ĐỀ CƯƠNG MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại hình n hóa gốc chăn nuôi du mục văn a gốc
nông nghiệp trồng trt. Lý giải nguyên nhân đó.
Văn hóa gốc chăn nuôi du mục:
- Được hình thành phương Tây (văn hóa phương Tây) bao gồm toàn bộ châu Âu, trên sở
củaphương thức sản xuất chăn nuôi du mục.
- Phương Tây vùng khí hậu lạnh, khô, địa hình chủ yếu thảo nguyên - xứ sở của những
đồngcỏ, rất thích hợp cho nghề chăn nuôi, do vậy chăn nuôi nghề truyền thống của dân
phương Tây. - Đặc điểm:
+ Nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi dân phải sống theo lối du cư, nay đây mai đó, từ đó tạo thành
thói quen, lối sống thích di chuyển.
+ luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, từ đó
nảy sinh tâm lý coi thường tự nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự thiên nhiên.
+ Vì sống du nên tính gắn kết cộng đồng của dân du mục không cao, yếu tố nhân được coi
trọng, dẫn đến tâm ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối ứng xử độc tôn, độc đoán trong tiếp
nhận, cứng rắn trong đối phó.
+ Cũng vì cuộc sống du cần đến sức mạnh bản lĩnh nên người đàn ông vai trò quan trọng;
tư tưởng trọng sức mạnh, trọng võ, trọng nam giới cũng từ đó mà ra.
+ Nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự khẳng định vai trò nhân, thêm vào đó, đối tượng hàng
ngày con nời tiếp xúc đàn gia súc với từng thể độc lập, từ đó hình thành kiểu duy phân
tích chú trọng vào từng yếu tố. Kiểu duy này scho sự phát triển của khoa học trên những
cơ sở khách quan, lý tính.
+ Kiểu duy phân tích nguyên nhân đẻ ra lối sống trọng lý, ứng xử theo nguyên tắc; thói quen
tôn trọng pháp luật cũng vì vậy mà được hình thành rất sớm ở phương Tây.
Văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt:
Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt hình thành phương Đông (văn hóa phương Đông),
gồm châu Á châu Phi. Phương Đông khu vực khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều với những con
sông lớn, theo đó những vùng đồng bằng tphú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát
triển. Điều kiện tự nhiên phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt đã hình thành một loại
hình văn hóa khác với phương Tây.
- Đặc điểm:
+ Buộc con người phải sống định cư. Do sống định nên cư dân nông nghiệp phải lo tạo dựng một
cuộc sống ổn định lâu dài, không thích sự di chuyển, đổi thay.
+ nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp rất tôn thờ, sùng bái tự
nhiên và mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
+ Cuộc sống định cư phải liên kết đchống chọi, ứng pvới tự nhiên nên đã tạo cho dân
nông nghiệp tính gắn kết cộng đồng cao.
+ Phương thức sản xuất nông nghiệp sống định và tính gắn kết cộng đồng đã tạo nên lối sống
trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ (chế độ mẫu hệ phương Đông tồn tại lâu hơn phương
Tây).
+ Nghề trồng trọt phụ thuộc cùng một lúc vào nhiều ý tố với sự tương tác lẫn nhau: thời tiết nắng,
mưa, đất đai, khí hậu, giống cây trồng, chế độ chăm sóc… nên từ đây hình thành kiểu duy tổng
hợp - biện chứng, coi trọng mối quan hệ giữa các yếu tố n sự tách bạch từng thành tố riêng lẻ.
Lối tư duy tổng hợp, biện chứng là nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
+ Phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đúc kết từ thực tế nên từ đây
cũng hình thành kiểu duy kinh nghiệm ch quan, cảm tính, thay duy khoa học khám phá bản
chất của đối tượng trên cơ sở khách quan và khoa học.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Do vị trí địa nằm trung m khu vự Đông Nam Á nên Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.
Biểu hiện:
- Người Việt từ xưa đến nay đều ưa thích một cuộc sống định ổn định (An lạc nghiệp),
vậyđã tạo nên tình cảm gắn với quê hương xứ sở, với làng, nước. Nhưng cũng từ đây đã hình
thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội, hạn chế sự giao lưu, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
- dân nông nghiệp Việt Nam rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa để
cócuộc sống no đủ (câu cửa miệng của người Việt là “lạy Trời”, ơn Trời”…) . Các tín ngưỡng
lễ hội sùng bái tự nhiên rất phổ biến các tộc người trên khắp mọi vùng miền của đất nước, đặc
biệt là các dân tộc thiểu số.
- Cuộc sống định tạo cho người Việt tính gắn kết cộng đồng cao (Bán anh em xa mua láng giềng
gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…).
- Sự gắn cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa ( lành đùm rách; Chị ngã em nâng….).
- Cuộc sống định ổn định cần đến vai trò chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm nữa,
nghềtrồng trọt, đồng áng cũng công việc phù hợp với phụ nữ, do đó, vai trò của nời phụ nữ
được tôn trọng, đề cao (Ruộng sâu nâu trái không bằng con gái đầu lòng; Nhất vợ nhì trời….).
Sau này, do sự ảnh hưởng, chi phối của tưởng Nho giáo mới hình thành tưởng trọng nam khinh
nữ. Hiện nay, các dân tộc không chịu ảnh hưởng, hoặc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa
(dân tộc Chăm, Giarai…) vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ. Nhiều tộc người tuy không còn chế độ
mẫu hệ nhưng hiện vẫn còn lưu lại những vết tích (người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc
là “mê phum”, “mê sóc” (mê = mẹ), dù người đó là đàn ông).
- Lối duy tổng hợp - biện chứng kết hợp với lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy,
ứngxử tùy tiện, vô nguyên tắc (Yêu nên tốt, ghét nên xấu…).
- Lối duy tổng hợp, biện chứng cũng nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt,được
thể hiện rõ qua quan niệm sống của người Việt (Tùy cơ ứng biến; Ở bầu thì tròn…).
- Kiểu duy nặng về kinh nghiệm chủ quan, cảm tính cũng thể hiện trong văn hóa nhận
thức,ứng xử của người Việt: coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn sở khách quan và tri thức
khoa học ( Trăm hay không bằng tay quen…).
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt được thể
hiện nét trong lối sống, phương thức duy thói quen ứng xử của người Việt, được thể hiện
qua kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ - đó là những giá trị văn a phi vật thể được đúc kết qua
nhiều thế hệ, được lưu truyền trong dân gian.
Câu 3: Hãy chra khả năng tận dụng, thích nghi ứng phó với môi trường tự nhiên ca
người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất.
Về sở vật chấthội:
- Để xây dựng một quốc gia phong kiến tự chủ, các triều đại phong kiến Đại Việt từ Đinh - -
Trần- - Nguyễn đều rất chú trọng việc xây dựng sở vật chất như cung điện, lăng tẩm, đền
đài, thành lũy. Nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng của thời Đại Việt như kinh đô Hoa Lư, kinh đô
Thăng Long, kinh thành Huế mặc đã bị tàn phá nặng nề qua nhiều lần chiến tranh giặc giã,
nhưng những còn lại đến ngày nay đã trở thành những di sản văn hóa giá của dân tộc, bằng
chứng cho các thời kỳ hưng thịnh của các triều đại phong kiến Đại Việt.
Về phương thức sản xuất:
- Nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất tiểu nông tự túc tự cấp phương thức
sảnxuất chủ đạo, chi phối toàn bộ nền tảng kinh tế của hội Việt Nam truyền thống. Trong quá
trình xây dựng quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông các
chính sách khuyến nông tích cực.
- Quá trình cải tạo chinh phục tự nhiên, khai hoang, cải tạo đầm lầy, lấn biển, mở rộng diện
tíchcanh tác, làm thủy lợi, đắp đê chống lụt… đã tạo thành các vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ,
Bắc Trung Bộ, sau này Nam Bộ để chuyên canh lúa nước một cách ổn định. Trên những vùng
đồng bằng châu thổ kéo dài từ Bắc đến Nam, người Việt đã phát triển một truyền thống văn hóa
sản xuất tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước với đặc điểm:
- Cây lúa nước chiếm ưu thế tuyệt đối, bên cạnh đó cũng hình thành một cơ cấu cây trồng khá
phongphú: các loại cây cho củ, cây cho quả, cây cho hạt, cây ăn lá, cây cho sợi làm nghề thủ công
(dệt, mây, tre…).
- Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã đúc kết được một hệ thống các kinh nghiệm
củanghề trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không chỉ được lưu truyền trong dân gian, mà còn
được tâp hợp lại, biên soạn thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân (vd: Nông sự toàn đồ của
Lê Thúc Hoạch đời Nguyễn).
- Để phục vụ cho nghề nông, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ thủ công
cổtruyền rất phong phú, đa dạng, gồm hàng trăm kiểu loại khác nhau.
Tất cả kinh nghiệm được đúc kết hình thành những thành tựu sáng tạo từ phương thức sản xuất
nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng tận dụng, thích nghi ứng phó một cách tối ưu của
người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ng xử với môi trường hội của người Việt được thhiện lĩnh vực
văn hóa vật chất.
- Do đặc điểm của văn hóa nông nghiệp với tính gắn kết cộng đồng cao nên tính cộng đồng cũng
chiphối đến kiến trúc nhà ở của người Việt:
+ Khác với kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập (tôn trọng tính
riêng tư, nhân), kiến trúc không gian trong ngôi nhà Việt truyền thống là một không gian mở, với
các gian nhà thường để thông nhau, không vách ngăn, thể hiện việc coi trọng không gian sinh
hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình.
+ Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng là không gian mở, thường chỉ được ngăn cách tượng trưng
bằng một hàng cây (râm bụt, mùng tơi…) được xén thấp để dễ quan hệ qua lại.
+ Với việc coi trọng đạo hiếu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nên trong kiến trúc nhà Việt luôn
gian thờ cúng tổ tiên, được đặt ở không gian trungm của ngôi nhà, nơi trang trọng nhất.
u 5: y chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương - Ngũ hành với shình thành các triết
sống của người Việt.
Từ việc nhận thức các quy luật của vạn vật trong tự nhiên hội đã chi phối việc hình thành các
triết lý sống của người Việt.
a. Triết về sự cân xứng, cặp đôi:
- Trong tâm thức của người Việt, âm - dương luôn luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng; ch
tồntại trong tính cặp đôi, tương xứng, cân bằng âm - dương thì sự vật mới hàn thiện, trọn vẹn, vững
bền. Trong thành ngữ, tục ngữ, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt, các đối tượng cặp
đôi thường xuyên được nói tới như: trời - đất; cha - mẹ, ông - bà, đất - nước, sông - núi…
b. Triết sống quân bình, hài hòa âm - ơng:
- Thấm nhuần triết âm - dương, người Việt quan niệm trạng thái tồn tại tối ưu của mọi s
vật, từtự nhiên đếnhội sự cân bằng, hài hòa âm - dương. Chỉ khi tồn tại trong trạng thái này, sự
vật mới ổn định, bền vững, không bị biến đổi sang trạng thái khác (vì âm cực sinh dương, dương
cực sinh âm nên cái gì thái quá cũng dẫn đến bất cập sinh biến: Tức nước vỡ bờ…). Từ đó, người
Việt chủ trương sống theo triết lý quân bình, cố gắng duy trì trạng thái âm - dương cân bằng, trừ
nhau, từ việc chế biến các món ăn đến việc làm nhà ở, cho đến việc ứng xử hài hòa trong các quan
hệ. Vì vậy, người Việt thường phê phán thái độ sống cực đoan: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã
đau…
Triết lý sống quân bình cũng khiến cho nời Việt thường tự bằng lòng, an phận với những gì mình
đang có, hạn chế sự cạnh tranh, hiếu thắng. ( Dĩ hòa vi quý).
b. Triết lỹ sống lạc quan:
- Nhận thức được qui luật trừ âm - dương, vận dụng vào trong cuộc sống, người Việt
thường cócái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến: Trong rủi có may; Trong họa có phúc…
- Nhận thức được qui luật chuyển hóa âm - dương, người Việt có cái nhìn biện chứng về cuộc
sống: Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời….
Tuy nhiên, nếu lạc quan thái quá thì lại dẫn đến thái độ tiêu cực: tự bằng lòng, an bài với cuộc sống,
phó mặc cho số phận, không nỗ lực cố gắng hết mình.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo Việt Nam và vai trò của phật
giáo đối với đời sống văn a tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo chính thức du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc, theo chân quân xâm lược Trung Hoa đã
nhanh chóng được người Việt tiếp nhận 1 cách tự nhiên, tự nguyện.
1.
Tư tưởng - triết lý của Phật giáo
Phật giáo truyền vào nước ta gồm 2 phái: Tiểu thừa và Đại thừa
+ Phật giáo Tiểu thừa (Phật giáo nguyên thủy), phát khởi từ miền nam Ấn Độ (nên gọi là phái Nam
tông), rồi truyền qua Srilanca, sau đó sang Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào sau này vào
miền Nam nước ta.
+ Phật giáo Đại thừa phát khởi từ miền bắc Ấn Độ (nên gọi phái Bắc tông), rồi truyền sang Tây
Tạng, Trung Hoa, từ đó du nhập sang Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản Việt Nam. Phật giáo Đại
thừa lại gồm 3 tông phái: Thiều tông, Tịnh độ và Mật tông.
- Phật giáo Thiền tông giải nguyên nhân gây nên mọi nỗi khổ cho con người từ tâm”
ra(nhất thiết duy m tạo). Do con người nhiều tham - sân - si” m cho tâm bất ổn, bức xúc, u
mê, khiến cho lời nói, việc làm không đúng đắn, lương thiện, nguyên nhân gây nên nghiệp”. Nếu
không tu luyện m tính để gạt bỏ tham - sân - si sẽ bị “luân hồi”, nhân quả”, “nghiệp báo”, “gieo
gió gặt bão”. Từ đó, Phật giáo Thiền tông chủ trương lấy tâm làm gốc, coi tu tâm vấn đề cốt tử,
chỉ khi nào tâm yên tĩnh lắng trong tức đã tìm thấy “Phật tínhmới nhìn được mọi sự, mọi vật rõ
ràng minh bạch. vậy, Phật giáo Thiền tông quan niệm Phật tại tâm, mỗi người đều Phật tính
trong tâm; m “Niết bàn”, tâm Phật. Để đi đến đốn ngộ” thì trước hết phải biến tâm mình
thành không, tức trở về với cái ban đầu (bản tâm). Từ đó, tu theo Phật giáo Thiền tông đòi hỏi
phải tập trung trí tuệ để thiền (tịnh m). Tu tâm sẽ giúp con người đạt đến “giác ngộ” (trạng thái
thăng hoa của tâm thức khi đạt đến trí tuệ tột cùng). Khi đó con người sẽ được “giải thoát”, trút bỏ
được mọi nỗi phiền muộn, lo âu, ơng vấn, tâm hoàn toàn thanh thản, làm chủ được chính mình để
tự tại trong cuộc sống - cũng tức là khi con người đạt tới cõi “Niết bàn”. Như vậy, Phật giáo Thiền
tông quan niệm “Niết bàn” nằm ngay trong thế giới trần tục, con người bằng “đốn ngộ” thể tr
thành Phật ngay trong thế giới này.
- Phái Tịnh Độ tông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu chúng sinh thoát khổ,
lấyviệc niệm danh Phật để cầu cho khi chết sẽ được tái sinh Đất Tịnh Độ (nơi yên tĩnh, trong
sáng), đó cõi “Niết bàn” ngoài thế giới trần tục, được quan niệm đó một thế giới “Cực lạc” do
Đức Phật A-di-đà cai quản. Tín đồ Phật giáo Tịnh Độ tông dùng phương pháp niệm danh Phật để
“định tâm bất loạn”, đi chùa dâng hương cầu kinh niệm Phật. Tu theo phái Tịnh Độ tông không yêu
cầu nhiều thời gian và công sức nên đã dần dần thâm nhập được vào quảng đại dân chúng theo đạo
Phật Việt Nam. Sự phát triển của Tịnh Độ tông theo hướng dân gian hóa đã tạo nên một truyền
thống dân tộc của Phật giáo Việt Nam nói riêng và văn hóa truyền thống nói chung.
- Phái Mật Tông (bí mật), chủ trương dùng những phép tu huyền như linh phù, mật chú, ấn
quyếtđể mau chóng đạt đến giác ngộ giải thoát. Vào Việt Nam, phát Mật tông không tồn tại một
tông phái riêng nhanh chóng hòa vào ng tín ngưỡng dân gian với các hình thức cầu đồng,
dùng pháp thuật, yểm bùa trị ma và chữa bệnh.
Từ khi du nhập vào đến nay, Phật giáo đã cộng sinh trong văn hóa Việt Nam hơn 20 thế kỷ, trở
thành phương tiện biểu đạt tưởng nhân đạo triết sống vị tha của người Việt. Trong cuộc
hành trình của Phật giáo ở Việt Nam, có thể khái quát ba giai đoạn phát triển hưng thịnh:
Giai đoạn 1: giai đoạn nhu nhập, từ thế kỷ I đến thế kỷ III.
Ngay từ khi chính thức du nhập vào nước ta, những giáo bản của đạo Phật đã sớm được dân
Việt chấp nhận rộng rãi nhanh chóng được chỗ đứng trong đời sống văn hóa tinh thần của
người Việt. do bởi tưởng bình đẳng, dân chủ từ bi bác ái của đạo Phật phù hợp với
tưởng hiếu hòa, nhân ái, yêu thương con người vốn ttruyền thống văn hóa bản địa của người
Việt.
Từ thế kỷ I đến thế kIII, vùng Luy Lâu (Bắc Ninh) trở thành trung tâm Phật giáo lớn của khu vực,
quy tụ hàng trăm nhà tu hành từ Ấn Độ, Trung Hoa Việt Nam đến đây để dịch kinh sách nhà
Phật, hành đạo và truyền đạo Phật. Chùa Dâu (được xây dựng vào thế kIII) được coi Tổ đình
của Phật giáo Việt Nam.
Giai đoạn 2: thời - Trần, từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII
Vào những thế kỷ đầu thời kỳ Đại Việt, Phật giáo phát triển rất nhanh đạt tới cực thịnh vào thời
Lý - Trần, từ thế kỷ XI-XIII. Các vị vua từ triều đại nhà Lý, khởi đầu là Lý Công Uẩn đều là các tín
đồ Phật giáo. Các vị (như Vạn Hạnh, Đa Bảo…) được mời tham gia chính sự tiếng nói
quan trọng trong các công việc của triều đình.
Đặc biệt, đến triều Trần, vua Trần Nhân Tông đã giã từ ngôi báu khi đang phong độ đỉnh cao để
xuất gia tu hành, lập nên thiền phái Trúc m Yên Tử, mà tư tưởng chủ đạo nhập thế, đem triết lý
của đạo Phật ứng dụng vào việc trị nước.
Đó những lý do giải thích vì sao thời Lý - Trần, tư tưởng triết của Phật giáo đã chi phối sâu sắc
không chỉ trong đường lối trị nước mà còn thẩm thấu, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống
hội, từ chính trị đến tư tưởng, đạo đức, ứng xử và văn chương nghệ thuật.
Đây cũng thời krất nhiều chùa tháp qui lớn kiến trúc độc đáo được xây dựng, như
chùa Phật Tích…. Thời gian này, chùa không chỉ trung tâm tín ngưỡng - tôn giáo mà còn trung
tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng của làng xã.
Đến thế kỷ XV, khi nhà tuyên bố lấy Nho giáo quốc giáo thì Phật giáo đã phải nhường chỗ cho
sự lên ngôi của Nho giáo.
Giai đoạn 3: thời nhà Nguyễn - thế kỷ XIX đến nay.
Sau thời kỳ chiến tranh loạn lạc, Trịnh - Nguyễn phân tranh, khi hòa bình lập lại, đất nước thống
nhất, giang sơn thu vmột mối, nhà Nguyễn lên ngôi, Phật giáo cũng dần được khôi phục lại vị trí
tinh thần quan trọng của mình.
Đến nay, Phật giáo đang tiếp tục cuộc hành trình khôi phục lại vị trí của mình trong đời sống văn
hóa tinh thần của người Việt. thể nói, trong số các tôn giáo hiện mặt Việt Nam, Phật giáo
vẫn là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất.
2.
Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo VN đã hơn 2000 năm lịch sử. Từ khi du nhập, Phật giáo đã được người Việt bản địa
hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy của văn hóa dân tộc, tạo nên sắc
thái riêng của Phật giáo VN với các đặc điểm sau:
- Khuynh hướng nhập thế:
+ Giáo của Phật giáo cứu khổ, cứu nạn, phổ độ chúng sinh. Bản thân mục đích ấy đã bao m
nhân tố nhập thế, bởi vậy, Phật giáo VN luôn đồng hành với cuộc sống của chúng sinh bằng những
việc làm thiết thực: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo trí thức; nhiều nhà cũng đồng
thời thầy thuốc chữa bệnh cho dân chúng; nhiều vị cao tăng được triều đình mời tham chính hoặc
cố vấn trong những việc hệ trọng (sư Vạn Hạnh đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua…)
+ Giáo của Phật giáo còn được người Việt cụ thể hóa trong các mối quan hệ đời thường ( Tu đâu
cho bằng tu nhà; xây chín bậc phù đồ, không bằng âm phúc cứu cho một người..) - Tính tổng
hợp:
Tính tổng hợp một trong những đặc trưng của lối duy nông nghiệp, bởi vậy, tính tổng hợp cũng
chi phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo của người Việt, làm nên sắc thái riêng của Phật giáo VN.
Biểu hiện:
1. Phật giáo dung hợp với các tín ngưỡng truyền thống văn hóa bản địa:
+ Dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (các vị thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp đã được Phật hóa
thành Phật Pháp Vân, Phật Pháp , Phật Pháp Lôi, Phật Pháp Điện).
+ Dung hợp với tín ngưỡng thờ Mẫu, Phật giáo VN khuynh hướng thiên về nữ tính: Phật giáo VN
rất nhiều Phật Bà; vđức Phật trong quan niệm của Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ vốn đàn
ông, khi du nhập sang VN đã biến thành Phật Bà. Bồ-tát Quán Thế Âm đã được biến thành Phật
Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Các vùng miền trên đất nước đều những ngôi chùa mang tên các
bà: chùa Bà Dâu, Chùa Bà Đen..
+ Dung hợp giữa việc thờ Phật với việc thờ các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thánh Hoàng, Thổ Địa, các
anh hùng dân tộc: kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là tiền Phật hậu Thần.
2. Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo:
+ Đây một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật giáo VN so với Phật giáo của các quốc gia láng
giềng. Trong khi Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia chỉ Phật giáo Nam tông, còn Tây
Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ chỉ Phật giáo Bắc tông thì VN cả phái Nam tông
(Tiểu thừa, chủ yếu ở Nam Bộ) và Bắc tông (Đại thừa, chủ yếu ở Bắc Bộ).
+ Trong tông phái Đại thừa cũng có sự kết hợp giữa Thiền tông với Mật tông (các vị thiền sư thời
Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không đều giỏi pháp luật); Thiền tông kết hợp với
Tịnh Độ tông (tụng niệm Phật A-di-đà Bồ Tát). Nhiều điện thờ chùa miền Bắc ng thờ các
loại tượng Phật của các tông phái khác nhau; nhiều chùa miền Nam xu hướng kết hợp Tiểu
thừa với Đại thừa: hình thức là Tiểu thừa nhưng lại theo giáo lý Đại thừa.
3. Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác:
+ Thời Đại Việt, Phật giáo với Nho giáo Đạo giáo mặc khác nhau về tưởng, giáo lý, thậm
chí sự đối lập nhau (Phật giáo bình đẳng/ Nho giáo bất bình đẳng…) nhưng các hệ tưởng
tôn giáo này không những sự không sự bài xích, xung đột, mà cùng tồn tại trong sdung hợp
và bổ sung cho nhau, cùng hướng vmột mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người. \
+ Vào đầu thế kỷ XX, Nam Bộ đã hình thành hai tôn giáo bản địa đều dựa trên nền tảng của Phật
giáo, đó đạo Cao Đài đạo Hòa Hảo. Đạo Cao Đài (còn gọi “Đại đạo Tam kỳ Phổ độ”),
một tôn giáo bản địa (ra đời năm 1926, trung tâm Tòa Thánh Tây Ninh), đó sự kết hợp giáo
của Phật giáo với Nho giáo, Lão giáo Thiên chúa giáo để hướng con người tới một cuộc sống an
nhiên tự tại về thể xác và tinh thần. Đạo Hòa Hảo (còn gọi Phật giáo Hòa Hảo, ra đời ở An Giang
năm 1939), đó sự cụ thể hóa giáo của đạo Phật với việc tu thân bằng thực hành đạo đức “Tứ ân
hiếu nghĩa” (ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo, ơn đồng bào và nhân loại).
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và văn hóa dân
gian của quảng đại quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi
miền đất nước. Cùng với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, trong cuộc nh trình n 20
thế kcộng sinh trong văn hóa Việt, các tưởng, triết của Phật giáo đã thẩm thấu như một mạch
ngầm xuyên suốt trong chiều sâu văn hóa tinh thần của người Việt, đóng vai trò một trong những
cột trụ chi phối bản sắc văn hóa Việt Nam. Với mỗi người dân Việt, giáo của Phật giáo đã thẩm
thấu vào tầng sâu nhất của triết lý sống; ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi
an của tâm hồn, trung tâm sinh hoạt cộng đồng cũng i ẩn chứa các giá trị văn hóa
truyền thống đã có lịch sử từ lâu đời:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống ngàn năm của tổ tiên
3.
Sự ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa ứng xử của người Việt
Tác động tích cực:
- tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh ý thức và hành
vicủa con người theo triết sống từ bi c ái, nhẫn nhịn, vị tha “khuyến thiện từ ác” đã giúp hạn
chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần đem lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống.
Tác động tiêu cực:
- Với việc khuyên con người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ nhường nhịn, cam
chịu,thậm chí cả nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động
đấu tranh của con người khi cần phải bảo vệ công lý, lẽ phải.
- Do ảnh hưởng bởi thuyết “luân hồi”, “quả báo” của Phật giáo, nhiều người Việt thường
không chủđộng s dụng luật pháp công cụ bảo vệ mình khi quyền lợi bị xâm hại, chọn
phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự trừng phạt của luật Trời hơn luật pháp, vì
vậy từ đây cũng hình thành thói quen sử dụng công cụ luật pháp trong đời sống dân sự.
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo Việt Nam vai trò ca Nho
giáo đối với đời sống văn a tinh thần của người Việt xưa và nay.
Nho giáo một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tưởng - giáo nhằm tổ
chức, duy trì sự ổn định của trật tự hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị. Khổng Tử được coi
người công đầu trong việc hệ thống hóa hoàn chỉnh hệ thống tưởng Nho giáo của Trung
Hoa.
Du nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt 1000 m, Nho
giáo chưa có được chỗ đứng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Sang thời Đại Việt, tư
tưởng Nho giáo ngày càng được phổ biến rộng rãi do Nho giáo là nội dung chủ yếu được giảng dạy
trong nhà trường. Từ chỗ chiếm được địa hạt giáo dục, Nho giáo đã từng ớc chậm chắc, chiếm
lĩnh dần địa hạt chính trị và tư tưởng. Đến thế kỷ XV, Nho giáo đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên
bố lấy Nho giáo làm quốc giáo.
1. tưởng - giáo của Nho giáo
Nội dung bản của tưởng Nho giáo được biểu hiện trong hệ thống giáo Tam cương, Ngũ
thường và thuyết Chính danh.
+ Tam cương (ba mối quan hệ rường cột đ duy trì trật tự hội): Quân-thần (vua-tôi); Phụ-
tử(chacon); Phu-phụ (chồng-vợ). Trong các mối quan hệ này đòi hỏi bề trên (vua, cha, chồng) phải
yêu thương, chăm sóc bao dung kẻ dưới (bề tôi, con, vợ). Kẻ dưới phải kính nhường, thương yêu,
phục tùng biết ơn bề trên (bề tôi phải tuyệt đối trung với vua - đề cao chữ trung (Quân xử thần
tử, thần bất tử bất trung); con phải tuyệt đối phục tùng cha-đề cao chữ hiếu (Phụ xử tử vong, tử bất
vong bất hiếu); vợ phải phục tùng chồng (Phu xướng phụ tùy). Trong đó, mối quan hệ vua-tôi
trọng tâm, vì vậy chữ trung được đăc biệt đề cao.
+ Ngũ thường (năm đức bản, thường hằng của con người, làm nền tảng đạo đức cho hội):
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong đó, chữ Nhân được coi trung tâm, nền tảng chi phối mọi quan
hệ ứng xử.
Nho giáo coi Tam cương, Ngũ thường các nguyên đạo đức bản làm chuẩn mực cho việc xây
dựng nhân cách con người và quan hệ ứng xử giữa nời với người trong gia đình và ngoài hội,
coi đó nền tảng để xây dựnghội thái bình, trật tự ổn định. Từ đó Nho giáo cũng xác lập các
tiêu chí để xây dựng mô hình nhân cách của con người lý tưởng:
- Hình mẫu của đấng nam nhi: người quân tử. Con đường phấn đấu để trở thành người quân tử: tu
thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ.
- Hình mẫu của phụ nữ: tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), tứ đức
(công-dung-ngôn-hạnh).
+ Thuyết chính danh: Nho giáo quan niệm muốn xây dựng hội ổn định, tưởng thì mỗi người
phải làm đúng vai trò, danh phận của mình (Thượng bất chính thì hạ tắc loạn).
Các triều đại phong kiến Đại Việt dùng Nho giáo làm nền tảng để xây dựng hệ tưởng, đạo đức,
pháp luật, giáo dục, qua đó để xây dựng hình nhân cách con người. Tuy nhiên, do sự chi phối
của văn hóa bản địa nên Nho giáo Trung Hoa đã được người Việt tiếp nhận một cách linh hoạt, mềm
dẻo.
2. Đặc điểm của Nho giáo VN
- Nền Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua được đề
cao tuyệt đối thì Nho giáo VN không cực đoan đến mức đòi hỏi phải hy sinh tính mạng vua. Mặt
khác, quan niệm trung quân VN luôn gắn liền với ái quốc và trong nhiều trường hợp, nước được
đề cao hơn vua.
- Các khái niệm bản của Nho giáo n: nhân, nghĩa cũng đã bị khúc xạ qua lăng kính của người
Việt. Điều này được thể hiện qua những đóng góp của Nguyễn Trãi - anh hùng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới - khi ông mở rộng khái niệm nhân, nghĩa để không chỉ một khái niệm
đạo đức hạn hẹp trong ứng xử nhân, trthành một tưởng hội cao đẹp: vì cuộc sống
hạnh phúc, bình yên của nhân dân (việc nhân nghĩa cốt ở yên dân).
- tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào VN cũng đã được giảm bớt tính cực đoan
bởisự ảnh hưởng của văn hóa mẫu hệ.
- Từ cuối thế kỷ XVI cho đến hết thế kXVIII thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến
ĐạiViệt do Trịnh - Nguyễn phân tranh, Nho giáo VN đi vào giai đoạn suy vong không thể cứu vãn.
đã cố gắng bằng mọi cách để củng cố địa vị của Nho giáo trong đời sống tưởng văn hóa,
nhưng các vương triều phong kiến từ Gia Long đến Minh Mạng, Tự Đức đều không thể làm cho
Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở thế kỷ XV.
3. Ảnh ng
Trong gần ời thế kỷ xây dựng củng cố nhà nước phong kiến, Nho giáo khẳng định vai trò
nền tảng tưởng chi phối đến mọi mặt của đời sống hội VN, được biểu hiện nét trên nhiều
lĩnh vực:
- Là nền tảng tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, Nho giáo chủ trương đề cao vai trò
củađạo đức trong việc quản lý, duy trì sự ổn định của hội dựa trên các mối quan hệ Tam cương,
Ngũ thường.
- Hình thành chuẩn mực đạo đức xây dựng mô hình nhân cách con người VN truyền thống
vớicác tiêu chí: đạt đức (Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết lạnh làm câu sửa mình; Một
lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo cao); đạt đạo (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín)
- Xây dựng nền tảng giáo dục, thi cử, từ mục đích đến nội dung phương pháp giáo dục.
Với sự chi phối, ảnh hưởng sâu sắc toàn diện mọi mặt đời sống tinh thần của hội VN, Nho
giáo đã tác động đến văn hóa VN với cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Tác động tích cực:
- tưởng giáo Nho giáo đã góp phần xây dựng hội ổn định, nề nếp theo tôn ti trật tự,
thứbậc, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
- Đề cao các giá trị đạo đức, nhân cách các gtrị tinh thần, xây dựng hình nhân cách
mẫumực đối với nam giới (tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ), và phụ nữ (tam tòng, tứ đức).
Tác động tiêu cực:
- Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc, phân biệt đối xử bất bình đẳng (vị thế hội, giới tính, tuổi
tác),là nguyên nhân tạo nên tưởng tôn quan quyền, gia trưởng, thiếu dân chủ. (Sống lâu lên lão
làng; Áo mặc không qua khỏi đầu…)
Tác động tiêu cực của Nho giáo đến văn hóa ứng xử với pháp luật:
- Việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc nguyên nhân làm hạn chế ý thức về quyền nhân,
hệquả trực tiếp sự triệt tiêu ý thức phản biện/ phản kháng của con người, đó cũng nguyên
nhân làm hạn chế việc sử dụng công cụ pháp luật để bảo vệ quyền cá nhân.
- chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị nên Nho giáo khuyến khích “vô tụng”. Khổng Tử
chorằng: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải làm cho dân không việc kiện
tụng”.
- Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị khiến cho sự phân cách giữa đạo pháp
làmột ranh giới mờ, nhập nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời phong kiến
VN, “Tam cương”, “Ngũ thường” là đạo nhưng cũng đồng thời là pháp lý. Điều này dẫn đến hệ
quả việc xét xử các vụ án thường khó tránh khỏi hiện tượng “tội đồng luận dị” (tội giống nhau
nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của
người dân đối với pháp luật.
Câu 8: Hãy trình bày dấu ấn ca văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn a giao tiếp ứng
xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp nào cần được giữ gìn và phát huy.
Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt coi trọng việc
giao tiếp và thích giao tiếp. Biểu hiện:
- Chào hỏi nhau được xem một nghi thức úng xử văn hóa quan trọng (Lời chào cao hơn mâm cỗ).
- Thích thăm viếng nhau, coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, đ thắt
chặtthêm quan hệ.
- tính hiếu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
1. Ứng xử trong giao tiếp của người Việt
+ Thích tìm hiểu, quan sát, đánh gđối tượng giao tiếp:
- Quan tâm đến những thông tin nhân của đối tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán,, nghề
nghiệp,địa vị, hoàn cảnh gia đình…). Đặc điểm này cũng có nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối
sống trọng tình (quan tâm đến người khác).
+ Ứng xử nặng tình cảm hơn trí:
- Nguyên tắc ứng xử này được phản ánh nét trong tục ngữ, cao dao: Một bồ cái không bằng
một cái tình; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng
méo; Yêu nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…
- trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt cách xưng theo quan hệ thân tộc, coi
mọingười trong cộng đồng như bà con họ hàng: cô, bác, chú, , cháu, con… + Trọng danh dự hơn
giá trị vật chất:
- Trong quan hệ ứng xử, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn gtrị vật chất (Tốt danh
hơn lành áo; ….)
- coi trọng danh d nên nghi thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, th bậc
(chàonhau theo quan hệ hội và sắc thái tình cảm chứ không phải theo thời gian trong ngày như
nghi thức phương Tây).
- Chính quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh diện ( đời muôn sự của
chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi…)
- trọng danh dự diện nên người nên Việt rất sợ luận, bởi vậy, luận trở thành một
thứvũ klợi hại, một sợi dây vô hình để ng buộc nhân với cộng đồng, nhờ đó duy trì sự
ổn định của làng xã.
+ Giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp:
- Khi giao tiếp, người Việt thường thói quen không đi thẳng vào vấn đè cần nói, thường
haymở đầu vòng vo tam quốc” để đưa đẩy, tạo không khí thân mật thăm thái độ của đối
tượng giao tiếp.
- Do giữ ý, người Việt thường không biểu lộ trực tiếp cảm xúc của mình với đối tượng giao tiếp
(cadao, thành ngữ thường dùng hình tượng ẩn dụ, bóng gió).
- Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại ( Lời
nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau…)
- Hệ quả của việc giữ ý, cả nể dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán
tronggiao tiếp (Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo…)
Chính thói quen ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp đã khiến cho người Việt không m thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái chiều, cũng như
không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để bảo vlẽ phải, bảo vệ
chân lý. Đây là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
2. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp
Ngôn ngữ vỏ vật chất của duy, công cụ giao tiếp của con người. Mỗi dân tộc những thói
quen trong duy, cách nghĩ, cách ứng xử, được biểu hiện ra trong ngôn ngữ khi giao tiếp, tạo thành
văn hóa ngôn từ trong giao tiếp. Đặc trưng của văn hóa ngôn từ trong giao tiếp của người Việt thể
hiện rõ nét qua những đặc điểm sau:
+ Lời nói mang tính biểu trưng, ước lệ cao:
- Trong giao tiếp, người Việt thói quen thường không nói trực tiếp, cụ thể vào điều cần nói
màthường nói bóng gió bằng hình ảnh von, ẩn dụ ( Trăm dâu đổ một đầu tằm…). Lối nói này
tạo nên tính đa nghĩa, có thể vận dụng linh hoạt vào nhiều văn cảnh giao tiếp khác nhau.
+ Tính so sánh tương phản: trong tục ngữ, thành ngữ, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, người Việt
thường hay dùng những câu nói hai vế đối ứng trong quan hệ so sánh, tương phản (Trèo cao/té
đau..). Cấu trúc này thường tạo tiết tấu, vần điệu cho lời nói (giàu chất thơ).
Câu 9: Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai trò của
gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Do sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp tưởng Nho giáo nên văn hóa gia đình
VN truyền thống có các đặc điểm sau:
- Tính cộng đồng lối sống trọng tình: mỗi gia đình thường ba, bốn thế hệ cùng chung
sốngtrong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vậy các thành viên trong gia đình rất gắn bó,
yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang…).
- Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền: con cái mang họ bố; người bố quyền uy tuyệt đối
vàchịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy…)
- Chế độ phong kiến chấp nhận gia đình đa thê (Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một
chồng).
- Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ của giáo Nho
giáo(Quyền huynh thế phụ)
ởng Nho giáo chế độ gia đình phụ quyền nguyên nhân của quan niệm trọng nam khinh nữ
(nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên nhân gây ra nhiều thiệt thòi và bi
kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Gia đình VN truyền thống
Nhiều gia đình trong một dòng họ tập hợp, liên kết thành một gia tộc. Đặc điểm của gia tộc người
Việt:
- Mỗi gia tộc thường sống quần tụ trong một làng, nên những làng truyền thống lâu đời thường
làđơn vị cư trú của một dòng họ (Đặng Xá, Ngô Xá…).
- Coi trọng việc thờ cúng tổ tiên (hầu hết các dòng họ đều nhà thờ họ, tộc phả, nghĩa
trangriêng). Người đứng đầu một dòng họ gọi là tộc trưởng nhiệm vụ trông coi việc thờ cúng tổ
tiên và mọi việc chung trong gia tộc.
- Gia tộc chỗ dựa cho gia đình (người trong cùng một gia tộc trách nhiệm cưu mang, hỗ
trợnhau về vật chất và tinh thần (Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú dì; Nó có chú khôn…)
Chính từ sự gắn chặt chẽ giữa gia đình - gia tộc sở tạo nên một nét đẹp trong văn hóa ứng
xử của người Việt, đó tính gắn kết cộng đồng và lối sống trọng tình; song từ đây cũng nảy sinh
tưởng phái, kiểu ứng xử “gia đình chủ nghĩa”… nguyên nhân gây nên không ít tiêu cực trong
xã hội (Một người làm quan cả họ được nhờ, tệ nạn “con ông cháu cha”).
Câu 10: Hãy trình bày đặc trưng của văn hóa ng ảnh hưởng của đến thói quen, lối
sống, cách duy, ng xử ca người Việt (ảnh hưởng đến pháp luật). Sưu tầm những u
thành ngữ, tục ngữ nói về văn a làng của người Việt.
Hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng đó là tính cộng đồng tính tự trị:
1. Tính cộng đồng
Tính cộng đồng như một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa VN, được biểu hiện nét cách thức tổ
chức các mối quan hệ trong các đơn vị cộng đồng, từ gia đình - gia tộc đến làng quốc gia,
trong đó tính cộng đồn thể hiện rõ nhất là ở văn hóa làng.
a. sở hình thành tính cộng đồng trong văn hóa làng:
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa ớc đòi hỏi phải sống định cư, vì vậy, như một đòi
hỏitự nhiên và tất yếu để sinh tồn, người Việt đã sống quần tụ thành cộng đồng, gắn kết để nương
tựa, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ứng phó với thiên tai.
- Tiền thân của làng Việt tổ chức công nông thôn, được hình thành dựa trên hai mối quan hệ
làhuyết thống (Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú gì; Chị ngã em nâng..) và mối quan hệ láng giềng (Bán
anh em xa mua láng giềng gần). Hai mối quan hệ này đã tạo nên chất keo gắn kết các thành viên
trong làng thành một khối cộng đồng bền chặt.
b. Biểu hiện của tính cộng đồng trong văn hóa làng:
- Về kinh tế: dân trong cùng một làng luôn tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản
xuất,chống thiên tai (hạn hán, lụt), khi đói kém, mất mùa (Một miếng đói bằng một gói khi
no…)
- Về tình cảm: dân trong làng đều mối quan hệ thân tộc nên luôn giúp đỡ nhau khi khó
khănhoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…).
- Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cùng thờ
chungThành Hoàng làng; cùng tham gia các hội hè, đình đám….; hôn nhân phải được làng công
nhận (nộp cheo cho làng).
- Về luật pháp: mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với tư cách
cánhân, bị hòa tan trong cộng đồng họ mạc, làng xã. vậy, trong hội phong kiến, “một
người làm quan cả họ được nhờ”, nhưng một người phạm tội thì cả cộng đồng phải chịu vạ lây
(Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu).
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả về quan hệ hội
cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật… Tính cộng đồng được bảo tồn, nuôi dưỡng từ cái
nôi văn hóa làng một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, cũng sở để hình thành tinh
thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quý báu, làm nên cội nguồn sức mạnh
của dân tộc ta.
c. Biểu tượng của tính cộng đồng trong văn hóa làng:
Trong không gian sống của mỗi làng quê Bắc Bộ, đình làng, cây đa, bến nước những hình ảnh
cùng quen thuộc, gắn thân thuộc, bởi đây những địa điểm thường tập trung đông người, nơi
sinh hoạt cộng đồng. Bởi vậy, trong văn hóa làng, những hình ảnh này được coi biểu tượng cho
tính cộng đồng.
d. Tác động của tính cộng đồng đến lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt:
Tác động tích cực:
- Tạo nên nếp sống dân chủ bình đẳng tính tập thể hòa đồng (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…).
- Tạo nên nếp sống gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc nhau, sở tạo nên lối
sốngtrọng tình - một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt (Tay đứt ruột xót..).
- Tính gắn kết cộng đồng lối sống trọng tình tạo nên cuộc sống hòa thuận, lấy tình nghĩa làm
đầu,giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tụng…, khiến cho cuộc sống ở làng quê được ổn định,
bình yên.
Tác động tiêu cực:
- Lối sống đề cao tính cộng đồng nguyên nhân tạo nên tưởng phái, bao che (Rút dây động
rừng; môi hở răng lạnh…). Đặc điểm này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi ứng xử với pháp
luật, nhất khi pháp luât được xây dựng dựa trên nguyên tác “phúc cùng hưởng, họa cùng chịu”,
quy định trách nhiệm liên đới (một người gây nên tội khiến cả họ hàng, thậm chí láng giềng phải
chịu vạ lây) thì thói quen ứng xử phái, bao che càng nặng nề hơn, m hạn chế các hành vi tố
giác tội phạm, gây cản trở cho việc thực thi pháp luật.
- Đề cao lối ứng xử kiểu “chủ nghĩa thân quen(Nhất thân nhì quen tam thần tứ thế) thói quen
dựa dẫm, ỉ lại không chịu trách nhiệm cá nhân.
- Lối sống đề cao tính cộng đồng cũng nguyên nhân hình thành thói quen ứng xử cào bằng, đố
kỵ,kìm hãm, hạn chế ý thức về quyền cá nhân. (Xấu đều hơn tốt lỏi)
- Tính cộng đồng lối ứng xử trọng tình nguyên nhân dẫn đến thói quen ứng xử cả nể, ngại
vachạm, sợ mất lòng, dễ thỏa hiệp, theo đó sự hạn chế năng lực duy phản biện. Thói quen
duy ứng xử này đã được dân gian đúc kết qua các câu thành ngữ, tục ngữ như: Chín bỏ m
ời; Một đời kiện chín đời thù… Đây nguyên nhân dẫn đến thái độ hành xử thiếu tính quyết
đoán trong giải quyết công việc cũng như thái độ hòa vi quý” trong đấu tranh với những hành
vi tiêu cực, với cái xấu, cái bất công.
- Văn hóa trọng tình coi tình cảm làm thước đo giá trị trong các quan hệ dẫn đến thói quen ứng
xửnặng tình nhẹ (Một bồ i khong bằng một cái tình). Trong một xã hội mà nếu cái tình
vị trí ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi một công cụ quan
trọng để điều tiết các quan hệ xã hội.
- nguyên tắc ứng xử trọng tình nhẹ lý nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan hệcho
nên việc xử sự của con người thường nặng về chủ quan cảm tính, tùy tiện, không coi trọng tính
nguyên tắc. Đặc điểm này được đúc kết lưu truyền trong dân gian qua các câu thành ngữ quen
thuộc như: Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười..) Đây cũng một nguyên
tắc ứng xử tác động tiêu cực, gây kkhăn, cản trở cho việc thực thi pháp luật dựa trên nguyên tắc
khách quan và công bằng.
2. Tính tự trị
Nếu như tính cộng đồng thể hiện sự đoàn kết, gắn bó, sẻ chia giữa các thành viên trong cùng một
làng thì tính tự trị lại thể hiện sự tồn tại độc lập, khép kín trong quan hệ giữa làng này với làng
khác và tính tự quản của làng so với chính quyền trung ương.
a. sở hình thành tính tự trị:
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt định nền kinh tế tiểu nông tự túc tự
cấpnên người Việt sống quần tụ trong không gian làng quê, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng,
khiến cho làng nào biết làng ấy, các quan hệ hội chủ yếu chỉ hẹp trong không gian sống của
làng, hạn chế sự quan hệ giao lưu với bên ngoài.
- Bộ máy hành chính tự quản của làng cũng khiến cho làng tồn tại như một “tiểu vương quốc”,
luôncó xu hướng ly tâm” với chính quyền trung ương, đó cũng một sở hình thành nếp sống
khép kín, tự trị, hướng nội trong văn hóa làng.
- Ngoài ra, do tính cố kết cộng đồng cao cũng khiến cho mỗi làng tồn tại như một đơn vị độc lập,
tựđầy đủ, khép kín, co cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng.
b. Biểu hiện của tính tự trị:
- Về không gian địa lý: mỗi làng sống quần tụ trong một không gian với ranh giới bao quanh làng
làlũy tre cổng làng, khiến cho mỗi làng tồn tại như một “vương quốc” nhỏ khép kín, làng nào
biết làng ấy .
- Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, tự túc tự cấp nên ít có nhu cầu quan
hệgiao thương với bên ngoài.
- Về tình cảm: một vài dòng họ thường sống quần tụ trong một làng; dựng vợ gạ chồng khuyếnkhích
lấy nhau cùng làng ( Lấy chồng khó làng hơn lấy chồng sang thiên hạ). vậy quan hệ giao lưu
tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.
- Về phong tục tín ngưỡng, mỗi làng thờ Thành Hoàng làng ông tổ của làng được thờ
đìnhlàng, ngoài ra còn đền, chùa, miếu những không gian thờ phụng gắn với những phong
tục, tín ngưỡng riêng của làng; có lễ hội, đình đám của làng…
- Về tổ chức hành chính: mỗi làng bộ máy hành chính tự quản độc lập, vai trò chức
nănggiải quyết mọi việc trong làng. Bộ máy hành chính của mỗi làng bao gồm: Hội đồng Kỷ mục
(có chức năng như bộ phận lập pháp); Lý dịch (có chức năng như bộ phận hành pháp);
- Về luật pháp: mỗi làng lệ làng - hương ước luật lệ của làng. Hương ước văn bản ghi
chépcác lệ làng, trong đó qui định những điều cấm không được làm, những điều được làm,
những hình phạt khi làm trái với lệ làng những hinh thức khen thưởng đối với những việc làm
tốt, ích cho làng. Hương ước một loại luât tục dân gian bắt nguồn từ tập quán của từng làng,
phản ánh tâm lý, phong tục, tập quán, nếp sống (thuần phong mỹ tục), ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi cư dân trong làng, tạo nên một áp lực tinh thần bất khả kháng, thành “lệ làng”. Vì thế, luật tục
- hương ước - lệ làng đã ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nề nếp, quy củ, tạo thành
nếp sống chung ổn định trong không gian khép kín của mỗi làng. Hương ước chính là hệ thống g
trị chuẩn mực của làng xã, quy định cung cách ứng xử, lối sống của nhân trong làng, tạo nên sự
đồng nhất.
Như vậy, trong hội truyền thống VN, lệ ng tồn tại song song với luật pháp của nhà nước (Lệ
làng/phép nước). Tuy không đối lập với luật pháp của nhà nước nhưng lệ làng lại đề cập tới những
nội dung cụ thể gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời đặc điểm của từng làng mà bộ
luật cảu nhà nước không thể cụ thể hóa. Bởi vậy, người dân trong làng thể ít hiểu về luật pháp
của nhà nước nhưng lại hiểu rất lệ làng và tuân thủ lệ làng một cách nghiêm ngặt; thậm chí, luật
tục của làng còn hiệu lực hơn luật pháp của nhà nước (Phép vua thua lệ làng…). Đây một nét
đặc thù trong thể chế pháp Vn thời phong kiến. Có thể nói, trong tổ chức làngVN truyền thống
, hương ước - lệ làng về bản một hiện ợng văn hóa độc đáo với rất nhiều các giá trị tích cực
đã góp phần giữ gìn kcương, trật tự hội, thuần phong mtục với các quy định mang tính cách
đặc thù của mỗi địa phương. Với luật lệ riêng, làng VN đã tồn tại như một vương quốc thu nhỏ
với sự cố kết bền vững.
Như vậy, với sự độc lập, khép kín về không gian địa lý, v kinh tế, v tình cảm, phong tục, tín
ngưỡng bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một tiểu vương quốc” k
biệt lập với làng khác và tự quản trong quan hệ với nhà nước. Tính tự túc tự cấp của nền kinh tế tiểu
nông cùng với bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho làng luôn xu hướng “ly tâm” với chính
quyền trung ương.
c. Biểu tượng của tính tự trị:
Nếu cây đa, bến nước, đình làng những hình ảnh biểu tượng cho tính cộng đồng thì lũy tre làng và
cổng làng vừa là ranh giới cụ thể phân định không gian sống biệt lập của mỗi làng, nhưng đồng thời
cũng là những hình ảnh biểu tượng cho tính tự trị, khép kín của văn hóa làng.
d. Tác động của tính tự trị đến lối sốn, cách duy, ứng xử của người Việt:
+ Tác động tích cực:
- Do lối sống nông nghiệp quần khép kín, hướng nội, thành phần dân ổn định, quan hệ
hộichủ yếu dựa trên các mối quan hệ thân quen, thân tộc nên tính tự quản cao, ít xảy ra những
tranh chấp, kiện tụng, vì vậy việc quản lý xã hội có nhiều thuận lợi.
- S tồn tại của hương ước - lệ làng với tính cụ thể, gần gũi, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện
phùhợp với tâm lý, phong tục, tập quán điều kiện đặc thù của từng làng nên đã phát huy tính
hiệu quả cao trong việc quản lý xã hội, tạo thành nếp sống chung ổn định của mỗi làng.
- Tính tự trị cũng tạo cho người dân tinh thần độc lập, tự chủ, ý thức tự lực tự cường đức tính
cầncù, chịu khó, tiết kiệm. (Được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi thất bát lấy ai bạn cùng).
+ Tác động tiêu cực:
Bên cạnh những tác động tích cực thì tính tự trị, khép kín của văn hóa làng cũng gây nên nhiều ảnh
hưởng tiêu cực trong lối sống, cách tư duy và ứng xử của người Việt xưa và nay.
thể nhận diện sự tác động tiêu cực của tính tự trị một số biểu hiện sau:
- Tính tự trị sở hình thành tưởng tiểu nông hữu, ích kỷ ( ai người nấy chống…)
- tưởng phái, địa phương cục bộ (Nhập gia tùy tục) là nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế ý thức
hợp quần xã hội khi vượt quá phạm vi cộng đồng làng.
- Lối sống khép kín, quan hệhội không mở rộng tạo nên duy bảo thủ, trì trệ, tâm khôngthích
sự thay đổi. Điều này đã làm hạn chế, thui chột năng lực thói quen duy phản biện của người
Viêt, trong khi đây lại là một yếu tố quan trọng làm động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
- Trong ứng xử với pháp luật, tính tự trị làng với sự tồn tại của luật lục - lệ làng đã tạo nên
lốisống trọng lệ hơn luật và thói quen ứng xử “Phép vua thua lệ làng”. Lối sống, thói quen ứng xử
này hiện nay còn ảnh hưởng knặng nề, tác động tiêu cực đến công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền mà tinh thần thượng tôn pháp luật là một tiêu chí hàng đầu.
Câu 11: Hãy phân tích nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đi cấu trúc n hóa Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại.
1. Sự du nhập của văn hóa phương Tây
Sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây, khởi đầu từ văn hóa Pháp (1858-1945), sau đó tiếp xúc với
văn hóa Mỹ miền Nam (1954-1975), với văn hóa XHCN miền Bắc (1954-1990), và hiện nay
quá trình giao lưu toàn cầu hóa. Cùng với sự thay đổi nền tảng kinh tế - hội của đất nước trong
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, các cuộc tiếp xúc giao lưu văn hóa này những tác
nhân trực tiếp dẫn đến quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa VN từ truyền thống sang hiện đại.
1.1. Tiếp xúc văn hóa Pháp - bước khởi đầu
- S chuyển đổi cấu trúc văn hóa VN từ truyền thống sang hiện đại thực ra đã được manh nha từ
thếkỷ XVI - XVII, bắt đầu từ cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây thông qua vai trò của các nhà
buôn (đến từ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, buôn bán Kẻ Chợ Thăng Long các phố
cảng như Hội An, Phố Hiến), và sau đó là các giá sĩ ở-đốc giáo đến để truyền đạo.
- Tuy nhiên, chỉ từ khi người Pháp đặt được sự thống trị lên toàn bộ lãnh thổ VN thì ảnh hưởng
củavăn minh công nghiệp phương Tây mới thực sự tác động một cách toàn diện sâu sắc trên
mọi lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của người Việt, từng bức làm thay đổi văn hóa Việt. a.
Bối cảnh lịch sử - hội:
- Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng m lược VN, sau đó chúng lần lượt đánh chiếm các tỉnh
NamBộ rồi đánh ra Bắc Bộ.
- Năm 1883 triều đình nhà Nguyễn hiệp ước với Pháp tại Huế, thừa nhận quyền thống trị củathực
dân pháp trên toàn lãnh thổ VN.
- Qua hai lần khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (lần thứ nhất từ 1897 đến trước đại chiến thếgiới
thứ nhất 1914; lần thứ hai từ 1920 - 1930), hội phong kiến VN đã trải qua những thay đổi
tính bước ngoặt.
b. Đặc điểm văn hóa:
+ Văn hóa vật chất:
Sự phát triển đô thị, công nghiệp giao thông:
- Với mục đích khai thác tài nguyên củ nước thuộc địa, thực dân Pháp chú trọng vào việc phát
triểnđô thị, công nghiệp và giao thông.
- Công nghiệp khai thác than phát triển mạnh với sự ra đời của những khu khai thác mở lớn
nhưHồng Gai, Cẩm Phả - đó là những cơ sở đầu tiên của ngành công nghiệp VN.
- Đề phục v cho công cuộc khai thác thuộc địa, thực dân Pháp rất chú trọng phát triển của
giaothông (hệ thống đường bộ liên tỉnh dài khoảng 20.000 km; năm 1919 đã hệ thống đường sắt
dài tổng cộng trên 2.000km).
Sự du nhập của văn minh vật chất phương Tây:
- S du nhập các phương tiện giao thông hiện đại: các loại xe động -tô, tàu điện..) - Kiến
trúc nhà cửa ở thành thị thay đổi theo kiểu nhà Tây: nhà nhiều tầng, nhà biệt thự..
- Về văn hóa trang phục: đô thị, nam giới bắt đầu mặc đồ Âu phục (sơ mi, quần Tây, complet);
áodài tứ thân của nữ giới được cải tiến thành áo dài tân thời, kết hợp được một cách hài hòa giữa
các yếu tố truyền thống và hiện đại.
+ Văn hóa XH:
Sự ra đời của các giai tầng XH mi:
Sự phát triển của đô thị, công nghiệp và giao thương buôn bán đã sản sinh ra những giai cấp tầng
lớp xã hội mới, đó là:
- Giai cấp sản, tiểu sản thành thị (tiểu thương, tiểu chủ…)
- Giai cấp sản (công nhân các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, phu cầu đường, phu khuân vác…)
- Các trường Tây học ra đời dẫn đến sự hình thành trí thức Tây học. Đây lực lượng xã hooijcosvai
trò chính trong việc tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa Pháp nói riêng và văn hóa phương Tây nói
chung.
Trong khi đó, tầng lớp nho bị phân hóa, trở nên yếu thế mất dần vai trò.
Sự tồn tại cả hai loại hình thái kinh tế - xã hi:
- Đây thời cùng song song tồn tại hai hình thái kinh tế hội: phong kiến và bản chủ nghĩa
gọi chế độ thực dân nửa phong kiến. Một mặt, chính quyền thực dân chủ trương duy trì bộ máy
cường hào phong kiến để làm việc cho chính quyền thuộc địa, phục vụ cho mục tiêu khai thác
thuộc địa của chúng; mặt khác, hình thái kinh tế bản chủ nghĩa đã m phá sản chính sách bế
quan tỏa cảng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, đưa VN vào con đường tiếp xúc với thế giới
bản phương Tây. Bởi vậy, đây giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử dân tộc, khi người n phải
chịu cảnh “một cổ hai tròng”.
+ Văn hóa tinh thần:
ởng:
- S tiếp xúc giao lưu văn hóa phương Tây đã tạo ra cuộc chuyển mình tính bước ngoặt của
hệtư tưởng VN truyền thống, đó sự tồn tại xuất hiện cùng lúc nhiều hệ tưởng khác nhau,
tác động và ảnh hưởng lẫn nhau:
1- tưởng Nho giáo đã từng giữ vị thế độc tôn thời Đại Việt, nay đã bị khủng hoảng, phân hóa
và mất dần vai trò lịch sử:

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc
nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân đó.
 Văn hóa gốc chăn nuôi du mục: -
Được hình thành ở phương Tây (văn hóa phương Tây) bao gồm toàn bộ châu Âu, trên cơ sở
củaphương thức sản xuất chăn nuôi du mục. -
Phương Tây là vùng khí hậu lạnh, khô, địa hình chủ yếu là thảo nguyên - xứ sở của những
đồngcỏ, rất thích hợp cho nghề chăn nuôi, do vậy chăn nuôi là nghề truyền thống của cư dân
phương Tây. - Đặc điểm:
+ Nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi cư dân phải sống theo lối du cư, nay đây mai đó, từ đó tạo thành
thói quen, lối sống thích di chuyển.
+ Vì luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, từ đó
nảy sinh tâm lý coi thường tự nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự thiên nhiên.
+ Vì sống du cư nên tính gắn kết cộng đồng của cư dân du mục không cao, yếu tố cá nhân được coi
trọng, dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối ứng xử độc tôn, độc đoán trong tiếp
nhận, cứng rắn trong đối phó.
+ Cũng vì cuộc sống du cư cần đến sức mạnh và bản lĩnh nên người đàn ông có vai trò quan trọng;
tư tưởng trọng sức mạnh, trọng võ, trọng nam giới cũng từ đó mà ra.
+ Nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, thêm vào đó, đối tượng mà hàng
ngày con người tiếp xúc là đàn gia súc với từng cá thể độc lập, từ đó hình thành kiểu tư duy phân
tích chú trọng vào từng yếu tố. Kiểu tư duy này là cơ sở cho sự phát triển của khoa học trên những
cơ sở khách quan, lý tính.
+ Kiểu tư duy phân tích là nguyên nhân đẻ ra lối sống trọng lý, ứng xử theo nguyên tắc; thói quen
tôn trọng pháp luật cũng vì vậy mà được hình thành rất sớm ở phương Tây.
 Văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt:
Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt hình thành ở phương Đông (văn hóa phương Đông),
gồm châu Á và châu Phi. Phương Đông là khu vực có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều với những con
sông lớn, theo đó là những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát
triển. Điều kiện tự nhiên và phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt đã hình thành một loại
hình văn hóa khác với phương Tây. - Đặc điểm:
+ Buộc con người phải sống định cư. Do sống định cư nên cư dân nông nghiệp phải lo tạo dựng một
cuộc sống ổn định lâu dài, không thích sự di chuyển, đổi thay.
+ Vì nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp rất tôn thờ, sùng bái tự
nhiên và mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
+ Cuộc sống định cư và phải liên kết để chống chọi, ứng phó với tự nhiên nên đã tạo cho cư dân
nông nghiệp tính gắn kết cộng đồng cao.
+ Phương thức sản xuất nông nghiệp sống định cư và tính gắn kết cộng đồng đã tạo nên lối sống
trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ (chế độ mẫu hệ ở phương Đông tồn tại lâu hơn ở phương Tây).
+ Nghề trồng trọt phụ thuộc cùng một lúc vào nhiều ý tố với sự tương tác lẫn nhau: thời tiết nắng,
mưa, đất đai, khí hậu, giống cây trồng, chế độ chăm sóc… nên từ đây hình thành kiểu tư duy tổng
hợp - biện chứng, coi trọng mối quan hệ giữa các yếu tố hơn là sự tách bạch từng thành tố riêng lẻ.
Lối tư duy tổng hợp, biện chứng là nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
+ Phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đúc kết từ thực tế nên từ đây
cũng hình thành kiểu tư duy kinh nghiệm chủ quan, cảm tính, thay vì tư duy khoa học khám phá bản
chất của đối tượng trên cơ sở khách quan và khoa học.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Do vị trí địa lý nằm ở trung tâm khu vự Đông Nam Á nên Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam. Biểu hiện:
- Người Việt từ xưa đến nay đều ưa thích một cuộc sống định cư ổn định (An cư lạc nghiệp), vì
vậyđã tạo nên tình cảm gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước. Nhưng cũng từ đây đã hình
thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội, hạn chế sự giao lưu, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
- Cư dân nông nghiệp Việt Nam rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa để
cócuộc sống no đủ (câu cửa miệng của người Việt là “lạy Trời”, “ơn Trời”…) . Các tín ngưỡng và
lễ hội sùng bái tự nhiên rất phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi vùng miền của đất nước, đặc
biệt là các dân tộc thiểu số.
- Cuộc sống định cư tạo cho người Việt tính gắn kết cộng đồng cao (Bán anh em xa mua láng giềng
gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…).
- Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa (Lá lành đùm lá rách; Chị ngã em nâng….).
- Cuộc sống định cư ổn định cần đến vai trò chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm nữa,
nghềtrồng trọt, đồng áng cũng là công việc phù hợp với phụ nữ, do đó, vai trò của người phụ nữ
được tôn trọng, đề cao (Ruộng sâu nâu trái không bằng con gái đầu lòng; Nhất vợ nhì trời….).
Sau này, do sự ảnh hưởng, chi phối của tư tưởng Nho giáo mới hình thành tư tưởng trọng nam khinh
nữ. Hiện nay, các dân tộc không chịu ảnh hưởng, hoặc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa
(dân tộc Chăm, Giarai…) vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ. Nhiều tộc người tuy không còn chế độ
mẫu hệ nhưng hiện vẫn còn lưu lại những vết tích (người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc
là “mê phum”, “mê sóc” (mê = mẹ), dù người đó là đàn ông).
- Lối tư duy tổng hợp - biện chứng kết hợp với lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy,
ứngxử tùy tiện, vô nguyên tắc (Yêu nên tốt, ghét nên xấu…).
- Lối tư duy tổng hợp, biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt,được
thể hiện rõ qua quan niệm sống của người Việt (Tùy cơ ứng biến; Ở bầu thì tròn…).
- Kiểu tư duy nặng về kinh nghiệm chủ quan, cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn hóa nhận
thức,ứng xử của người Việt: coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ sở khách quan và tri thức
khoa học ( Trăm hay không bằng tay quen…).
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt được thể
hiện rõ nét trong lối sống, phương thức tư duy và thói quen ứng xử của người Việt, được thể hiện
qua kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ - đó là những giá trị văn hóa phi vật thể được đúc kết qua
nhiều thế hệ, được lưu truyền trong dân gian.
Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất.
 Về cơ sở vật chất xã hội:
- Để xây dựng một quốc gia phong kiến tự chủ, các triều đại phong kiến Đại Việt từ Đinh - Lý -
Trần- Lê - Nguyễn đều rất chú trọng việc xây dựng cơ sở vật chất như cung điện, lăng tẩm, đền
đài, thành lũy. Nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng của thời Đại Việt như kinh đô Hoa Lư, kinh đô
Thăng Long, kinh thành Huế mặc dù đã bị tàn phá nặng nề qua nhiều lần chiến tranh giặc giã,
nhưng những gì còn lại đến ngày nay đã trở thành những di sản văn hóa vô giá của dân tộc, là bằng
chứng cho các thời kỳ hưng thịnh của các triều đại phong kiến Đại Việt.
 Về phương thức sản xuất:
- Nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất tiểu nông tự túc tự cấp là phương thức
sảnxuất chủ đạo, chi phối toàn bộ nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam truyền thống. Trong quá
trình xây dựng quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông và có các
chính sách khuyến nông tích cực.
- Quá trình cải tạo và chinh phục tự nhiên, khai hoang, cải tạo đầm lầy, lấn biển, mở rộng diện
tíchcanh tác, làm thủy lợi, đắp đê chống lụt… đã tạo thành các vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ,
Bắc Trung Bộ, và sau này là Nam Bộ để chuyên canh lúa nước một cách ổn định. Trên những vùng
đồng bằng châu thổ kéo dài từ Bắc đến Nam, người Việt đã phát triển một truyền thống văn hóa
sản xuất tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước với đặc điểm:
- Cây lúa nước chiếm ưu thế tuyệt đối, bên cạnh đó cũng hình thành một cơ cấu cây trồng khá
phongphú: các loại cây cho củ, cây cho quả, cây cho hạt, cây ăn lá, cây cho sợi làm nghề thủ công (dệt, mây, tre…).
- Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã đúc kết được một hệ thống các kinh nghiệm
củanghề trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không chỉ được lưu truyền trong dân gian, mà còn
được tâp hợp lại, biên soạn thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân (vd: Nông sự toàn đồ của
Lê Thúc Hoạch đời Nguyễn).
- Để phục vụ cho nghề nông, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ thủ công
cổtruyền rất phong phú, đa dạng, gồm hàng trăm kiểu loại khác nhau.
Tất cả kinh nghiệm được đúc kết và hình thành những thành tựu sáng tạo từ phương thức sản xuất
nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó một cách tối ưu của
người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được thể hiện ở lĩnh vực
văn hóa vật chất.
- Do đặc điểm của văn hóa nông nghiệp với tính gắn kết cộng đồng cao nên tính cộng đồng cũng
chiphối đến kiến trúc nhà ở của người Việt:
+ Khác với kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập (tôn trọng tính
riêng tư, cá nhân), kiến trúc không gian trong ngôi nhà Việt truyền thống là một không gian mở, với
các gian nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn, thể hiện việc coi trọng không gian sinh
hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình.
+ Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng là không gian mở, thường chỉ được ngăn cách tượng trưng
bằng một hàng cây (râm bụt, mùng tơi…) được xén thấp để dễ quan hệ qua lại.
+ Với việc coi trọng đạo hiếu và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nên trong kiến trúc nhà Việt luôn có
gian thờ cúng tổ tiên, được đặt ở không gian trung tâm của ngôi nhà, nơi trang trọng nhất.
Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương - Ngũ hành với sự hình thành các triết lý
sống của người Việt.
Từ việc nhận thức các quy luật của vạn vật trong tự nhiên và xã hội đã chi phối việc hình thành các
triết lý sống của người Việt.
a. Triết lý về sự cân xứng, cặp đôi: -
Trong tâm thức của người Việt, âm - dương luôn luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng; chỉ
tồntại trong tính cặp đôi, tương xứng, cân bằng âm - dương thì sự vật mới hàn thiện, trọn vẹn, vững
bền. Trong thành ngữ, tục ngữ, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt, các đối tượng cặp
đôi thường xuyên được nói tới như: trời - đất; cha - mẹ, ông - bà, đất - nước, sông - núi…
b. Triết lý sống quân bình, hài hòa âm - dương: -
Thấm nhuần triết lý âm - dương, người Việt quan niệm trạng thái tồn tại tối ưu của mọi sự
vật, từtự nhiên đến xã hội là sự cân bằng, hài hòa âm - dương. Chỉ khi tồn tại trong trạng thái này, sự
vật mới ổn định, bền vững, không bị biến đổi sang trạng thái khác (vì âm cực sinh dương, dương
cực sinh âm nên cái gì thái quá cũng dẫn đến bất cập và sinh biến: Tức nước vỡ bờ…). Từ đó, người
Việt chủ trương sống theo triết lý quân bình, cố gắng duy trì trạng thái âm - dương cân bằng, bù trừ
nhau, từ việc chế biến các món ăn đến việc làm nhà ở, cho đến việc ứng xử hài hòa trong các quan
hệ. Vì vậy, người Việt thường phê phán thái độ sống cực đoan: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau…
Triết lý sống quân bình cũng khiến cho người Việt thường tự bằng lòng, an phận với những gì mình
đang có, hạn chế sự cạnh tranh, hiếu thắng. ( Dĩ hòa vi quý).
b. Triết lỹ sống lạc quan: -
Nhận thức được qui luật bù trừ âm - dương, vận dụng vào trong cuộc sống, người Việt
thường cócái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến: Trong rủi có may; Trong họa có phúc… -
Nhận thức được qui luật chuyển hóa âm - dương, người Việt có cái nhìn biện chứng về cuộc
sống: Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời….
Tuy nhiên, nếu lạc quan thái quá thì lại dẫn đến thái độ tiêu cực: tự bằng lòng, an bài với cuộc sống,
phó mặc cho số phận, không nỗ lực cố gắng hết mình.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo ở Việt Nam và vai trò của phật
giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo chính thức du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc, theo chân quân xâm lược Trung Hoa và đã
nhanh chóng được người Việt tiếp nhận 1 cách tự nhiên, tự nguyện.
1. Tư tưởng - triết lý của Phật giáo
Phật giáo truyền vào nước ta gồm 2 phái: Tiểu thừa và Đại thừa
+ Phật giáo Tiểu thừa (Phật giáo nguyên thủy), phát khởi từ miền nam Ấn Độ (nên gọi là phái Nam
tông), rồi truyền qua Srilanca, sau đó sang Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào và sau này vào miền Nam nước ta.
+ Phật giáo Đại thừa phát khởi từ miền bắc Ấn Độ (nên gọi là phái Bắc tông), rồi truyền sang Tây
Tạng, Trung Hoa, từ đó du nhập sang Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Phật giáo Đại
thừa lại gồm 3 tông phái: Thiều tông, Tịnh độ và Mật tông. -
Phật giáo Thiền tông lý giải nguyên nhân gây nên mọi nỗi khổ cho con người là từ “tâm” mà
ra(nhất thiết duy tâm tạo). Do con người có nhiều “tham - sân - si” làm cho tâm bất ổn, bức xúc, u
mê, khiến cho lời nói, việc làm không đúng đắn, lương thiện, là nguyên nhân gây nên “nghiệp”. Nếu
không tu luyện tâm tính để gạt bỏ tham - sân - si sẽ bị “luân hồi”, “nhân quả”, “nghiệp báo”, “gieo
gió gặt bão”. Từ đó, Phật giáo Thiền tông chủ trương lấy tâm làm gốc, coi tu tâm là vấn đề cốt tử,
chỉ khi nào tâm yên tĩnh lắng trong tức là đã tìm thấy “Phật tính” mới nhìn được mọi sự, mọi vật rõ
ràng minh bạch. Vì vậy, Phật giáo Thiền tông quan niệm Phật tại tâm, mỗi người đều có Phật tính
trong tâm; tâm là “Niết bàn”, tâm là Phật. Để đi đến “đốn ngộ” thì trước hết phải biến tâm mình
thành hư không, tức trở về với cái ban đầu (bản tâm). Từ đó, tu theo Phật giáo Thiền tông đòi hỏi
phải tập trung trí tuệ để thiền (tịnh tâm). Tu tâm sẽ giúp con người đạt đến “giác ngộ” (trạng thái
thăng hoa của tâm thức khi đạt đến trí tuệ tột cùng). Khi đó con người sẽ được “giải thoát”, trút bỏ
được mọi nỗi phiền muộn, lo âu, vương vấn, tâm hoàn toàn thanh thản, làm chủ được chính mình để
tự tại trong cuộc sống - cũng tức là khi con người đạt tới cõi “Niết bàn”. Như vậy, Phật giáo Thiền
tông quan niệm “Niết bàn” nằm ngay trong thế giới trần tục, con người bằng “đốn ngộ” có thể trở
thành Phật ngay trong thế giới này. -
Phái Tịnh Độ tông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu chúng sinh thoát khổ,
lấyviệc niệm danh Phật để cầu cho khi chết sẽ được tái sinh ở Đất Tịnh Độ (nơi yên tĩnh, trong
sáng), đó là cõi “Niết bàn” ở ngoài thế giới trần tục, được quan niệm đó là một thế giới “Cực lạc” do
Đức Phật A-di-đà cai quản. Tín đồ Phật giáo Tịnh Độ tông dùng phương pháp niệm danh Phật để
“định tâm bất loạn”, đi chùa dâng hương cầu kinh niệm Phật. Tu theo phái Tịnh Độ tông không yêu
cầu nhiều thời gian và công sức nên đã dần dần thâm nhập được vào quảng đại dân chúng theo đạo
Phật ở Việt Nam. Sự phát triển của Tịnh Độ tông theo hướng dân gian hóa đã tạo nên một truyền
thống dân tộc của Phật giáo Việt Nam nói riêng và văn hóa truyền thống nói chung. -
Phái Mật Tông (bí mật), chủ trương dùng những phép tu huyền bí như linh phù, mật chú, ấn
quyếtđể mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thoát. Vào Việt Nam, phát Mật tông không tồn tại một
tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào dòng tín ngưỡng dân gian với các hình thức cầu đồng,
dùng pháp thuật, yểm bùa trị ma và chữa bệnh.
Từ khi du nhập vào đến nay, Phật giáo đã cộng sinh trong văn hóa Việt Nam hơn 20 thế kỷ, trở
thành phương tiện biểu đạt tư tưởng nhân đạo và triết lý sống vị tha của người Việt. Trong cuộc
hành trình của Phật giáo ở Việt Nam, có thể khái quát ba giai đoạn phát triển hưng thịnh:
Giai đoạn 1: giai đoạn nhu nhập, từ thế kỷ I đến thế kỷ III.
Ngay từ khi chính thức du nhập vào nước ta, những giáo lý cơ bản của đạo Phật đã sớm được cư dân
Việt chấp nhận rộng rãi và nhanh chóng có được chỗ đứng trong đời sống văn hóa tinh thần của
người Việt. Lý do là bởi tư tưởng bình đẳng, dân chủ và từ bi bác ái của đạo Phật phù hợp với tư
tưởng hiếu hòa, nhân ái, yêu thương con người vốn có từ truyền thống văn hóa bản địa của người Việt.
Từ thế kỷ I đến thế kỷ III, vùng Luy Lâu (Bắc Ninh) trở thành trung tâm Phật giáo lớn của khu vực,
quy tụ hàng trăm nhà tu hành từ Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam đến đây để dịch kinh sách nhà
Phật, hành đạo và truyền bá đạo Phật. Chùa Dâu (được xây dựng vào thế kỷ III) được coi là Tổ đình
của Phật giáo Việt Nam.
Giai đoạn 2: thời Lý - Trần, từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII
Vào những thế kỷ đầu thời kỳ Đại Việt, Phật giáo phát triển rất nhanh và đạt tới cực thịnh vào thời
Lý - Trần, từ thế kỷ XI-XIII. Các vị vua từ triều đại nhà Lý, khởi đầu là Lý Công Uẩn đều là các tín
đồ Phật giáo. Các vị sư (như Vạn Hạnh, Đa Bảo…) được mời tham gia chính sự và có tiếng nói
quan trọng trong các công việc của triều đình.
Đặc biệt, đến triều Trần, vua Trần Nhân Tông đã giã từ ngôi báu khi đang ở phong độ đỉnh cao để
xuất gia tu hành, lập nên thiền phái Trúc lâm Yên Tử, mà tư tưởng chủ đạo là nhập thế, đem triết lý
của đạo Phật ứng dụng vào việc trị nước.
Đó là những lý do giải thích vì sao thời Lý - Trần, tư tưởng triết lý của Phật giáo đã chi phối sâu sắc
không chỉ trong đường lối trị nước mà còn thẩm thấu, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, từ chính trị đến tư tưởng, đạo đức, ứng xử và văn chương nghệ thuật.
Đây cũng là thời kỳ rất nhiều chùa tháp có qui mô lớn và kiến trúc độc đáo được xây dựng, như
chùa Phật Tích…. Thời gian này, chùa không chỉ là trung tâm tín ngưỡng - tôn giáo mà còn là trung
tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng của làng xã.
Đến thế kỷ XV, khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo là quốc giáo thì Phật giáo đã phải nhường chỗ cho
sự lên ngôi của Nho giáo.
Giai đoạn 3: thời nhà Nguyễn - thế kỷ XIX đến nay.
Sau thời kỳ chiến tranh loạn lạc, Trịnh - Nguyễn phân tranh, khi hòa bình lập lại, đất nước thống
nhất, giang sơn thu về một mối, nhà Nguyễn lên ngôi, Phật giáo cũng dần được khôi phục lại vị trí
tinh thần quan trọng của mình.
Đến nay, Phật giáo đang tiếp tục cuộc hành trình khôi phục lại vị trí của mình trong đời sống văn
hóa tinh thần của người Việt. Có thể nói, trong số các tôn giáo hiện có mặt ở Việt Nam, Phật giáo
vẫn là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất.
2. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo VN đã có hơn 2000 năm lịch sử. Từ khi du nhập, Phật giáo đã được người Việt bản địa
hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy của văn hóa dân tộc, tạo nên sắc
thái riêng của Phật giáo VN với các đặc điểm sau:
- Khuynh hướng nhập thế:
+ Giáo lý của Phật giáo là cứu khổ, cứu nạn, phổ độ chúng sinh. Bản thân mục đích ấy đã bao hàm
nhân tố nhập thế, bởi vậy, Phật giáo VN luôn đồng hành với cuộc sống của chúng sinh bằng những
việc làm thiết thực: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo trí thức; nhiều nhà sư cũng đồng
thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân chúng; nhiều vị cao tăng được triều đình mời tham chính hoặc
cố vấn trong những việc hệ trọng (sư Vạn Hạnh đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua…)
+ Giáo lý của Phật giáo còn được người Việt cụ thể hóa trong các mối quan hệ đời thường ( Tu đâu
cho bằng tu nhà; Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng âm phúc cứu cho một người..) - Tính tổng hợp:
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, bởi vậy, tính tổng hợp cũng
chi phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo của người Việt, làm nên sắc thái riêng của Phật giáo VN. Biểu hiện:
1. Phật giáo dung hợp với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa:
+ Dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (các vị thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp đã được Phật hóa
thành Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi, Phật Pháp Điện).
+ Dung hợp với tín ngưỡng thờ Mẫu, Phật giáo VN có khuynh hướng thiên về nữ tính: Phật giáo VN
có rất nhiều Phật Bà; có vị đức Phật trong quan niệm của Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ vốn là đàn
ông, khi du nhập sang VN đã biến thành Phật Bà. Bồ-tát Quán Thế Âm đã được biến thành Phật Bà
Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Các vùng miền trên đất nước đều có những ngôi chùa mang tên các
bà: chùa Bà Dâu, Chùa Bà Đen..
+ Dung hợp giữa việc thờ Phật với việc thờ các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thánh Hoàng, Thổ Địa, các
anh hùng dân tộc: kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là tiền Phật hậu Thần.
2. Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo:
+ Đây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật giáo VN so với Phật giáo của các quốc gia láng
giềng. Trong khi ở Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia chỉ có ở Phật giáo Nam tông, còn ở Tây
Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ chỉ có Phật giáo Bắc tông thì ở VN có cả phái Nam tông
(Tiểu thừa, chủ yếu ở Nam Bộ) và Bắc tông (Đại thừa, chủ yếu ở Bắc Bộ).
+ Trong tông phái Đại thừa cũng có sự kết hợp giữa Thiền tông với Mật tông (các vị thiền sư thời
Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không đều giỏi pháp luật); Thiền tông kết hợp với
Tịnh Độ tông (tụng niệm Phật A-di-đà và Bồ Tát). Nhiều điện thờ ở chùa miền Bắc cùng thờ các
loại tượng Phật của các tông phái khác nhau; nhiều chùa ở miền Nam có xu hướng kết hợp Tiểu
thừa với Đại thừa: hình thức là Tiểu thừa nhưng lại theo giáo lý Đại thừa.
3. Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác:
+ Thời Đại Việt, Phật giáo với Nho giáo và Đạo giáo mặc dù khác nhau về tư tưởng, giáo lý, thậm
chí có sự đối lập nhau (Phật giáo bình đẳng/ Nho giáo bất bình đẳng…) nhưng các hệ tư tưởng và
tôn giáo này không những có sự không có sự bài xích, xung đột, mà cùng tồn tại trong sự dung hợp
và bổ sung cho nhau, cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người. \
+ Vào đầu thế kỷ XX, ở Nam Bộ đã hình thành hai tôn giáo bản địa đều dựa trên nền tảng của Phật
giáo, đó là đạo Cao Đài và đạo Hòa Hảo. Đạo Cao Đài (còn gọi là “Đại đạo Tam kỳ Phổ độ”), là
một tôn giáo bản địa (ra đời năm 1926, trung tâm là Tòa Thánh Tây Ninh), đó là sự kết hợp giáo lý
của Phật giáo với Nho giáo, Lão giáo và Thiên chúa giáo để hướng con người tới một cuộc sống an
nhiên tự tại về thể xác và tinh thần. Đạo Hòa Hảo (còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, ra đời ở An Giang
năm 1939), đó là sự cụ thể hóa giáo lý của đạo Phật với việc tu thân bằng thực hành đạo đức “Tứ ân
hiếu nghĩa” (ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo, ơn đồng bào và nhân loại).
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và văn hóa dân
gian của quảng đại quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi
miền đất nước. Cùng với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, trong cuộc hành trình hơn 20
thế kỷ cộng sinh trong văn hóa Việt, các tư tưởng, triết lý của Phật giáo đã thẩm thấu như một mạch
ngầm xuyên suốt trong chiều sâu văn hóa tinh thần của người Việt, đóng vai trò là một trong những
cột trụ chi phối bản sắc văn hóa Việt Nam. Với mỗi người dân Việt, giáo lý của Phật giáo đã thẩm
thấu vào tầng sâu nhất của triết lý sống; ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi
an cư của tâm hồn, là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa
truyền thống đã có lịch sử từ lâu đời:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống ngàn năm của tổ tiên
3. Sự ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa ứng xử của người Việt Tác động tích cực: -
Tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh ý thức và hành
vicủa con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha “khuyến thiện từ ác” đã giúp hạn
chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần đem lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống. Tác động tiêu cực: -
Với việc khuyên con người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ nhường nhịn, cam
chịu,thậm chí cả nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và
đấu tranh của con người khi cần phải bảo vệ công lý, lẽ phải. -
Do ảnh hưởng bởi thuyết “luân hồi”, “quả báo” của Phật giáo, nhiều người Việt thường
không chủđộng sử dụng luật pháp là công cụ bảo vệ mình khi quyền lợi bị xâm hại, mà chọn
phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự trừng phạt của luật Trời hơn là luật pháp, vì
vậy từ đây cũng hình thành thói quen sử dụng công cụ luật pháp trong đời sống dân sự.
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò của Nho
giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tư tưởng - giáo lý nhằm tổ
chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị. Khổng Tử được coi là
người có công đầu trong việc hệ thống hóa và hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Nho giáo của Trung Hoa.
Du nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt 1000 năm, Nho
giáo chưa có được chỗ đứng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Sang thời Đại Việt, tư
tưởng Nho giáo ngày càng được phổ biến rộng rãi do Nho giáo là nội dung chủ yếu được giảng dạy
trong nhà trường. Từ chỗ chiếm được địa hạt giáo dục, Nho giáo đã từng bước chậm mà chắc, chiếm
lĩnh dần địa hạt chính trị và tư tưởng. Đến thế kỷ XV, Nho giáo đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên
bố lấy Nho giáo làm quốc giáo.
1. Tư tưởng - giáo lý của Nho giáo
Nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo được biểu hiện trong hệ thống giáo lý Tam cương, Ngũ
thường và thuyết Chính danh.
+ Tam cương (ba mối quan hệ rường cột để duy trì trật tự xã hội): Quân-thần (vua-tôi); Phụ-
tử(chacon); Phu-phụ (chồng-vợ). Trong các mối quan hệ này đòi hỏi bề trên (vua, cha, chồng) phải
yêu thương, chăm sóc và bao dung kẻ dưới (bề tôi, con, vợ). Kẻ dưới phải kính nhường, thương yêu,
phục tùng và biết ơn bề trên (bề tôi phải tuyệt đối trung với vua - đề cao chữ trung (Quân xử thần
tử, thần bất tử bất trung
); con phải tuyệt đối phục tùng cha-đề cao chữ hiếu (Phụ xử tử vong, tử bất
vong bất hiếu
); vợ phải phục tùng chồng (Phu xướng phụ tùy). Trong đó, mối quan hệ vua-tôi là
trọng tâm, vì vậy chữ trung được đăc biệt đề cao.
+ Ngũ thường (năm đức cơ bản, thường hằng của con người, làm nền tảng đạo đức cho xã hội):
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong đó, chữ Nhân được coi là trung tâm, là nền tảng chi phối mọi quan hệ ứng xử.
Nho giáo coi Tam cương, Ngũ thường là các nguyên lý đạo đức cơ bản làm chuẩn mực cho việc xây
dựng nhân cách con người và quan hệ ứng xử giữa người với người trong gia đình và ngoài xã hội,
coi đó là nền tảng để xây dựng xã hội thái bình, trật tự và ổn định. Từ đó Nho giáo cũng xác lập các
tiêu chí để xây dựng mô hình nhân cách của con người lý tưởng:
- Hình mẫu của đấng nam nhi: người quân tử. Con đường phấn đấu để trở thành người quân tử: tu
thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ.
- Hình mẫu của phụ nữ: tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), và tứ đức (công-dung-ngôn-hạnh).
+ Thuyết chính danh: Nho giáo quan niệm muốn xây dựng xã hội ổn định, lý tưởng thì mỗi người
phải làm đúng vai trò, danh phận của mình (Thượng bất chính thì hạ tắc loạn).
Các triều đại phong kiến Đại Việt dùng Nho giáo làm nền tảng để xây dựng hệ tư tưởng, đạo đức,
pháp luật, giáo dục, qua đó để xây dựng mô hình nhân cách con người. Tuy nhiên, do sự chi phối
của văn hóa bản địa nên Nho giáo Trung Hoa đã được người Việt tiếp nhận một cách linh hoạt, mềm dẻo.
2. Đặc điểm của Nho giáo ở VN
- Nền Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua được đề
cao tuyệt đối thì Nho giáo VN không cực đoan đến mức đòi hỏi phải hy sinh tính mạng vì vua. Mặt
khác, quan niệm trung quân ở VN luôn gắn liền với ái quốc và trong nhiều trường hợp, nước được đề cao hơn vua.
- Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như: nhân, nghĩa cũng đã bị khúc xạ qua lăng kính của người
Việt. Điều này được thể hiện rõ qua những đóng góp của Nguyễn Trãi - anh hùng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới - khi ông mở rộng khái niệm nhân, nghĩa để nó không chỉ là một khái niệm
đạo đức hạn hẹp trong ứng xử cá nhân, mà trở thành một lý tưởng xã hội cao đẹp: vì cuộc sống
hạnh phúc, bình yên của nhân dân (việc nhân nghĩa cốt ở yên dân).
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào VN cũng đã được giảm bớt tính cực đoan
bởisự ảnh hưởng của văn hóa mẫu hệ.
- Từ cuối thế kỷ XVI cho đến hết thế kỷ XVIII là thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến
ĐạiViệt do Trịnh - Nguyễn phân tranh, Nho giáo VN đi vào giai đoạn suy vong không thể cứu vãn.
Dù đã cố gắng bằng mọi cách để củng cố địa vị của Nho giáo trong đời sống tư tưởng và văn hóa,
nhưng các vương triều phong kiến từ Gia Long đến Minh Mạng, Tự Đức đều không thể làm cho
Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở thế kỷ XV. 3. Ảnh hưởng
Trong gần mười thế kỷ xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến, Nho giáo khẳng định vai trò là
nền tảng tư tưởng chi phối đến mọi mặt của đời sống xã hội VN, được biểu hiện rõ nét trên nhiều lĩnh vực:
- Là nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, Nho giáo chủ trương đề cao vai trò
củađạo đức trong việc quản lý, duy trì sự ổn định của xã hội dựa trên các mối quan hệ Tam cương, Ngũ thường.
- Hình thành chuẩn mực đạo đức và xây dựng mô hình nhân cách con người VN truyền thống
vớicác tiêu chí: đạt đức (Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết lạnh làm câu sửa mình; Một
lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo cao
); đạt đạo (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín)
- Xây dựng nền tảng giáo dục, thi cử, từ mục đích đến nội dung và phương pháp giáo dục.
Với sự chi phối, ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện mọi mặt đời sống tinh thần của xã hội VN, Nho
giáo đã tác động đến văn hóa VN với cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực:
- Tư tưởng và giáo lý Nho giáo đã góp phần xây dựng xã hội ổn định, nề nếp theo tôn ti trật tự,
thứbậc, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
- Đề cao các giá trị đạo đức, nhân cách và các giá trị tinh thần, xây dựng mô hình nhân cách
mẫumực đối với nam giới (tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ), và phụ nữ (tam tòng, tứ đức). Tác động tiêu cực:
- Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc, phân biệt đối xử bất bình đẳng (vị thế xã hội, giới tính, tuổi
tác),là nguyên nhân tạo nên tư tưởng tôn quan quyền, gia trưởng, thiếu dân chủ. (Sống lâu lên lão
làng; Áo mặc không qua khỏi đầu…
)
Tác động tiêu cực của Nho giáo đến văn hóa ứng xử với pháp luật:
- Việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là nguyên nhân làm hạn chế ý thức về quyền cá nhân, mà
hệquả trực tiếp là sự triệt tiêu ý thức phản biện/ phản kháng của con người, đó cũng là nguyên
nhân làm hạn chế việc sử dụng công cụ pháp luật để bảo vệ quyền cá nhân.
- Vì chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị nên Nho giáo khuyến khích “vô tụng”. Khổng Tử
chorằng: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng”.
- Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và pháp lý
làmột ranh giới mờ, nhập nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời phong kiến
VN, “Tam cương”, “Ngũ thường” là đạo lý nhưng cũng đồng thời là pháp lý. Điều này dẫn đến hệ
quả là việc xét xử các vụ án thường khó tránh khỏi hiện tượng “tội đồng luận dị” (tội giống nhau
nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của
người dân đối với pháp luật.
Câu 8: Hãy trình bày dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao tiếp ứng
xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp nào cần được giữ gìn và phát huy.
Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt coi trọng việc
giao tiếp và thích giao tiếp. Biểu hiện:
- Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức úng xử văn hóa quan trọng (Lời chào cao hơn mâm cỗ).
- Thích thăm viếng nhau, coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặtthêm quan hệ.
- Có tính hiếu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
1. Ứng xử trong giao tiếp của người Việt
+ Thích tìm hiểu, quan sát, đánh giá đối tượng giao tiếp:
- Quan tâm đến những thông tin cá nhân của đối tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán,, nghề
nghiệp,địa vị, hoàn cảnh gia đình…). Đặc điểm này cũng có nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối
sống trọng tình (quan tâm đến người khác).
+ Ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí:
- Nguyên tắc ứng xử này được phản ánh rõ nét trong tục ngữ, cao dao: Một bồ cái lý không bằng
một tí cái tình; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng
méo; Yêu nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…

- Vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo quan hệ thân tộc, coi
mọingười trong cộng đồng như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì, cháu, con… + Trọng danh dự hơn giá trị vật chất:
- Trong quan hệ ứng xử, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn là giá trị vật chất (Tốt danh hơn lành áo; ….)
- Vì coi trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc
(chàonhau theo quan hệ xã hội và sắc thái tình cảm chứ không phải theo thời gian trong ngày như nghi thức phương Tây).
- Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện (Ở đời muôn sự của
chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi…)
- Vì trọng danh dự và sĩ diện nên người nên Việt rất sợ dư luận, bởi vậy, dư luận trở thành một
thứvũ khí lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá nhân với cộng đồng, nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
+ Giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp:
- Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen không đi thẳng vào vấn đè cần nói, mà thường
haymở đầu “vòng vo tam quốc” để đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp.
- Do giữ ý, người Việt thường không biểu lộ trực tiếp cảm xúc của mình với đối tượng giao tiếp
(cadao, thành ngữ thường dùng hình tượng ẩn dụ, bóng gió).
- Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại ( Lời
nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau…)
- Hệ quả của việc giữ ý, cả nể dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán
tronggiao tiếp (Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo…)
Chính thói quen ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp đã khiến cho người Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái chiều, cũng như
không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ
chân lý. Đây là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
2. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp
Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, là công cụ giao tiếp của con người. Mỗi dân tộc có những thói
quen trong tư duy, cách nghĩ, cách ứng xử, được biểu hiện ra trong ngôn ngữ khi giao tiếp, tạo thành
văn hóa ngôn từ trong giao tiếp. Đặc trưng của văn hóa ngôn từ trong giao tiếp của người Việt thể
hiện rõ nét qua những đặc điểm sau:
+ Lời nói mang tính biểu trưng, ước lệ cao:
- Trong giao tiếp, người Việt có thói quen thường không nói trực tiếp, cụ thể vào điều cần nói
màthường nói bóng gió bằng hình ảnh ví von, ẩn dụ ( Trăm dâu đổ một đầu tằm…). Lối nói này
tạo nên tính đa nghĩa, có thể vận dụng linh hoạt vào nhiều văn cảnh giao tiếp khác nhau.
+ Tính so sánh và tương phản: trong tục ngữ, thành ngữ, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, người Việt
thường hay dùng những câu nói có hai vế đối ứng trong quan hệ so sánh, tương phản (Trèo cao/té
đau..
). Cấu trúc này thường tạo tiết tấu, vần điệu cho lời nói (giàu chất thơ).
Câu 9: Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai trò của
gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Do sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa gia đình
VN truyền thống có các đặc điểm sau:
- Tính cộng đồng và lối sống trọng tình: mỗi gia đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung
sốngtrong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vì vậy các thành viên trong gia đình rất gắn bó,
yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang…).
- Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền: con cái mang họ bố; người bố có quyền uy tuyệt đối
vàchịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy…)
- Chế độ phong kiến chấp nhận gia đình đa thê (Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng).
- Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ của giáo lý Nho
giáo(Quyền huynh thế phụ)
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng nam khinh nữ
(nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên nhân gây ra nhiều thiệt thòi và bi
kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Gia đình VN truyền thống
Nhiều gia đình trong một dòng họ tập hợp, liên kết thành một gia tộc. Đặc điểm của gia tộc người Việt:
- Mỗi gia tộc thường sống quần tụ trong một làng, nên những làng có truyền thống lâu đời thường
làđơn vị cư trú của một dòng họ (Đặng Xá, Ngô Xá…).
- Coi trọng việc thờ cúng tổ tiên (hầu hết các dòng họ đều có nhà thờ họ, có tộc phả, có nghĩa
trangriêng). Người đứng đầu một dòng họ gọi là tộc trưởng có nhiệm vụ trông coi việc thờ cúng tổ
tiên và mọi việc chung trong gia tộc.
- Gia tộc là chỗ dựa cho gia đình (người trong cùng một gia tộc có trách nhiệm cưu mang, hỗ
trợnhau về vật chất và tinh thần (Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú dì; Nó lú có chú nó khôn…)
Chính từ sự gắn bó chặt chẽ giữa gia đình - gia tộc là cơ sở tạo nên một nét đẹp trong văn hóa ứng
xử của người Việt, đó là tính gắn kết cộng đồng và lối sống trọng tình; song từ đây cũng nảy sinh tư
tưởng bè phái, kiểu ứng xử “gia đình chủ nghĩa”… là nguyên nhân gây nên không ít tiêu cực trong
xã hội (Một người làm quan cả họ được nhờ, tệ nạn “con ông cháu cha”).
Câu 10: Hãy trình bày đặc trưng của văn hóa làng và ảnh hưởng của nó đến thói quen, lối
sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt (ảnh hưởng đến pháp luật). Sưu tầm những câu
thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt.

Hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng đó là tính cộng đồng và tính tự trị: 1. Tính cộng đồng
Tính cộng đồng như một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa VN, được biểu hiện rõ nét ở cách thức tổ
chức và các mối quan hệ trong các đơn vị cộng đồng, từ gia đình - gia tộc đến làng xã và quốc gia,
trong đó tính cộng đồn thể hiện rõ nhất là ở văn hóa làng.
a. Cơ sở hình thành tính cộng đồng trong văn hóa làng:
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải sống định cư, vì vậy, như một đòi
hỏitự nhiên và tất yếu để sinh tồn, người Việt đã sống quần tụ thành cộng đồng, gắn kết để nương
tựa, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ứng phó với thiên tai.
- Tiền thân của làng Việt là tổ chức công xã nông thôn, được hình thành dựa trên hai mối quan hệ
làhuyết thống (Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú gì; Chị ngã em nâng..) và mối quan hệ láng giềng (Bán
anh em xa mua láng giềng gần). Hai mối quan hệ này đã tạo nên chất keo gắn kết các thành viên
trong làng thành một khối cộng đồng bền chặt.
b. Biểu hiện của tính cộng đồng trong văn hóa làng:
- Về kinh tế: cư dân trong cùng một làng luôn tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản
xuất,chống thiên tai (hạn hán, lũ lụt), khi đói kém, mất mùa (Một miếng đói bằng một gói khi no…)
- Về tình cảm: cư dân trong làng đều có mối quan hệ thân tộc nên luôn giúp đỡ nhau khi khó
khănhoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…).
- Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cùng thờ
chungThành Hoàng làng; cùng tham gia các hội hè, đình đám….; hôn nhân phải được làng công
nhận (nộp cheo cho làng).
- Về luật pháp: mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với tư cách
cánhân, mà bị hòa tan trong cộng đồng họ mạc, làng xã. Vì vậy, trong xã hội phong kiến, “một
người làm quan cả họ được nhờ”, nhưng một người phạm tội thì cả cộng đồng phải chịu vạ lây
(Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu).
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả về quan hệ xã hội
cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật… Tính cộng đồng được bảo tồn, nuôi dưỡng từ cái
nôi văn hóa làng là một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, và cũng là cơ sở để hình thành tinh
thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quý báu, làm nên cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta.
c. Biểu tượng của tính cộng đồng trong văn hóa làng:
Trong không gian sống của mỗi làng quê Bắc Bộ, đình làng, cây đa, bến nước là những hình ảnh vô
cùng quen thuộc, gắn bó thân thuộc, bởi đây là những địa điểm thường tập trung đông người, là nơi
sinh hoạt cộng đồng. Bởi vậy, trong văn hóa làng, những hình ảnh này được coi là biểu tượng cho tính cộng đồng.
d. Tác động của tính cộng đồng đến lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt: Tác động tích cực:
- Tạo nên nếp sống dân chủ bình đẳng và tính tập thể hòa đồng (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…).
- Tạo nên nếp sống gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc nhau, là cơ sở tạo nên lối
sốngtrọng tình - một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt (Tay đứt ruột xót..).
- Tính gắn kết cộng đồng và lối sống trọng tình tạo nên cuộc sống hòa thuận, lấy tình nghĩa làm
đầu,giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tụng…, khiến cho cuộc sống ở làng quê được ổn định, bình yên. Tác động tiêu cực:
- Lối sống đề cao tính cộng đồng là nguyên nhân tạo nên tư tưởng bè phái, bao che (Rút dây động
rừng; môi hở răng lạnh…). Đặc điểm này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi ứng xử với pháp
luật, nhất là khi pháp luât được xây dựng dựa trên nguyên tác “phúc cùng hưởng, họa cùng chịu”,
quy định trách nhiệm liên đới (một người gây nên tội khiến cả họ hàng, thậm chí láng giềng phải
chịu vạ lây
) thì thói quen ứng xử bè phái, bao che càng nặng nề hơn, làm hạn chế các hành vi tố
giác tội phạm, gây cản trở cho việc thực thi pháp luật.
- Đề cao lối ứng xử kiểu “chủ nghĩa thân quen” (Nhất thân nhì quen tam thần tứ thế) và thói quen
dựa dẫm, ỉ lại không chịu trách nhiệm cá nhân.
- Lối sống đề cao tính cộng đồng cũng là nguyên nhân hình thành thói quen ứng xử cào bằng, đố
kỵ,kìm hãm, hạn chế ý thức về quyền cá nhân. (Xấu đều hơn tốt lỏi)
- Tính cộng đồng và lối ứng xử trọng tình là nguyên nhân dẫn đến thói quen ứng xử cả nể, ngại
vachạm, sợ mất lòng, dễ thỏa hiệp, theo đó là sự hạn chế năng lực tư duy phản biện. Thói quen tư
duy và ứng xử này đã được dân gian đúc kết qua các câu thành ngữ, tục ngữ như: Chín bỏ làm
mười; Một đời kiện chín đời thù… Đây là nguyên nhân dẫn đến thái độ hành xử thiếu tính quyết
đoán trong giải quyết công việc cũng như thái độ “dĩ hòa vi quý” trong đấu tranh với những hành
vi tiêu cực, với cái xấu, cái bất công.
- Văn hóa trọng tình coi tình cảm làm thước đo giá trị trong các quan hệ dẫn đến thói quen ứng
xửnặng tình nhẹ lý (Một bồ cái lý khong bằng một tí cái tình). Trong một xã hội mà nếu cái tình ở
vị trí ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái lý thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi là một công cụ quan
trọng để điều tiết các quan hệ xã hội.
- Vì nguyên tắc ứng xử trọng tình nhẹ lý là nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan hệcho
nên việc xử sự của con người thường nặng về chủ quan cảm tính, tùy tiện, không coi trọng tính
nguyên tắc. Đặc điểm này được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các câu thành ngữ quen
thuộc như: Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười..) Đây cũng là một nguyên
tắc ứng xử tác động tiêu cực, gây khó khăn, cản trở cho việc thực thi pháp luật dựa trên nguyên tắc khách quan và công bằng. 2. Tính tự trị
Nếu như tính cộng đồng thể hiện ở sự đoàn kết, gắn bó, sẻ chia giữa các thành viên trong cùng một
làng thì tính tự trị lại thể hiện ở sự tồn tại độc lập, khép kín trong quan hệ giữa làng này với làng
khác và tính tự quản của làng so với chính quyền trung ương.
a. Cơ sở hình thành tính tự trị:
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu nông tự túc tự
cấpnên người Việt sống quần tụ trong không gian làng quê, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng,
khiến cho làng nào biết làng ấy, các quan hệ xã hội chủ yếu chỉ bó hẹp trong không gian sống của
làng, hạn chế sự quan hệ giao lưu với bên ngoài.
- Bộ máy hành chính tự quản của làng cũng khiến cho làng tồn tại như một “tiểu vương quốc”,
luôncó xu hướng “ly tâm” với chính quyền trung ương, đó cũng là một cơ sở hình thành nếp sống
khép kín, tự trị, hướng nội trong văn hóa làng.
- Ngoài ra, do tính cố kết cộng đồng cao cũng khiến cho mỗi làng tồn tại như một đơn vị độc lập,
tựđầy đủ, khép kín, co cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng.
b. Biểu hiện của tính tự trị:
- Về không gian địa lý: mỗi làng sống quần tụ trong một không gian với ranh giới bao quanh làng
làlũy tre và cổng làng, khiến cho mỗi làng tồn tại như một “vương quốc” nhỏ khép kín, làng nào biết làng ấy .
- Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, tự túc tự cấp nên ít có nhu cầu quan
hệgiao thương với bên ngoài.
- Về tình cảm: một vài dòng họ thường sống quần tụ trong một làng; dựng vợ gạ chồng khuyếnkhích
lấy nhau cùng làng ( Lấy chồng khó ở làng hơn lấy chồng sang thiên hạ). Vì vậy quan hệ giao lưu
tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.
- Về phong tục và tín ngưỡng, mỗi làng thờ Thành Hoàng làng là ông tổ của làng được thờ ở
đìnhlàng, ngoài ra còn có đền, chùa, miếu là những không gian thờ phụng gắn với những phong
tục, tín ngưỡng riêng của làng; có lễ hội, đình đám của làng…
- Về tổ chức hành chính: mỗi làng có bộ máy hành chính tự quản độc lập, có vai trò và chức
nănggiải quyết mọi việc trong làng. Bộ máy hành chính của mỗi làng bao gồm: Hội đồng Kỷ mục
(có chức năng như bộ phận lập pháp); Lý dịch (có chức năng như bộ phận hành pháp);
- Về luật pháp: mỗi làng có lệ làng - hương ước là luật lệ của làng. Hương ước là văn bản ghi
chépcác lệ làng, trong đó có qui định những điều cấm không được làm, những điều được làm,
những hình phạt khi làm trái với lệ làng và những hinh thức khen thưởng đối với những việc làm
tốt, có ích cho làng. Hương ước là một loại luât tục dân gian bắt nguồn từ tập quán của từng làng,
phản ánh tâm lý, phong tục, tập quán, nếp sống (thuần phong mỹ tục), ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi cư dân trong làng, tạo nên một áp lực tinh thần bất khả kháng, thành “lệ làng”. Vì thế, luật tục
- hương ước - lệ làng đã ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nề nếp, quy củ, tạo thành
nếp sống chung ổn định trong không gian khép kín của mỗi làng. Hương ước chính là hệ thống giá
trị chuẩn mực của làng xã, quy định cung cách ứng xử, lối sống của cá nhân trong làng, tạo nên sự đồng nhất.
Như vậy, trong xã hội truyền thống VN, lệ làng tồn tại song song với luật pháp của nhà nước (Lệ
làng/phép nước). Tuy không đối lập với luật pháp của nhà nước nhưng lệ làng lại đề cập tới những
nội dung cụ thể gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời và đặc điểm của từng làng mà bộ
luật cảu nhà nước không thể cụ thể hóa. Bởi vậy, người dân trong làng có thể ít hiểu về luật pháp
của nhà nước nhưng lại hiểu rất rõ lệ làng và tuân thủ lệ làng một cách nghiêm ngặt; thậm chí, luật
tục của làng còn có hiệu lực hơn luật pháp của nhà nước (Phép vua thua lệ làng…). Đây là một nét
đặc thù trong thể chế pháp lý Vn thời phong kiến. Có thể nói, trong tổ chức làng xã VN truyền thống
, hương ước - lệ làng về cơ bản là một hiện tượng văn hóa độc đáo với rất nhiều các giá trị tích cực
đã góp phần giữ gìn kỷ cương, trật tự xã hội, thuần phong mỹ tục với các quy định mang tính cách
đặc thù của mỗi địa phương. Với luật lệ riêng, làng xã VN đã tồn tại như một vương quốc thu nhỏ
với sự cố kết bền vững.
Như vậy, với sự độc lập, khép kín về không gian địa lý, về kinh tế, về tình cảm, phong tục, tín
ngưỡng và bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một “tiểu vương quốc” khá
biệt lập với làng khác và tự quản trong quan hệ với nhà nước. Tính tự túc tự cấp của nền kinh tế tiểu
nông cùng với bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho làng luôn có xu hướng “ly tâm” với chính quyền trung ương.
c. Biểu tượng của tính tự trị:
Nếu cây đa, bến nước, đình làng là những hình ảnh biểu tượng cho tính cộng đồng thì lũy tre làng và
cổng làng vừa là ranh giới cụ thể phân định không gian sống biệt lập của mỗi làng, nhưng đồng thời
cũng là những hình ảnh biểu tượng cho tính tự trị, khép kín của văn hóa làng.
d. Tác động của tính tự trị đến lối sốn, cách tư duy, ứng xử của người Việt: + Tác động tích cực:
- Do lối sống nông nghiệp quần cư khép kín, hướng nội, thành phần cư dân ổn định, quan hệ xã
hộichủ yếu dựa trên các mối quan hệ thân quen, thân tộc nên tính tự quản cao, ít xảy ra những
tranh chấp, kiện tụng, vì vậy việc quản lý xã hội có nhiều thuận lợi.
- Sự tồn tại của hương ước - lệ làng với tính cụ thể, gần gũi, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện và
phùhợp với tâm lý, phong tục, tập quán và điều kiện đặc thù của từng làng nên đã phát huy tính
hiệu quả cao trong việc quản lý xã hội, tạo thành nếp sống chung ổn định của mỗi làng.
- Tính tự trị cũng tạo cho người dân tinh thần độc lập, tự chủ, ý thức tự lực tự cường và đức tính
cầncù, chịu khó, tiết kiệm. (Được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi thất bát lấy ai bạn cùng). + Tác động tiêu cực:
Bên cạnh những tác động tích cực thì tính tự trị, khép kín của văn hóa làng cũng gây nên nhiều ảnh
hưởng tiêu cực trong lối sống, cách tư duy và ứng xử của người Việt xưa và nay.
Có thể nhận diện sự tác động tiêu cực của tính tự trị ở một số biểu hiện sau:
- Tính tự trị là cơ sở hình thành tư tưởng tiểu nông tư hữu, ích kỷ (Bè ai người nấy chống…)
- Tư tưởng bè phái, địa phương cục bộ (Nhập gia tùy tục) là nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế ý thức
hợp quần xã hội khi vượt quá phạm vi cộng đồng làng.
- Lối sống khép kín, quan hệ xã hội không mở rộng tạo nên tư duy bảo thủ, trì trệ, tâm lý khôngthích
sự thay đổi. Điều này đã làm hạn chế, thui chột năng lực và thói quen tư duy phản biện của người
Viêt, trong khi đây lại là một yếu tố quan trọng làm động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
- Trong ứng xử với pháp luật, tính tự trị làng xã với sự tồn tại của luật lục - lệ làng đã tạo nên
lốisống trọng lệ hơn luật và thói quen ứng xử “Phép vua thua lệ làng”. Lối sống, thói quen ứng xử
này hiện nay còn ảnh hưởng khá nặng nề, tác động tiêu cực đến công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền mà tinh thần thượng tôn pháp luật là một tiêu chí hàng đầu.
Câu 11: Hãy phân tích nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại.
1. Sự du nhập của văn hóa phương Tây
Sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây, khởi đầu từ văn hóa Pháp (1858-1945), sau đó là tiếp xúc với
văn hóa Mỹ ở miền Nam (1954-1975), với văn hóa XHCN ở miền Bắc (1954-1990), và hiện nay là
quá trình giao lưu toàn cầu hóa. Cùng với sự thay đổi nền tảng kinh tế - xã hội của đất nước trong
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, các cuộc tiếp xúc và giao lưu văn hóa này là những tác
nhân trực tiếp dẫn đến quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa VN từ truyền thống sang hiện đại.
1.1. Tiếp xúc văn hóa Pháp - bước khởi đầu
- Sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa VN từ truyền thống sang hiện đại thực ra đã được manh nha từ
thếkỷ XVI - XVII, bắt đầu từ cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây thông qua vai trò của các nhà
buôn (đến từ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, buôn bán ở Kẻ Chợ Thăng Long và các phố
cảng như Hội An, Phố Hiến), và sau đó là các giá sĩ ở Cơ-đốc giáo đến để truyền đạo.
- Tuy nhiên, chỉ từ khi người Pháp đặt được sự thống trị lên toàn bộ lãnh thổ VN thì ảnh hưởng
củavăn minh công nghiệp phương Tây mới thực sự tác động một cách toàn diện và sâu sắc trên
mọi lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của người Việt, từng bức làm thay đổi văn hóa Việt. a.
Bối cảnh lịch sử - xã hội:
- Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược VN, sau đó chúng lần lượt đánh chiếm các tỉnh
NamBộ rồi đánh ra Bắc Bộ.
- Năm 1883 triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước với Pháp tại Huế, thừa nhận quyền thống trị củathực
dân pháp trên toàn lãnh thổ VN.
- Qua hai lần khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (lần thứ nhất từ 1897 đến trước đại chiến thếgiới
thứ nhất 1914; lần thứ hai từ 1920 - 1930), xã hội phong kiến VN đã trải qua những thay đổi có tính bước ngoặt. b. Đặc điểm văn hóa: + Văn hóa vật chất:
 Sự phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông:
- Với mục đích khai thác tài nguyên củ nước thuộc địa, thực dân Pháp chú trọng vào việc phát
triểnđô thị, công nghiệp và giao thông.
- Công nghiệp khai thác than phát triển mạnh với sự ra đời của những khu khai thác mở lớn
nhưHồng Gai, Cẩm Phả - đó là những cơ sở đầu tiên của ngành công nghiệp VN.
- Đề phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, thực dân Pháp rất chú trọng phát triển của
giaothông (hệ thống đường bộ liên tỉnh dài khoảng 20.000 km; năm 1919 đã có hệ thống đường sắt
dài tổng cộng trên 2.000km).
 Sự du nhập của văn minh vật chất phương Tây:
- Sự du nhập các phương tiện giao thông hiện đại: các loại xe có động cơ (ô-tô, tàu điện..) - Kiến
trúc nhà cửa ở thành thị thay đổi theo kiểu nhà Tây: nhà nhiều tầng, nhà biệt thự..
- Về văn hóa trang phục: ở đô thị, nam giới bắt đầu mặc đồ Âu phục (sơ mi, quần Tây, complet);
áodài tứ thân của nữ giới được cải tiến thành áo dài tân thời, kết hợp được một cách hài hòa giữa
các yếu tố truyền thống và hiện đại. + Văn hóa XH:
 Sự ra đời của các giai tầng XH mới:
Sự phát triển của đô thị, công nghiệp và giao thương buôn bán đã sản sinh ra những giai cấp và tầng
lớp xã hội mới, đó là:
- Giai cấp tư sản, tiểu tư sản thành thị (tiểu thương, tiểu chủ…)
- Giai cấp vô sản (công nhân các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, phu cầu đường, phu khuân vác…)
- Các trường Tây học ra đời dẫn đến sự hình thành trí thức Tây học. Đây là lực lượng xã hooijcosvai
trò chính trong việc tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa Pháp nói riêng và văn hóa phương Tây nói chung.
Trong khi đó, tầng lớp nho sĩ bị phân hóa, trở nên yếu thế và mất dần vai trò.
 Sự tồn tại cả hai loại hình thái kinh tế - xã hội:
- Đây là thời ký cùng song song tồn tại hai hình thái kinh tế xã hội: phong kiến và tư bản chủ nghĩa
gọi là chế độ thực dân nửa phong kiến. Một mặt, chính quyền thực dân chủ trương duy trì bộ máy
cường hào phong kiến để làm việc cho chính quyền thuộc địa, phục vụ cho mục tiêu khai thác
thuộc địa của chúng; mặt khác, hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa đã làm phá sản chính sách bế
quan tỏa cảng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, đưa VN vào con đường tiếp xúc với thế giới
tư bản phương Tây. Bởi vậy, đây là giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử dân tộc, khi người dân phải
chịu cảnh “một cổ hai tròng”. + Văn hóa tinh thần:  Tư tưởng:
- Sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa phương Tây đã tạo ra cuộc chuyển mình có tính bước ngoặt của
hệtư tưởng VN truyền thống, đó là sự tồn tại và xuất hiện cùng lúc nhiều hệ tư tưởng khác nhau,
tác động và ảnh hưởng lẫn nhau:
1- Tư tưởng Nho giáo đã từng giữ vị thế độc tôn thời Đại Việt, nay đã bị khủng hoảng, phân hóa
và mất dần vai trò lịch sử: