Câu hi ôn thi - đề cương ôn thi Đại cương văn hóa Vit Nam
Tâm học Đại cương (Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh)
u hỏi ôn tập thi học kỳ
Chương 1. Khái quát v văn hoá Vit Nam
Câu 1. Pn tích sự khác nhau giữa loại nh n hgốc chăn nuôi du
mục n h gốc nông nghiệp trng trọt. Lý giải nguyên nn của
sự khác nhau đó.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều nền văn hóa riêng của mình, đó tiêu chí quan trọn để
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân tộc dù
phong p đa dạng đến mấy cũng đều nguốn gốc xuất phát từ một trong hai loại
hình văn hóa gốc văn hóa gốc chăn nuôi du mục văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt.
Giữa hai loại hình n hóa gốc này sự khác nhau mang tính tương đối căn cứ vào yếu
tố trội như sau:
Về điều kiện tự nhiên môi trường:
- Loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục là loại nh n hóa gốc hình thành
phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vậy nghề
truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa chăn nuôi.
- Trong khi loại hình văn hóa gốc ng nghiệp trồng trọt nói đến văn hóa phương
Đông gồm Châu Á Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng m, mưa nhiều, có những
con sông lớn, nhng vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng
trọt phát triển.
Về đặc trưng:
- Đặc điểm đầu tiên về lối sống, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục
phương Tây phổ biến với nghề chăn nuôi gia súc, đến mức trong Kinh Thánh từ
cừu được nhắc tới 5.000 lần, tín đồ được gọi con chiên, Chúa người chăn
chiên. Lịch sử cho biết người phương y xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê, ăn thịt
uống sữa bò, áo quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da t vật. Như vậy,
loại hình chăn nuôi gia súc đòi hỏi họ phải sống du cư, nay đây mai đó, tạo thành
thói quen, lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại. Còn loại hình văn
hóa gốc nông nghiệp phương Đông do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm,
mưa nhiều, những con sông lớn, những ng đồng bằng trù phú, phì nhiêu,
thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển. Do nghề trồng trọt buộc con người phải
sống định để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái thu hoạch. với lối sống
định dẫn đến dân nông nghiệp phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, không
thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, hướng nội.
- đặc điểm thứ hai về ch ứng xử với môi trường tnhiên, đối với loại hình văn
hóa gốc chăn nuôi du mục luôn di chuyển nên cuộc sống của n du mục không
phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm coi thường thiên nhiên tham vọng
chinh phục, chế ngự tự nhiên. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
phương Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên dân rất tôn
trọng và sùng bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
- Đối với đặc điểm thứ ba về tính chất hội, sống du cư nên tính gắn kết cộng
đồng của dân du mục không cao, đề cao tính nhân dẫn đến tâm ganh đua,
cạnh tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận,cứng rắn trong
đối phó. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp phương Đông lại đề cao
tính cộng đồng do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên, buộc dân
phải sống định cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.
- Xét về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, do cuộc sống du nên cần đến sức mạnh
để bảo vệ dân trong bộ tộc chống lại sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên
người đàn ông vai trò quan trọng, ợng trọng sức mạnh, trọng nam giới
trong khi loại hình văn hóa phương Đông lại trọng nh nghĩa, trọng văn, trọng phụ
nữ, vai trò của người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng
trong gia đình, chăm lo vun vén cho gia đình và làmcác công việc đồng án.
- Về lối nhận thức duy, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục thiên về
duy phân ch, coi trọng vai trò của c yếu tố khách quan, nghề chăn nuôi du
mục đòi hỏi sự khẳng định vai tnhân, đối tượng tiếp xúc hành ngày đàn gia
súc với từng cá thể độc lập, từ đó hình thành kiểu duy phân ch ctrọng vào
từng yếu tố. Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp phương Đông tthiên v
duy tổng hợp biện chứng, coi trọng các mối qua hệ, thiên về kinh nghiệm chủ
quan cảm tính hơn coi trọng khách quan khoa học thực nghiệm do trồng trọt
của cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…
- đặc điểm cuối ng về cách thức ứng xtrong cộng đồng, loại hình văn hóa
gốc chăn nuôi du mục lối sống trọng lí, ứng xử theo nguyên tắc, thói quen tôn
trọng pháp luật khác với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp do cuộc sống cộng
đồng, gắn kết với nhau nên sống trọng tình, thái độ ứng xmềm dẻo, linh hoạt.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi bật
khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều những điểm mạnh điểm yếu của nó. Tuy
nhiên, trong thực tế thường không nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính chất nông
nghiệp trồng trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn
hóa này mang tính tương đối và căn cứ vào các yếu tố, đặc điểm có tính trội.
Câu 2. Hãy chng minh rằng văn h Việt Nam thuc loại hình n hoá
gốc nông nghip trng trọt điển nh .
Việt Nam vị trí nằm trung tâm khu vực Đông Nam Á. Với điều kiện về vị tđịa lí,
khu vực địa hình chịu tác động của gió mùa, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nằm góc tận
cùng phía Đông Nam Châu Á, khí hậu nóng m, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như
sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. cây lúa một
trong những y nông nghiệp chính có từ rất lâu đời Việt Nam, cũng chính cây lúa cùng
với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta đã tạo nên điều kiện thuận lợi để phát triển
nông nghiệp lúa nước. Căn cứ vào những yếu tố trên, thể thấy rằng nền văn hóa Việt
Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc
trưng văn hóa Việt Nam đều thể hiện một cách nét nhất loại hình văn a gốc nông
nghiệp trồng trọt ở Việt Nam:
Đầu tiên đặc trưng vlối sống, Việt Nam, do thuận lợi về điều kiện khí hậu
nóng m, mưa nhiều, những con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì
nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển nổi tiếng nhất nền văn minh
lúa nước. Do nghtrồng trọt buộc người Việt phải sống định đchờ cây cối lớn
lên, ra hoa kêt trái thu hoạch. với lối sống định dẫn đến dân Việt Nam
phải lo tạo dựng cuộc sống u dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng
tĩnh, tình cảm luôn gắn với quê hương xứ sở, với làng, nước… qua đó hình
thành lối sống đặc trưng ổn định, trọngnh, tự trị, kép kín, hướng nội.
dân Việt Nam do sống bằng nghề nông nghiệp n sự gắn bó, phụ thuộc o tự
nhiên lại càng dài u bền chặt, dẫn đến người n Việt Nam ý thức tôn thờ,
sùng bái ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Thực vật được n sùng nhất
cây lúa, Thần a, Hồn a, Mẹ a,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần y Đa,
Cây Cau,.. Người Việt Nam mở miệng nói lạy trời”, nhtrời”, ơn trời…Đó
chính là nguyên nhân sự ra đời của nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên phổ
biến các tộc người trên khắp mọi miền đất nước như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ là hình thức thờ ng Tam vị Thánh Mẫu cai quản các yếu ttự nhiên quan
trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người m nông nghiệp lúa nước;
tín ngưỡng Phồn Thực - loại tín ngưỡng tôn thờ sự giao phối - nguồn gốc của s
sinh sôi nảy nở là Việt Nam nền văn hóa gốc nông nghiệp, mùa màng ơi
tốt muôn loài sinh sôi (hai vấn đề ý nghĩa cùng quan trọng đối với đời
sống dân) nên n ngưỡng Phồn Thực phát triển mạnh bảo tồn lâu dài; các lễ
hội tín ngưỡng nông nghiệp gồm hội Cầu mưa , hội Xuống đồng, hội Đâm trâu, hội
Cơm mới,…
Về mặt tổ chức cộng đồng, cuộc sống định tạo cho người Việt ưa sống theo
nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một
cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Bán anh em xa mua láng
giềng gần”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “lụt thì lút cả ng”, …
Từ đặc trưng sự gắn cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ
ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh,
bạo lực. sống theo tình cảm, người Việt lối sống n trọng xử bình
đẳng, dân chủ với nhau. Đó nền dân chủ làng mạc, có trước nền quân chủ
phong kiến phương Đông nền dân chủ sản phương y. Lối sống trọng tình
cách cư xử dân chủ dẫn đến m coi trọng cộng đồng, tập thể. dân Việt
Nam làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
Trong truyền thống Việt Nam, lối sng định n định ổn định cần đến vai trò
chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng
công việc phù hợp với người phụ nữ, do đó vai t của người phụ nữ cũng được
tôn trọng, đề cao. Đặc trưng này hoàn toàn nhất quán nét. Phụ nữ Việt
Nam người quản kinh tế, tài chính trong gia đình người nắm tay m chìa
khóa. Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời”; Lệnh ông không
bằng cồng bà”…; còn theo kinh nghiệm dân gian thì “ruộng sâu trâu nái, không
bằng con gái đầu ng”. Phụ nữ Việt Nam cũng chính người vai trò quyết
định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang. tầm quan
trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa mẹ” đã mang
thêm nghĩa “chính, quan trọng”: sông cái, đường i, đũa cái, ngón tay cái,…
Không phải ngẫu nhiên vùng ng nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học
giả phương Tây gọi xứ sở Mẫu hệ” (le Pays du Matriarcat). Cho đến tận bây
giờ, các dân tộc ít chịu nh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn
toàn không chịu ảnh ởng nnhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai…), vai t
của người phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong n nhân, chồng về đằng
nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ… ng không phải ngẫu nhiên cho đến nay,
người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ phum, sóc
(mê=mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà.
nghề nông, nhất nghề nông nghiệp a nước, cùng một c phụ thuộc vào tất
cả mọi hiện ợng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa, trông
gió, trông ngày, trông đêm…) cho n, về mặt nhận thức, hình thành lối duy
tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng cái mà nời ng nghiệp quan m
không phải các yếu tố riêng rẽ, những mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Tổng hợp bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối
quan hệ giữa chúng. Người Việt ch lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong
phú về các loại quan hệ này: Qu tắm thì o, sáo tắm thì mưa”; Được mùa lúa
thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa”
Lối duy tổng hợp biện chứng cũng nguyên nhân dẫn đến lối ng xử mềm
dẻo, linh hoạt. Lối tư duy tổng hợp biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người
làm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt thích
hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết sống bầu thì tròn, ống thì dài”;
Đi với Bụt mặc áo -sa, đi với ma mặc áo giấy”…Tuy nhiên, lối duy tổng hợp
biện chứng, nặng về kinh nghiệm chquan cảm tính cũng thể hiện trong văn
hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn
sở khách quan tri thức khoa học. Kiểu duy thiên về chủ quan, cảm tính kêt
hợp lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.
Như vậy, với những đặc trưng đã phân tích trên, loại hình văn hóa Việt Nam được xem
loại hình văn hóa gốc ng nghiệp trồng trọt điển hình, đều được thể hiện nét trong
cách tchức đời sống phương thức tư duy, lối ng xử của người Việt được xem nét
đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.
Câu 3. Hãy nêu khái quát đặc điểm chính của các giai đoạn văn h
vai trò của mỗi giai đoạn trong tiến trình văn hoá Việt Nam .
Sự hình thành các đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam kết quả của một quá trình
lịch slâu dài, đồng nh cùng với tiến trình lịch sử hàng ngàn m dựng ớc giữ
nước của dân tộc. trong cuộc hằng trình hàng nghìn m ấy, văn hóa dân tộc đã trải qua
những bước thăng trầm ng lịch sử. thể khái quát tiến trình định hình nền văn hóa
truyền thống Việt Nam qua 5 giai đoạn chính sau đây:
- Tầng văn hóa bản địa (nội sinh) hình thành từ thời tiền s sử, nằm trong tầng
văn hóa Đông Nam Á trên nền tảng của nền văn minh lúa nước. Thời tiền sử n gọi là
thời kỳ đđá, được chia ra hai giai đoạn: thời đại Đá thời đại Đá mới. Đây là giai
đoạn hình thành những nền tảng đầu tiên của văn hóa khu vực Đông Nam Á. Các di chỉ
khảo cổ học tìm được khu vực đã cho thấy, vào thời tiền sử, ng như các khu vực khác
trên thế giới, dân khu vực Đông Nam Á đã trải qua một tiến trình lịch sử từ thời đại Đá
(chế c công cụ lao động bằng việc ghè, đẽo đá) sang thời đại Đá mới (chế tác công cụ
bằng cách mài đá). Trong đó, các cộng đồng dân bản địa sinh sống trên những địa bàn
ngày nay thuộc lãnh th Việt Nam đã bước vào cuộc nh trình sáng tạo văn hóa, với
stồn tại các nền n hóa tiêu biểu như: văn hóa Núi Đọ, văn hóa n Vi, văn hóa Hòa
Bình, văn hóa Bắc Sơn,…Còn thời sử thời kỳ hình thành nhà ớc khai đầu tiên
của Việt Nam nhà nước Văn Lang Âu Lạc, kéo dài trong khoảng 2.000 năm trước
Công nguyên, tương ng với thời đại văn minh đồ đồng. Trên nền tảng của nền văn minh
lúa nước n minh đồ đồng, cùng với sự hình thành phát triển của nhà nước n
Lang Âu Lạc, đã định hình phát triển rực rỡ một nền văn hóa n tộc trong buổi đầu
dựng ớc. Như vậy, tầng văn hóa nội sinh giai đoạn định hình những nền tảng đầu
tiên của n hóa bản địa Việt Nam, m tiền đề cho sự nh thành bản sắc n hóa Việt
Nam với sự kế tục, tiếp nối ở các giai đoạn sau.
- Tầng văn hóa ngoại sinh (văn hóa tiếp thu văn hóa đầu Công Nguyên) gồm những yếu
tố văn hóa được tiếp nhận qua qtrình tiếp xúc giao lưu với hai nền văn hóa lớn của
phương Đông là Trung Hoa Ấn Đtrong mười thế kđầu Công Nguyên. Mười thế kỷ
đầu Công Nguyên thời kquốc gia Âu Lạc bị đô hộ bởi các triều đại phong kiến Trung
Hoa nên còn gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Trong mười thế kỷ Bắc thuộc, nền văn hóa bản địa
vùng châu thổ Bắc Bộ đã được làm phong phú thêm bởi sự tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa
mới từ Trung Hoa. Về văn hóa vật chất, trong phương thức sản xuất nông nghiệp du
nhập các giống cây trồng mới tiếp thu một số kỹ thuật làm nông nghiệp mới. Về văn
hóa tinh thần, theo ớc chân quân xâm lược sự du nhập của Nho giáo, Đạo giáo
Phật giáo. Về văn hóa hội, từ thế kỷ IV trở đi, hội Việt Nam bắt đầu chuyển sang
chế độ phong kiến theo hình của chế độ phong kiến Trung Hoa, chế đgia đình mẫu
quyền bị thay thế hoàn tn bởi chế độ gia đình phụ quyền. Tuy nhiên, dù tiếp nhận thêm
nhiều yếu tố văn mới như là một qui luật tất yếu trong quá trình tiếp xúc, giao thoa n
hóa nhưng với lòng tự tôn dân tộc ý thức liên kế cộng đồng bền chặt, trong suốt mười
thế kỷ tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, người Việt không đánh mất bản sắc văn hóa
vẫn cố gắng để n giữ bảo tồn c đặc trưng văn hóa dân tộc. Nvậy, đặc trưng
bản của văn hóa giai đoạn này quá trình du nhập các yếu tn hóa phương Đông
(Trung Hoa Ấn Độ), dẫn đến sự thay đổi cấu trúc văn hóa bản địa thời sử, làm tiền
đề để hình thành cấu trúc văn hóa truyền thống Việt Nam thời phong kiến Đại Việt.
- Từ giữa thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX thời kỳ định hình các đặc trưng bản sắc của văn
hóa truyền thống Việt Nam. Về bối cảnh lịch sử, đây thời ktự chủ của quốc gia phong
kiến Đại Việt kéo dài gần mười thế kỷ, bắt đầu từ năm 938, khi Ngô Quyền chiến thắng
quân Nam Hán bằng trận thủy chiến nổi tiếng trên song Bạch Đằng, chấm dứt 1.000 năm
đô hộ của phong kiến phương Bắc. Đây là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử dân tộc
với sự hình thành của nhà ớc phong kiến Việt Nam, theo đó sự định hình những
đặc trưng bản sắc của nền n hóa truyền thống. Gần mười thế kỷ thời phong kiến Đại
Việt là giai đoạn định hình những đặc trưng bản sắc văn hóa truyền thống trên sở sự
dung hợp giữa n hóa bản địa văn hóa ngoại sinh, trên nền tảng của sự cộng ởng
bởi ba yếu tố văn hóa hạt nhân: văn hóa nông nghiệp lúa nước Nho giáo Phật giáo.
- Trải qua trường kỳ lịch sử tbuổi đầu dựng nước, đặc biệt qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý chí tự lực tự cường truyn thống lao động cần cù,
cha ông ta đã xây dựng được một nền văn hóa truyền thống với nhng nét bản sắc riêng
về cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần. Nền văn hóa vật chất dựa trên nền tảng nền văn minh
nông nghiệp lúa nước. Các đặc trưng văn hóa về lao động, sản xuất, sinh hoạt những
yếu tmang đậm dấu n của loại hình văn hóa ng nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể
hiện khả năng tận dụng, thích nghi ng phó linh hoạt của người Việt đối với môi
trường tự nhiên ng song ớc xứ sở thực vật. trong nền tảng đặc trưng văn hóa tinh
thần Việt Nam, các hệ tưởng tôn giáo ảnh hưởng, chi phối sâu sắc như Phật giáo,
Nho giáo, Đạo giáo đều được du nhập từ Trung Hoa, cùng tồn tại dung hòa với
nhau trong văn hóa truyền thống Việt Nam, trong đó Nho trị thế”, “Phật trị tâm”, Đạo
trị thân”. Ngoài ra, về tín ngưỡng, phong tục, lễ tết lễ hội cũng mang đậm bản sắc văn
hóa truyền thống Việt Nam. Văn hóa truyền thống Việt Nam là những giá trị cốt i định
hướng, chi phối hoạt động của các chủ thể toàn hội trong mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, hội, môi trường sinh thái, sở để xác lập các giá trị cốt lõi của nh -
con đường - thể chế phát triển của một quốc gia - dân tộc, xác lập các giá trị cốt i của
thể chế chính trị thực sự, các giá trị hội, lối sống hội, nền đạo đức hội thượng n
pháp luật, nhân n, nhân ái, tôn trọng quyền con người, quyn ng n sở để
tạo nên “sức mạnh mềm” trong phát triển.
- Văn hóa hiển nhiên không thể ổn định, bất biến khi hội những thay đổi mang
tính bước ngoặt. Sự thay đổi tính bước ngoặt của hội Việt Nam sau mấy mươi thế
kỷ tồn tại của hội phong kiến, trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước đó
cuộc tiếp xúc, giao u với phương y, khởi đầu từ văn hóa Pháp (1858 1945), sau đó
tiếp xúc với văn hóa M miền Nam (1954 1975) cuộc giao lưu văn hóa với các
nước XHCN Đông Âu diễn ra miền Bắc XHCN. Cùng với sự thay đổi nền tảng kinh tế -
hội của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa hiện đi hóa, các cuộc tiếp xúc giao
lưu văn hóa này những tác nhân trực tiếp dẫn đến quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa
Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại.
- Sau 1975, hai miền thống nhất, hội Việt Nam được qui về một mối, giao lưu văn hóa
được mở rộng. Qúa trình hội nhập giữa Việt Nam với thế giới đã khẳng định thái độ của
Việt Nam nhận toàn cầu hóa từng bước: tham gia hiệp hội c nước Đông Nam Á (khối
ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Thông qua các tổ chức quốc tế khu vực này, nước ta đã
chủ động tạo quan hệ đliên kết các giá trị khu vực, từng bước hội nhập thế giới. Văn hóa
trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần ch thích sự cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển khoa
học kỹ thuật, làm tang tốc độ phát triển kinh tế, ng mức sống của cư dân, rút ngắn thời
gian để theo kịp sự phát triển của thế giới nhờ việc áp dụng kinh nghiệm khoa học
công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời qua giao lưu văn hóa với thế giới, nền văn hóa
truyền thống Việt Nam sẽ được bổ sung, m giàu thêm bởi những giá trị văn hóa tiên
tiến của nhân loại.
Chương II . Đặc trưng văn hóa truyn thng Vit Nam
Câu 4 . Hãy chỉ ra s tận dụng , thích nghi ứng phó với môi trường tự
nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất .
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng ớc, đặc biệt qua mười thế ky dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự ờng truyền thống lao động cần cù, cha
ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của
nền n minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận dụng, thích nghi
ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Qua qtrình lao động sản xuất, cha ông ta đã rút gọn được một hệ thống kinh nghiệm
của nghệ thuật trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không được lưu truyền trong dân
gian, vẫn được tập hợp lại, chỉnh sửa thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân
(Vi dụ: cuốn sách Minh nông phả của Trần Cánh đời Lê; Nông gia thuật sử dụng kinh
nghiệm quyết định của Trần Ngọc Trác; Nông toàn đồ của Thúc Hoạch đời Nguyễn).
Để phục vụ cho nông nghiệp, cha ông ta ng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ truyn
thông rất phong phú, đa dạng, gồm hàng tram kiểu loại khác nhau.
Tất cnhững kinh nghiệm được kết hợp những thành tựu được tạo ra từ phương
thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng tận dụng, thích nghi
ứng phó với sự ưu tiên của người Vit đối với môi trường tự nhiên.
Sự tận dụng, thích nghi ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt cũng được thể
hiện nét trong n hóa ẩm thực qua lối ứng xử mêm déo, linh hoạt của dân ng
nghiệp Việt Nam. Trước hết việc ăn uông theo mùa, theo vùng miền, đó một biểu
hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên ng vừa một cách tự thích nghi
của nên kinh tế tiểu nông túc tự cấp. Tính linh hoạtng thế hiện việc chế biến lựa
chọn thế (điều hòa âm - dương, nóng - lạnh), giữa thể với môi các món ăn để điều
chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của cơ trường để đối phó với thời tiết.
Trong văn hóa trang phục Việt Nam, người Việt thường sử dụng các chất liệu sẵn
trong tự nhiên, mỏng, nh nguồn gốc từ thực vật, mang đậm dấu ấn nông nghiệp
trồng trọt, sống xứ nóng nên chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như: tằm,sợi bông, sợi
đay, sợi gai… Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt là màu nâu (màu đất)
màu đen (màu bùn). Điều đó ng phản ánh phong cách truyền thống của người VN là ưa
sự kín đaó, giản dị, đồng thời cũng thể hiện sự thích nghi với môi trường sống sinh
hoạt của nghề nông trồng a ớc. Ngoài ra chiếc nón cũng một bộ phận m theo
không thể thiếu trong trang phục của phụ nữ VN truyền thống. n vành rộng
mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm mưa nhiều. Trang phục truyền thống của nam giới
thường ngày áo cánh, quần tọa phù hợp với khí hậu nóng bức ng việc đồng áng.
Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ.
Về văn hóa sinh hoạt, vật liệu làm nhà sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa… thể
hiện khả ng sáng tạo trọng việc thích nghi tận dụng các ĐKTN. Mang đậm dấu ấn
của vùng sông nước với nhà sàn kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả miền sông nước
lẫn miền núi để ứng p với những tác động xấu của môi trường (tránh côn trùng, thú dữ,
lũ, ngập lụt…). Sang thời phong kiến thì nhà đất bằng phổ biến, song dấu ấn văn hóa
song nước n thể hiện kiểu nhà mái cong phỏng mũi thuyền, thậm chí cư n sông
nước còn dùng thuyền làm nhà ở hình thành nên c xóm chài. Không gian ngôi nhà Việt
không gian mở, cửa rộng, thoáng mát, giao hoà vs tự nhiên, xung quanh có cây xanh
bao bọc che chở. Về việc chọn hướng nhà chọn đất làm nhà, hướng nưa thích của
người Việt hướng nam hoặc đông nam, các hướng này stận dụng được gió mát từ biển
thổi vào và tránh được nắng nóng.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ m phát triển lối sống định nên dân ít có
nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa
các vùng do sông ngòi y đặc. Do đó, chỉ mới những con đường nhỏ, dân chủ
yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu.
Giao thông đường thủy do địa hình nhiều sông ngòi, bờ biển kéo dài t Bắc chí Nam nên
người Việt đi lại chủ yếu bằng thuyền, ghe, xuồng,đò...Vì đường thủy chiếm ưu thế n
phần lớn đô thị c cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Ph Hiến...). Cuộc
sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên nh ảnh ng sông, con đò đã ăn sâu vào
trong tư duy, trong cách ng (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến
chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước
như lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, đi lại những hoạt động để đáp ng các nhu
cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sứng xử n hóa của con người với
môi trường tự nhiên. Qua đó, thể hiện nét dấu ấn loại hình văn hóa nông nghiệp trồng
trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi ng plinh hoạt với môi trường
sông nước và xứ sở thực vật.
Câu 5. Hãy phân tích sự ng xử văn hoá của người Việt với môi trường
xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử tbuổi đầu dựng nước, đặc biệt qua mười thế ky dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự ờng truyền thống lao động cần cù, cha
ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của
nền n minh ng nghiệp a nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của
người Việt với môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sn xuất tiêu
nông tự túc tcấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng kinh tế của
hội Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định
hình từ thời Văn Lang - Âu Lạc duy trì trong suốt ngàn m Bắc thuộc, trong quá trình
xây dựng quốc gia tchủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông
các chính sách khuyến nông tích cực. Bằng những công cụ dệt thủ ng, với các loại
nguyên liệu phong phú trong tnhiện như: chuối, sợi đay, sợi gai, m và sợi ng,
những người ththủ công đã dệt ra nhiều loại vải, lụa rất phong phú, không chỉ đáp ng
được nhu câu may mặc trong ớc n bán nước ngoài. Như vậy, từ thời Hùng Vuơng
dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại Việt, phương thức sn xuất nông nghiệp a
nước được duy trì phát triển với vai trò kinh tế ch đạo. Cùng với nghnông sự mở
rộng phát triển các làng nghề thủ ng phục vụ cho các nhu cầu sản xuất sinh sống
hàng ngày. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiêu nông t
cung t cấp, các quan hệ giao luu bị hạn chể, do đó sản xuất nông nghiệp thủ ng
nghiệp chỉ dừng lại quy nhỏ của nên kinh tế tiêu nông đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng chứ không thế vuơn tâm phát triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
Trong văn hóa ẩm thực, bữa ăn của người Việt ăn chung, các thành viên trong bữa ăn
liên quan phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm). mang nh
cộng đồng nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyn. Do lối sống cộng đồng
cùng với sự chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc n người Việst rất
coi trọng nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền chắc
ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: u, đen,
chàm…phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ,
vàng…) chỉ mặc vào dịp lhội người Việt rất ý thức về việc làm đẹp (Người đẹp
lụa, lúa tốt phân). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm,
áo tứ thân,quần nh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như
một trong những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người u.
Trong các dịp lhội, phnữ mặc áo i (tứ thân hoặc m thân với nhiều màu sắc). Trang
phục truyền thống của nam giới thường ngày áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu
nóng bức công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần
ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường hội, trang phục của người Việt thể hiện quan
niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
Về văn hóa sinh hoạt, ngôi nhà một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
cuộc sống định ổn định (an lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính
cộng đồng. Nếu nkiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập
thì nhà Việt truyền thống 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong
gia đình, các gian nhà thường để thông nhau, không vách ngăn. Ranh giới giữa các nhà
hàng m cũng thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt, ruối,
mồng tơi..) được xén thấp để dễ qua lại.
Về n hóa đi lại, giao thông đường bộ m phát triển lối sống định cư n ân ít
nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp n hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa
các vùng do sông ngòi y đặc. Do đó, chỉ mới những con đường nhỏ, dân chủ
yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. giao thông
đường thủy đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị các cảng sông, cảng biển
(Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước n
hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái,
gái theo chồng; Thuyền về nhbến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói
theo cách của người đi trên sông nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sn xuất, ăn, mặc, đi lại những hoạt động để đáp ứng các nhu
cầu cần thiết của con người, đồng thời ng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với
môi trường xã hội.
Câu 6. y ch ra mối liên hgiữa thuyết Âm ơng Ngũ hành với sự
nh thành các triết lý sống ca người Vit.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm ơng ngũ hành, đây hệ
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất qui luật tồn tại của vạn vật
trong trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống hội con người. Do sự giao
hòa giữa các mặt đối lập (âm ơng) trong trụ con người nên mới tạo ra những sự
vật mới. Trang n hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã sẵn ý niệm về sự tồn tại các
cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối
xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. sở để thuyết âm dương
ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thn của người Việt, trở thành sở nhận
thức, từ đó người Việt hình thành triết sống cho mình truyền cho thế hệ sau thể
hiện qua các mối liên hệ với: Mối quan hệ giữa thuyết âm ơng ngũ hành với triết về
sn xứng, cặp đôi: trong m thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp
đôi, ơng ng, cân bằng ân dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui
luật. Các cặp âm dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất,
đất/nước… Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết sống quân bình, hài hòa âm
dương: từ triết âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân
bằng, hài hòa âm dương tmới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống
theo triết quân bình, duy ttrạng thái âm dương trừ nhau từ việc ăn uống tời việc
làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất
lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận với những mình đang có, không
hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan. Như vậy, về mối quan hệ giữa
âm dương ngũ nh với triết sống lạc quan của người Việt do nhận thức được qui luật
trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường cái nhìn bình tĩnh,
lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi may, trong hỏa phúc, nhận thức được qui luật
chuyển hóa âm dương nên cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ
hành giúp cho con người có một triết sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá s
dẫn đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 7. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Phật giáo Việt Nam
vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người
Việt xưa và nay ( ảnh hưởng đến Pháp luật ).
Phật giáo Việt Nam đã hơn 2.000 năm lịch sử. tkhi du nhập, Phật giáo đã được người
Việt bản địa hóa, khiến nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy của văn
hóa dân tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam với các đặc điềm nổi bật như
sau:
Về khuynh ớng nhập thế, giáo của Phật giáo cứu khổ cứu nạn, phđộ chúng sinh,
luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các
hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều nđồng
thời nhà đồng thời thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo Phật giáo được người Việt
cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.
Tính tổng hợp một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến thái
độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo dung
hợp các n ngưỡng truyền thống văn hóa bản địa; dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành
Hoàng, Thổ địa…; dung hợp giữa các tong phái Phật giáo. Việc dung hợp giữa Phật giáo
với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo bổ sung cho nhau đcùng hướng về một
mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng
văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua ng ngàn ngôi chùa trên
khắp mọi miền đất nước. Với người n Việt, giáo phật giáo đã thấm sâu vào triết
sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức lòng hướng thiện, nơi an của m hồn
trung m sinh hoạt cộng đồng cũng nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã
lịch stừ lâu Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống ngàn m của tổ tiên”. đến
ngày nay, trong số các tôn giáo mặt Việt Nam, Phật giáo vẫn tôn giáo lớn nhất,
ảnh hưởng sâu sắc rộng rãi nhất. Hiện nay, số ợng người đi chùa ngày ng đông,
niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày rằm, mồng một, treo ảnh
phật bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai t của Phật giáo trong đời sống
văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa nay
( nh hưởng đến Pháp luật ) gồm những tác động tích cực như trong việc điều chinh ý
thức hành vi của con người theo triết sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha, khuyến
thiện tử ác" đã giúp hạn chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phn dem tưởng,
giáo của Phật giáo đã góp phần quan trọng lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống.
Tuy nhiên vẫn những tác động tiêu cực như việc khuyên con người tự tiết chế các hành
vi của mình nh bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm chi nhẫn nhục, Phật giáo
đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả ng hành động đầu tranh của con người khi
cần phải bào vệ ng lý, lẽ phải. Do ảnh hưởng bởi thuyết "luân hoi", "quả báo" của Phật
giáo, nhiều người Việt thường không chủ động sử dụng luật pháp công cụ bảo vệ mình
khi quyền loi bị m hai, chon phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự
trừng phạt của luật Trời hơn luật pháp, vậy từ đây cung không hình thành thói quen
sdụng công cu luật pháp trong đời sống dân sự.
Câu 8. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Nho giáo Việt Nam
vai trò của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người
Việt xưa và nay ( ảnh hưởng đến Pháp luật
Nho giáo một học thuyết chính trị - đạo đức , một hệ thống quan niệm tưởng giáo
nhằm tchức, duy trì sổn định của trật tự hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị. Du
nhập vào VN tthời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt 1.000
năm, Nho giáo chưa được chỗ đứng trong dân Việt. Sang thời Đại Việt, Nho giáo
nội dung chủ yếu được giảng dạy trong ntrường nên càng được phổ biến rộng rãi. Từ
đó Nho giáo chiếm lĩnh dần luôn cả nh vực chính trị tưởng n hóa tinh thần,
ảnh hưởng về Pháp luật của người Việt xưa và nay .
Nhà nước phong kiến Việt Nam chđộng tiếp nhận Nho giáo chính để khai thác những
yếu tố thế mnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức quản đất nước. Trước
hết nớc quân chủ Việt Nam đặc biệt các triều , Nguyễn đã học tập rất nhiều
cách tchức triều đình hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn người i bổ dụng,
trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt Nam vận dụng ngay từ đầu thời
hoàn thiện dần thời Trần hoàn chỉnh vào thời Lê. Thời Tây Sơn vua Quang Trung
đã mrộng sử dụng chữ m trong lĩnh vực hành chính giáo dục. rất nhiều yếu tố
của Nho giáo khi o Việt Nam đã biến đổi cho phù hợp với truyền thống của văn hoá
dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách hiểu thì đã khác nhiều”.
Về chữ Trung Hiếu, trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn
giữa Vua đất nước với dân tộc, tđất nước dân tộc luôn cái quyết định, được đặt lên
trên hết. tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên sở tinh
thần yêu ớc tinh thần dân tộc sẵn khiến cho đã bị biến đổi, Trung quângắn
liền với “Ái quốc”. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hoàn toàn:
Không phải Trung với Vua” Trung với nước” chữ Hiếu với nội dung được mở
rộng đến cùng đó Hiếu với n”, chứ không còn hạn hẹp nkhái niệm của Nho
giáo xưa kia. Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức : cha mcòn con
không được đi xa,và Bất hiếu hữu tam, hậu vi đại”. Tức là: ba tội bất hiếu, tội
không con nối dõi tội nặng nhất. Chính đặt đất nước n hết, một người dòng
dõi Nho gia như HChí Minh m đi ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc dân
tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hp của Nho gia, để ra đi tìm
đường cứu nước. Người không lập gia đình đhy sinh tất cả cho đất nước, non sông. Như
vậy, chữ hiếu đã được m rộng vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với
chữ Trung một,và chữ Trung cũng mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy
của Bác đối với quân đội cách mạng.
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chtrương Coi trọng người hiền tài”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay tnhững năm
sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ, đã một tầm nhìn rộng lớn, đra
giải quyết nhiều vấn đvượt trước thời đại. Người thấu hiểu vai trò của trí thức, đã trân
trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước. Ngay từ m 1946 Người nói
đến việc diệt trừ giặc dốt” ngay sau khi tuyên bố độc lập 4/10/1945. Người phát động
phong trào “Bình n học vụ” nhằm chống nạn thất học. vậy việc coi trọng giáo dục,
đào tạo nhân tài cho đất ớc chính một trong những mục tiêu quan trọng cấp thiết
mà Đảng nhà nước ta hết sức quan m. Hiện nay Đảng nhà ớc ta, ngay cả các địa
phương, đã lập ra các quỹ học bổng , quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở
học sinh, sinh viên nghèo hiếu học, đó ng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người
hiền tài trong xã hội ngày nay.
Nguyên khí mạnh tquốc gia thịnh…”
Đó không chỉ quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc, từng quốc gia, còn luôn
luôn mới đúng trong phạm vi hẹp hơn mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm chí đúng
cả phạm vi gia đình tế bào của hội. Một thực tế chúng ta đã biết Bình Dương
xưa vốn một tỉnh giàu tìm năng về mọi mặt, nhưng do chế cũ, nên nghèo nàn lạc hậu
chậm phát triển. Từ khi chủ trương Chiêu hiền đãi sĩ” Trãi chiếu hoa mời gọi đầu
tư”đã trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển giàu và mạnh.
Về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chữ Nhân chính lòng
thương người, ch sống đối với mình, đối với người cũng giúp cho người thành đạt,
những mình không muốn thì chớ đem đối xử với người (kỷ sở bất dục,vật thị ư nhân)
Khi Nho giáo du nhập o Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm đắc
trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Trong hội ngày nay vẫn
được coi trọng thể hiện qua cách hiểu ch sống: Mình mọi người, mọi người
mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp
nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá Ông bà, cha mẹ mẫu mực con
cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong hội như lành đùm
rách”… Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị phải
đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng… Chữ Nhân phải gắn liền với
chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì
cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ. Lễ Nhân là hai yếu tố quan hệ mật thiết
không thể tách rời nhau; Nhân chất, nội dung là linh hồn của lễ, lễ hình thức biểu
hiện của Nhân. Nhờ Trí con người mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết đạo ,xét
đoán được sự vịêc, phân được phải trái, thiện ác đtrao dồi đạo đức hành động hợp lý
với thiên lý.Nhưng muốn đạt được chữ Nhân,có trí thôi chưa đủ cần phải Dũng,
Dũng không phải vào sức mạnh, chỉ biết lợi ích nhân suy nghĩ hành động
bất chấp cả đạo lý. Người Nhân Dũng phải là: Người thể tỏ ý kiến mình một
cách cao minh, thể hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc,khi người đời
gặp phải hoạn nạn…”
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng phương tiện để giáo hóa con
người góp phần ổn định phát triển hội . Nhạc chính trực. trang nghm, hoà nhã
tác dụng di dưỡng tính tình cảm hoá lòng người, hướng m người ta tới cái chân, thiện,
mỹ do sự ứng cảm trong tâm với sự hài hoà của âm nhạc. Nvậy chúng ta thể hiểu
một cách khái quát: Người cai trị, người quân tử phải người một vốn văn hoá toàn
diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện quan điểm toàn diện trong giáo dục đào tạo.
Trong đạo đức của hội, được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài Đức, Hồng
Chuyên. Hồ chủ tịch dạy. Để được cái tài đức y, mỗi con người cần phải được rèn
luyện ngay từ khi n nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp câu
khẩu hiệu: Tiên học lễ hậu học n” trong các trường học, cùng với năm điều Bác dạy
thiếu niên nhi đồng. Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở
thành con người toàn diện phải thực sự ơng mẫu về mọi mặt. Hồ chủ Tịch dạy phải cần
kiệm liêm chính, phải chí công vô tư, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Nho giáo cũng ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam cũng như cách ứng xử của người Việt
đối với Pháp luật VN. Từ xưa, truyền thông luật pháp của các châu Á như Việt Nam,
Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ Triều Tiên, Hàn Quốc về bản có những điều
đặc biệt giống nhau. Đó ảnh hưởng của Nho giáo quan niệm chung về pháp luật
nặng về pháp luật hành chính, nhẹ về dân luật. Đê trị nước, theo Nho giáo cần có bốn
yếu tố là: lễ, nhạc, hình, chính. Lễ để hòa âm của dân, nhạc để hòa âm của dân, chính trị
để làm việc, pháp luật ngăn điều xấu. Một trong những nền tảng nền tảng của Đạo luật
Không khái niệm về hài hòa trong trụ. Các nhân thể nói về phn bản một
bộ phận trong sự hài hòa đó, nên luôn luôn phải tự do nhường, giữ cho mình tuân thủ
các quy tắc xử theo quan điểm đạo đức trong hội. Các quy tắc dựa trên những tập
quán lâu đời, tuy nhiên phức tạp nhưng cân đối, chặt chẽ thay đổi theo mối quan hệ
giữa c thể. Như vậy, hệ ởng của Nho giáo hệ tưởng đcao vai tcủa đạo
đức lễ nghĩa trong quản hội, đồng thời nhấn mạnh rằng người làm vua muốn cai
trị hội lâu dài thì phải dựa vào dân, lấy dân m gốc nguyên tắc bản trong
tưởng chính trị và pháp luật của người cai trị.
Ngày nay, trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam, trong mỗi ng
Việt Nam, trong sinh hoạt cộng đồng, trong chức hoạt động của bộ máy nhà
mước, trong tinh thần của dân tộc vẫn côn thẩm đượm những tưởng của Nho giáo. Tuy
nhiên, trong phạm vi quốc gia, nếu không một định hướng đúng đắn t những giá trị
tích cực của Nho giáo sẽ bị mai một, di sản qbáu đó trong văn hoá dân tộc sẽ không
được phát huy, lớp bụi thời gian ngày càng phủ dày dần dần sẽ vùi lấp nó. Trách nhiệm
của những người nghiên cứu văn hoá nói chung văn hoá pháp luật nói riêng phải bảo
vệ phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Tinh thần của Nho giáo
trong cai trị hội phải biết kết hợp lễ, nhạc, hình, chính" trong quản xây dựng
hội. Điều này cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự. Nhờ lễ" con người Việt
Nam thường sống điều đ biết kính trên, nhường dưới", biết ăn trông nồi, ngồi trông
hướng", biết sống trước, có sau". Từ cách ăn, mặc, đi, đứng, nằm, ngồi, đến nói, cười,
nhày, múa, ca hát người Việt Nam thường chừng mực không thái quá. Chính sự chừng
mực, điều độ như uống không quá say, ăn không quá no, nói không quá lời, áo không quá
hở, váy không quá ngắn, c không quá dài trật tự hội được thiết lập. Như vậy,
trong hội hiện đại ngày nay, vai trò của pháp luật được đcao, không những pháp luật
hình sự như thời xa xưa cả pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình... Tuy
nhiên, điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo đức các thuần phong, mỹ tục
người Việt Nam đã y dựng hàng nghìn năm nay. Nếp sống hiền hòa, nhân hậu, lưrơng
thiện của người Việt Nam trong con mắt người nước ngoài chính sản phẩm n hóa
được hun đúc từ hàng nghìn m mới được, trong đó tưởng Nho giáo đóng góp một
phần không nhỏ. Sự hòa quyện của nhng quy tắc pháp luật, đạo đức, tôn go, phong tục
tập quán đã tạo n một trật tự hội người Việt Nam nhiều khi chỉ cảm nhận được
bằng linh cảm hoặc bằng kinh nghiệm sống của mình. n hóa pháp luật Việt Nam như
một tàng băng, phần nổi chỉ là rất ít, chủ yếu phần không nhìn thấy ới tầng sâu, đôi
hỏi phải nghiên cứu, khám phá để thể đưa ra những phương hướng, giải pháp đúng đắn
nhằm làm cho nó ngày càng phong phú và giàu có hơn trong đời sống pháp lý.
Tuy nhiên, vẫn những mặt hạn chế nviệc tuyệt đối hóa tính n ti, thứ bậc ngun
nhân làm hạn chế ý thức về quyền cả nhân, hệ quả trực tiếp striệt tiều ý thức phản
biện/ phản kháng của con người, đó cũng nguyễn nhân làm hạn chế việc sử dụng công
cụ pháp luật đbảo vệ quyền nhân. Vi chủ trương đcao đức trị hơn pháp trị nên Nho
giáo khuyên khích "vô tụng". Khổng Tử cho rằng: Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như
người. Tất phải làm cho dân không việc kiện tụng". Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức
trị với pháp trị khiến cho sự phân cách giữa đạo pháp là một ranh giới mờ, nhập
nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong c bộ luật thời phong kien Việt Nam, "Tam
cương", "Ngũ thường" đạo ly nhưng ng đồng thời pháp lý. Điều này dẫn đến hệ
quả
Như vậy, trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam Nho giáo đã bộc
lộ những nét tương đồng dị biệt, đã được Việt Nam hóa, m cho Nho giáo
Việt Nam không n trạng thái nguyên của nữa phù hợp với đời sống tưởng
văn hóa tinh thần của người Việt xưa nay. việc xét xử các vụ án thường ktránh
khỏi hiện ợng tội đồng luận dị" (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do nh
chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Tóm lại, trong nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Nho giáo đã ảnh ởng chi
phối sâu sắc toàn diện mọi mặt của đời sống hội, xét cả hai mặt tích cực tiêu cực.
Câu 9. y chỉ ra dấu ấn của n h nông nghiệp ảnh hưng đến n
hóa giao tiếp ứng xử của nời Việt , theo các bn những đặc điểm giao
tiếp ng xử nào cần đưc gi gìn và phát huy .
Giao tiếp ng xử một hình thức biểu đạt văn hóa của nhân, cộng đồng knét.
Do s chi phối của lối sống nông nghiệp tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng
xử của người Việt có những đặc điểm cơ bn sau đây
- Do nền n hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt coi
trọng việc giao tiếp thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem một nghi thức ứng xử
văn hóa quan trọng của người Việt “lời chào cao hơn mâm cổ”, thích thăm viếng nhau,
coi việc thăm viếng nbiểu hiện của nh cảm, nh nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ
giàu tính hiểu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
- Về cách ng xử trong giao tiếp của người Việt, người n Việt Nam thường thích m
hiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan m đến những thông tin nhân của
đôi tượng giao tiếp (tuổi tác, q quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...). Đặc
điểm này cũng nguyên nhân từ tính cong đông lôi sống trọng tinh (quan m đến
ngưoi khác). Tuy nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng nh cảm hơn trí.
Trong thực tế người Việt Nam vẫn coi trọng cái tình” hơn cả, bất đắc lắm mới dùng
cái lý” để giải quyết những mâu thuẫn. “Cái tình” sẽ làm cho người gần người hơn. Xử
s với nhau bằng cái tình” rất đẹp, để rồi một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”, để
không phải hối hận về sau. Người ta thường nói “tình làng nghĩa m lúc tắt lửa tối
đèn” là để nhấn mạnh cái tình”, chứ ít ai đưa cái lý” ra làm thước đo con người. Tuy
nhiên, cũng trọng tình hơn lý nên trong một số trươờng hợp nh hưởng tiêu cực đến đời
sống người dân Việt. không giải quyết theo chỉ lụy tình, người Việt thường
thói quen: Người càng thân ta tcàng đúng hơn. Thậm chí việc người nhà ta, người
làng ta, người quan ta sai lè, không còn ch nào khác, người đứng ra nh vực bảo:
Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. thế mọi người mới kiểu xưng hùng
xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
Tiếp theo, trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt cách xưng theo quan hệ
thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như con họ hàng: cô, bác, chú, , cháu, con...
Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn giá trị
vật chất (Tốt danh hơn nh áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng giữa làng bằng
một sàng bếp; Trâu chết đda, người ta chết để tiếng...). coi trọng danh dự nên nghi
thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính n ti, thứ bậc. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn
định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ c lời chào theo
quan hệ hội theo sắc thái nh cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động
lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi
sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối….
Chính qcoi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh diện đời muôn sự
của chung, hơn nhau một tiếng anh ng mà thôi”; “đem chuông đi đánh nước người,
không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “một quan tiền công không bằng một đồng tiến
thưởng”;.. trọng danh dự diện nên người Việt rất sợ luận, bởi vậy, luận trở
thành một thứ khí lợi hại, một sợi dây hình để ràng buộc nhân với cộng đồng,
nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thắng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo tam quốc"
để đưa đẩy, tạo không kthân mật thăm dò thái đcủa đối tượng giao tiếp. Chính sự
đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam nhược điểm thiếu nh quyết đoán.
Để tránh phải quyết đoán, đồng thời để không làm mất ng ai, để giữ được sự hòa
thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười một bộ phận quan trọng trong
thói quen giao tiếp của người Việt; người ta thể gặp nụ ời Việt Nam vào cả nhng
lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý
tứ trọng sự hòa thuận. Người Việt thường không biểu ltrực tiếp cảm úc của mình với
đối tượng giao tiếp thông qua các câu ca dao, thành ngữ, t ca thường dùng hinh
tượng ẩn dụ, bóng gió “tram dâu đmột đầu tằm”; “tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu i,
ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm nhường
nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lơi mà nói cho
vừa long nhau; Một sự nhịn, chin sự lành”;… hệ quả của việc giữ ý, cả nề dẫn đến
thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp người khôn ăn
nói nửa chừng, để cho ngưrời dại nửa mừng nửa lo; “uốn lưỡi ba lần trước khi nói...).
Chính thói quen ng xử nặng tinh cảm hơn trí thái độ giữ ý, cả nể, thiếu nh quyết
đoán trong giao tiếp đã khiến cho ngươi Việt không m thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái
chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu
cực để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng
xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của n tộc Việt
Nam qua hàng nghìn m dựng ớc giữ nước. Đó cũng chính sức mạnh mềm m
nên nét đẹp chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. vậy, mỗi nét đặc
trưng n hóa ứng xử giao tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền văn
hóa ứng xử muôn màu, phong phú thấm đẫm nh người của người Việt. Nếu xét đến
những nh hưởng tiêu cực các đặc trưng n hóa ng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật
tất yếu đêu phải những mặt tích cực mặt tiêu cực, hai yếu tố này luôn song nh
cùng nhau nánh sáng bóng tối, nếu không ánh sáng thì không thể nhận diện được
bóng tối sẽ như thế nào. lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu cực này thể thông
qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn phát huy các đặc trưng
văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói
chung.
Câu 10. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống ,
qua đó chỉ ra vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách
nhân
Văn hoá gia đình truyền thống Việt Nam toàn bộ những giá trị, chuẩn mực truyền
thống của gia đình Việt Nam trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, mối
quan hệ giữa gia đình với hội được nh thành phát triển qua lịch sử lâu dài của đời
sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên
hội. Đó là những giá trị được kết tinh của kiểu gia đình truyền thống Việt Nam qua hàng
ngàn năm lịch sử gắn với nền văn hoá nông nghiệp lúa nước cốt lõi quan hệ văn hoá
gia đình Nho giáo phương Đông. Do sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp
và tư tưởng Nho go nên văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
Từ lâu truyền thống Việt Nam đã dành cho gia đình một chỗ đứng quan trọng không chỉ
trong công việc xây dựng hội quốc gia, cả trong việc đào tạo con người nữa.
Truyền thống văn hóa Việt Nam coi gia đình con đường phải qua nếu các nhân
muốn thành đạt được nh trọng ngoài hội. tưởng này đã ăn sâu trong quan niệm
thăng tiến hôi của con người Việt Nam: muốn n định thiên hạ tphải khả năng trị
quốc; muốn trị được quốc điều trước tiên phải tề gia. Phần quan trọng nhất trong văn
hóa làm người Việt Nam phải tuân thủ gia đạo. Đạo con đường dẫn tkhởi điểm tới
đích điểm. Gia đạo chính những nguyên tắc bản ổn định, những bổn phn phải
làm những điều phải tránh trong sinh hoạt gia đình. Đây chính là cái khung tiêu chuẩn
của đạo con người. Những điều nầy được chỉ dạy cho mọi thành viên trong gia đình.
Khi mọi người một mực trung thành tuân giữ, người ta gọi người có gia giáo. Một cách
đơn giản, gia giáo sự chỉ dạy cách ăn nết trong gia đình, ngoài hội, nơi làng nước.
Thường những lời chỉ dạy nầy xuất phát tkinh nghiệm sống của người trước về cách
xử, phép tắc, ti tục; các kinh nghiệm này đã được hội hóa. Người lớn trong gia đình
đóng vai trò làm ơng sáng, chỉ dạy cho trẻ nhỏ. Một gia đình gia giáo gia đình
nề nếp, tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới.
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn m lịch sgắn với nền
văn hoá nông nghiệp a nước nên mang tính cộng đồng lối sống trọng tình. Mỗi gia
đình thường ba, bốn thế hệ cùng chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng
đường), vậy c thành viên trong gia đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa
vào nhau (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng;
Anh em như thể tay chân...). Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt đối của
tập thể gia đình đối với mỗi thành viên), tinh thần lợi ích chung, vừa coi trọng đúng
mức vai trò nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn trọng giới hạn tự do nhân.
Tuy nhiên, rất d nhận thấy tính cộng đồng, tính tp thể thường lấn át, tới mức, người
phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
Người Việt Nam quen với đời sống nông nghiệp, gần gũi với trời đất, thiên nhiên vạn
vật. Ngôi nhà của gia đình Việt Nam nép mình bên dòng suối, bờ sông, ới gốc đa, tàn
lá, được bảo bọc che chở bởi lũy tre xanh, bởi đồng a vàng, luôn tìm snương tựa vào
thiên nhiên, đất trời. Người Việt luôn ý thức trên đầu mình, trong nhà ngoài ngõ, nơi sông
núi ngoài đại dương luôn những lực lượng thần thiêng chi phối cuộc sống an sinh
của mình. Tình cảm tín ngưỡng nầy đã ăn sâu trong văn hóa gia đình Việt Nam. Các lễ
nghi cúng vái thờ thần luôn được thể hiện trong cuộc sống gia đình làng nước. Tin vào
lẽ phải thiêng liêng đó là lẽ trời luôn thúc giục người ta biết ăn ngay lành, làm điều
thiện được phúc đức, m điều ác sẽ bị quả báo trừng phạt Ai ơi, chớ đầy vơi. Trời cao
không phụ lòng người hiếu trung.” Người thành công trong công ăn việc làm, cha mẹ
đông con, gia đạo bằng yên hạnh thông đều nhờ lộc trời, ân đất. Quan điểm về phúc đức
nầy đã ăn sâu o m hồn Việt Nam: trời cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Nhưng phúc đức cũng có thể do bởi ông cha mẹ nữa, Cây xanh thì lá ng xanh. Cha
mhiền lành để đức cho con.”
Tổ chức gia đình theo chế đphụ quyền do sự ảnh ởng cốt i quan hệ văn hgia đình
Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ quyền uy tuyệt đổi chịu
trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ y; Cha mẹ đặt đầu con
ngồi đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu nh hưởng nặng nề về tư tưởng phong
kiến, phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam ng tư đức, chấp nhận gia đình đa thê,
"trai chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"...,Quan niệm gia đình
đông con là phúc đức của ông bà, ng đã xuất phát từ thực tiễn của cuộc sống nông
nghiệp. Sinh con là để người lo việc đồng áng, lập gia đình đ người phụ giúp
nông trang.
tưởng Nho giáo chế độ gia đình phụ quyền nguyên nhân của quan niệm trọng
nam khinh nữ (nam n nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây nguyên nhân
gây ra nhiều thiệt thòi bi kịch cho thân phận phụ nữ trong hội phong kiến. Trong
thời kỳ phong kiến, c bấy giờ quyền của người đàn ông là hạn. Từ quyền phân công
lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia
đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành lệ. Người đàn ông quyền đánh đập. bán
vợ, đợ con”, hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền lực chính trong
gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai tcủa hvẫn là không thể ph
nhận đối với gia đình và xã hội.
Vai trò:
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn một thiết chế hội tồn tại mang tính bền vững,
gia đình luôn tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người tkhi cất tiếc khóc
chào đời đến khi mất đi. hoàn cảnh nào, điều kiện nào tgia đình vẫn luôn nhân t
tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng quan
trọng của gia đình đó là: Tái tạo sản xuất ra con người; tái tạo sức lao động, sản xuất ra
của cải vật chất cũng i gìn giữ phát huy giá trị tinh thần cao qúy của dân tộc;

Preview text:


Câu hỏi ôn thi - đề cương ôn thi Đại cương văn hóa Việt Nam
Tâm lý học Đại cương (Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh)
Câu hỏi ôn tập thi học kỳ
Chương 1. Khái quát về văn hoá Việt Nam
Câu 1. Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hoá gốc chăn nuôi du
mục và văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là tiêu chí quan trọn để
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân tộc dù
phong phú và đa dạng đến mấy cũng đều có nguốn gốc xuất phát từ một trong hai loại
hình văn hóa gốc là văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt.
Giữa hai loại hình văn hóa gốc này có sự khác nhau mang tính tương đối căn cứ vào yếu tố trội như sau:
• Về điều kiện tự nhiên và môi trường:
- Loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở
phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề
truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa là chăn nuôi.
- Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương
Đông gồm Châu Á và Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những
con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển. • Về đặc trưng:
- Đặc điểm đầu tiên là về lối sống, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục ở
phương Tây phổ biến với nghề chăn nuôi gia súc, đến mức trong Kinh Thánh từ
cừu được nhắc tới 5.000 lần, tín đồ được gọi là con chiên, Chúa là người chăn
chiên. Lịch sử cho biết người phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê, ăn thịt và
uống sữa bò, áo quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. Như vậy, vì là
loại hình chăn nuôi gia súc đòi hỏi họ phải sống du cư, nay đây mai đó, tạo thành
thói quen, lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại. Còn loại hình văn
hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm,
mưa nhiều, có những con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu,
thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển. Do nghề trồng trọt buộc con người phải
sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống
định cư dẫn đến cư dân nông nghiệp phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, không
thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, hướng nội.
- Ở đặc điểm thứ hai về cách ứng xử với môi trường tự nhiên, đối với loại hình văn
hóa gốc chăn nuôi du mục vì luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không
phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi thường thiên nhiên và có tham vọng
chinh phục, chế ngự tự nhiên. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở
phương Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân rất tôn
trọng và sùng bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
- Đối với đặc điểm thứ ba về tính chất xã hội, vì sống du cư nên tính gắn kết cộng
đồng của dân du mục không cao, đề cao tính cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua,
cạnh tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận,cứng rắn trong
đối phó. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông lại đề cao
tính cộng đồng do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên, buộc cư dân
phải sống định cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.
- Xét về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, do cuộc sống du cư nên cần đến sức mạnh
để bảo vệ dân cư trong bộ tộc chống lại sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên
người đàn ông có vai trò quan trọng, tư tượng trọng sức mạnh, trọng nam giới
trong khi loại hình văn hóa phương Đông lại trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ
nữ, vai trò của người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng
trong gia đình, chăm lo vun vén cho gia đình và làmcác công việc đồng án.
- Về lối nhận thức tư duy, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục thiên về
tư duy phân tích, coi trọng vai trò của các yếu tố khách quan, vì nghề chăn nuôi du
mục đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, đối tượng tiếp xúc hành ngày là đàn gia
súc với từng cá thể độc lập, từ đó hình thành kiểu tư duy phân tích chú trọng vào
từng yếu tố. Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông thì thiên về tư
duy tổng hợp – biện chứng, coi trọng các mối qua hệ, thiên về kinh nghiệm chủ
quan cảm tính hơn là coi trọng khách quan và khoa học thực nghiệm do trồng trọt
của cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…
- Và ở đặc điểm cuối cùng về cách thức ứng xử trong cộng đồng, loại hình văn hóa
gốc chăn nuôi du mục có lối sống trọng lí, ứng xử theo nguyên tắc, thói quen tôn
trọng pháp luật khác với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp do cuộc sống cộng
đồng, gắn kết với nhau nên sống trọng tình, thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi bật
khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Tuy
nhiên, trong thực tế thường không có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính chất nông
nghiệp trồng trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn
hóa này mang tính tương đối và căn cứ vào các yếu tố, đặc điểm có tính trội.
Câu 2. Hãy chứng minh rằng văn hoá Việt Nam thuộc loại hình văn hoá
gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình .
Việt Nam có vị trí nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á. Với điều kiện về vị trí địa lí,
khu vực địa hình chịu tác động của gió mùa, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận
cùng phía Đông – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như
sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. Và cây lúa là một
trong những cây nông nghiệp chính có từ rất lâu đời ở Việt Nam, cũng chính cây lúa cùng
với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta đã tạo nên là điều kiện thuận lợi để phát triển
nông nghiệp lúa nước. Căn cứ vào những yếu tố trên, có thể thấy rằng nền văn hóa Việt
Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc
trưng văn hóa Việt Nam đều thể hiện một cách rõ nét nhất loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp trồng trọt ở Việt Nam:
• Đầu tiên là đặc trưng về lối sống, ở Việt Nam, do thuận lợi về điều kiện khí hậu
nóng ẩm, mưa nhiều, có những con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì
nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển mà nổi tiếng nhất là nền văn minh
lúa nước. Do nghề trồng trọt buộc người Việt phải sống định cư để chờ cây cối lớn
lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống định cư dẫn đến cư dân Việt Nam
phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng
tĩnh, tình cảm luôn gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… qua đó hình
thành lối sống đặc trưng ổn định, trọng tĩnh, tự trị, kép kín, hướng nội.
• Cư dân Việt Nam do sống bằng nghề nông nghiệp nên sự gắn bó, phụ thuộc vào tự
nhiên lại càng dài lâu và bền chặt, dẫn đến người dân Việt Nam có ý thức tôn thờ,
sùng bái và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Thực vật được tôn sùng nhất là
cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa,
Cây Cau,.. Người Việt Nam mở miệng là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời…” Đó
chính là nguyên nhân sự ra đời của nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên phổ
biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ là hình thức thờ cúng Tam vị Thánh Mẫu cai quản các yếu tố tự nhiên quan
trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước;
tín ngưỡng Phồn Thực - loại tín ngưỡng tôn thờ sự giao phối - nguồn gốc của sự
sinh sôi nảy nở và vì là Việt Nam có nền văn hóa gốc nông nghiệp, mùa màng tươi
tốt và muôn loài sinh sôi (hai vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời
sống cư dân) nên tín ngưỡng Phồn Thực phát triển mạnh và bảo tồn lâu dài; các lễ
hội tín ngưỡng nông nghiệp gồm hội Cầu mưa , hội Xuống đồng, hội Đâm trâu, hội Cơm mới,…
• Về mặt tổ chức cộng đồng, cuộc sống định cư tạo cho người Việt ưa sống theo
nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một
cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: “Bán anh em xa mua láng
giềng gần”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “lụt thì lút cả làng”, …
• Từ đặc trưng sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ
ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh,
bạo lực. Vì sống theo tình cảm, người Việt có lối sống tôn trọng và cư xử bình
đẳng, dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ
phong kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình
và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Cư dân Việt
Nam làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
• Trong truyền thống Việt Nam, vì lối sống định căn định cư ổn định cần đến vai trò
chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng là
công việc phù hợp với người phụ nữ, do đó vai trò của người phụ nữ cũng được
tôn trọng, đề cao. Đặc trưng này là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Phụ nữ Việt
Nam là người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa
khóa. Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi “Nhất vợ nhì trời”; “Lệnh ông không
bằng cồng bà”…; còn theo kinh nghiệm dân gian thì “ruộng sâu trâu nái, không
bằng con gái đầu lòng”. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết
định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang. Vì tầm quan
trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là “mẹ” đã mang
thêm nghĩa “chính, quan trọng”: sông cái, đường cái, đũa cái, ngón tay cái,…
Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học
giả phương Tây gọi là “xứ sở Mẫu hệ” (le Pays du Matriarcat). Cho đến tận bây
giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn
toàn không chịu ảnh hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai…), vai trò
của người phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng
nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ… Cũng không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay,
người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê phum, mê sóc
(mê=mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà.
• Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất
cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa, trông
gió, trông ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy
tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng – cái mà người nông nghiệp quan tâm
không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối
quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong
phú về các loại quan hệ này: “Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa”; “Được mùa lúa
thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa”…
• Lối tư duy tổng hợp – biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm
dẻo, linh hoạt. Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người
làm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt thích
hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”;
“Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy”…Tuy nhiên, lối tư duy tổng hợp
– biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn
hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ
sở khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kêt
hợp lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.
Như vậy, với những đặc trưng đã phân tích trên, loại hình văn hóa Việt Nam được xem là
loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình, đều được thể hiện rõ nét trong
cách tổ chức đời sống phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt và được xem là nét
đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.
Câu 3. Hãy nêu khái quát đặc điểm chính của các giai đoạn văn hoá và
vai trò của mỗi giai đoạn trong tiến trình văn hoá Việt Nam .
Sự hình thành các đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam là kết quả của một quá trình
lịch sử lâu dài, đồng hành cùng với tiến trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc. trong cuộc hằng trình hàng nghìn năm ấy, văn hóa dân tộc đã trải qua
những bước thăng trầm cùng lịch sử. Có thể khái quát tiến trình định hình nền văn hóa
truyền thống Việt Nam qua 5 giai đoạn chính sau đây:
- Tầng văn hóa bản địa (nội sinh) hình thành từ thời tiền sử và sơ sử, nằm trong cơ tầng
văn hóa Đông Nam Á – trên nền tảng của nền văn minh lúa nước. Thời tiền sử còn gọi là
thời kỳ đồ đá, được chia ra hai giai đoạn: thời đại Đá cũ và thời đại Đá mới. Đây là giai
đoạn hình thành những nền tảng đầu tiên của văn hóa khu vực Đông Nam Á. Các di chỉ
khảo cổ học tìm được ở khu vực đã cho thấy, vào thời tiền sử, cũng như các khu vực khác
trên thế giới, cư dân khu vực Đông Nam Á đã trải qua một tiến trình lịch sử từ thời đại Đá
cũ (chế tác công cụ lao động bằng việc ghè, đẽo đá) sang thời đại Đá mới (chế tác công cụ
bằng cách mài đá). Trong đó, các cộng đồng cư dân bản địa sinh sống trên những địa bàn
mà ngày nay thuộc lãnh thổ Việt Nam đã bước vào cuộc hành trình sáng tạo văn hóa, với
sự tồn tại các nền văn hóa tiêu biểu như: văn hóa Núi Đọ, văn hóa Sơn Vi, văn hóa Hòa
Bình, văn hóa Bắc Sơn,…Còn thời sơ sử là thời kỳ hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên
của Việt Nam – nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, kéo dài trong khoảng 2.000 năm trước
Công nguyên, tương ứng với thời đại văn minh đồ đồng. Trên nền tảng của nền văn minh
lúa nước và văn minh đồ đồng, cùng với sự hình thành và phát triển của nhà nước Văn
Lang – Âu Lạc, đã định hình và phát triển rực rỡ một nền văn hóa dân tộc trong buổi đầu
dựng nước. Như vậy, tầng văn hóa nội sinh là giai đoạn định hình những nền tảng đầu
tiên của văn hóa bản địa Việt Nam, làm tiền đề cho sự hình thành bản sắc văn hóa Việt
Nam với sự kế tục, tiếp nối ở các giai đoạn sau.
- Tầng văn hóa ngoại sinh (văn hóa tiếp thu văn hóa đầu Công Nguyên) gồm những yếu
tố văn hóa được tiếp nhận qua quá trình tiếp xúc và giao lưu với hai nền văn hóa lớn của
phương Đông là Trung Hoa và Ấn Độ trong mười thế kỷ đầu Công Nguyên. Mười thế kỷ
đầu Công Nguyên là thời kỳ quốc gia Âu Lạc bị đô hộ bởi các triều đại phong kiến Trung
Hoa nên còn gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Trong mười thế kỷ Bắc thuộc, nền văn hóa bản địa
vùng châu thổ Bắc Bộ đã được làm phong phú thêm bởi sự tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa
mới từ Trung Hoa. Về văn hóa vật chất, trong phương thức sản xuất nông nghiệp có du
nhập các giống cây trồng mới và tiếp thu một số kỹ thuật làm nông nghiệp mới. Về văn
hóa tinh thần, theo bước chân quân xâm lược là sự du nhập của Nho giáo, Đạo giáo và
Phật giáo. Về văn hóa xã hội, từ thế kỷ IV trở đi, xã hội Việt Nam bắt đầu chuyển sang
chế độ phong kiến theo mô hình của chế độ phong kiến Trung Hoa, chế độ gia đình mẫu
quyền bị thay thế hoàn toàn bởi chế độ gia đình phụ quyền. Tuy nhiên, dù tiếp nhận thêm
nhiều yếu tố văn há mới như là một qui luật tất yếu trong quá trình tiếp xúc, giao thoa văn
hóa nhưng với lòng tự tôn dân tộc và ý thức liên kế cộng đồng bền chặt, trong suốt mười
thế kỷ tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, người Việt không đánh mất bản sắc văn hóa mà
vẫn cố gắng để gìn giữ và bảo tồn các đặc trưng văn hóa dân tộc. Như vậy, đặc trưng cơ
bản của văn hóa giai đoạn này là quá trình du nhập và các yếu tố văn hóa phương Đông
(Trung Hoa và Ấn Độ), dẫn đến sự thay đổi cấu trúc văn hóa bản địa thời sơ sử, làm tiền
đề để hình thành cấu trúc văn hóa truyền thống Việt Nam thời phong kiến Đại Việt.
- Từ giữa thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX là thời kỳ định hình các đặc trưng bản sắc của văn
hóa truyền thống Việt Nam. Về bối cảnh lịch sử, đây là thời kỳ tự chủ của quốc gia phong
kiến Đại Việt kéo dài gần mười thế kỷ, bắt đầu từ năm 938, khi Ngô Quyền chiến thắng
quân Nam Hán bằng trận thủy chiến nổi tiếng trên song Bạch Đằng, chấm dứt 1.000 năm
đô hộ của phong kiến phương Bắc. Đây là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử dân tộc
với sự hình thành của nhà nước phong kiến Việt Nam, và theo đó là sự định hình những
đặc trưng bản sắc của nền văn hóa truyền thống. Gần mười thế kỷ thời phong kiến Đại
Việt là giai đoạn định hình những đặc trưng bản sắc văn hóa truyền thống trên cơ sở sự
dung hợp giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại sinh, trên nền tảng của sự cộng hưởng
bởi ba yếu tố văn hóa hạt nhân: văn hóa nông nghiệp lúa nước – Nho giáo – Phật giáo.
- Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý chí tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù,
cha ông ta đã xây dựng được một nền văn hóa truyền thống với những nét bản sắc riêng
về cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần. Nền văn hóa vật chất dựa trên nền tảng nền văn minh
nông nghiệp lúa nước. Các đặc trưng văn hóa về lao động, sản xuất, sinh hoạt – những
yếu tố mang đậm dấu ấn của loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể
hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt của người Việt đối với môi
trường tự nhiên vùng song nước và xứ sở thực vật. trong nền tảng đặc trưng văn hóa tinh
thần Việt Nam, các hệ tư tưởng và tôn giáo có ảnh hưởng, chi phối sâu sắc như Phật giáo,
Nho giáo, Đạo giáo và đều được du nhập từ Trung Hoa, cùng tồn tại và dung hòa với
nhau trong văn hóa truyền thống Việt Nam, trong đó “Nho trị thế”, “Phật trị tâm”, “Đạo
trị thân”. Ngoài ra, về tín ngưỡng, phong tục, lễ tết và lễ hội cũng mang đậm bản sắc văn
hóa truyền thống Việt Nam. Văn hóa truyền thống Việt Nam là những giá trị cốt lõi định
hướng, chi phối hoạt động của các chủ thể và toàn xã hội trong mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội, môi trường sinh thái, là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của mô hình -
con đường - thể chế phát triển của một quốc gia - dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của
thể chế chính trị thực sự, các giá trị xã hội, lối sống xã hội, nền đạo đức xã hội thượng tôn
pháp luật, nhân văn, nhân ái, tôn trọng quyền con người, quyền công dân và là cơ sở để
tạo nên “sức mạnh mềm” trong phát triển.
- Văn hóa hiển nhiên là không thể ổn định, bất biến khi xã hội có những thay đổi mang
tính bước ngoặt. Sự thay đổi có tính bước ngoặt của xã hội Việt Nam sau mấy mươi thế
kỷ tồn tại của xã hội phong kiến, trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước – đó là
cuộc tiếp xúc, giao lưu với phương Tây, khởi đầu từ văn hóa Pháp (1858 – 1945), sau đó
là tiếp xúc với văn hóa Mỹ ở miền Nam (1954 – 1975) và cuộc giao lưu văn hóa với các
nước XHCN Đông Âu diễn ra ở miền Bắc XHCN. Cùng với sự thay đổi nền tảng kinh tế -
xã hội của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, các cuộc tiếp xúc giao
lưu văn hóa này là những tác nhân trực tiếp dẫn đến quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa
Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại.
- Sau 1975, hai miền thống nhất, xã hội Việt Nam được qui về một mối, giao lưu văn hóa
được mở rộng. Qúa trình hội nhập giữa Việt Nam với thế giới đã khẳng định thái độ của
Việt Nam là nhận toàn cầu hóa từng bước: tham gia hiệp hội các nước Đông Nam Á (khối
ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Thông qua các tổ chức quốc tế và khu vực này, nước ta đã
chủ động tạo quan hệ để liên kết các giá trị khu vực, từng bước hội nhập thế giới. Văn hóa
trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần kích thích sự cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển khoa
học kỹ thuật, làm tang tốc độ phát triển kinh tế, tăng mức sống của cư dân, rút ngắn thời
gian để theo kịp sự phát triển của thế giới nhờ việc áp dụng kinh nghiệm và khoa học
công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời qua giao lưu văn hóa với thế giới, nền văn hóa
truyền thống Việt Nam sẽ được bổ sung, làm giàu thêm bởi những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại.
Chương II . Đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam
Câu 4 . Hãy chỉ ra sự tận dụng , thích nghi và ứng phó với môi trường tự
nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất .
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha
ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của
nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận dụng, thích nghi và
ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã rút gọn được một hệ thống kinh nghiệm
của nghệ thuật trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không được lưu truyền trong dân
gian, mà vẫn được tập hợp lại, chỉnh sửa thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân
(Vi dụ: cuốn sách Minh nông phả của Trần Cánh đời Lê; Nông gia thuật sử dụng kinh
nghiệm quyết định của Trần Ngọc Trác; Nông toàn đồ của Lê Thúc Hoạch đời Nguyễn).
Để phục vụ cho nông nghiệp, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ truyền
thông rất phong phú, đa dạng, gồm hàng tram kiểu loại khác nhau.
Tất cả những kinh nghiệm được kết hợp và những thành tựu được tạo ra từ phương
thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng tận dụng, thích nghi và
ứng phó với sự ưu tiên của người Việt đối với môi trường tự nhiên.

Sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt cũng được thể
hiện rõ nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mêm déo, linh hoạt của cư dân nông
nghiệp Việt Nam. Trước hết ở việc ăn uông theo mùa, theo vùng miền, đó là một biểu
hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa là một cách tự thích nghi
của nên kinh tế tiểu nông tư túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc chế biến và lựa
chọn thế (điều hòa âm - dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi các món ăn để điều
chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của cơ trường để đối phó với thời tiết.
Trong văn hóa trang phục Việt Nam, người Việt thường sử dụng các chất liệu có sẵn
trong tự nhiên, mỏng, nhẹ và có nguồn gốc từ thực vật, mang đậm dấu ấn nông nghiệp
trồng trọt, sống ở xứ nóng nên chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như: tơ tằm,sợi bông, sợi
đay, sợi gai… Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt là màu nâu (màu đất) và
màu đen (màu bùn). Điều đó cũng phản ánh phong cách truyền thống của người VN là ưa
sự kín đaó, giản dị, đồng thời cũng thể hiện sự thích nghi với môi trường sống và sinh
hoạt của nghề nông trồng lúa nước. Ngoài ra chiếc nón lá cũng là một bộ phận kèm theo
không thể thiếu trong trang phục của phụ nữ VN truyền thống. Nón có vành rộng và có
mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm mưa nhiều. Trang phục truyền thống của nam giới
thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng.
Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa… thể
hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN. Mang đậm dấu ấn
của vùng sông nước với nhà sàn là kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả miền sông nước
lẫn miền núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường (tránh côn trùng, thú dữ,
lũ, ngập lụt…). Sang thời phong kiến thì nhà đất bằng là phổ biến, song dấu ấn văn hóa
song nước còn thể hiện ở kiểu nhà mái cong mô phỏng mũi thuyền, thậm chí cư dân sông
nước còn dùng thuyền làm nhà ở hình thành nên các xóm chài. Không gian ngôi nhà Việt
là không gian mở, có cửa rộng, thoáng mát, giao hoà vs tự nhiên, xung quanh có cây xanh
bao bọc che chở. Về việc chọn hướng nhà và chọn đất làm nhà, hướng nhà ưa thích của
người Việt là hướng nam hoặc đông nam, các hướng này sẽ tận dụng được gió mát từ biển
thổi vào và tránh được nắng nóng.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư dân ít có
nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa
các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ
yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu.
Giao thông đường thủy do địa hình nhiều sông ngòi, bờ biển kéo dài từ Bắc chí Nam nên
người Việt đi lại chủ yếu bằng thuyền, ghe, xuồng,đò...Vì đường thủy chiếm ưu thế nên
phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc
sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào
trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến
chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước
như lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các nhu
cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với
môi trường tự nhiên. Qua đó, thể hiện rõ nét dấu ấn loại hình văn hóa nông nghiệp trồng
trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt với môi trường
sông nước và xứ sở thực vật.
Câu 5. Hãy phân tích sự ứng xử văn hoá của người Việt với môi trường
xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha
ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của
nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của
người Việt với môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất tiêu
nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng kinh tế của
hội Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định
hình từ thời Văn Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, trong quá trình
xây dựng quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông và có
các chính sách khuyến nông tích cực. Bằng những công cụ dệt thủ công, với các loại
nguyên liệu phong phú trong tự nhiện như: tơ chuối, sợi đay, sợi gai, tơ tăm và sợi bông,
những người thợ thủ công đã dệt ra nhiều loại vải, lụa rất phong phú, không chỉ đáp ứng
được nhu câu may mặc trong nước mà còn bán nước ngoài. Như vậy, từ thời Hùng Vuơng
dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại Việt, phương thức sản xuất nông nghiệp lúa
nước được duy trì và phát triển với vai trò kinh tế chủ đạo. Cùng với nghề nông là sự mở
rộng và phát triển các làng nghề thủ công phục vụ cho các nhu cầu sản xuất và sinh sống
hàng ngày. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiêu nông tự
cung tự cấp, các quan hệ giao luu bị hạn chể, do đó sản xuất nông nghiệp và thủ công
nghiệp chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ của nên kinh tế tiêu nông đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng chứ không thế vuơn tâm phát triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
Trong văn hóa ẩm thực, bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành viên trong bữa ăn
liên quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì mang tính
cộng đồng nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng đồng
cùng với sự chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việst rất
coi trọng nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền chắc
“ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: nâu, đen,
chàm…phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ,
vàng…) chỉ mặc vào dịp lễ hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp (Người đẹp vì
lụa, lúa tốt vì phân). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm,
áo tứ thân,quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là
một trong những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu.
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc). Trang
phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu
nóng bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần
ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt thể hiện quan
niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
cuộc sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính
cộng đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập
thì nhà Việt truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong
gia đình, các gian nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn. Ranh giới giữa các nhà
hàng xóm cũng thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt, ruối,
mồng tơi..) được xén thấp để dễ qua lại.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư ân ít có
nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa
các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ
yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở giao thông
đường thủy vì đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển
(Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên
hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái,
gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói
theo cách của người đi trên sông nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các nhu
cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường xã hội.
Câu 6. Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết Âm dương Ngũ hành với sự
hình thành các triết lý sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật
trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Do có sự giao
hòa giữa các mặt đối lập (âm – dương) trong vũ trụ và con người nên mới tạo ra những sự
vật mới. Trang văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các
cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối
xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Là cơ sở để thuyết âm dương
ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở thành cơ sở nhận
thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể
hiện qua các mối liên hệ với: Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về
sự cân xứng, cặp đôi: trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp
đôi, tương ứng, cân bằng ân dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui
luật. Các cặp âm dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất,
đất/nước… Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm
dương: từ triết lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân
bằng, hài hòa âm dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống
theo triết lí quân bình, duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc
làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất
lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không
hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan. Như vậy, về mối quan hệ giữa
âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt do nhận thức được qui luật
bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái nhìn bình tĩnh,
lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được qui luật
chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ
hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ
dẫn đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 7. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Phật giáo ở Việt Nam
và vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người
Việt xưa và nay ( ảnh hưởng đến Pháp luật ).
Phật giáo Việt Nam đã có hơn 2.000 năm lịch sử. từ khi du nhập, Phật giáo đã được người
Việt bản địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy của văn
hóa dân tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam với các đặc điềm nổi bật như sau:
Về khuynh hướng nhập thế, giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh,
luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các
hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều nhà sư đồng
thời nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người Việt
cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến thái
độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo dung
hợp các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa; dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành
Hoàng, Thổ địa…; dung hợp giữa các tong phái Phật giáo. Việc dung hợp giữa Phật giáo
với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho nhau để cùng hướng về một
mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và
văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên
khắp mọi miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí
sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là
trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã
có lịch sử từ lâu “Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”. Và đến
ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất, có
ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Hiện nay, số lượng người đi chùa ngày càng đông, có
niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày rằm, mồng một, có treo ảnh
phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò của Phật giáo trong đời sống
văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay
( ảnh hưởng đến Pháp luật ) gồm những tác động tích cực như trong việc điều chinh ý
thức và hành vi của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha, “khuyến
thiện tử ác" đã giúp hạn chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần dem Tư tưởng,
giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống.
Tuy nhiên vẫn có những tác động tiêu cực như việc khuyên con người tự tiết chế các hành
vi của mình mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm chi cà nhẫn nhục, Phật giáo
đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và đầu tranh của con người khi
cần phải bào vệ công lý, lẽ phải. Do ảnh hưởng bởi thuyết "luân hoi", "quả báo" của Phật
giáo, nhiều người Việt thường không chủ động sử dụng luật pháp là công cụ bảo vệ mình
khi quyền loi bị xâm hai, mà chon phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự
trừng phạt của luật Trời hơn là luật pháp, vì vậy từ đây cung không hình thành thói quen
sử dụng công cu luật pháp trong đời sống dân sự.
Câu 8. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Nho giáo ở Việt Nam
và vai trò của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người
Việt xưa và nay ( ảnh hưởng đến Pháp luật
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức , một hệ thống quan niệm tư tưởng – giáo
lý nhằm tổ chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị. Du
nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt 1.000
năm, Nho giáo chưa có được chỗ đứng trong cư dân Việt. Sang thời Đại Việt, Nho giáo là
nội dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trường nên càng được phổ biến rộng rãi. Từ
đó Nho giáo chiếm lĩnh dần luôn cả lĩnh vực chính trị và tư tưởng và văn hóa tinh thần,
ảnh hưởng về Pháp luật của người Việt xưa và nay .
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác những
yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước. Trước
hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã học tập rất nhiều ở
cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn người tài bổ dụng,
trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt Nam vận dụng ngay từ đầu thời
Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê. Thời Tây Sơn vua Quang Trung
đã mở rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh vực hành chính và giáo dục. Có rất nhiều yếu tố
của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù hợp với truyền thống của văn hoá
dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách hiểu thì đã khác nhiều”.
Về chữ Trung và Hiếu, trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn
giữa Vua và đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định, được đặt lên
trên hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ sở tinh
thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung quân” gắn
liền với “Ái quốc”. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hoàn toàn:
Không phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với nội dung được mở
rộng đến vô cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ không còn hạn hẹp như khái niệm của Nho
giáo xưa kia. Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ còn con
không được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Tức là: Có ba tội bất hiếu, tội
không có con nối dõi là tội nặng nhất. Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dòng
dõi Nho gia như Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân
tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để ra đi tìm
đường cứu nước. Người không lập gia đình để hy sinh tất cả cho đất nước, non sông. Như
vậy, chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với
chữ Trung là một,và chữ Trung cũng mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy
của Bác đối với quân đội cách mạng.
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng người hiền tài”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay từ những năm
sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đã có một tầm nhìn rộng lớn, đề ra và
giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Người thấu hiểu vai trò của trí thức, đã trân
trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước. Ngay từ năm 1946 Người nói
đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên bố độc lập 4/10/1945. Người phát động
phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống nạn thất học. Vì vậy việc coi trọng giáo dục,
đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một trong những mục tiêu quan trọng và cấp thiết
mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm. Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa
phương, đã lập ra các quỹ học bổng , quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở
học sinh, sinh viên nghèo hiếu học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người
hiền tài trong xã hội ngày nay.
“ Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó không chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc, từng quốc gia, mà còn luôn
luôn mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm chí đúng
cả ở phạm vi gia đình là tế bào của xã hội. Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình Dương
xưa vốn là một tỉnh giàu tìm năng về mọi mặt, nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo nàn lạc hậu
chậm phát triển. Từ khi có chủ trương “Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa mời gọi đầu
tư”đã trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển giàu và mạnh.
Về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chữ Nhân chính là lòng
thương người, là cách sống đối với mình, đối với người cũng giúp cho người thành đạt,
những gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với người (kỷ sở bất dục,vật thị ư nhân)…
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm đắc và nó
trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Trong xã hội ngày nay nó vẫn
được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống: “Mình vì mọi người, mọi người vì
mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp
nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá “Ông bà, cha mẹ mẫu mực con
cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã hội như “ Lá lành đùm lá
rách”… Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị phải có
đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng… Chữ Nhân phải gắn liền với
chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì
cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ. Lễ và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết
không thể tách rời nhau; Nhân là chất, là nội dung là linh hồn của lễ, lễ là hình thức biểu
hiện của Nhân. Nhờ có Trí con người mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết đạo lý,xét
đoán được sự vịêc, phân được phải trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý
với thiên lý.Nhưng muốn đạt được chữ Nhân,có trí thôi chưa đủ mà cần phải có Dũng,
Dũng không phải ỷ vào sức mạnh, chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà suy nghĩ và hành động
bất chấp cả đạo lý. Người Nhân có Dũng phải là: “ Người có thể tỏ rõ ý kiến mình một
cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc,khi người đời
gặp phải hoạn nạn…”
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa con
người góp phần ổn định và phát triển xã hội . Nhạc chính trực. trang nghiêm, hoà nhã có
tác dụng di dưỡng tính tình cảm hoá lòng người, hướng tâm người ta tới cái chân, thiện,
mỹ do sự ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm nhạc. Như vậy chúng ta có thể hiểu
một cách khái quát: Người cai trị, người quân tử phải là người có một vốn văn hoá toàn diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo dục và đào tạo.
Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức, Hồng và
Chuyên. Hồ chủ tịch dạy. Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải được rèn
luyện ngay từ khi còn nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp câu
khẩu hiệu: “Tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học, cùng với năm điều Bác dạy
thiếu niên nhi đồng. Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở
thành con người toàn diện phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ Tịch dạy phải cần
kiệm liêm chính, phải chí công vô tư, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Nho giáo cũng ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam cũng như cách ứng xử của người Việt
đối với Pháp luật VN. Từ xưa, truyền thông luật pháp của các châu Á như Việt Nam,
Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ Triều Tiên, Hàn Quốc về cơ bản có những điều
đặc biệt giống nhau. Đó là ảnh hưởng của Nho giáo và quan niệm chung về pháp luật
nặng về pháp luật và hành chính, nhẹ về dân luật. Đê trị nước, theo Nho giáo cần có bốn
yếu tố là: lễ, nhạc, hình, chính. Lễ để hòa âm của dân, nhạc để hòa âm của dân, chính trị
để làm việc, pháp luật ngăn điều xấu. Một trong những nền tảng nền tảng của Đạo luật
Không là khái niệm về hài hòa trong vũ trụ. Các cá nhân có thể nói về phiên bản là một
bộ phận trong sự hài hòa đó, nên luôn luôn phải tự do nhường, giữ cho mình và tuân thủ
các quy tắc xử lý theo quan điểm đạo đức trong xã hội. Các quy tắc dựa trên những tập
quán lâu đời, tuy nhiên phức tạp nhưng cân đối, chặt chẽ và thay đổi theo mối quan hệ
giữa các cá thể. Như vậy, hệ tư tưởng của Nho giáo là hệ tư tưởng đề cao vai trò của đạo
đức và lễ nghĩa trong quản lý xã hội, đồng thời nhấn mạnh rằng người làm vua muốn cai
trị xã hội lâu dài thì phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc là nguyên tắc cơ bản trong tư
tưởng chính trị và pháp luật của người cai trị.
Ngày nay, trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam, trong mỗi làng
xã Việt Nam, trong sinh hoạt cộng đồng, trong tô chức và hoạt động của bộ máy nhà
mước, trong tinh thần của dân tộc vẫn côn thẩm đượm những tư tưởng của Nho giáo. Tuy
nhiên, trong phạm vi quốc gia, nếu không có một định hướng đúng đắn thì những giá trị
tích cực của Nho giáo sẽ bị mai một, di sản quý báu đó trong văn hoá dân tộc sẽ không
được phát huy, lớp bụi thời gian ngày càng phủ dày và dần dần sẽ vùi lấp nó. Trách nhiệm
của những người nghiên cứu văn hoá nói chung và văn hoá pháp luật nói riêng là phải bảo
vệ và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Tinh thần của Nho giáo
trong cai trị xã hội là phải biết kết hợp “lễ, nhạc, hình, chính" trong quản lý và xây dựng
xã hội. Điều này cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự. Nhờ có “lễ" mà con người Việt
Nam thường sống điều độ biết “kính trên, nhường dưới", biết “ăn trông nồi, ngồi trông
hướng", biết sống “có trước, có sau". Từ cách ăn, mặc, đi, đứng, nằm, ngồi, đến nói, cười,
nhày, múa, ca hát người Việt Nam thường chừng mực mà không thái quá. Chính sự chừng
mực, điều độ như uống không quá say, ăn không quá no, nói không quá lời, áo không quá
hở, váy không quá ngắn, tóc không quá dài mà trật tự xã hội được thiết lập. Như vậy,
trong xã hội hiện đại ngày nay, vai trò của pháp luật được để cao, không những pháp luật
hình sự như thời xa xưa mà cả pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình... Tuy
nhiên, điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo đức và các thuần phong, mỹ tục mà
người Việt Nam đã xây dựng hàng nghìn năm nay. Nếp sống hiền hòa, nhân hậu, lưrơng
thiện của người Việt Nam trong con mắt người nước ngoài chính là sản phẩm văn hóa
được hun đúc từ hàng nghìn năm mới có được, trong đó tư tưởng Nho giáo đóng góp một
phần không nhỏ. Sự hòa quyện của những quy tắc pháp luật, đạo đức, tôn giáo, phong tục
tập quán đã tạo nên một trật tự xã hội mà người Việt Nam nhiều khi chỉ cảm nhận được
bằng linh cảm hoặc bằng kinh nghiệm sống của mình. Văn hóa pháp luật Việt Nam như
một tàng băng, phần nổi chỉ là rất ít, chủ yếu là phần không nhìn thấy dưới tầng sâu, đôi
hỏi phải nghiên cứu, khám phá để có thể đưa ra những phương hướng, giải pháp đúng đắn
nhằm làm cho nó ngày càng phong phú và giàu có hơn trong đời sống pháp lý.
Tuy nhiên, vẫn có những mặt hạn chế như việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là nguyên
nhân làm hạn chế ý thức về quyền cả nhân, mà hệ quả trực tiếp là sự triệt tiều ý thức phản
biện/ phản kháng của con người, đó cũng là nguyễn nhân làm hạn chế việc sử dụng công
cụ pháp luật để bảo vệ quyền cá nhân. Vi chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị nên Nho
giáo khuyên khích "vô tụng". Khổng Tử cho rằng: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như
người. Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng". Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức
trị với pháp trị khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và pháp lý là một ranh giới mờ, nhập
nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời phong kien Việt Nam, "Tam
cương", "Ngũ thường" là đạo ly nhưng cũng đồng thời là pháp lý. Điều này dẫn đến hệ quả là
Như vậy, trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã bộc
lộ những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho giáo ở
Việt Nam không còn trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà phù hợp với đời sống tư tưởng
và văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay. việc xét xử các vụ án thường khó tránh
khỏi hiện tượng “tội đồng luận dị" (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính
chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Tóm lại, trong nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng và chi
phối sâu sắc và toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, xét cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Câu 9. Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn
hóa giao tiếp ứng xử của người Việt , theo các bạn những đặc điểm giao
tiếp ứng xử nào cần được giữ gìn và phát huy .
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ nét.
Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng
xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây
- Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt coi
trọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức ứng xử
văn hóa quan trọng của người Việt “lời chào cao hơn mâm cổ”, thích thăm viếng nhau,
coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ và
giàu tính hiểu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
- Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích tìm
hiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân của
đôi tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...). Đặc
điểm này cũng có nguyên nhân từ tính cong đông và lôi sống trọng tinh (quan tâm đến
ngưoi khác). Tuy nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí.
Trong thực tế người Việt Nam vẫn coi trọng “cái tình” hơn cả, bất đắc dĩ lắm mới dùng
“cái lý” để giải quyết những mâu thuẫn. “Cái tình” sẽ làm cho người gần người hơn. Xử
sự với nhau bằng “cái tình” là rất đẹp, để rồi “một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”, để
không phải hối hận về sau. Người ta thường nói “tình làng nghĩa xóm” lúc “tắt lửa tối
đèn” là để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa “cái lý” ra làm thước đo con người. Tuy
nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số trươờng hợp ảnh hưởng tiêu cực đến đời
sống người dân Việt. Vì không giải quyết theo lý mà chỉ lụy tình, người Việt thường có
thói quen: Người càng thân ta thì càng đúng hơn. Thậm chí có việc người nhà ta, người
làng ta, người cơ quan ta sai lè lè, không còn cách nào khác, người đứng ra bênh vực bảo:
“Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có kiểu xưng hùng
xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo quan hệ
thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì, cháu, con...
Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn là giá trị
vật chất (Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng giữa làng bằng
một sàng xó bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...). Vì coi trọng danh dự nên nghi
thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn
định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo
quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động
lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi
sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối….
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện “ở đời muôn sự
của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “đem chuông đi đánh nước người,
không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “một quan tiền công không bằng một đồng tiến
thưởng”;.. Vì trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi vậy, dư luận trở
thành một thứ vũ khí lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá nhân với cộng đồng,
nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thắng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo tam quốc"
để đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp. Chính sự
đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán.
Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa
thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong
thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những
lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý
tứ và trọng sự hòa thuận. Người Việt thường không biểu lộ trực tiếp cảm úc của mình với
đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu ca dao, thành ngữ, thơ ca thường dùng hinh
tượng ẩn dụ, bóng gió “tram dâu đổ một đầu tằm”; “tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài,
ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường
nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lơi mà nói cho
vừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự lành”;… Và hệ quả của việc giữ ý, cả nề dẫn đến
thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp “người khôn ăn
nói nửa chừng, để cho ngưrời dại nửa mừng nửa lo; “uốn lưỡi ba lần trước khi nói...).
Chính thói quen ứng xử nặng tinh cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết
đoán trong giao tiếp đã khiến cho ngươi Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái
chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu
cực để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng
xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc Việt
Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh mềm làm
nên nét đẹp và là chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi nét đặc
trưng văn hóa ứng xử giao tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền văn
hóa ứng xử muôn màu, phong phú thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét đến
những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật
tất yếu đêu phải có những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hai yếu tố này luôn song hành
cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh sáng thì không thể nhận diện được
bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu cực này mà có thể thông
qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát huy các đặc trưng
văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Câu 10. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống ,
qua đó chỉ ra vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân
Văn hoá gia đình truyền thống Việt Nam là toàn bộ những giá trị, chuẩn mực truyền
thống của gia đình Việt Nam trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, mối
quan hệ giữa gia đình với xã hội được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời
sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã
hội. Đó là những giá trị được kết tinh của kiểu gia đình truyền thống Việt Nam qua hàng
ngàn năm lịch sử gắn với nền văn hoá nông nghiệp lúa nước và cốt lõi quan hệ văn hoá
gia đình Nho giáo phương Đông. Do sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp
và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
Từ lâu truyền thống Việt Nam đã dành cho gia đình một chỗ đứng quan trọng không chỉ
trong công việc xây dựng xã hội quốc gia, mà cả trong việc đào tạo con người nữa.
Truyền thống văn hóa Việt Nam coi gia đình là con đường phải qua nếu các cá nhân
muốn thành đạt và được kính trọng ngoài xã hội. Tư tưởng này đã ăn sâu trong quan niệm
thăng tiến xã hôi của con người Việt Nam: muốn ổn định thiên hạ thì phải có khả năng trị
quốc; muốn trị được quốc điều trước tiên là phải tề gia. Phần quan trọng nhất trong văn
hóa làm người Việt Nam là phải tuân thủ gia đạo. Đạo là con đường dẫn từ khởi điểm tới
đích điểm. Gia đạo chính là những nguyên tắc cơ bản và ổn định, những bổn phận phải
làm và những điều phải tránh trong sinh hoạt gia đình. Đây chính là cái khung tiêu chuẩn
của đạo lý con người. Những điều nầy được chỉ dạy cho mọi thành viên trong gia đình.
Khi mọi người một mực trung thành tuân giữ, người ta gọi là người có gia giáo. Một cách
đơn giản, gia giáo là sự chỉ dạy cách ăn nết ở trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làng nước.
Thường những lời chỉ dạy nầy xuất phát từ kinh nghiệm sống của người trước về cách cư
xử, phép tắc, thói tục; các kinh nghiệm này đã được xã hội hóa. Người lớn trong gia đình
đóng vai trò làm gương sáng, chỉ dạy cho trẻ nhỏ. Một gia đình có gia giáo là gia đình có
nề nếp, tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới.
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với nền
văn hoá nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình. Mỗi gia
đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng
đường), vì vậy các thành viên trong gia đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa
vào nhau (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng;
Anh em như thể tay chân...). Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt đối của
tập thể gia đình đối với mỗi thành viên), tinh thần vì lợi ích chung, vừa coi trọng đúng
mức vai trò cá nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn trọng giới hạn tự do cá nhân.
Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể thường lấn át, tới mức, người
phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
Người Việt Nam quen với đời sống nông nghiệp, gần gũi với trời đất, thiên nhiên và vạn
vật. Ngôi nhà của gia đình Việt Nam nép mình bên dòng suối, bờ sông, dưới gốc đa, tàn
lá, được bảo bọc che chở bởi lũy tre xanh, bởi đồng lúa vàng, luôn tìm sự nương tựa vào
thiên nhiên, đất trời. Người Việt luôn ý thức trên đầu mình, trong nhà ngoài ngõ, nơi sông
núi và ngoài đại dương luôn có những lực lượng thần thiêng chi phối cuộc sống và an sinh
của mình. Tình cảm tín ngưỡng nầy đã ăn sâu trong văn hóa gia đình Việt Nam. Các lễ
nghi cúng vái thờ thần luôn được thể hiện trong cuộc sống gia đình và làng nước. Tin vào
lẽ phải thiêng liêng và đó là lẽ trời luôn thúc giục người ta biết ăn ở ngay lành, làm điều
thiện được phúc đức, làm điều ác sẽ bị quả báo trừng phạt “Ai ơi, chớ ở đầy vơi. Trời cao
không phụ lòng người hiếu trung.” Người thành công trong công ăn việc làm, cha mẹ
đông con, gia đạo bằng yên hạnh thông đều nhờ lộc trời, ân đất. Quan điểm về phúc đức
nầy đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam: “trời cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Nhưng phúc đức cũng có thể do bởi ông bà cha mẹ nữa, “Cây xanh thì lá cũng xanh. Cha
mẹ hiền lành để đức cho con.”
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sự ảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn hoá gia đình
Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ có quyền uy tuyệt đổi và chịu
trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt đầu con
ngồi đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng phong
kiến, phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng tư đức, chấp nhận gia đình đa thê,
"trai chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"...,Quan niệm gia đình
đông con là phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ thực tiễn của cuộc sống nông
nghiệp. Sinh con là để có người lo việc đồng áng, và lập gia đình để có người phụ giúp nông trang.
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng
nam khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên nhân
gây ra nhiều thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong
thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền phân công
lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia
đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền đánh đập. “bán
vợ, đợ con”, xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền lực chính trong
gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò của họ vẫn là không thể phủ
nhận đối với gia đình và xã hội. Vai trò:
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính bền vững,
gia đình luôn là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất tiếc khóc
chào đời đến khi mất đi. Ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn luôn là nhân tố
tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng quan
trọng của gia đình đó là: Tái tạo sản xuất ra con người; tái tạo sức lao động, sản xuất ra
của cải vật chất và cũng là nơi gìn giữ và phát huy giá trị tinh thần cao qúy của dân tộc; là