


















Preview text:
MỤC LỤC
I. Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt điển hình ................................. 3
1.1. Điều kiện tự nhiên chi phối sự hình thành văn hóa Việt Nam.................................................... 3
1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội chi phối sự hình thành văn hóa Việt Nam .......................................... 4
1.3. Bản chất của văn hóa .................................................................................................................. 4
II. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến tính cách của người Việt ngày xưa .................... 5
2.1. Tính cộng đồng, trọng tình nghĩa ................................................................................................ 5
2.2. Tính tự trị .................................................................................................................................... 6
III. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến tính cách của người Việt ngày nay ................... 8
3.1. Trong lao động sản xuất .............................................................................................................. 8
3.2. Đối với thiên nhiên, môi trường .................................................................................................. 8
3.3. Trong đời sống xã hội .................................................................................................................. 9
IV. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến ứng xử trong giao tiếp của người Việt xưa và
nay ....................................................................................................................................................... 10
4.1. Việc trọng tình nghĩa, quan tâm, tương trợ đối với bà con lối xóm láng giềng đã là một phần
trong con người Việt Nam................................................................................................................ 10
4.2. Người Việt ta rất thích giao tiếp, nói chuyện hay bàn luận với nhau ....................................... 10
4.3. Nền văn minh nông nghiệp đã giúp tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau của các thành viên
trong cộng đồng nói chung và gia đình cá nhân nói riêng ngày càng được phát huy. ................... 11
4.4. Vì là lối sống trọng tình nghĩa nên mặc dù con người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm
trọng nhưng vẫn thiên về âm hơn. Do đó trong cuộc sống, người Việt sống có lý có tình nhưng
vẫn thiên về tình hơn........................................................................................................................ 11
4.5. Vì trọng danh dự, lễ nghĩa nên .................................................................................................. 11
4.6. Do tính cả nể, thiếu quyết đoán, vòng vo trong giao tiếp nên người Việt hay sợ làm đối
phương phật lòng mà không mạnh mẽ thể hiện suy nghĩ của mình ............................................... 12
V. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa ngôn từ trong giao tiếp người Việt
ngày xưa ............................................................................................................................................... 12
5.1. Tính ước lệ, biểu trưng cao ....................................................................................................... 13
VI. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa ngôn từ trong giao tiếp của người Việt
ngày nay ............................................................................................................................................... 14 1
6.1. Nguồn gốc ra đời và khái quát về văn hóa ngôn từ trong giao tiếp của người Việt ................. 14
6.2. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về đời sống. ............................................................................ 15
6.3. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về tình yêu ............................................................................. 15
6.4. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về bản thân con người........................................................... 16
6.5. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về tự nhiên ............................................................................ 16
6.6. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về tình yêu nước .................................................................... 16
6.7. Dấu ấn của sông nước ảnh hưởng đến văn hóa ngôn từ trong giao tiếp được thể hiện qua văn
chương .............................................................................................................................................. 17
VII. Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................................................... 19 2
I. Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt điển hình
1.1. Điều kiện tự nhiên chi phối sự hình thành văn hóa Việt Nam
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, với điều kiện vị trí địa lí,
tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía Đông–Nam Châu Á, với đầy đủ các địa hình:
núi, đồi, thung lũng, đồng bằng châu thổ, đồng bằng ven biển, biển, hải đảo. Khí hậu
nhiệt đới ẩm gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều.
Hệ thống sông ngòi chằng chịt. Có nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông
Mekong, sông Đồng Nai… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ là điều kiện thuận lợi
để phát triển nông nghiệp lúa nước nên văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp điển hình.
Qua sự phong phú về điều kiện tự nhiên có thể khái quát hai đặc điểm nổi bật đã chi
phối và để lại những dấu ấn đậm nét của văn hóa Việt Nam. Đó là tính chất sông nước và tính chất thực vật. 3
1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội chi phối sự hình thành văn hóa Việt Nam
Từ xa xưa, người Việt thích cuộc sống định cư, ổn định: “An cư lạc nghiệp”, không
thích sự di chuyển, thay đổi (trọng tĩnh), tình cảm gắn bó với quê hương xứ sở, với làng,
nước… nên hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội.
Do cư dân Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp: “Bán mặt cho đất bán lưng cho
trời”, sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa để có cuộc sống no đủ “Lạy
trời, ơn trời…”, có nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên.
Cuộc sống định cư tạo cho người Việt có tính gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ vai
trò cá nhân: “Bán anh em xa mua láng giềng gần, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Lối
sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lý, ứng xử nhiều hóa,
nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực: “Bầu ơi thương lấy bí cùng…”
Cuộc sống định cư ổn định của nghề nông nghiệp trồng trọt cần đến vai trò chăm lo
thu vén của người phụ nữ, vai trò của người phụ nữ được tôn trọng và đề cao.
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông
nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn thay đổi để
thích hợp với từng hoàn cảnh: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi
với ma mặc áo giấy; … Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn
giờ giấc, sự thiếu tôn trọng pháp luật, tệ đi “cửa sau” để giải quyết công việc (Nhất quen,
nhì thân, tam thần, tứ thế).
1.3. Bản chất của văn hóa
Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người trong mối quan hệ tương tác với môi
trường tự nhiên và xã hội, do đó bản chất của văn hóa được thể hiện trong mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân con người. (1)
Văn hóa Việt Nam được hình thành qua quá trình lao động, tồn tại và phát triển.
Loại hình văn hóa Việt Nam được xem là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
điển hình, được thể hiện rõ nét trong cách tổ chức đời sống phương thức tư duy, lối ứng
xử của người Việt và được xem là nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.
1 Tập bài giảng Đại cương văn hóa Việt Nam, Nxb Hồng Đức, tr 18. 4
II. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến tính cách của người Việt ngày xưa
Việt Nam ta từ xưa tới nay luôn được biết tới là một quốc gia có nền văn hóa vô
cùng phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh. Sự khác biệt về cấu trúc địa hình,
khí hậu, phân bố dân tộc, dân cư và sự khác nhau về lối sống, lối sản xuất đã tạo ra nhiều
vùng văn hóa có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam. Là một quốc gia nằm ở khu vực
Đông Nam Á - khu vực điển hình của vùng văn hóa Phương Đông, Việt Nam có khí hậu
nhiệt đới, nóng ẩm tạo nên các con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú rất thuận
lợi cho việc trồng trọt nên đã hình thành phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước.
Chính vì vậy, đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam chính là đặc trưng văn hoá được hình
thành từ nền tảng nông nghiệp lúa nước. Có rất nhiều yếu tố cấu thành nên đặc trưng của
nền văn hoá lúa nước ở Việt Nam có thể kể đến như: việc đề cao giá trị văn hóa gia đình
truyền thống; thấm đậm, bao trùm tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia - dân tộc; đề cao
nữ quyền; trọng nông, xa rừng, nhạt biển; đa dân tộc, thống nhất trong đa dạng; nền văn
hóa mở, thích ứng và tiếp biến hài hoà các nền văn minh nhân loại; v.v… Nhưng nhóm
nghiên cứu đã xem xét xuyên suốt chiều dài lịch sử và tìm ra rằng có hai đặc trưng trong
tính cách người Việt Nam tồn tại từ thời xa xưa cho đến tận ngày nay là: Tính cộng động
và Tính tự trị.
2.1. Tính cộng đồng, trọng tình nghĩa
Nói đến văn hoá Việt Nam là nói đến văn hoá làng xã, đó là đơn vị cộng đồng
đóng vai trò cốt lõi trong tổ chức xã hội ở Việt Nam thời xưa.
Văn hoá của Việt Nam nói riêng và của phương Đông nói chung được hình thành
trên nền tảng nông nghiệp. Phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi người lao
động phải sống định cư tại một khu vực vì vậy đã tạo nên tình cảm gắn bó với làng xóm,
quê hương, hình thành lối sống đề cao tính cộng đồng.
Nghề trồng trọt đặc biệt là trồng lúa nước phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự
nhiên vì thế để chống chọi với thiên tai từ tự nhiên (bão, lũ lụt…) thì một cá nhân chắc
chắn không thể làm được việc này cần rất nhiều sức lực của rất nhiều người (Lụt thì lút
cả làng, đắp đê chống lụt thiếp chàng cùng lo).
Việc phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi người lao động phải có
lối sống định cư, tập trung thành làng xã đã tạo ra sự đoàn kết, gắn bó, yêu thương lẫn
nhau và đó cũng là nguồn gốc của nếp sống “trọng tình” trong truyền thống ứng xử của người Việt thời xưa.
Các thành viên ở làng xã gắn bó, quan hệ mật thiết với nhau trong mọi sinh hoạt,
từ trọng trọt, chăn nuôi, trao đổi hàng hoá, tổ chức các buổi sinh hoạt văn hoá, v.v… Có 5
những người mà cả cuộc đời của họ chỉ làm ăn, sinh sống ở làng cho nên mọi người hiểu
nhau, gắn bó với nhau từ nhỏ chẳng thua kém gì máu mủ ruột thịt (“Bán anh em xa mua
láng giềng gần”, “Hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”). - Biểu hiện:
+ Thời buổi bấy giờ người ta xem làng như một đại gia đình, lợi ích cá nhân gắn chặt với
lợi ích cộng đồng (“Có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia”), cho nên khi có thành viên
trong làng làm điều gì không hay đáng xấu hổ thì người ta thường che đậy cho nhau vì
hình ảnh của cả làng (“tốt khoe, xấu che”).
+ Sống trong môi trường mà tình cảm là thứ luôn được đặt lên hàng đầu, là chuẩn mực, là
tiêu chí nên lâu dần hình thành lối sống dễ dàng thỏa hiệp, ứng xử nửa vời, cả nể, khi xảy
ra mâu thuẫn thì dễ dàng tha thứ “đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại” bởi vì sự nể
nang, sợ mất lòng nhau gây mất đoàn kết.
2.2. Tính tự trị
Phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt lúa nước, lối sống định cư và nền
kinh tế tự túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối sống khép kín, tự trị, hướng nội của văn hoá làng. 6
Nếu như quan hệ giữa các thành viên trong làng mang tính cộng động thì trong
quan hệ với các cộng đồng bên ngoài với chính quyền cấp trên thì làng lại mang tính chất tự trị, tự quản cao. - Biểu hiện:
+ Làng xã có một bộ máy quản lý kết hợp giữa quyền tự trị của làng xã với chính quyền
nhà nước. Bộ máy quản lý làng xã (khi xưa là Hội đồng bô lão) được quyền bàn bạc,
quyết định những vấn đề quan trọng liên quan mật thiết đến lợi ích của cộng đồng mình.
+ Tính tự trị của làng xã thời xưa được thể hiện qua quyền sở hữu và phân chia ruộng đất
công làng xã. Làng xã Việt Nam vốn xuất phát là những công xã nông thôn với chế độ sở
hữu tập thể về ruộng đất. Khi nhà nước ra đời, các công xã vẫn giữ được quyền sở hữu và
chiếm dụng ruộng đất này.
+ Làng xã vốn ban đầu là nhóm cư dân gắn bó với nhau bởi quan hệ địa vực, để duy trì
được cộng đồng cần phải có những quy định giữa các thành viên. Những quy định đặt ra
cho nhân dân mỗi làng mà nhiều khi nó còn có sức mạnh chi phối lớn hơn cả luật nước
với nội dung khá phong phú và toàn diện, không giống nhau giữa các làng. Những quy
định đó cho thấy tính tự trị của làng trên nhiều phương diện. 7
III. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến tính cách của người Việt ngày nay
Văn hóa nông nghiệp của Việt Nam đã ảnh hưởng đến tính cách người dân ngày
nay trong nhiều khía cạnh. Sự gắn bó mạnh mẽ với đất đai và công việc nông nghiệp có
thể tạo ra sự kiên nhẫn, sự chăm chỉ cần mẫn và lòng hiếu khách trong con người Việt.
Đồng thời, giá trị gia đình và tinh thần cộng đồng tiếp tục đóng vai trò quan trọng, tạo ra
một cộng đồng đoàn kết.
3.1. Trong lao động sản xuất
Người Việt ta từ xa xưa đến nay luôn siêng năng, cần mẫn, chịu thương chịu khó
trong công việc. Vì ảnh hưởng bởi văn hóa nông nghiệp, nên người Việt ta rất chăm chỉ
trong lao động và sản xuất. Ngày nay, chúng ta cũng rất chăm chỉ trong việc tìm tòi, học
hỏi những cái mới để không ngừng phát triển, giúp nâng cao năng suất lao động.
3.2. Đối với thiên nhiên, môi trường
Nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa
kết trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý
thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Và ngày nay chúng ta cũng có
rất nhiều hoạt động để bảo vệ môi trường hằng năm, các quỹ vì môi trường, các khu bảo
tồn... cho thấy người Việt ta sống gần gũi với thiên nhiên như thế nào.
Vì nghề nông, nhât là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất
cả mọi hiện tượng thiên nhiên: đất, nước, mưa, nắng…Nắng, mưa nhiều quá hoặc không
nắng, không mưa đều nguy hiểm cả. Nên Người Việt có câu:
“Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.” Hay: 8
“Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng”
Cho nên trong nhận thức của người dân dần hình thành lối tư duy tổng hợp, bao
quát thiên về kinh nghiệm, trực giác, cảm tính và duy linh (linh cảm), theo đó là sự tế nhị,
uyển chuyển trong tính cách. Tổng hợp kéo theo hiện chứng – cái mà người nông nghiệp
quan tâm không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ
giữa chúng. Người nông dân ta quan sát từng yếu tố, hiện tượng của tự nhiên để đúc kết
ra kinh nghiệm trong sản xuất, trồng trọt. Và để có thể nhớ một cách dễ dàng, có thể
truyền lại cho nhiều đời, cha ông ta đã chuyển thể những kinh nghiệm khô khan đó thành
những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ gần gũi, giản dị, và xúc tích.
3.3. Trong đời sống xã hội
Con người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội theo nguyên tắc trọng tình, chuộng sự
hòa thuận, tương trợ, quan tâm đến những láng giềng. Hàng xóm sống cố định lâu dài với
nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu. Điều này
cũng đã được đề cập rất nhiều trong ca dao, tục ngữ Việt Nam như:
“Bán anh em xa, mua láng giềng gần” Hay:
“Hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”
Không chỉ là tình làng nghĩa xóm, dân ta còn luôn ưa chuộng hòa bình, luôn có
thái độ sống hòa thuận, tương trợ nước láng giềng. nguyên tắc trọng tình dẫn đến lối sống
linh hoạt, luôn ứng biến cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến xuất hiện nhiều triết lí sống:
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” Hay như:
“Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”
Sống theo tình cảm, con người còn phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ
với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến phương
Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn
đến tâm lý coi trọng cộng đồng, tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập
thể, luôn có tập thể đứng sau. Ngày nay, ta vẫn thấy những nét văn hóa này ảnh hưởng
đến tính cách của người Việt ngày nay thông qua các hoạt động hay cách tổ chức trong
đời sống xã hội. Ví dụ như các cơ quan công sở hiện nay, thậm chí là doanh nghiệp tư
nhân hiện tại... thì cách tổ chức hiện đại, nhưng dần dần nó vẫn mang màu sắc sinh hoạt
làng xã. Người ta coi thủ trưởng như kỳ hào, lý trưởng, cần phải vào thưa ra kính; người
ta coi đồng nghiệp như làng xóm, thăm hỏi, ma tang, cưới xin phải có mặt. Tất cả các cơ
cấu xã hội từ nhỏ nhất đến lớn nhất thì vẫn như một cộng đồng làng xã, một khu phố, một 9
ngõ xóm phố cũng thế. Lối sống trọng tình cũng đưa đến thái độ trọng đức, trọng văn.
Người Việt ta vẫn luôn coi trọng những người có đức, có tài. Những người tài năng, đức
độ luôn được trọng dụng. Nhất là khi đất nước trong thời kỳ hội nhập toàn cầu, thì rất cần
những người lãnh đạo có tài có đức để dẫn dắt đất nước đi lên, phát triển không ngừng.
IV. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến ứng xử trong giao tiếp của
người Việt xưa và nay
Có thể thấy rằng, việc giao tiếp là một trong những cách dễ thấy được bản chất của
một người nhất. Đối với người Việt Nam thì thích giao tiếp, nhưng cũng lại có sự rụt rè.
Như đã biết, Việt Nam có sự gắn liền với nền văn hóa nông nghiệp, sống phụ thuộc lẫn
nhau, lối sống quần cư và rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành
viên trong cộng đồng, chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam
đặc biệt coi trọng việc giao tiếp và thích giao tiếp.
4.1. Việc trọng tình nghĩa, quan tâm, tương trợ đối với bà con lối xóm láng giềng đã
là một phần trong con người Việt Nam.
Trong giao tiếp và ứng xử, người Việt Nam ta rất coi trọng tình cảm, các mối quan
hệ xung quanh mình. Và điều này cũng đã được đề cập rất nhiều trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Bên cạnh đó, người Việt Nam có tính hiếu khách và trọng lễ nghĩa. Có khách đến
nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu thì cũng cố gắng tiếp
đón chu đáo và tiếp đãi một cách nhiệt tình như:
“Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm, không ai đói bữa.” Hay
“Dập dìu thấy khách đường xa
Vịt thêm dầu đượm, ngỗng pha rượu nồng" Hoặc là:
“Tới đây chiếu trải trầu mời
Can chi mà đứng giữa trời sương sa” …
Những câu ca dao tục ngữ trên đã phần nào nói lên được lòng quý khách, cứ có gì ngon,
gì tốt nhất là thết đãi mời khách.
4.2. Người Việt ta rất thích giao tiếp, nói chuyện hay bàn luận với nhau.
Người dân Việt Nam hay có những lời dạo đầu rồi mới bắt đầu đi vào vấn đề; lối
ứng xử ấy thể hiện sự khéo léo, nhẹ nhàng, từ tốn trong giao tiếp của người Việt ta.
Chính vì thế, việc chào hỏi được xem là một nghi thức ứng xử văn hóa rất quan trọng của
Việt Nam. Cứ khi gặp gỡ thì việc chào hỏi lẫn nhau là một nét ứng xử văn hóa mang tính
chất quan trọng và không thể không có, một lời chào lễ phép, lịch sự có thể làm ấm lòng
người nghe dù rằng chỉ là một phép xã giao (“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, “Lời chào
cao hơn mâm cỗ”, “Đi thưa về trình” …). 10
Cứ khi gặp gỡ thì việc chào hỏi lẫn nhau là một nét ứng xử văn hóa mang tính chất
quan trọng và không thể không có, một lời chào lễ phép, lịch sự có thể làm ấm lòng
người nghe dù rằng chỉ là một phép xã giao.
4.3. Nền văn minh nông nghiệp đã giúp tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau của
các thành viên trong cộng đồng nói chung và gia đình cá nhân nói riêng ngày càng
được phát huy.
Người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Việc thăm viếng cho thấy được tình
cảm giữa nhau, coi trọng tình nghĩa hay không nhằm để gắn chặt khăng khít mối quan hệ.
Đã thân với nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau bao nhiêu lần đi nữa thì những lúc
rảnh rỗi, họ vẫn tới thăm nhau. Vì thế càng vào các dịp đặc biệt như Tết, giỗ, các ngày lễ
quan trọng thì việc mọi người sẽ đến thăm nhà nhau, hỏi han, quan tâm lẫn nhau càng không thể thiếu đi.
4.4. Vì là lối sống trọng tình nghĩa nên mặc dù con người Việt Nam lấy sự hài hòa
âm dương làm trọng nhưng vẫn thiên về âm hơn. Do đó trong cuộc sống, người Việt
sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn:
Người Việt Nam luôn coi trọng tình cảm. Ai giúp mình một chút đều phải nhớ ơn,
ai bảo ban một chút cũng đều tôn làm thầy và kính quý.
Người Việt rất quan tâm, tò mò, có đôi khi hơi quan tâm quá mức đến đời sống cá
nhân của người khác. Tuy vậy, việc biết những thông tin của đối tượng giao tiếp cũng là
một điều quan trọng để giúp con người ta có thể tiếp xúc nhau dễ dàng, cởi mở hơn. Việc
quan tâm, tò mò này là do tính cộng đồng làng xã mà hình thành nên.
Coi mọi người trong cộng đồng như các thành viên gia đình thân thuộc của mình,
gọi xưng bằng các danh xưng như: Chú, bác, cô, cậu ...
Coi trọng tình cảm hơn lý trí nên việc “Yêu nhau yêu cả đường đi lối về - Ghét
nhau ghét cả tông ty họ hàng”, “không ưa dưa cũng có giòi” ... thường hay xảy ra.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến
người khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh. Ngoài ra thấy rằng nếu không
có đủ thông tin thì không thể nào lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp được. Biết tính cách,
biết người để lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp.
4.5. Vì trọng danh dự, lễ nghĩa nên:
Bữa ăn gia đình Việt xưa thường là hình ảnh cả gia đình quây quần bên mâm cơm.
Trong bữa cơm, cả nhà sum họp, nói chuyện về đời sống, cùng chia sẻ với nhau những
niềm vui, nỗi buồn trong ngày làm việc. Trước và sau khi ăn, người Việt thường có
phong tục mời ăn, điều này thể hiện lễ giáo và sự kính trọng với người trưởng bối và bề
trên. Theo tục lệ xưa, khi ngồi vào mâm cơm, trước khi bưng bát, cầm đũa thì phải “mời
cơm”, người ít tuổi mời những người nhiều tuổi hơn. Đây là một nét văn hóa đầy ý nghĩa
thể hiện sự tôn trọng của người trẻ với người lớn tuổi hơn mình, là phép tắc lễ nghĩa cơ
bản của người Việt Nam từ xưa đến nay.
Việc giao tiếp có tôn ti trật tự, tôn trọng thứ bậc, vai vế trong các mối quan hệ là
điều mà từ thuở còn thơ ta đã được bố mẹ dạy bảo. “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Kính già yêu trẻ” ... 11
Danh dự nhân phẩm của một người được coi là quan trọng hơn cả việc cơm áo gạo
tiền, “Rách cho sạch, đói cho thơm”, Áo rách cốt cách người thương” …
Tuy vậy, bởi sự trọng danh dự quá mức nên nhiều người Việt mắc “Bệnh” sĩ diện,
dễ tự ái, thà “Tốt danh hơn lành áo”, “Ra đường quần lĩnh áo the - Về nhà không có con
me mà cày”. Chính vì ngại không dám lên tiếng thẳng thắn để bảo vệ cái lý cái tình,
chính nghĩa, do bị dư luận xã hội và hàng loạt phép tắc bất thành văn ràng buộc mạnh mẽ.
4.6. Do tính cả nể, thiếu quyết đoán, vòng vo trong giao tiếp nên người Việt hay sợ
làm đối phương phật lòng mà không mạnh mẽ thể hiện suy nghĩ của mình.
“Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”
“Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” …
Trải qua bao nhiêu năm, văn hóa ứng xử xưa và nay của người dân Việt Nam vẫn
luôn giữ vững được lối sống nền văn minh lúa nước coi trọng tinh thần đoàn kết, tình
nghĩa làng xóm như câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn”. Văn hóa ứng xử xưa và nay cũng có sự thay đổi, ngày nay, mọi người
khá thoải mái, không quá cứng nhắc nhưng vẫn giữ được tiêu chuẩn, cốt lõi của cách ứng xử truyền thống.
Trong xã hội ngày nay, sự tiếp xúc với văn hóa nhân loại cộng hưởng với sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã tạo ra sự thay đổi trong cách thức giao tiếp.
Người trẻ ngày nay thường sử dụng ngôn từ tự nhiên hơn, ít cảm xúc hơn và có thể ít sử
dụng các biểu hiện văn hóa truyền thống như nắm tay khi chào hỏi chứ không còn phải
vái lạy như ngày xưa. Giao tiếp qua điện thoại di động, email và mạng xã hội trở nên phổ
biến hơn tạo nên sự khác biệt trong cách thức giao tiếp so với cách thức giao tiếp truyền
thống. Trong một xã hội đang phát triển và đa dạng hóa, người Việt hiện nay thường coi
trọng cái “tôi” của mình. Từ đó có xu hướng tự do hơn trong cách diễn đạt bản thân và
thể hiện quan điểm cá nhân mà không bị ràng buộc chặt chẽ như xưa. Ngoài ra người
Việt hiện nay cũng đã dần hòa nhập, chấp nhận và tôn trọng sự đa dạng, sự đổi mới nhất
định trong cách thức giao tiếp và ứng xử để phản ánh sự đa dạng và sự tiến bộ của xã hội.
V. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa ngôn từ trong giao tiếp
người Việt ngày xưa
Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, là công cụ giao tiếp của con người. Tùy thuộc
vào thói quen tư duy, phong tục tập quán, cách thức đối nhân xử thế của mỗi dân tộc khác
nhau mà từ đó biểu hiện ra bên ngoài dưới nhiều hình thức trong đó có ngôn ngữ trong
giao tiếp (2). Đặc trưng của văn hóa ngôn từ trong giao tiếp của người Việt được biểu
hiện thông qua những đặc điểm sau.
5.1. Tính ước lệ, biểu trưng cao
- Lời nói mang tính biểu trưng, ước lệ cao:
2 Tập bài giảng Đại cương văn hóa Việt Nam, Nxb Hồng Đức, tr 136 12
+ Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ Tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng những con số
biểu trưng. Nếu trong tiếng Pháp là de toutes parts (từ tất cả các phía) thì Tiếng Việt lại là
ba bề bốn bên, từ bốn phương trời.
+ Còn về tính biểu trưng, do người Việt có thói quen nói giảm nói tránh, vòng vo, bóng
gió tránh vào trọng tâm bằng hình ảnh, ngôn từ ẩn dụ (Trăm dâu đổ một đầu tằm, tưởng
giếng nước sâu nổi sợi gàu dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây,.. ). Lối nói này tạo đa
tầng nghĩa cho câu nói, có thể vận dụng vào nhiều văn cảnh giao tiếp khác nhau.
5.2. Tính động và linh hoạt
Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ
pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì
ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và
quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa.
Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt Nam còn bộc lộ ở chỗ trong lời nói, người
Việt rất thích dùng cấu trúc động từ: trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy
nhiêu động từ. Trong khi đó thì các ngôn ngữ phương Tây có xu hướng ngược lại – rất
thích dùng danh từ. Trong khi người Việt nói: Cảm ơn anh đã tới chơi; Anh ta không bao
giờ quên những chi tiết nhỏ nhặt cho nên đã trở thành một điệp viên tài giỏi thì người
Anh nói: Thank you for your coming (Cảm ơn vì bạn đã đến).
5.3. Giàu chất biểu cảm
Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt (ở
phần lớn các ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Hán, tuy có phương thức láy, nhưng số lượng từ
láy thì hết sức ít ỏi, tới mức không đáng kể): không phải ngẫu nhiên mà trong thơ ca của
ta có thể gặp rất nhiều từ láy. Ở trên vừa nói tiếng Việt thiên về thơ, mà thơ là mang đậm 13
chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù hợp với nó. Chính nhờ sức
biểu cảm của các từ láy mà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rất đạt một Tú Bà với hình ảnh
Nhác trông nhờn nhợt màu da; Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao…; Một Mã Giám Sinh với
hình ảnh Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao; Trước thầy sau tớ lao xao…; Còn ai đã
từng đọc thơ Hồ Xuân Hương rồi thì quên làm sao được những hình ảnh: Cầu trắng phau
phau; Nước trong leo lẻo; Cỏ gà lún phún; Cá diếc le te…
Sự phổ biến của thơ hơn văn xuôi đã nói đến ở trên không chỉ là sản phẩm của tính
biểu trưng mà rõ ràng cũng đồng thời là sản phẩm của tính biểu cảm. Khuynh hướng biểu
cảm còn thể hiện ở chỗ trong lịch sử văn chương truyền thống không có những tác phẩm
anh hùng ca ca ngợi chiến tranh; có nói đến chiến tranh chăng thì chỉ là nói đến nỗi buồn
của nó (ví dụ: Chinh phụ ngâm, một truyện thơ Nôm dài nói về nỗi lòng của người vợ có chồng đi chinh chiến).
VI. Dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa ngôn từ trong giao tiếp
của người Việt ngày nay.
6.1. Nguồn gốc ra đời và khái quát về văn hóa ngôn từ trong giao tiếp của người Việt.
Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc, nó như một tấm gương phản chiếu cả chiều dài
lịch sử và chiều sâu văn hoá của dân tộc ấy. Nhìn vào tiếng Việt, chúng ta dễ dàng nhận
thấy những dấu ấn còn ghi đậm của một nền văn hoá lúa nước được gìn giữ và phát triển qua bao thế hệ cha ông.
Trên thế giới đã từng tồn tại hai loại văn hóa chính, đó là: Văn hóa gốc nông
nghiệp (phương Đông) và Văn hóa gốc du mục (phương Tây), và Việt Nam ta là một
quốc gia phương Đông và có văn hóa gốc nông nghiệp điển hình. Nhờ sự tiến bộ của 14
khoa học và công nghệ mà các nhà khoa học và các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra rằng
Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á chính là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp
lúa nước. Và đó chính là lí do mà văn hóa, đời sống và nhận thức, ngôn ngữ của con
người Việt Nam ta bị ảnh hưởng rất nhiều bởi nông nghiệp và vẫn còn dư âm rất lớn
trong xã hội ngày nay. Biểu hiện chính là ta có thể thấy ngôn từ bị ảnh hưởng bởi nông
nghiệp trong những tác phẩm văn học dân gian và các tác phẩm hiện nay. Có thể nói rằng
văn hóa nông nghiệp và môi trường sông nước của ta đã tạo nên một hệ thống ngôn ngữ
đậm chất nông nghiệp và sông nước và thật sự rất đặc thù trong giao tiếp của người Việt hiện tại.
6.2. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về đời sống.
Là một quốc gia có trụ đỡ chính là nông nghiệp cho nên nghề nghiệp chính của
dân cư hiện nay vẫn là trong trọt (mặc dù vẫn đang cố gắng chuyển mình thành một quốc
gia công nghiệp hiện đại), vì thế các loại cây trồng trở thành đối tượng gắn bó suốt cả
cuộc đời của người nông dân. Sau quá trình nuôi dưỡng và trồng trọt thì người nông dân
mới nắm được đặc tính của loài cây đó để đem lại lợi ích cho họ, đó là một quá trình gieo
hạt, bón phân, tưới nước và nuôi dưỡng rất dài. Cây cối sống được, sinh trưởng được là
nhờ dinh dưỡng, nhờ nhựa cây, vậy thì con người sống được, trưởng thành được từ nhỏ
đến lớn cũng được người Việt liên tưởng như sức sống của cây trồng theo cách nói:
“Nhựa sống tràn đầy”, “Tràn trề nhựa sống”… Rồi cái việc nhổ mạ đi cấy, mạ được nắm
lại, bó thành từng lọn, thu hoạch các loại rau, nắm lại, bó thành từng lọn, đặc biệt là thu
hoạch lúa trên đồng, bó thành từng lọn… từ đó, người Việt hiện nay đã liên kết ngôn từ
ấy lại và gọi là: “Lọn tóc”, “Bó hoa”, “Nắm xương tàn”,…
Thao tác ươm hạt, ươm cây để bắt đầu cho quá trình sinh trưởng của cây cối nông
nghiệp cũng nối bước và đi vào ngôn ngữ giao tiếp thông thường và ảnh hưởng sâu sắc
đến văn hóa ngôn từ ngày nay, chỉ những hành động không hề liên quan gì đến sự ươm
trồng nông nghiệp: “Ươm đầy mơ ước”, “Ươm đầy khát vọng” … Hoa nở rồi rụi tàn, lá
xanh rồi úa héo là chuyện của cỏ cây, vậy mà con người đã quá thì xuân liền lập tức được
gán ngay động từ này vào: “Đến thời tàn rụi”, “Đôi môi tàn úa”.
6.3. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về tình yêu
Gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp, tất đợi đến ngày cây cối ra hoa, kết trái để
đợi trái chín mà thu hoạch cho bõ công cày cấy và thu về thành quả của mình. Chính vì
như vậy, người Việt xem quá trình các cặp đôi lứa đang tìm hiểu nhau, yêu thương nhau
cũng như sự vun vén để mong ngày thu hoạch, cho nên, họ mới nói rằng: “Hoa tình yêu
thơm ngát, tỏa hương”, “Trái tình ngọt lịm” … Hoặc hiện đại hơn thì hiện nay, người ta
thường nói: “Sự nghiệp đổi mới của ngành giáo dục, bước đầu đã đem lại những trái quả ngọt ngào” … 15
Trong sản xuất nông nghiệp thì giai đoạn cây cối làm nụ để cho hoa cho trái là một
giai đoạn khởi đầu rất thành công và đáng quý của mùa thu hoạch, chính vì lẽ đó, người
Việt gọi tình cảm ban đầu là: “Nụ hoa đầu đời”, rồi cái danh từ “Nụ” này được phái sinh
nghĩa để gọi “Nụ hôn đầu đời”, rồi nói: “Tuổi thiếu niên là mầm là nụ”… “Nụ” đã vậy,
còn “Mầm” lại là bước khởi đầu của quá trình sinh trưởng của hạt giống, của mầm cây,
từ đó, người Việt phái sinh nghĩa từ “Mầm” thành “Mầm sống”, hoặc chỉ cho sự khởi đầu
của một quá trình về sau: “Mầm hi vọng”, “Mầm móng của tội ác”, “Gieo mầm tình
yêu”, “Hạt mầm hi vọng”…
6.4. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về bản thân con người.
Khi các loại rau trổ hoa (đã tới lúc thu hoạch) mà không thu hoạch kịp, cuống hoa
sẽ vượt cao lên thành “Ngồng”. Cọng ngồng nhỏ bé mà vươn lên cao vút, từ đó, người
Việt biến danh từ “Ngồng” này thành định ngữ của tính từ và gọi những đứa bé nhanh
lớn, cao mà gầy là: “Cao ngồng”, “Lớn ngồng”. Rồi cũng chính cái nõn nà, non nớt, trắng
trong của những nõn chuối, nõn hoa, nõn rau, nõn cải để chỉ cái non tươi của mầm nụ các
loài cây nông nghiệp, người Việt biến danh từ “Nõn” thành từ chỉ mức độ làm định ngữ
cho tính từ: “Da trắng nõn”, rồi thành từ láy hai: “Nước da trắng nõn nà”, tách láy hai:
“Trắng nõn trắng nà”, láy bốn: “Trắng nõn nà nõn nuột” và tách láy bốn bằng cách tĩnh
lượt tính từ để biến nó thành tính từ: “Ngón tay nõn nà, bàn tay nõn nuột”.
6.5. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về tự nhiên.
Từ những chuyển động của quá trình sinh trưởng của cây cối; từ những thao tác cụ
thể, cử động cụ thể, hoạt động cụ thể, hành động cụ thể trong từng khâu của quá trình sản
xuất nông nghiệp, những động từ mang đậm yếu tố nhà nông dần dần được chuyển nghĩa
trong quá trình giao tiếp của con người. Hạt giống, hạt mầm của các loài cây nông nghiệp
ngoi lên khỏi mặt đất để bắt đầu giai đoạn sinh trưởng, người Việt gọi là “Mọc”. Chính vì
lẽ đó mà khi mặt trời xuất hiện ở đằng đông, đỏ ửng, tròn trịa nhô lên từ biển, liền gọi:
“Mặt trời mọc”. Những ngôi nhà mới được xây lên liền được gán ngay cho yếu tố “Mọc”
của hạt mầm: “Những ngôi nhà khang trang mọc lên từ trên vùng đất đồi hoang hóa” …
6.6. Văn hóa ngôn từ trong giao tiếp về tình yêu nước.
Vun thành hàng để trồng bắp, trồng rau cùng những động từ: vun xới, vun trồng
gắn chặt với thao tác nông nghiệp mà hiện nay cũng đã chuyển sang để có thể chỉ thêm
những hành động tạo nên những thành quả trừu tượng chứ không hề còn là hàng khoai
hay luống đậu: “Có công vun trồng cho tuổi trẻ tình yêu đất nước”, “Truyền thống lịch sử
cha ông đã vun đắp cho tuổi trẻ Việt Nam tình yêu nước thiết tha”…Vun hàng, luống lên
rồi, khi ngọn khoai, ngọn rau vươn khỏi hàng, khỏi luống, người nông dân liền phải vén
lên để nó khỏi bò lan xuống rãnh, thế rồi bây giờ đã dần dần chuyển thành những động từ
mà nghĩa của nó đã trượt rất xa cái nghĩa nông nghiệp ban đầu: “Vun vén hạnh phúc”,… 16
hoặc khi vun xong, đất đã không thoát khí được, người nông dân bèn dùng cuốc chĩa xới
lên cho tơi đất để rễ cây dễ thở, những động từ này dần dần chuyển nghĩa riêng vào giao
tiếp không dính dáng gì đến chuyện khoai, rau nông nghiệp: “Chính anh là người đã vun
xới cho lý tưởng cách mạng hình thành trong lớp trẻ chúng tôi ngày đó”. Và rất nhiều các
động từ gốc nông nghiệp khác được chuyển vào ngôn ngữ giao tiếp với nhiều trường
nghĩa rất phong phú như: Động tác dùng để chỉ thu hoạch kết quả: “Gặt hái thành công”,
“Thu hoạch nhiều kết quả quan trọng” …
So với danh từ và động từ thì tính từ mang gốc nông nghiệp xuất hiện có vẻ ít xuất
hiện hơn. Song ngoài những trường hợp danh từ chuyển hóa thành tính từ và từ chỉ mức
độ làm định ngữ cho tính từ như đã nói phần trên, ta có thể nhận thấy, dù xuất hiện ít
nhưng lớp từ loại này có khả năng diễn đạt khá độc đáo và sâu sắc khi vận dụng vào ngôn ngữ giao tiếp.
6.7. Dấu ấn của sông nước ảnh hưởng đến văn hóa ngôn từ trong giao tiếp được thể
hiện qua văn chương.
Vẫn còn rất nhiều ngôn từ bị ảnh hưởng bởi văn hóa nông nghiệp xuất phát từ đời
sống và sinh hoạt của cư dân gốc văn hóa nông nghiệp trong ngôn ngữ giao tiếp Việt
Nam hiện nay. Dù đây là những minh chứng mang tính gợi mở, nhưng ta cũng dễ dàng
nhận ra rằng: chính ảnh hưởng của gốc văn hóa nông nghiệp này đã khiến trong ngôn ngữ
giao tiếp của người Việt nổi bật lên đặc trưng là rất biểu tượng và đầy hình ảnh. Một ai
đó muốn chuyển ngữ lớp từ ngữ này sang một ngoại ngữ nào đó e sẽ rất khó khăn, có lẽ
chỉ còn cách đưa những nghĩa biểu trưng này trở về lại với nghĩa đen mà nó muốn diễn tả.
Có thể nói dấu ấn của sông nước - một trong những yếu tố chủ đạo tạo nên nét độc
đáo cho nền văn hoá lúa nước của người Việt đã được khắc hoạ rất rõ nét trong ngôn từ 17
tiếng Việt hiện nay nói chung và kho tàng ca dao, tục ngữ, quán ngữ và thành ngữ nói
riêng. Thử nhìn vào tiếng Việt từ xưa đến nay, chúng ta thấy “sông nước” được nhắc đến
rất nhiều lần, ở những phiên bản khác nhau của từ này, được sử dụng trong rất nhiều văn
cảnh khác nhau với những nội hàm khác nhau. “Sông nước” gắn liền với con người Việt
Nam từ lúc sinh ra cho tới lúc ra đi khỏi cõi đời, vậy nên cũng dễ hiểu tại sao từ này lại
được sử dụng để nói về số phận con người. Thân phận người con gái “Thân em như hạt
mưa sa” được ví với “Mười hai bến nước”. Ngay cả hai động từ “Chìm nổi”, “Lênh
đênh” mà ta sử dụng để nói về sự “Lên ghềnh xuống thác” của cuộc đời cũng bắt nguồn
từ một tư duy được nuôi dưỡng trong nền văn hoá sông nước.
Rõ ràng, chính nguồn gốc văn hóa nông nghiệp đã hằn ghi một dấu ấn rất sâu đậm
trong tâm thức người Việt để tạo nên cả một trường ngôn ngữ, ngôn từ sinh động và
phong phú trong tiếng Việt hiện tại. Dù sao, đây mới chỉ là lớp ngôn ngữ giao tiếp thông
thường, nếu thử đi vào các tác phẩm văn chương ngày nay, ta vẫn sẽ còn phát hiện ra
nhiều điều thú vị nữa. Ví dụ như: “Các em mở ra những trang sách ruộng đồng/ Tôi cúi
xuống gieo vào hạt chữ” (Đoàn Vị Thượng), hoặc “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn
đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi) …
Nền văn hóa nông nghiệp lúa nước đã làm nên nét độc đáo và đặc thù trong ngôn
ngữ của người dân Việt Nam, được phân biệt so với các nền văn hóa khác. Và trong dòng
chảy của lịch sử phát triển nông nghiệp, ngôn ngữ chính là linh hồn của dân tộc ta, góp
phần làm đa dạng và phong phú hơn vốn ngôn từ tiếng Việt hiện nay, góp phần gìn giữ và
phát triển truyền thống tốt đẹp của cha ông ta đã để lại, tiếp tục là công cụ để chung bước
cùng dân tộc Việt Nam trong tiến trình gìn giữ và phát triển những giá trị cốt lõi quý báu
của dân tộc, khẳng định với bạn bè quốc tế cường quốc năm châu về những điều tốt đẹp
của đất nước, của dân tộc này.
VII. Danh mục tài liệu tham khảo
Tập bài giảng Đại cương văn hóa Việt Nam, Nxb Hồng Đức 18
Văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ - GS.TSKH Trần Ngọc Thêm (Trích từ
Tìm về bản sắc văn hoá Viê ̣t Nam. – NXB Tp. HCM,- Trần Ngọc Thêm)
(https://tranngocthem.name.vn/ung-dung-vhh/ngon-ngu-hoc/57-van-hoa-giao-
tiep-va-nghe-thuat-ngon-tu.html)
Tìm hiểu về văn hóa ứng xử xưa và nay của người Việt – Lê Bình
( https://giatricuocsong.org/van-hoa-ung-xu-xua-va-nay/)
Lan Thanh Nguyen, Việt Nam mang đặc trưng của loại hinh văn hóa nông nghiệp. 19
Document Outline
- MỤC LỤC
- I. Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt điển hình
- 1.3. Bản chất của văn hóa
- 2.1. Tính cộng đồng, trọng tình nghĩa
- 2.2. Tính tự trị
- 3.1. Trong lao động sản xuất
- 3.2. Đối với thiên nhiên, môi trường
- 3.3. Trong đời sống xã hội
- 4.2. Người Việt ta rất thích giao tiếp, nói chuyện hay bàn luận với nhau.
- 4.5. Vì trọng danh dự, lễ nghĩa nên:
- 5.1. Tính ước lệ, biểu trưng cao
- 5.2. Tính động và linh hoạt
- 5.3. Giàu chất biểu cảm
- VII. Danh mục tài liệu tham khảo