






Preview text:
Phạm Ngọc Hải – 25/9/1985 – haipn003 – HLHT219
ĐỀ SỐ 2
Dựa trên nội dung của Đại cương văn hóa Việt Nam, Anh (Chị) hãy cho biết:
Những luận điểm sau đúng hay sai? Tại sao?
Luận điểm 1. Bản sắc văn hóa là tất cả những yếu tố văn hóa của một chủ thể văn hóa.
Luận điểm 2. Nghệ thuật của Việt Nam mang tính tả thực, còn Phương Tây mang tính biểu trưng.
Luận điểm 3. Phường của Hà Nội trong truyền thống chỉ là nơi bán các sản phẩm của nông thôn.
Luận điểm 4. Không thể có xu thế toàn cầu hóa về văn hóa vì nó sẽ tạo nên
một nền văn hóa thống nhất. Bài làm:
Luận điểm 1: Bản sắc văn hóa là tất cả những yếu tố văn hóa của một chủ thể văn hóa: Đúng.
- Bản sắc văn hóa: “Bản sắc” vốn là một từ Hán Việt. Bản nghĩa là của chính
mình, sắc nghĩa là dung mạo. Mở rộng hơn, chúng ta có thể hiểu bản sắc là nét đẹp
vốn có của mình. Theo Từ điển mở của Hồ Ngọc Đức, bản sắc cũng có nghĩa
tương tự, là tính chất đặc biệt vốn có, tạo thành phẩm cách riêng.
Như vậy, có thể định nghĩa bản sắc văn hóa là những sắc thái, đặc thù riêng
về văn hóa tạo thành nét đẹp đặc trưng của một chủ thể văn hoá. Bản sắc văn hóa
có tính phân biệt bởi nó là yếu tố độc đáo, tồn tại duy nhất trong văn hóa tính thần của một chủ thể đó.
- Đặc điểm, ý nghĩa bản sắc văn hóa
Bản sắc văn hóa là một phạm trù thể hiện tính đặc trưng của chủ thể văn
hoá. Do đó, nó cũng có những đặc điểm và ý nghĩa nhất định, không chỉ đối với
chủ thể đó mà còn với tất cả chủ thể văn hoá khác.
- Bản sắc văn hóa có những đặc điểm như sau:
Bản sắc văn hoá thể hiện những đặc điểm một chủ thể văn hoá. Đây là
nguồn gốc hình thành nền văn hóa lâu đời, phát triển theo thời gian.
Bản sắc văn hóa mang tính kế thừa. Các tộc người lưu truyền tinh hoa văn
hóa qua từng thế hệ, đời trước phải gìn giữ và truyền lại đời con cháu mai sau.
Đặc điểm có thể nhìn nhận từ bên ngoài về bản sắc văn hóa là ở thuộc tính
tinh thần của nó. Nó biểu hiện qua sự tôn kính, tôn trọng tất cả các giá trị như: các
ngành nghề thủ công mỹ nghệ, người dân lao động cần cù…
Bản sắc văn hóa có sự đa dạng và phong phú. Một quốc gia có nhiều bản sắc
tạo thành một màu sắc trong cái chung của cả một quốc gia rộng lớn.
Bản sắc văn hoá có tính chọn lọc. Các nét đẹp văn hóa được hình thành và
phát triển phụ thuộc vào đặc điểm của từng chủ thể, điều kiện lịch sử, điều kiện tự
nhiên, môi trường cư trú, chế độ chính trị giao lưu với các nền văn hoá khác. - Ý nghĩa
Bản sắc văn hóa là minh chứng đánh dấu cho một chủ thể.
Bản sắc văn hóa còn được giao lưu văn hóa, tôn vinh vẻ đẹp của chủ thể.
Đây là tiền đề tạo nên sự gắn kết, đoàn kết giữa các chủ thể.
Bản sắc văn hóa là tấm khiên chống lại sự “hòa tan” khi hội nhập với với các nền văn hoá khác.
- Ví dụ ta có thể phân tích về Bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hồn cốt của một chủ thể. Chủ thể
không có tiếng nói, không có chữ viết thì sẽ bị phụ thuộc bởi một chủ thể khác.
Lịch sử suốt 1.000 năm Bắc thuộc của Việt Nam là minh chứng rõ nét.
Chúng ta bị ảnh hưởng sâu nặng của chữ Hán. Tuy nhiên, sau đó chúng ta có chữ
viết riêng là chữ Nôm. Đến thế kỷ 17, chúng ta có tiếng Việt bằng chữ Latinh, làm
tiền đề cho quá trình hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ. Cũng từ đây, chúng ta
cất lên tiếng nói của mình, góp phần chiến thắng các thế lực ngoại xâm.
Thứ hai là phong tục, truyền thống và tôn giáo. Phong tục ở Việt Nam có
tục ăn trầu, tục cưới xin, truyền thống giỗ tổ vua Hùng, các tín ngưỡng tôn giáo
như đạo Phật, đạo Thiên chúa, đạo Tin lành,...Đây là những cách hành xử, cách
sống và quan niệm về đạo đức, tôn giáo, tâm linh, mà người dân cùng một dân tộc
truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thứ ba là trang phục. Trang phục của Việt Nam vô cùng đa dạng và phong
phú qua các thời kỳ. Trang phục nữ từ chiếc yếm đào, áo tứ thân, quần lĩnh, khăn
chít đầu đến những chiếc Áo dài (trang phục truyền thống của Việt Nam ta). Trang
phục nam từ áo cánh, quần lá tọa đến khăn xếp, áo the, quần ống sớ….
Thứ tư là ẩm thực. Ẩm thực Việt Nam được mệnh danh là một trong những
nền ẩm thực phong phú nhất thế giới. Suốt chiều dài đất nước, từ Bắc vào Nam,
mỗi miền đều có những món ăn riêng, khẩu vị riêng. Miền Bắc có phở, bún thang,
chả cốm,... Miền trung có bánh xèo, ẩm thực cung đình Huế,... Miền nam lại có cá
lóc nướng trui, hủ tiếu Nam Vang,...
Thứ năm là kiến trúc. Kiến trúc Việt Nam cũng là một yếu tố không thể
không kể đến trong bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt, Việt Nam có rất nhiều kiến
trúc được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới như: Hoàng thành Thăng
Long, phố cổ Hội An, Vịnh Hạ Long,...
Luận điểm 2. Nghệ thuật của Việt Nam mang tính tả thực, còn Phương Tây mang tính biểu trưng
Nghệ thuật Việt Nam: Ở Việt Nam có phương châm chân - thiện - mỹ. Do
đặc điểm của thời đại, đặc biệt là do thành tựu các ngành: công nghệ sinh học,
công nghệ thông tin, kinh tế trí thức, công nghệ vật liệu v.v... đang đi vào mọi lĩnh
vực đời sống, nền văn học, nghệ thuật nước ta phát triển theo phương châm: dân
tộc, khoa học, đại chúng, dân chủ, nhân văn. Hiện tượng đó cũng xảy ra với hầu
hết các nước. Hàng ngày, hàng giờ, các sản phẩm văn học, nghệ thuật từ thực tiễn
cuộc sống được mô tả và đưa vào trong các tác phẩm nghệ thuật phản ánh cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
Nghệ thuật Phương Tây: Về phương diện này thì ở phương Tây có thể khái
quát thành bốn quan niệm cơ bản về lý luận nghệ thuật để giải quyết các vấn đề
của sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ.
- Loại thứ nhất coi sáng tạo và cảm thụ cái Đẹp; huyền bí gắn liền với Thần
thánh. Ở đây không có tính người vì nghệ sĩ là người phát ngôn cho thần thánh…
- Loại thứ hai cho các lĩnh vực pháp quyền, tâm lý, tôn giáo, tâm lý học, mỹ
học thuộc lĩnh vực tinh thần tuyệt đối. Cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ có nguồn gốc
từ ý niệm tuyệt đối được thể hiện bằng hình tượng. Từ đó coi nhu cầu sáng tạo
nghệ thuật của con người là ý thức tư duy sáng tạo cho bản thân, và Năng lực cảm
quan nghệ sĩ không chỉ là thuộc tính của từng nghệ sĩ, mà còn là của một dân tộc
- Loại quan niệm thứ ba coi sáng tạo và cảm thụ cái Đẹp bằng sự thích thú
vô tư, là sự thỏa mãn về tinh thần chứ không phải là lý trí, chủ yếu dựa vào năng
khiếu và thị hiểu. Sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ bắt nguồn từ sinh lực dư thừa của con người.
- Loại quan niệm thứ tư giải thích sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ là sự tái
hiện những hình ảnh của thế giới khách quan trong ý thức chủ quan của con người.
Mặc dầu cách biện giải của các cá nhân của trường phái này có nhiều cái khác
nhau, ở cấp độ cao thấp khác nhau, nhưng tất cả đều bắt rễ từ cội nguồn nhãn quan duy vật chủ nghĩa…
Luận điểm 3. Phường của Hà Nội trong truyền thống chỉ là nơi bán các sản phẩm của nông thôn. Sai
Phường của Hà Nội trong truyền thống vừa là nơi bán các sản phẩm của các
địa phương nông thôn khác, vừa là nơi trực tiếp sản xuất và bán ra các sản phẩm
truyền thống, làng nghề tại chỗ.
Khu phố cổ Hà Nội, thường được gọi là ”Hà Nội 36 phố phường”, hình
thành từ đầu thế kỉ XV, giới hạn bởi phía Bắc là phố Hàng Đậu, phía Nam là các
phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng, phía Đông là phố Trần Nhật
Duật, Trần Quang Khải và phía Tây là phố Phùng Hưng.
Đặc điểm chung của các phổ cổ Hà Nội là nhiều tên phố bắt đầu bằng từ
“Hàng”, tiếp đó là một từ chỉ nghề nghiệp nào đó như Hàng Đào, Hàng Mã, Hàng
Thiếc... Khác với các phố cổ khác trên thế giới, phố cổ Hà Nội hiện nay là nơi diễn
ra đồng thời nhiều hoạt động của đời sống xã hội.
Giá trị văn hóa: Khu 36 phố phường xưa nổi tiếng là đất “ngàn năm văn
vật”: “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”, với nhiều hoạt động sôi nổi cả ngày
lẫn đêm. Nơi đây, vốn là một trung tâm kinh tế, văn hoá đa dạng. Văn hoá ẩm thực
phong phú với nhiều tiệm cao lâu nổi tiếng của người Hoa, tiệm ăn của người Việt...
Hà Nội là đất Kinh Đô ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ kết tinh, tinh tuý của
mọi miền quê. Di sản văn hoá phi vật thể Hà Nội khá đậm đặc, nó đã phản ánh một
cách phong phú, đa dạng và chân thực truyền thống sinh hoạt văn hoá của người Hà Nội.
Một số loại hình của bộ phận di sản văn hóa phi vật thể (như làng nghề, phố
nghề, sinh hoạt lễ hội, phong cách sống, ẩm thực...) trong những năm qua đã được
sưu tầm, nghiên cứu khẳng định: Văn hoá phi vật thể Hà Nội là tổng hoà các yếu tố
giao lưu, hội nhập, dung hoà, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để tạo nên bản sắc Thăng
Long - Hà Nội một vùng đất “hội thuỷ, hội nhân và hội tụ văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng”.
Nghề thủ công: Phố cổ Hà Nội là khu vực tập trung nhiều nghề thủ công
nhất. Những người dân có thể là thợ thủ công kiêm thương nhân (vừa sản xuất theo
kiểu gia công đặt hàng cho khách vừa bày bán một số hàng làm sẵn tại cửa hiệu).
Đó là các thợ thêu (làng Quất Động - Thường Tín - Hà Tây), làm trống (gốc làng
Đọi Tam - Hà Nam), thợ tiện (làng Nhị Khê - Hà Tây), làm mành (làng Giới Tế -
Bắc Ninh), làm quạt (làng Đào Xá - Hưng Yên), đúc đồng (làng Đại Bái), vàng bạc (làng Định Công)...
Những người thợ thủ công ở khắp nơi mang nghề độc đáo của địa phương
mình lên Hà Nội làm ăn, họ lập ra những phố riêng buôn bán sản phẩm của quê
huơng mình. Họ thành lập và liên kết với nhau trong các phường, hội để giúp nhau
trong cuộc sống cũng như trong việc giữ gìn nghề tổ.
Giữa những người ở Thăng Long - Hà Nội với những người ở quê luôn giữ
mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khá nhiều những phường nghề ở Hà Nội đã cùng
nhau đóng góp xây đình để thờ vọng Thành Hoàng hay tổ nghề của làng mình.
Trong nhiều năm qua có khá nhiều hội đồng hương của các làng nghề tập trung tại
Hà Nội hoạt động rất hiệu quả. Tiêu biểu là hội đồng hương làng gò đồng Đại Bái.
Hầu hết những người buôn bán và sản xuất ở phố Hàng Đồng hiện nay là dân làng
Đại Bái thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Có thể nói những phường hội như thế đã giúp cho nghề nghiệp ở quê hương
cũng như ở Hà Nội phát triển đồng thời mọi người gắn kết với nhau cùng nhau giữ
gìn và phát huy lối sống, những phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương mình.
Luận điểm 4 (2,5 điểm). Không thể có xu thế toàn cầu hóa về văn hóa vì nó
sẽ tạo nên một nền văn hóa thống nhất. Vừa có ý Đúng, vừa có ý Sai
Làn sóng toàn cầu hóa đã tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, đem
đến cả cơ hội và thách thức mới đối với phát triển toàn cầu, trong đó có phát triển
văn hóa. Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, việc lựa chọn mô hình phát triển văn hóa phù hợp là hết sức quan trọng.
Toàn cầu hóa văn hóa là xu thế khách quan: Toàn cầu hóa đã ảnh hưởng to
lớn đến sự phát triển của các quốc gia, đồng thời biến giao lưu, hội nhập văn hóa
quốc tế trở thành một xu thế khách quan. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến văn hóa
các quốc gia luôn có cả mặt tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức. Vấn đề đặt
ra là trước những cơ hội và thách thức ấy, văn hóa của mỗi quốc gia sẽ thích ứng
thế nào và phát triển ra sao? Làm sao để lựa chọn mô hình văn hóa phù hợp với
những chuyển động của lịch sử và thực tiễn phát triển đất nước?
Toàn cầu hóa văn hóa buộc phải hình thành các giá trị toàn cầu, những bộ
quy tắc, chuẩn mực được cộng đồng quốc tế chấp thuận. Không chỉ thế, nó còn kết
nối cộng đồng quốc tế để cùng nhau giải quyết các hiểm họa sinh thái, môi trường,
dịch bệnh… Chẳng hạn, để chống lại đại dịch COVID-19, sự nỗ lực của các quốc
gia riêng lẻ không thể giải quyết triệt để được, mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực của cả
cộng đồng quốc tế. Những giá trị chung được thừa nhận trong văn hóa toàn cầu là
những vấn đề liên quan đến quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình
đẳng của con người và từng cộng đồng, quốc gia, dân tộc trên cơ sở hợp tác và tôn
trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, toàn cầu hóa văn hóa không đồng nghĩa với đồng nhất
văn hóa mà nó đòi hỏi phải tôn trọng đa dạng văn hóa. Mọi áp đặt, cưỡng bức hay
bá quyền văn hóa đều là sự hủy hoại và tiêu diệt văn hóa. Tinh thần nhân văn hiện
đại và nguyên lý phát triển vì sự phồn vinh toàn nhân loại phải được coi là nền
tảng của toàn cầu hóa, trong đó có toàn cầu hóa văn hóa.
Thông thường, so với một số lĩnh vực như kinh tế hay công nghệ, những
thay đổi trong lĩnh vực văn hóa thường chậm hơn, nhưng sâu sắc hơn. Tuy nhiên,
theo thời gian, khi văn hóa thẩm thấu vào hầu khắp các lĩnh vực, kể cả kinh tế,
khoa học - kỹ thuật, dù trong bối cảnh toàn cầu hóa, người ta nhận thấy trong các
sản phẩm công nghệ cao cũng phản chiếu trình độ, bản sắc văn hóa của cộng đồng,
quốc gia tạo ra nó. Tại đó, bản sắc văn hóa hiển thị rõ nhất trong nhãn hiệu, thương
hiệu sản phẩm. Độ thẩm thấu và phủ sóng rộng lớn của văn hóa vào các lĩnh vực
chính trị, kinh tế… là đặc điểm nổi bật của văn hóa trong toàn cầu hóa. Điều đó đòi
hỏi cần có những điều chỉnh trong nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và văn
hóa. Trong nhận thức của Đảng ta, văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính
trị. Đảng ta xác định, “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội”. Đây là nhận thức chính xác về vai trò
của văn hóa trong tổng thể đời sống xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa
và kinh tế tri thức hiện nay.
Văn hóa trong toàn cầu hóa và biến đổi nội tại của văn hóa: Toàn cầu
hóa văn hóa không tách rời với toàn cầu hóa kinh tế mà trái lại, gắn liền với sự vận
hành của toàn cầu hóa kinh tế và các cam kết quốc tế về những vấn đề khác nhau
liên quan đến sự sinh tồn và phát triển của nhân loại.
Toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức và kỹ thuật số,
đã khiến cho văn hóa vượt khỏi sự biệt lập của các quốc gia để hình thành mạng
lưới văn hóa toàn cầu. Đó chính là sự thích ứng của văn hóa trong bối cảnh lịch sử thế giới đương đại.
Vấn đề đặt ra là toàn cầu hóa văn hóa sẽ ảnh hưởng đến văn hóa của các
quốc gia như thế nào? Liệu có hiện tượng bất bình đẳng trong quá trình giao lưu
văn hóa không? “Số phận” văn hóa của các tộc người và các cộng đồng người
thiểu số sẽ ra sao? Đã có nhiều lo ngại về sự áp đặt, bá quyền văn hóa của các
nước lớn sẽ làm biến mất tính độc đáo của các nền văn hóa của cộng đồng người
thiểu số. Trên thực tế, sự cạnh tranh văn hóa, tranh giành ảnh hưởng giữa các nền
văn hóa là điều có thật. Tuy nhiên, đó không phải là toàn bộ vấn đề, bởi lẽ toàn cầu
hóa văn hóa là một quá trình mở cửa và hàm chứa nhiều xung đột, mâu thuẫn. Các
xung đột, mâu thuẫn này không chỉ xuất hiện trong sự va chạm của các nền văn
hóa, mà xuất hiện ngay trong quá trình biển đổi và thích ứng tự thân của mỗi nền
văn hóa. Tuy nhiên, về tổng thể, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, mỗi quốc gia vừa
được thừa hưởng thành tựu văn hóa nhân loại, đồng thời vừa phải gánh chịu những
áp lực, hệ lụy mà toàn cầu hóa mang lại. Đó là:
Thứ nhất, toàn cầu hóa văn hóa không phải là câu chuyện đồng nhất văn
hóa. Bản chất của toàn cầu hóa văn hóa là tạo ra một cơ chế giao lưu mở, thực hiện
đối thoại văn hóa và chấp nhận đa dạng văn hóa. Các nền văn hóa thông qua giao
lưu bình đẳng sẽ cùng nhau xác nhận một số giá trị văn hóa cơ bản chung cho xã
hội loài người. Dù muốn hay không, các nền văn hóa đều phải cộng sinh tồn tại. Vì
thế, toàn cầu hóa văn hóa cũng là cơ hội để các nền văn hóa tìm ra những định
hướng giá trị chung cho nhân loại trên nền tảng tinh thần nhân văn hiện đại.
Thứ hai, toàn cầu hóa văn hóa không phải là sự khuất phục của nền văn hóa
này trước sức mạnh của nền văn hóa khác hay sự suy vong và biến mất của những
thực thể văn hóa nhỏ. Phải coi toàn cầu hóa như một cơ hội phát triển trên cơ sở
đối thoại, học tập lẫn nhau, từng bước giải quyết các xung đột văn hóa để vừa làm
giàu cho văn hóa bản địa, vừa đóng góp cho văn hóa nhân loại. Vì thế, tiến trình
toàn cầu hóa văn hóa cần đến sự chủ động của các nền văn hóa trong giao lưu và phát triển.
Thứ ba, toàn cầu hóa văn hóa không phải là sự cắt rời triệt để các giá trị văn
hóa đã được thiết lập trong lịch sử. Ngược lại, nó vừa kế thừa, vừa biết phủ định để
phát triển. Văn hóa nhân loại đã đi qua ba hệ hình văn hóa lớn: tiền hiện đại
(truyền thống), hiện đại và hậu hiện đại. Nếu như văn hóa hiện đại phủ định một
phần văn hóa truyền thống để xác lập hệ giá trị của nó thì ngày nay, chủ nghĩa hậu
hiện đại vừa phê phán văn hóa kinh nghiệm (truyền thống) vừa phê phán văn hóa
lý tính (hiện đại). Chủ nghĩa hậu hiện đại đặc biệt coi trọng đa nguyên văn hóa, có
xu hướng đề cao giải thiêng và giễu nhại nhằm giải phóng con người khỏi những
ràng buộc lý tính cứng nhắc. Đó là thái độ khước từ các quy phạm cũ để đạt tới tự
do về tư tưởng và nhân vị trong môi trường dân chủ và sự liên thông của mạng lưới
văn hóa đại chúng toàn cầu. Cần nhìn sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện
đại như là logic phát triển của văn hóa để có những thích ứng phù hợp, từ đó, một
mặt, tìm hiểu và tôn trọng nó; mặt khác, tránh những ứng xử cực đoan để không
dẫn đến tình trạng hỗn loạn, thậm chí là phá hủy văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền thống.
Document Outline
- Phạm Ngọc Hải – 25/9/1985 – haipn003 – HLHT219
- Bài làm: