
đôi: trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi,
tương ứng, cân bằng âm dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững
hợp qui luật. Các cặp âm dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ,
ông/bà, trời/đất, đất/nước…
- Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm
dương: từ triết lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạng
thái cân bằng, hài hòa âm dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái.
Người Việt sống theo triết lí quân bình, duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau
từ việc ăn uống tời việc làm nhà ở. Ví dụ như trong ăn uống có cá là đứng thứ
ba trong cơ cấu một bữa ăn hoàn chỉnh: Cá sống dưới nước, là lạnh, thì trong
bữa ăn cá là đại diện là âm, với cơm nấu lên là dương, canh chua là âm, ăn với
cá kho tộ là dương, cá trê chiên lên là âm ăn với nước mắn gừng là dương, hài
hòa làm một. Hay trong xây dựng nhà ở ta cũng có Để cân bằng âm dương ngũ
hành trong nhà ở, điều chúng ta cần lưu ý đầu tiên là địa hình khu đất xây dựng.
Nếu nơi xây nhà là nơi bằng phẳng, tức là âm thịnh, ta cần trồng thêm cây cối
và bố trí những tảng đá lớn để đẩy dương. Nếu căn nhà ở vị trí đón nhiều ánh
nắng mặt trời, tức là dương thịnh nên đào ao, hồ nước hoặc trồng cây cao, có
bóng mát để đẩy âm. Bên cạnh đó cho đến việc ứng xử hài hòa trong quan hệ
với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an
phận với những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan.
- Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người
Việt: do nhận thức được qui luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên
người Việt thường có cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi
có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được qui luật chuyển hóa âm dương nên
có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho con
người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến
tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
>> Cho nên cái gì cũng có hai mặt của nó, quan trọng là phải biết vận dụng các
hay cái đẹp để giúp cho cuộc sống tinh thần trở nên tốt hơn, an nhiên, tự tại,
nhưng không được chối bỏ sự thật. Phải đối mặt với nó, có chí tiến thủ trong
công việc, làm ăn. Có như thế cuôc sống mới thật sự đầy đủ, tốt đẹp.
Câu 6. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo ở Việt Nam
và vai trò của phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt
xưa và nay.
“Ai lên Hương tích chùa Tiên,
Gặp cô Sư Bác anh khuyên đôi lời
Đem thân làm kiếp con người,
Tu sao cho trọn nước đời mà tu.”
- Có thể nói Phật giáo là một trong ba luồng tư tưởng nổi bật của tư tưởng và
tôn giáo thời Đại Việt và cho đến ngày nay. Vào những thế kỉ đầu thời kì Đại
Việt, phật giáo phát triển rất nhanh và đạt tối cực thịnh vào thời Lý – Trần và
được xem là quốc giáo với những đặc điềm nổi bật như sau:
- Tính nhập thế: Giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh,
luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham
gia các hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức,
nhiều nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân, nhiều vị cao tăng được
triều đình mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng. Giáo lý Phật
giáo đã được người Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường. (Tu đâu
cho bằng tu nhà, thời cha kính mẹ mới là chân tu/ Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai
là tu chợ, thứ ba là tu chùa)
- Tính tổng hợp: là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi
phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo và làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
- Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa:
dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc
thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…
- Dung hợp giữa các tong phái Phật giáo ( Thiền Tông với Mật Tông, Thiền
tông với Tịnh độ tông, Đại thừa với tiểu thừa)
- Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ
sung cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
- Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín
ngưỡng và văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua rất
nhiều ngôi chùa đã có từ lâu đời trên khắp mọi miền đất nước (như chùa Một
Cột, Chùa Dâu (Bắc Ninh), chùa Trấn Quốc (Hà Nội),...Với người dân Việt,
giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo
đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng
đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ
lâu. “Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”. Và đến
ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo
lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu tôn giáo
thì hiện nay Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến 10%
dân số. Hiện nay, số lượng người đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào
thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày rằm, mồng một, có treo ảnh
Phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò của Phật giáo trong
đời sống văn hóa tinh thần của người Việt từ xưa đến nay là vô cùng quan
trọng, đó là tín ngưỡng, là niềm tin, tượng trưng cho tình yêu thương con người,
đoàn kết giúp đỡ nhau của người dân Việt Nam qua biết bao thế hệ. Không
những thế Phật giáo cũng chính là một trong những giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp của dân tộc đã được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy, Phật
giáo cũng là một trong những cơ sở lí luận thực tiễn để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 7. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam
và vai trò của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt
xưa và nay.
- Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, và đến thế kỉ XV, Nho
giáo được xem là đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc
giáo. Các triều đại phong kiến Đại Việt lấy Nho giáo làm nền tảng để xây dựng
hệ tư tưởng, đạo đức, giáo dục, pháp luật, qua đó để xây dựng mô hình nhân cách con người.
Nội dung của tư tưởng, giáo lí của Nho giáo gồm có:
- Tam cương: quân – thần, phụ - tử, phu – phụ.
- Ngũ thường: nhân nghĩa lễ trí tín. Trong đó chữ nhân là trung tâm, là nền tảng
chia phối mọi quan hệ ứng xử.
- Chính danh: Nho giáo quan niệm muốn xây dựng xã hội ổn định thì mỗi người
phải làm đúng danh phận của mình thì xã hội mới ổn đinh, thái bình.
- Tuy nhiên do sự phân phối của văn hóa bản địa nên Nho giáo Trung Hoa đã
được người Việt tiếp nhận và vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt theo điều
kiện hoàn cảnh của đất nước:Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư
tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua được đế cao tuyệt đối thì Nho giáo
Việt Nam tuy vẫn đề cao tư tưởng này nhưng không cực đoan đến mức phải hy
sinh tính mạng vì vua, quan niệm trung quân của người Việt gắn liền với ái
quốc, trong nhiều trường hợp thì việc nước còn được đề cao hơn vua. Người
Việt đề cao tinh thần yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc.
- Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa đã bị khúc xạ qua lăng
kính của người Việt, nó không chỉ là một khái niện hạn hẹp về đạo đức mà nó
còn trở thành một lý tưởng xã hội cao đẹp vì cuộc sống hạnh phúc, bình yên của
nhân dân – “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” trong Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi.
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào Việt Nam cũng nhẹ bớt đi
bởi truyền thống trọng phụ nữ có trong văn hóa bản địa.. Đề cao vai trò nét đẹp,
phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội, trong gia đình.
- Mặc dù, không thể phủ nhận một thực tế rằng trong gần 10 thế kỉ xây dựng và
củng cố nhà nước phong kiến, nho giáo đã trở thành nền tảng tư tưởng chi phối
về mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam, ta có thể thấy được vai trò của Nho
giáo trong đời sống tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt cụ thể như sau:
- Là nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ sở pháp lý để
quản lý, duy trì dự ổn định của xã hội dựa trên các mối quan hệ cộng đồng xã
hội và gia đình theo quan niệm tam cương, ngũ thường.
- Xây dựng nền tảng đạo đức, củng cố các mối quan hệ gia đình theo thứ bậc, kỹ
cương của giáo lý nho giáo, xác lập chuẩn mực đạo đức để xây dựng mô hình
nhân cách con người Việt Nam truyền thống với các tiêu chí: đạt đức, đạt đạo.
- Ngoài ra, nho giáo đã chi phối trực tiếp và toàn diện hệ thống giáo dục, thi cử
truyền thống, từ mục đích đến nội dung và phương pháp giáo dục ở Việt Nam.
- Nho giáo cũng chính là một trong những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc đã được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy, Nho giáo cũng
là một trong những cơ sở lí luận thực tiễn để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 8. Hãy trình bày dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn
hoá giao tiếp ứng xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp
nào cần được giữ gìn và phát huy.
Văn hóa trong giao tiếp và ứng xử của người Việt Nam là hệ quả chi phối của
văn hóa nông nghiệp kết hợp với tư tưởng Nho giáo và Phật giáo, được biểu
hiển ở các đặc điểm cơ bản sau:
- Hiếu khách, thích thăm viếng, chào hỏi (Lời chào cao hơn mâm cổ), nhường
như trong những lúc rảnh rỗi hay bất kì một ngày lễ, tết quan trọng nào, nhà nhà
ai nấy cũng có khách đến chơi, hay bản thân mỗi người cũng chủ động đến nhà
bạn bè, đồng nghiệp, người thân để thăm hỏi.
- Ứng xử trọng tình, đặt tình cao hơn lí ((Một bồ cái lý không bằng một tý cái
tình; Yêu nhau chín bỏ làm mười…). Đây có thể nói là một trong những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
- Giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán (Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho
người dại nửa mừng nửa lo; Uốn lưỡi ba lần trước khi nói…).
- Nhường nhịn, vị tha, bao dung (Dĩ hòa vi quí; Một sự nhịn chín sự lành).
- Coi trọng tôn ti, thứ bậc và các nghi lễ, phép tắc trong các quan hệ ứng xử (Bé
bằng củ khoai cứ bằng vai mà gọi…).
- Trọng danh dự hơn giá trị vật chất, sợ dư luận, tai tiếng (Một miếng giữa làng
bằng một sàng xó bếp; Trăm năm bia đá cũng mòn, nghìn năm bia miệng hãy
còn trơ trơ…). Có vẻ như trong hành động, công việc, hay cách ứng xử giao tiếp
hằng ngày, thì người Việt của chúng ta luôn cẩn thận, rất sợ những lời ra tiếng
vào không hay ho. Nên đôi khi hay chịu đựng, sợ không dám nói, phát ngôn, sợ
nếu khi nói ra là không đúng là danh dự bị bêu rao, bị nói,....
=> Thông qua những đặc điểm dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến
văn hoá giao tiếp ứng xử của người Việt, thì qua đó, ta có thể thấy bất cứ một
đặc điểm nào cũng quan trọng cả, nó có thể không phù hợp ở chỗ này, những lại
phù hợp ở chỗ khác. Chung quy lại, các đặc điểm ấy có quan hệ bổ sung, hỗ trợ
cho nhau. Điển hình như nền giáo dục Việt Nam truyền thống được xây dựng
theo mô hình của nền giáo dục Nho giáo và được thừa hưởng rất nhiều dấu ấn
của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hoá giao tiếp ứng xử của người
Việt với các đặc điểm cụ thể như sau:
- Mục đích giáo dục: là đào tạo ra người quân tử, những người để làm quan trị
nước, giáo dục nho giáo rất đề cao vinh quan của người đỗ đạt với các tục lệ
như tục xướng danh, tục ban áo mão và đãi yến tiệc, tục vinh qui bái tổ, khắc
bia tiến sĩ ở Văn Miếu để lưu danh thiên cổ. Không những thế, mục đích của
giáo dục để còn tạo ra những người có nhân cách tốt, biết đối nhân xử thế, có
cách ứng xử phù hợp, biết coi trọng bản thân, coi trọng các mối quan hệ giao
tiếp. Đến ngày nay, mục tiêu của giáo dục vẫn luôn là việc đòi tạo ra những
nhân tài cho Việt Nam, phục vụ đất nước Việt Nam. Bên cạnh đó việc đào tạo
đạo đức, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thế hệ thanh niên, đoàn viên trẻ vẫn
luôn được chú trọng ngay từ khi còn trong gia đình và đến cả các trường học,
trường ĐH và cả trường đời.
- Nội dung giáo dục: không truyền thụ tri thức khoa học mà coi trọng việc giáo
dục tư tưởng, đạo đức, lễ giáo để đào tạo nên mẫu người quân tử hiểu biết về
thi, thư, lễ nhạc, coi trọng tôn ti, thứ bậc và các nghi lễ, phép tắc trong các quan
hệ ứng xử, nhường nhịn vị tha, bao dung. Có đủ phẩm chất để làm quan cai trị
thiên hạ, các nội dung ấy được thể hiện trong hai bộ sách kinh điển của Nho
giáo: tứ thư và ngũ kinh.
- Về phương pháp truyền thụ tri thức: coi trọng việc ghi nhớ máy móc các tư
tưởng của Khổng Mạnh, các lời dạy của thánh hiền, các nội dung trong hai bộ
sách kinh điển và được thầy giáo truyền thụ gần như nguyên vẹn, máy móc
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Không những thế, việc học tập, tiếp thu kiến thức
cũng trở nên quan trọng để đánh giá học thức của con người, coi trọng cái tôi cá
nhân, danh dự của bản thân, muốn trở thành một người tài giỏi, nói đâu đúng
đó, được mọi người ngưỡng mộ, tung hô,...
- Những đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo đã tạo nên truyền thống hiếu học
và tôn sư trọng đạo của người Việt Nam, tuy nhiên quan niệm và phương pháp
giáo dục của nho giáo cũng đã để lại những “di chứng” rất nặng nề cho nền giáo
dục của Việt Nam hiện nay – coi trọng con đường lập thân bằng học vấn, học để
làm thầy chứ không làm thợ, nội dung và phương pháp học nặng về lý thuyết,
học vẹt, thầy đọc trò chép…
Câu 9. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó
chỉ ra vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
- Văn hoá gia đình truyền thống Việt Nam là toàn bộ những giá trị, chuẩn mực
truyền thống của gia đình Việt Nam trong mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, mối quan hệ giữa gia đình với xã hội được hình thành và phát
triển qua lịch sử lâu dài của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát
triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội. Đó là những giá trị được kết tinh
của kiểu gia đình truyền thống Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với
nền văn hoá nông nghiệp lúa nước và cốt lõi quan hệ văn hoá gia đình Nho giáo
phương Đông. Đặc điểm của gia đình truyền thống Việt Nam là loại gia đình hạt
nhân mở rộng với đặc trưng “tam, tứ, ngũ đại đồng đường” với nhiều thế hệ
cộng sinh trong một gia đình. Do có bề dày lịch sử nên các giá trị văn hoá kết
tinh đã trở thành giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam.
- Giá trị văn hoá gia đình truyền thống Việt Nam thể hiện ở “gia đạo”, “gia
phong” và “gia lễ” của gia đình. Có thể gọi là một đại gia đình gồm rất nhiều
thành viên nhiều thế hệ. “Gia đạo” là đạo đức của gia đình như đạo hiếu, đạo
ông bà, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em; là cha hiền con hiếu, anh
nhường em nhịn, vợ chồng yêu thương nhau, việc học tập lấy tâm, tri, năng làm
gốc…“Gia phong” được hiểu là thói nhà, tập quán và giáo dục trong gia tộc,
nền nếp riêng của một gia đình. Cốt lõi của gia phong truyền thống luôn hướng
tới tinh thần trọng gốc nguồn, khuyến khích lòng hiếu thảo, phụng dưỡng cha
mẹ, thờ kính tổ tiên, coi trọng gia đình, thủy chung tình nghĩa. “Gia lễ” là những
nghi lễ, tập tục, cung cách ăn nói, đi đứng, ứng xử trở thành truyền thống, được
cha ông chọn lựa qua nhiều thế hệ, con cháu cần noi theo. Nhờ những giá trị
văn hoá đó mà gia đình truyền thống Việt Nam trở thành hạt nhân quan trọng
bậc nhất của xã hội phong kiến Việt Nam. Trục quan hệ dọc Gia đình (Nhà) -
Làng xã - Tổ quốc, với gia đình là nền tảng luôn là một liên kết bền vững của
văn hoá Việt Nam, tạo nên sức mạnh tiềm tàng của dân tộc hơn bốn ngàn năm
văn hiến. Việc gìn giữ “gia đạo”, “gia phong”, “gia lễ” là động lực tinh thần to
lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
- Con người, bất cứ ai cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Gia đình
bao gồm những người sống chung dưới một mái nhà, có lợi ích kinh tế chung và
có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống. Gia đình là tổ ấm tràn đầy tình yêu
thương nuôi dưỡng mỗi con người lớn lên và trưởng thành. Gia đình là điểm tựa
tinh thần vô cùng lớn lao cho mỗi người, là nơi khơi nguồn mọi sáng tạo và
thành công. Gia đình vừa là nơi đáp ứng nhu cầu riêng tư vừa thực hiện chức
năng phát triển nòi giống và là trường học đầu tiên hình thành, phát triển nhân
cách con người. Sự hình thành và phát triển nhân cách con người không chỉ là
thể hiện tình cảm đạo đức, đạo lý của dân tộc đối với nguồn nhân lực của đất
nước, mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã hội, của tất cả các tổ chức
chính trị - xã hội, đoàn thể, gia đình và mỗi cá nhân. Trong đó, gia đình có vai
trò hết sức quan trọng.
- Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định tạo nên tài năng và
tính cách của mỗi con người. Sự nuôi dạy con trẻ sát nhất là gia đình, tiếp đến là
làng xóm và xã hội. Nhân cách con người bắt đầu hình thành từ lúc còn nằm
trong bụng mẹ cho đến khi trưởng thành vẫn chưa dừng lại. Lứa tuổi ấu thơ là
giai đoạn quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách của trẻ. Nhân cách
mặc dù chưa được thể hiện rõ ràng nhưng thông qua hành vi bắt chước hành
động của người lớn, trẻ em bắt đầu thu nhận tất cả các tương tác nhân – sinh –
quan để hình thành nhân cách của mình.
- Trong mỗi gia đình vai trò của bố mẹ có vị trí quan trọng nhất. Theo truyền
thống Việt Nam, đàn ông thường là chủ của gia đình. Người cha là trụ cột, là
biểu hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo.
Còn người mẹ là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sưởi ấm yêu
thương trong gia đình, nguồn tình cảm vô tận cho các con. Thế nhưng, như vậy
thôi thì chưa đủ, vì ông bà, cô dì chú bác hay bất cứ một thành viên trong gia
đình nào cũng có vai trò quan trọng để giáo dục, rèn luyện cho trẻ nhỏ. Cho nên
thật không ngoai khi nói rằng, gia đình là cái nôi văn hóa đầu tiên hình thành
nhân cách cho trẻ, nhưng cũng là nơi giao thoa giữa thiên đàng và địa ngục.
- Để trẻ trở thành một người có nhân cách tốt thì việc giáo dục đóng vai trò chủ
đạo. Giáo dục con cái không thể chỉ bằng lời nói mà phải bằng những công việc
cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn có tác động trực tiếp tới việc
hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ em sẽ không tôn trọng người lớn
nếu chúng thấy cha mẹ mình thể hiện sự thiếu tôn trọng lẫn nhau. Những bậc
cha mẹ luôn quan tâm đến con cái sẽ chú trọng đến việc giáo dục hình thành
nhân cách cho trẻ, dạy con phải biết nghe lời ông bà, cha mẹ, không được nói
dối người lớn, phải thật thà và biết xin lỗi, nhìn nhận khuyết điểm, biết cảm ơn
khi được cho quà, hay nhận lấy một điều gì đó. Nhưng cũng có nhiều gia đình
thiếu quan tâm đến việc giáo dục con cái, người lớn đối xử với nhau bằng lời
nói, cử chỉ, hành động thiếu văn hóa…, những hành động xấu đó đã phản chiếu
vào tâm hồn non nớt của trẻ em, làm cho các em trở nên cộc cằn, thô lỗ. Môi
trường gia đình có vai trò quyết định đến sự phát triển của trẻ em. Những mâu
thuẫn, lục đục trong gia đình, gia đình tan vỡ hay cha mẹ mải lo kiếm tiền
không chú ý đúng mức đến việc giáo dục con cái đã đẩy nhiều trẻ em rơi vào
tình trạng hụt hẫng về mọi phương diện, nhiều em không đủ ý chí để vượt qua
khó khăn này đã mắc các bệnh như trầm cảm, rối loạn tâm lý hoặc bỏ nhà đi
lang thang, phạm tội khi bị kẻ xấu rủ rê, lôi kéo. Do vậy, cha mẹ cần phải yêu
thương, quan tâm, gần gũi trẻ để nắm bắt được tâm tư, tình cảm của trẻ. Nhưng
yêu thương không có nghĩa là nuông chiều, phải có chừng mực.
- Cha mẹ cũng cần giáo dục các nội dung văn hóa khác cho trẻ, như văn hóa lao
động, văn hóa sinh hoạt, văn hóa tiêu dùng, văn hóa giao tiếp…qua đó giúp con
mình hình thành nhân cách, sớm ý thức được mình vì mọi người và mọi người
vì mình trong gia đình. Ngoài ra, cha mẹ cần có kế hoạch, thời gian dành cho
vui chơi, học tập của con phù hợp với sinh hoạt của gia đình.
=>> Như vậy, thông qua những khẳng định, ý kiến, suy nghĩ, và quan niệm trên
thì gia đình đã trở thành môi trường văn hóa đầu tiên, nơi mà mỗi cá nhân khi
chào đời và quá trình phát triển, liên tục được tiếp nhận những tình cảm tốt đẹp
từ các thành viên trong gia đình. Gia đình truyền thụ cho các cá nhân những giá
trị văn hóa truyền thống, cũng như những giá trị văn hóa hiện đại tạo nên giá trị
xã hội và nhân cách văn hóa của mỗi con người.
Câu 10. Hãy trình bày đặc trưng của văn hóa làng và ảnh hưởng của nó
đến thói quen, lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt (ảnh hưởng đến
Pháp luật). Sưu tầm những câu thành ngữ, tục ngữ nói về văn hoá làng của người Việt.
Làng tôi có lũy tre xanh,
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.
Bên bờ vải nhãn hai hàng,
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
- Ai trong mỗi người Việt chúng ta cũng đều có nơi “chôn rau cắt rốn của
mình”, quê hương, làng xã, mái đình gốc đa, tất cả đã tạo nên một hồi ức khó
phai mờ trong tâm trí, chất chứa những nét văn hóa truyền thống riêng biệt. Do
phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước, ở định cư cho nên làng là không
gian sống chủ đạo của người Việt và cũng là cái nôi hình thành nên những đặc
trưng bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam, với hai đặc trưng cơ bản là
tính cộng đồng và tính tự trị, khép kín.
* Với Tính cộng đồng trong Cơ sở hình thành tính cộng đồng trong văn hóa làng Việt:
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước, ở định cư tạo nên hai mối
quan hệ gắn bó: huyết thống và láng giềng.
- Do tính chất thời vụ nông nghiệp nên con người luôn cần sự tương trợ, giúp đỡ
nhau trong lao động sản xuất.
Và tính cộng đồng được biểu hiện thông qua những yếu tố sau:
- Về kinh tế: cư dân trong cùng một làng luôn tương trợ nhau trong lao động sản
xuất, chống thiên tai như hạn hán, lũ lụt như câu ca dao: (Lụt thì lút cả làng, đắp
đê chống lụt thiếp chàng cùng lo); giúp đỡ nhau khi đói kém, mất mùa với (Một
miếng khi đói bằng một gói khi no; Lá lành đùm lá rách…).
- Về tình cảm: cư dân trong làng gắn bó bền chặt bởi hai mối quan hệ huyết
thống và láng giềng (Một giọt máu đào hơn ao nước lã; Bán anh em xa mua
láng giềng gần), luôn giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn, khi vui, khi buồn
(Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Tối lửa tắt đèn có nhau…).
=>>Thông qua hai đặc điểm này thì ta có thể nhận thấy, đây chính là một trong
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ bao thế hệ,
tình yêu thương con người, đoàn kết, luôn hỗ trợ, tương thân tương ái nhau
trong những lúc gặp khó khăn hoạn nạn.
- Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
cùng thờ chung Thành Hoàng làng; cùng tham gia các hội hè, đình đám…; hôn
nhân đặt lợi ích cộng đồng (gia đình, gia tộc, làng) lên trên quyền lợi cá nhân.
- Về luật pháp: mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công
nhận với tư cách cá nhân mà bị hòa tan trong trách nhiệm chung của cộng đồng họ mạc, làng xã.
+ Tác động của tính cộng đồng của cách sống LÀNG đến lối sống, cách tư duy,
ứng xử của người Việt xưa và nay, nhìn nhận qua hai mặt tích cực và tiêu cực:
- Tác động tích cực: tạo nên nếp sống dân chủ bình đẳng và tính tập thể hòa
đồng (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…); tạo nên sự gắn bó, đoàn kết tương trợ,
cưu mang đùm bọc nhau, là cơ sở tạo nên lối sống trọng tình - một nét đẹp trong
văn hóa ứng xử của người Việt.
- Bên cạnh mặt tích cực là thể hiện nét đẹp trong giá trị văn hóa của người Việt
thì cũng có những Tác động tiêu cực: tạo nên tư tưởng bè phái, “chủ nghĩa thân
quen” (Rút dây động rừng; Đóng cửa bảo nhau…); Thói dựa dẫm, ỉ lại (Một
người làm quan cả họ được nhờ; Nước nổi thì bèo nổi; Cha chung không ai
khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa…); Thói cào bằng, đố kị, triệt tiêu ý thức
cá nhân (Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng ngốc đàn;…); Trọng tình,
cả nể là nguyên nhân tạo nên lối ứng xử đặt tình cao hơn lí, tùy tiện, chủ quan
(Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình…).
* Tiếp đến là trong Tính tự trị, khép kín
Cơ sở hình thành tính tự trị tirong văn hóa làng Việt:
- Phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu
nông tự túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối sống khép kín, tự trị, hướng nội của văn hóa làng.
+ Biều hiện của tính tự trị:
- Về không gian địa lí: cư dân của mỗi làng sống quần tụ trong một không gian
khá biệt lập, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng, khiến cho mỗi làng tồn tại
như một “vương quốc” nhỏ khép kín, làng nào biết làng ấy.
- Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, có khả năng tự túc
tự cấp nên ít có nhu cầu quan hệ giao thương với bên ngoài.
- Về tình cảm: các thành viên trong làng đều có quan hệ họ hàng, nên quan hệ
giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.
- Về tín ngưỡng: mỗi làng đều có Thành Hoàng là vị thần bảo trợ cho dân làng;
có hội hè, đình đám riêng của mỗi làng.
- Về mặt hành chính: mỗi làng có bộ máy hành chính tự quản độc lập, có vai trò
và chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp để giải quyết mọi việc trong làng.
Mỗi làng có lệ làng – hương ước là một loại luật tục dân gian bắt nguồn từ tập
quán của từng làng, phản ánh tâm lý, phong tục, tập quán, thói quen, nếp sống,
ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cư dân trong làng, ràng buộc mỗi thành viên trong
làng vào một nề nếp, qui củ, tạo thành nếp sống chung ổn định trong không gian
khép kín của mỗi làng. Bởi vậy, người dân trong làng có thể ít hiểu về luật pháp
của nhà nước, nhưng lại hiểu rất rõ lệ làng và tuân thủ lệ làng một cách nghiêm
ngặt; thậm chí, luật tục của làng còn có hiệu lực hơn luật pháp của nhà nước
(Phép vua thua lệ làng; Nhập gia tùy tục…). Đây chính là một nguyên nhân tạo
nên thói quen không tuân thủ luật pháp của người Việt từ xưa đến nay. Đặc biệt
là các dân tộc ít người vùng cao vùng xa.
- Sự độc lập về không gian địa lí, về kinh tế, về bộ máy hành chính, về tình cảm,
phong tục, tín ngưỡng đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một “tiểu vương quốc”
khép kín, khá biệt lập với làng khác, đồng thời cũng thể hiện chức năng tự quản
trong quan hệ với nhà nước.
+ Tác động của tính tự trị đến lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt xưa và nay:
- Tác động tích cực: tính tự trị tạo nên ý thức độc lập, tự chủ, tinh thần tự lực, tự
cường và đức tính cần cù, chịu khó, tiết kiệm.
- Tác động tiêu cực: tính tự trị làng xã là cơ sở hình thành tư tưởng tiểu nông tư
hữu, ích kỉ (Bè ai người ấy chống; Ruộng ai người ấy đắp bờ; Thân trâu trâu lo,
thân bò bò liệu; Của mình thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn…); Tư
tưởng bè phái, địa phương cục bộ, bảo thủ (Nhập gia tùy tục; Trâu ta ăn cỏ đồng
ta; Ta về ta tắm ao ta…); Tính gia trưởng, độc đoán (Sống lâu lên lão làng; Áo
mặc không qua khỏi đầu…).
=>> Như vậy tóm lại, Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng cơ bản của
văn hóa làng. Hai đặc trưng này có mối quan hệ hữu cơ, tác động biện chứng,
vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nhau, tạo nên tính chất “lưỡng phân”
trong văn hóa làng Việt truyền thống. Từ hai đặc trưng này đã sản sinh ra những
ưu điểm và nhược điểm trong lối sống, thói quen, tư duy, ứng xử, tâm lý, tính
cách của người Việt truyền thống. Đó là nguyên nhân tạo nên tính chất “nước
đôi” trong nhân cách văn hóa nông dân Việt Nam: vừa đoàn kết, tương trợ lại
vừa tư hữu, ích kỷ; cộng đồng, gắn bó trong phạm vi làng xã nhưng trong phạm
vi xã hội rộng hơn thì ý thức hợp quần xã hội lại kém; hòa đồng, cởi mở trong
phạm vi làng – giữa những người thân thuộc, nhưng đôi khi ít nhiều lại khép
kín, rụt rè, thiếu tự tin khi tiếp xúc với những người xa lạ.
Câu 11. Anh hay chị hãy phân tích văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hoá và ảnh hưởng của nó đến ứng xử của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
- Toàn cầu hóa được hiểu một cách khái quát đó là sự mở rộng các quan hệ kết
nối, giao lưu, trao đổi giữa các quốc gia trên thế giới do sự tác động mạnh mẽ
của các thành tựu công nghệ thông tin và mạng truyền thông internet, dẫn đến
sự xâm nhập của các yếu tố mang tính toàn cầu vào mọi lĩnh vực của đời sống
nhân loại, làm xóa mờ dần sự khác biệt giữa các quốc gia trên mọi lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, khoa học công nghệ và đặc biệt là cả văn hóa. Không những
thế, sự ảnh hưởng của toàn cầu hóa còn ảnh hưởng đến thái độ, cách ứng xử của
con người, bởi lẽ bản chất con người luôn có sự thay đổi, thay đổi để làm sao
thích nghi, thay đổi để làm sao phù hợp với định nghĩa bản thân là một con
người của thời đại toàn cầu hóa. Đặc biệt là đối với giới trẻ, rõ rệt nhất là trong cách ứng xử:
Bất cử một yếu tố nào cũng vậy, chúng ta cũng đều đặt nó trong những mối liên
hệ nhiều chiều với nhau, mà điển hình nhất đó là 2 mặt tích cực, và tiêu cực.
*Về Tác động tích cực:
- Trong giao lưu hội nhập toàn cầu hóa, giới trẻ Việt Nam có nhiều điều kiện và
cơ hội để mở mang tri thức, làm phong phú thêm đời sống tinh thần, mở rộng
các quan hệ xã hội nên có sự tự tin, chủ động và năng động hơn trong giao tiếp,
trong học tập và công việc. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và
sự tăng trưởng của nền kinh tế nên giới trẻ chúng ta lạc quan và tự tin hơn trong
cách thể hiện chính mình. Hiện tượng này đã cho thấy nơi mỗi người chúng ta
có nhiều điều kiện thuận lợi để khám phá những điều mới mẻ, đồng thời chúng
ta được tiếp cận với các phương tiện truyền thông hiện đại: có cơ hội học hiểu,
nắm bắt những thông tin cách nhanh chóng và phong phú. Nhìn vào thế hệ trẻ
8x, 9x ngày nay, chúng ta không thể không thán phục mà còn tự hào vì một số
người rất thành công trên con đường học tập và sự nghiệp. Cách đây không lâu,
tôi có dịp tiếp xúc với anh Phương – một nhà khởi nghiệp thành công, có 3 bằng
đại học và là giám đốc công ti TNHH Themis sau đêm chung kết “ULAW
STARTUP 2022” mà tôi là BTC có anh làm BGK. Khi tiếp xúc với anh giám
đốc trẻ sau này trong một buổi họp mặt ăn uống sau chương tình, tôi không
những thán phục mà còn ngỡ ngàng vì những thành công anh đã đạt được. Mặc
dù từ hai bàn tay trắng nhưng anh đã làm lên một cơ ngơi hoành tráng và thành
công trên con đường khởi nghiệp của mình, và bây giờ chính anh luôn được mời
tham gia trong những buổi tọa đàm: điển hình như tọa đàm “START THE
JOURNEY” mà HSV trường ĐH Luật tổ chức vào ngày 19/4 để chia sẻ kinh
nghiệm, hiểu biết của mình đến các bạn sẽ, giúp đỡ các bạn trên con đường khởi nghiệp của mình.
- Bên cạnh đó, nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy thế hệ trẻ hôm nay khác hẳn
với thế hệ đàn anh, đàn chị ngày trước. Họ tương đối có trình độ học vấn cao
hơn, có những mối tương quan, giao tiếp rộng rãi hơn. Đồng thời, họ tự do tìm