



















Preview text:
ĐỀ CƯƠNG MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa
gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Văn hóa gốc chăn nuôi du mục
Văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
Nguồn gốc - Hình thành ở phương Tây (văn hóa - Hình thành ở phương Đông (văn hóa hình
phương Tây) bao gồm toàn bộ Châu Âu,. phương Đông), gồm Châu Á và Châu thành
Phương Tây là vùng khí hậu lạnh, khô, Phi. Phương Đông là khu vực có khí hậu
địa hình chủ yếu là thảo nguyên – xứ sở nóng ẩm, mưa nhiều với những con sông
của những đồng cỏ, rất thích hợp cho lớn, theo đó là những vùng đồng bằng trù
nghề chăn nuôi, bởi vậy chăn nuôi là phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng
nghề truyền thống của cư dân phương trọt phát triển. Điều kiện tự nhiên và Tây cổ xưa.
phương thức sản xuất nông nghiệp trồng
trọt đã hình thành một loại hình văn hóa khác với phương Tây.
Đặc điểm
- Nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi cư dân - Nghề trồng trọt buộc con người phải
phải sống du cư, nay đây mai đó, từ đó sống định cư. Do sống định cư nên cư
tạo thành thói quen, lối sống thích di dân nông nghiệp phải lo tạo dựng một chuyển (trọng động).
cuộc sống ổn định lâu dài, không thích
- Vì luôn di chuyển nên cuộc sống của sự di chuyển, đổi thay (trọng tĩnh).
dân du mục không phụ thuộc nhiều vào - Vì nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên, từ đó nảy sinh tâm lý coi thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp rất
thường và có tham vọng chinh phục, chế tôn thờ, sùng bái tự nhiên và mong muốn ngự thiên nhiên.
sống hòa hợp với thiên nhiên.
- Vì sống du cư nên tính gắn kết cộng - Cuộc sống định cư và phải liên kết để
đồng của cư dân du mục không cao, yếu chống chọi, ứng phó với tự nhiên nên đã
tố cá nhân được coi trọng, dẫn đến tâm tạo cho cư dân nông nghiệp tính gắn kết
lý ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối cộng đồng cao.
ứng xử độc tôn, độc đoán
- Phương thức sản xuất nông nghiệp
- Cũng vì cuộc sống du cư cần đến sức sống định cư và tính gắn kết cộng đồng
mạnh và bản lĩnh nên người đàn ông có đã tạo nên lối sống trọng tình nghĩa,
vai trò quan trọng, tư tưởng trọng sức trọng văn, trọng phụ nữ (chế độ mẫu hệ
mạnh, trọng võ, trọng nam giới cũng từ ở phương Đông tồn tại lâu hơn phương đó mà ra. Tây).
- Nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự
- Nghề trồng trọt phụ thuộc cùng một
khẳng định vai trò cá nhân, thêm vào đó, lúc vào nhiều yếu tố với sự tương tác lẫn
đối tượng mà hàng ngày con người tiếp nhau: thời tiết nắng, mưa, đất đai, khí
xúc là đàn gia súc với từng cá thể độc hậu, giống cây trồng, chế độ chăm sóc...
lập, từ đó hình thành kiểu tư duy phân nên từ đây đã hình thành kiểu tư duy
tích chú trọng vào từng yếu tố. Kiểu tư tổng hợp - biện chứng, coi trọng mối
duy phân tích là nguyên nhân đẻ ra lối quan hệ giữa các yếu tố hơn là sự tách
sống trọng lý, ứng xử theo nguyên tắc; bạch từng thành tố riêng lẻ. Lối tư duy
thói quen tôn trọng pháp luật cũng vì vậy tổng hợp, biện chứng là nguyên nhân dẫn
mà được hình thành rất sớm ở phương đến thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt. Tây.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi bật
khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Tuy nhiên,
trong thực tế thường không có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính chất nông nghiệp trồng
trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn hóa chỉ là tương
đối, căn cứ vào các yếu tố có tính trội.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Do vị trí địa lý nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á nên Việt Nam thuộc loại hình
văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Với điều kiện về vị trí địa lý, khu vực địa hình
chịu tác động của gió mùa, điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều
con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong... nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. Và cây
lúa là một trong những cây nông nghiệp chính có từ rất lâu đời ở Việt Nam, cũng chính cấy lúa
cùng với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta đã tạo nên là điều kiện thuận lợi để phát triển
nông nghiệp lúa nước. Căn cứ vào những yếu tố trên, có thể thấy rằng nền văn hóa Việt Nam
thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình.
Tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể
hiện rõ nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam. Biểu hiện:
- Về đặc trưng về lối sống, ở VN do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa
nhiều, có những con sông lớn, những đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng
trọt mà điển hình là nền văn minh lúa nước. Do vậy, người Việt từ xưa đến nay đều ưa thích
một cuộc định cư ổn định (An cư lạc nghiệp), không thích di chuyển, vì vậy đã tạo nên tình
cảm gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước. Nhưng cũng từ đây đã hình thành lối sống tự
trị, khép kín, hướng nội, hạn chế sự giao lưu, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
- Cư dân VN do sống bằng nền nông nghiệp nên sự gắn bó, phụ thuộc vào tự nhiên lại
càng lâu dài và bền chặt dẫn đến cư dân nông nghiệp Việt Nam rất sùng bái tự nhiên, luôn
mong muốn mưa thuận gió hòa để có cuộc sống no đủ (câu cửa miệng của người Việt là “lạy
Trời, “ơn Trời”, “nhờ Trời”,...). Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa,
Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, cây cau,.. Đó chính là nguyên nhân sự ra đời
của nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất
nước nhưng phổ biến nhất là ở dân tộc thiểu số như tín ngưỡng Phồn Thực - loại tín ngưỡng
tôn thờ sự giao phối - nguồn gốc của sự sinh sôi nảy nở và vì là Việt Nam có nền văn hóa gốc
nông nghiệp nên hai vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống cư dânlà mùa màng
tươi tốt và muôn loài sinh sôi. Vì vậy tín ngưỡng Phồn Thực phát triển mạnh và bảo tồn lâu dài
- Cuộc sống định cư tạo cho người Việt tính gắn kết cộng đồng cao (Bán anh em xa mua
láng giềng gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, Lụt thì lút cả làng, Nước nổi thì bèo nổi...)
- Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa (Lá lành đùm lá rách, Chị ngã
em nàng, Bầu ơi thương lấy bí cùng… ), các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lý (Một
bồ cái lý không bằng một tí cái tình; Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế...).. Vì sống theo tình
cảm, người Việt có lối sống tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau.. Cư dân Việt Nam
làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
- Cuộc sống định cư ổn định cần đến vai trò chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm
nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng là công việc phù hợp với phụ nữ, do đó, vai trò của người
phụ nữ được tôn trọng, đề cao. Đặc trưng này là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Phụ nữ Việt
Nam là người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa biểu hiện
ở (Ruộng và trâu nái không bằng con gái đầu lòng, Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng
cồng bà; Ba đồng một mở đàn ông đem bỏ vào lòng cho kiến nó tha, ba trăm một mụ đàn bà,
đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi… )
Sau này, do sự ảnh hưởng, chi phối của tư tưởng Nho giáo mới hình thành tư tưởng
trọng nam khinh nữ. Hiện nay, các dân tộc không chịu ảnh hưởng, hoặc ít chịu ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa (dân tộc Chăm, Êđê, Giarai...) vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ.
- Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả
mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa, trông gió, trông
ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng hợp - biện chứng kết
hợp với lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện, vô nguyên tắc (Yêu
nên tốt, ghét nên xấu; Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.Thương
nhau mọi việc chẳng nể, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng)
- Lối tư duy tổng hợp, biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm dẻo,
linh hoạt, được thể hiện rõ qua quan niệm sống của người Việt (Tùy cơ ứng biến; Ở bầu thì
tròn, ở ổng thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy ).
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng
trọt đều được thể hiện rõ nét trong lối sống, phương thức tư duy và thói quen ứng xử của ngưởi
Việt, được thể hiện qua kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ - đó là những giá trị văn hóa phi
vật thể được đúc kết qua nhiều thế hệ, được lưu truyền trong dân gian.
Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất.
Để đáp ứng nhu cầu sinh tồn, con người phải thực hiện các hoạt động vật chất như: lao
động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại,… Sản phẩm của các hoạt động vật chất thể hiện trong đó các
năng lực tinh thần của con người, phản ánh thói quen, lối sống, phong tục, tập quán,… của một
cộng đồng. Đó là kết quả của sự thích nghi và ứng phó của con người với môi trường tự nhiên
và xã hội cụ thể, làm nên dấu ấn riêng của mỗi cộng đồng – đó là đặc trưng văn hóa của một
cộng đồng thể hiện ở phương diện hoạt động vật chất. Vì vậy để nhận diện đặc trưng văn hóa
của một cộng đồng, trước hết cần nhận diện các dấu ấn văn hóa thể hiện ở phương diện hoạt động vật chất.
- Về phương thức sản xuất: nghề nông nghiệp lúa nước theo phương thức sản xuất tiểu
nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toàn bộ nền tảng kinh tế của xã
hội VN truyền thống. Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã đúc kết được một hệ thống
kinh nghiệm của nghề trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không chỉ được lưu truyền trong
dân gian, mà còn được tập hợp lại, biên soạn thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân (Vi
dụ: cuốn sách Minh nông phả của Trần Cảnh đời Lê; Nông gia thuật chiêm kinh nghiệm yếu
quyết của Trần Ngọc Trác; Nông sự toàn đồ của Lê Thúc Hoạch đời Nguyễn). Để phục vụ cho
nghề nông, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ thủ công cổ truyền rất phong
phú, đa dạng, gồm hàng trăm kiểu loại khác nhau. Tất cả những kinh nghiệm được đúc kết và
những thành tựu sáng tạo từ phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng
tận dụng, thích nghi và ứng phó một cách tối ưu của người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Bên cạnh nghề nông, các nghề thủ công như nghề dệt, gồm sứ, thêu thùa,… hình thành các làng
nghề với các sản phẩm nổi tiếng như: gốm Bát Tràng, dệt thêu Hà Tây,… Bằng những công cụ
dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiên như: tơ chuối, sợi đay, sợi gai, tơ tằm, sợi bông,…
- Trong rất nhiều những yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày của con người từ phía
tự nhiên, các nhà nghiên cứu văn hóa VN đều thừa nhận hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn
hóa vật chất của người Việt, đó là tính chất sông nước và thực vật. Sự chi phối của 2 yếu tố tự
nhiên này được thể hiện trước tiên trong việc lựa chọn cơ cấu 1 bữa ăn truyền thống với 3
thành phần chính: cơm – rau – cá. Sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên
của người Việt còn được thể hiện rõ nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mềm dẻo, linh
hoạt của cư dân nông nghiệp Việt Nam. Trước hết ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền,
đó là một biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa là một cách tự
thích nghi của nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc chế biến
và lựa chọn các món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của cơ thể (điều hòa âm -
dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi trường để ứng phó với thời tiết.
- Trong văn hóa trang phục Việt Nam, với nghề chính là trồng trọt nên người Việt chủ
yếu sử dụng các chất liệu có sẵn trong tự nhiên, mỏng, nhẹ và có nguồn gốc từ thực vật như: tơ
tằm, sợi bông, sợi đay, sợi gai… Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt chủ yếu là
những gam màu trầm tối: Miền Bắc là màu nâu (màu đất) và Miền Nam là màu đen (màu bùn).
Phản ánh phong cách truyền thống của người VN là ưa sự kín đáo, giản dị, đồng thời cũng thể
hiện sự thích nghi với môi trường sống và sinh hoạt của nghề nông trồng lúa nước “chân lấm
tay bùn”. Ngoài ra chiếc nón lá cũng là một bộ phận kèm theo không thể thiếu trong trang phục
của phụ nữ VN truyền thống. Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm
mưa nhiều. Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp
với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng, ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ.
- Về văn hóa ở và sinh hoạt, vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa…
thể hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN. Kiến trúc nhà ở của
người Việt mang dấu ấn của vùng sông nước với nhà sàn là kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả
miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường (tránh côn
trùng, thú dữ, lũ, ngập lụt…). Sang thời phong kiến thì nhà đất bằng là phổ biến, song dấu ấn
văn hóa sông nước còn thể hiện ở kiểu nhà mái cong mô phỏng hình mũi thuyền, thậm chí cư
dân sống bằng nghề sông nước còn dùng thuyền làm nhà ở. Không gian ngôi nhà Việt là không
gian mở, có cửa rộng, thoáng mát, giao hoà với tự nhiên, xung quanh có cây xanh bao bọc che
chở. Về việc chọn hướng nhà và chọn đất làm nhà được đặc biệt coi trọng, dựa theo thuật
phong thủy hướng nhà ưa thích của người Việt là hướng nam hoặc đông nam (Lấy vợ hiền hòa,
làm nhà hướng nam) các hướng này sẽ tận dụng được gió mát từ biển thổi vào và tránh được
nắng nóng từ phía tây, gió lạnh từ phía bắc xuống,…
- Về văn hóa giao thông đi lại: Giao thông đường thủy do đặc điểm là vùng sông
nước,với hệ thống sông ngòi chằng chịt, có bờ biển dài... Vì giao thông đường thủy chiếm ưu
thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc
sống sinh hoạt gắn liền với sông nước đã khiến hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong
tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...) Trong
khi đó giao thông đường bộ lại hạn chế (do: phương thức sản xuất nông nghiệp định cư, khép
kín ít có nhu cầu di chuyển, địa hình bị chia cắt bởi núi non và sông ngòi dày đặc,..)
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại - đó là những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu vật chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn
hóa của con người với môi trường tự nhiên và với cộng đồng xã hội. Sự ứng xử văn hóa của
người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện rõ nét dấu ấn của loại hình văn hóa nông
nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt
của người Việt đối với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật, qua đó góp phần
thể hiện các đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam.
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được thể hiện ở lĩnh vực
văn hóa vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha ông ta
xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn
minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của người Việt với
môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất
tiểu nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng kinh tế của
xã hội Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định hình
từ thời Văn Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, trong quá trình xây dựng
quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông và có các chính sách khuyến nông tích cực.
Quá trình cải tạo và chinh phục tự nhiên, khai hoang, cải tạo đầm lầy, lấn biển, mở rộng diện
tích canh tác, làm thủy lợi, đắp đê chống lụt đã tạo thành các vùng đồng bằng châu thổ Bắc
Bộ, Bắc Trung Bộ, và sau này là Nam Bộ để chuyên canh lúa nước một cách ổn định. Trên
những vùng đồng bằng châu thổ kéo dài từ Bắc đến Nam, người Việt đã phát triển một truyền
thống văn hóa sản xuất tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước.
Bằng những công cụ dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiện như: tơ
chuối, sợi đay, sợi gai, tơ tăm và sợi bông, những người thợ thủ công đã dệt ra nhiều loại vải,
lụa rất phong phú, không chỉ đáp ứng được nhu cầu may mặc trong nước mà còn bán ra nước
ngoài. Như vậy, từ thời Hùng Vuơng dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại Việt,
phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước được duy trì và phát triển với vai trò kinh tế chủ
đạo. Cùng với nghề nông là sự mở rộng và phát triển các làng nghề thủ công phục vụ cho các
nhu cầu sản xuất và sinh sống hàng ngày.
Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiểu nông tự cung tự cấp, các
quan hệ giao luu bị hạn chế, do đó sản xuất nông nghiệp và thủ côngnghiệp chỉ dừng lại ở quy
mô nhỏ của nên kinh tế tiểu nông đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng chứ không thế vuơn tầm phát
triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
- Trong văn hóa ẩm thực, hành vi ăn uống là biểu hiện của văn hóa khi nó được thực
hiện một cách có ý thức và hình thành như một thói quen – đó vừa là văn hóa ứng xử với môi
trường tự nhiên, vừa là văn hóa ứng xử xã hội. Bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành
viên trong bữa ăn liên quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì
mang tính cộng đồng nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng
đồngcùng với sự chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việt rất
coi trọng nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
- Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền
chắc “ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: nâu, đen,
chàm, gụ, tím…phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ,
vàng, xanh lá cây,…) chỉ mặc vào các dịp lễ, hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp
(Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, cau già khéo bổ thì ngon, nạ dòng trang điểm lại giòn hơn
xưa). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân, quần
lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là một trong những nét bản
sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu.
Cái thúng mà thủng hai đầu
Bên ta thì có bên Tàu thì không.
( Câu đố)
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân, bỏ buông 2 vạt trước,
hoặc áo mớ bảy mớ ba với nhiều màu sắc). Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày
là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội
thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục
của người Việt thể hiện quan niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
- Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
cuộc sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính cộng
đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập thì nhà
Việt truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình, các
gian nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn. Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng
thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi..) được
xén thấp để dễ qua lại.
- Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư dân ít
có nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa các
vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ yếu là đi
bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở giao thông đường thủy vì
đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng
Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con
đò đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái,gái theo chồng; Thuyền về có
nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông
nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại - đó là những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu vật chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn
hóa của con người với môi trường tự nhiên và với cộng đồng xã hội. Sự ứng xử văn hóa của
người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện rõ nét dấu ấn của loại hình văn hóa nông
nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt
của người Việt đối với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật, qua đó góp phần
thể hiện các đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam.
Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với sự hình thành triết lý
sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật trong vũ
trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Trong văn hóa bản địa của
người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất,
nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu
chuyện thần thoại. Đó là cơ sở để thuyết âm dương ngũ hành ăn sâu trong đời sống văn hóa
tinh thần của người Việt, trở thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống
cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ:
Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp đôi: trong
tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân bằng ân
dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm dương thường
được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước…
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: từ triết
lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng, hài hòa âm
dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo triết lí quân bình,
duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc làm nhà ở, cho đếm việc ứng
xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự
bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan.
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do nhận
thức được qui luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái
nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được
qui luật chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ
hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn
đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Phật giáo ở Việt Nam và vai trò của
Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo chính thức du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc, theo chân quân xâm lược
Trung Hoa, và đã nhanh chóng được người Việt tiếp nhận một cách tự nhiên và tự nguyện. Phật giáo gồm 2 phái:
- Thượng tọa (tiểu thừa): từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam.
- Đại chúng (đại thừa): từ Trung Hoa du nhập vào Việt Nam.
Nói đến Phật giáo trước hết là nói đến tư tưởng vị tha, vị nhân sinh. Phật cho rằng đời là
khổ và đã tìm lấy sự giải thoát khỏi cái khổ. Bởi vậy Phật xướng lên thuyết Tứ thánh đế hay Tứ
diệu đế. Đó là Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: là chân lí về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì? Đó là trạng thái buồn phiền phổ
biến ở con người do sinh, lão , bệnh, tử, do mọi nguyện vọng không được thỏa mãn.
- Nhân đế: Là chấn lí về nguyên nhân của nỗi khổ. Đó là do ái dục và vô minh (kém
sáng suốt). Dục vọng thể hiện thành hành động là Nghiệp (karma), hành động xấu khiến con
người phải nhận hậu quả của nó (nghiệp báo), thành ra cứ luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được.
- Diệt đế: là chân lí về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây
ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (nirvana, nghĩa đen là “không ham muốn,
dập tắt”). Đó là thế giới của sự giác ngộ và giải thoát.
- Đạo đế: là chân lí chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải thoát và giác
ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức( giới), tư tưởng (định) và khai sáng trí tuệ (tuệ).
Đặc điểm của Phật giáo:
- Tính nhập thế: giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh, luôn đồng
hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các hoạt động xã hội:
nhà chùa mở trường dạy học, tham gai đào tạo tri thức, nhiều nhà sư đồng thời nhà sư đồng
thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người Việt cụ thể hóa trong các
mối liên hệ đời thường.
- Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến
thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa: dung
hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị
thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…
+ Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo.
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như Nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho
nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
*Vai trò của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa và nay:
- Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và văn hóa dân gian của quần
chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước. Từ xa
xưa, với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí sống, ngôi chùa là nơi giáo
dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và
cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ lâu, “Mái chùa che chở
hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”.
- Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo
lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay
Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến 10% dân số. Hiện nay, số lượng
người đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các
ngày rằm, mồng một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò
của Phật giáo trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò của
Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc và đến thế kỉ XV, Nho giáo được
xem là đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo. Các triều đại phong
kiến Đại Việt lấy Nho giáo làm nền tảng để xây dựng hệ tư tưởng, đạo đức, giáo dục, pháp luật,
qua đó để xây dựng mô hình nhân cách con người. Tuy nhiên do sự phân phối củ văn hóa bản
địa nên Nho giáo Trung Hoa đã được người Việt tiếp nhận và vận dụng một cách sáng tạo và
linh hoạt. Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà
vua thì Nho giáo Việt Nam tuy vẫn đề cao tư tưởng này nhưng không cực đoan đến mức phải
hy sinh tính mạng vì vua, quan niệm trung quân của người Việt gắn liền với ái quốc, trong
nhiều trường hợp nước còn được đề cao hơn vua. Người Việt đề cao tinh thần yêu nước,
thương dân, lấy dân làm gốc. Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa đã bị khúc
xạ qua lăng kính của người Việt, nó không chỉ là một khái niện hạn hẹp về đạo đức mà nó còn
trở thành một lý tưởng xã hội cao đẹp vì cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân – “Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân” trong Cáo bình Ngô của Nuyễn Trãi*Vai trò của Nho giáo trong đời
sống tinh thần của người Việt xưa và nay:
- Trong gần 10 thế kỉ xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến, Nho giáo khẳng định
vai trò là nền tảng tư tưởng chi phối đến mọi mặt đời sống xã hội Việt Nam: là nền tảng tư
tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước; hình thành chuẩn mực đạo đức và xây dựng mô
hình nhân cách con người Việt Nam truyền thống với các tiêu chí: đạt đức (Trai thời trung hiếu
làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình; Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới
là đạo con); đạt đạo (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Xây dựng nền tảng giáo dục, thi cử.
- Cho đến ngày nay, Nho giáo vẫn giữ được vị trí trong đời sống văn hóa tinh thần người
Việt. Tư tưởng và giáo lý của Nho giáo đã góp phần xây dựng xã hội ổn định, nề nếp theo tôn ti
trật tự, thứ bậc, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong cuộc sống hiện đại, vai trò
của pháp luật được đề cao, không những pháp luật hình sự như thời xa xưa mà cả pháp luật dân
sự, thương mại, hôn nhân và gia đình… Tuy nhiên, điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo
đức và thuần phong mỹ tục mà người Việt đã xây dựng hàng ngàn năm nay, trong đó tư tưởng
Nho giáo đóng góp một phần không nhỏ.
Câu 8: Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao tiếp ứng
xử của người Việt , theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào cần được giữ gìn và
phát huy.
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ
nét. Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng
xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt
coitrọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức ứng xửvăn
hóa quan trọng của người Việt “Lời chào cao hơn mâm cổ”, thích thăm viếng nhau, coi việc
thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ và giàu tính hiểu
khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
- Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích
tìmhiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân của đối
tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...). Đặc điểm này
cũng có nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối sống trọng tình (quan tâm đến người khác). Tuy
nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí. Trong thực tế người
Việt Nam vẫn coi trọng “cái tình” hơn cả, bất đắc dĩ lắm mới dùng “cái lý” để giải quyết những
mâu thuẫn. “Cái tình” sẽ làm cho người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng “cái tình” là rất
đẹp, để rồi “Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”, để không phải hối hận về sau. Người ta
thường nói tình làng nghĩa xóm lúc “tắt lửa tối đèn” là để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa
“cái lý” ra làm thước đo con người. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số
trươờng hợp ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt. Vì không giải quyết theo lý mà
chỉ lụy tình, người Việt thường có thói quen: Người càng thân ta thì càng đúng hơn. Thậm chí
có việc người nhà ta, người làng ta, người cơ quan ta sai lè lè, không còn cách nào khác, người
đứng ra bênh vực bảo: “Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có
kiểu xưng hùng xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
- Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo quan
hệ thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì, cháu, con…
Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn là giá trị vật chất
(Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng giữa làng bằng một sàng xó
bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...). Vì coi trọng danh dự nên nghi thức lời nói
trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú
trọng đến không gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và
theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời
chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổisáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối….
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện “Ở đời muôn
sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “Đem chuông đi đánh nước người,
không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “Một quan tiền công không bằng một đồng tiền
thưởng”;.. Vì trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi vậy, dư luận trở thành
một thứ vũ khí lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá nhân với cộng đồng,nhờ đó mà duy
trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thẳng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo tam quốc” để
đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp. Chính sự đắn đo
cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải
quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người
Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trongthói quen giao tiếp của người
Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên
trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Người Việt
thường không biểu lộ trực tiếp cảm úc của mình với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu
ca dao, thành ngữ, thơ ca thường dùng hinhtượng ẩn dụ, bóng gió “Trăm dâu đổ một đầu tằm”;
“Tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý
trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại “lời nói chẳng
mất tiền mua, lựa lơi mà nói chovừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự lành”;… Và hệ quả của
việc giữ ý, cả nề dẫn đếnthái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp
“Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo”; “uốn lưỡi ba lần trước
khi nói”... Chính thói quen ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính
quyết đoán trong giao tiếp đã khiến cho người Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái
chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để
bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc ViệtNam qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh làm nên nét đẹp và là chìa
khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi nét đặc trưng văn hóa ứng xử giao
tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền văn hóa ứng xử muôn màu, phong phú
thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng
văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật tất yếu đều phải có những mặt tích cực và mặt tiêu
cực, hai yếu tố này luôn song hành cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh sáng
thì không thể nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu
cực này mà có thể thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát
huy các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Câu 9: Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai trò
của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
- Đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình là tế bào của xã hội, là một đơn vị cộng đồng ra đời cùng với xã hội loài người, bắt
nguồn từ quan hệ nam nữ và việc sinh đẻ, nuôi dạy con cái. Tính chất của gia đình trong lịch sử
thay đổi theo phương thức sản xuất và thể chế chính trị- xã hội. Vì vậy, cách thức tổ chức gia
đình với tư cách là một tế bào của xã hội, và ứng xử của văn hóa gia đình cũng là một thành tố của văn hóa xã hội.
Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống:
Do sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp và tư tưởng nho giáo nên văn hóa gia
đình Việt Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
+ Gia đình tiểu nông (nhiều thế hệ sống chung, cố kết bền vững).
Gia đình tiểu nông: Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt đối của tập thể gia
đình đối với mỗi thành viên), tinh thần vì lợi ích chung, vừa coi trọng đúng mức vai trò cá
nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn trọng giới hạn tự do cá nhân. Tuy nhiên, rất dễ
nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể thường lấn át, tới mức, người phương Tây cho rằng ở gia
đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
+ Gia đình Nho giáo (phụ quyền, đa thê)
Chế độ phong kiến chấp nhận gia đình đa thê (trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng).
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng phong kiến,
phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng tư đức, chấp nhận gia đình đa thê, "trai
chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"....
Quan hệ các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ của giáo lý Nho
giáo (Quyền huynh thế phụ)
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng nam
khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô).
Đây là nguyên nhân gây ra nhiều thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trong thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền phân công
lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia đình
thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền đánh đập. “bán vợ, đợ con”,
xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền lực chính trong gia đình. Vị thế
người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội.
- Vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính bền vững, gia
đình luôn là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất tiếc khóc chào đời
đến khi mất đi. Ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn luôn là nhân tố tích cực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng quan trọng của gia đình.
1. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên để mỗi cá nhân hình thành, hoàn thiện nhân cách.
Mỗi con người khi sinh ra thông thường đều có một gia đình, được sinh ra từ người cha,
người mẹ…vì thế, ánh mắt đầu tiên là cái nhìn về cha mẹ, âm thanh đầu tiên tiếp nhận là âm
thanh từ cha mẹ, ông bà, anh chị là âm thanh của gia đình.
Mỗi cá nhân, từ khi lọt lòng mẹ đến khi trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời ăn, tiếng
nói, từ cách ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với cộng đồng thế nào cho đúng, cho lễ
phép. Gia đình là nhân tố đầu tiên chỉ bảo, dạy dỗ cho các em hành vi ứng xử theo chuẩn mực
và các giá trị tốt đẹp của xã hội: “Học ăn, học nói, học gói, học mở .. Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng; Trên kính duới nhường. ”
⇨ Chính vì vậy hành vi đầu đời của các em có dấu ấn sâu sắc của gia đình. Trẻ em có hành vi tốt
hay xấu trước hết và chủ yếu là do môi trường giáo dục của gia đình tạo nên.
2. Gia đình chuẩn bị hành trang cho các em bước vào cuộc sống
Trên những bước đường trưởng thành những ký ức của tuổi thơ luôn đọng lại theo chân
các em trên mỗi hành trình mà ở đó có thể là ký ức buồn khổ hoặc ký ức êm đềm ngọt ngào
trong vòng tay yêu thương của gia đình… tất cả đều trở thành hành trang, động lực giúp các em
vươn lên, quyết tâm hơn trên mỗi bước đi của cuộc đời mình.
3. Gia đình là nhịp cầu nối với nhà trường
Gia đình là cái nôi giáo dục đầu tiên, giai đoạn sau các em tiếp tục được sự giáo dục của
nhà trường. Đó là môi trường rộng lớn hơn, bạn bè nhiều hơn, kiến thức được mở mang, thể
chất ngày càng phát triển, theo đó nhận thức và nhân cách được phát triển rất mạnh ở thời kỳ này.
Để định hướng, uốn nắn và điều chỉnh về nhân cách của các em gia đình phải luôn liên
hệ với nhà trường. Sự hợp tác này sẽ đạt hiệu quả rất cao vì nhà trường chính là môi trường
thuận lợi nhất, tốt nhất để các em học tập và rèn luyện.
Câu 10: Hãy trình bày đặc trưng của văn hóa của làng và ảnh hưởng của nó đến thói quen,
lối sống, cách tư duy, ứng xử của người việt (ảnh hưởng đến pháp luật). Sưu tầm những
câu thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt.
Đặc trưng của văn hóa làng Việt
Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo làm nên
bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã củng gặp nhau khi khái
quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tinh cộng đồng và tính tự trị.
+ Tính cộng đồng
- Tính cộng đồng: là sự liên kết các thành viên trong làng, mỗi người đều hướng tới người khác
a. Cơ sở hình thành tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải sống định cư, vì vậy, như một
đòi hỏi tự nhiên và tất yếu để sinh tổn, người Việt đã sống quần tụ thảnh cộng đồng, gắn kết để
nương tựa, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ứng phó với thiên tai.
b, Biểu hiện của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Về kinh tế: cư dân trong cùng một làng luôn tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất,
chống thiên tai (hạn hán, lũ lụt), khi đói kém, mất mùa (Một miếng khi đói bằng một gói khi no;
Lá lành đùm lá rách; Lụt thì lút cả làng, đắp để chống lụt thuếp chàng cùng lo...).
- Về tình cảm: cư dân trong làng đều có mối quan hệ thân tộc nên luôn giúp đỡ nhau khi khó
khăn hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Bầu ơi thương lẩy bị cùng...).
- Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng có chung phong tục, Lập quán, tín ngưỡng, củng thờ
chung Thành Hoàng làng, cùng tham gia các hội hè, định đảm...; hôn nhân phải được lảng công
nhận (nộp theo cho lảng).
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả về quan hệ xã
hội cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật... Tính cộng đồng được bảo tồn, nuôi dưỡng
từ cái nôi văn hóa làng là một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, và cũng là cơ sở để hình
thành tinh thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quý báu, làm nên cội
nguồn sức mạnh của dân tộc ta.
c. Biểu tượng của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
Trong không gian sống của mỗi làng quê Bắc Bộ, đình làng cây đa, bến nước là những hình
ảnh vô cùng quen thuộc, gắn bó thân thuộc, bởi đây là những địa điểm thưởng tập trung đông
người, là nơi sinh hoạt cộng đồng. Bởi vậy, trong văn hóa làn những hình ảnh này được coi là
biểu tượng cho tỉnh cộng đồng
d.Tác động của tỉnh cộng đồng đến lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt,
Tính cộng đồng đã tác động đến lối sống, cách tư duy, ứng xử (nói chung) và văn hóa ứng xử
với pháp luật (nói riêng) của người Việt với cả hai mặt tích cực và tiêu cực
+ Tác động tích cực:
- Tạo nền nếp sống dân chủ bình đẳng và tính tập thể hóa đồng (Một con ngựa đau cả tàu bỏ
cỏ...). Tạo nên nếp sống gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc nhau, là cơ sở tạo nên lối sống trong tỉnh
- Một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt (Tay đứt ruột xót, Chị ngã Em nâng, Lá
lành đùm lá rách...).
- Tinh gắn kết cộng đồng và lối sống trong tỉnh tạo nên cuộc sống thoả thuận, lấy tình nghĩa
làm đầu, giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tụng..., khiến cho cuộc sống ở làng quê được ổn định, bình yên.
+ Tác động tiêu cực:
- Lối sống để cao tính cộng đồng là nguyên nhân tạo nên từ thương bè phái, bao che ( Rút dây
đồng rừng, Môi hở răng lạnh, đóng cửa bảo nhau, không vạch áo cho người xem lưng).
- Lối sống đề cao tính cộng đồng cũng là nguyên nhân hinh thành thói quen ứng xử cào bằng,
đổ kỵ, kìm hãm, hạn chế thức về quyền cá nhân (Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng
ngốc đàn; Chết một đống còn hơn sống một người...).
- Tính cộng đồng và lối ứng xử trọng tình là nguyên nhà dẫn đến thói quen ứng xử cả nể, ngại
va chạm, sợ mất lòng ở thỏa hiệp, theo đó là sự hạn chế năng lực tư duy phản biện. Thói quen
tư duy và ứng xử này đã được dân gian đúc kết qua các cửa thành ngữ, tục ngữ như: Chín bỏ
làm mười; Một sự nhịn chín sự lành; Nhất ỉ nhì làm thính; Tháng ba cũng ừ, tháng tư cũng gật;
Sự nổi cũng phải, vãi nói cũng hay; Gió chiều nào theo chiều ấy; Một đời kiện chín đời thù...).
Đây là nguyên nhân dẫn đến thái độ hành xử thiếu tính quyết đoán trong giải quyết công việc
cũng như thái độ “dĩ hòa vi quý” trong đấu tranh với những hành vi tiêu cực, với cái xấu, cái bất công.
- Văn hóa trọng tình coi tình cảm làm thước đo giá trị trị trong các quan hệ dẫn đến thói quen
ứng xử nặng tình nhẹ lý (một cái lý không bằng một tỉ cái tình). Trong một xã hội mà nếu cái
tình ở vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái lý thi pháp luật tất yếu sẽ không được coi là
một công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ xã hội
- Vì nguyên tắc ứng xử trọng tình nhẹ lý là nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan
hệ cho nên việc xử sự của con người thường nặng về chủ quan cảm tính, tùy tiện, không coi
trọng tính nguyên tắc. Đặc điểm này được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các cấu
thành ngữ quen thuộc như: Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu
nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng, Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét
nhau quả bồ hòn cũng méo... Đây cũng là một nguyên tắc ứng xử tác động tiêu cực, gây khó
khăn, cản trở cho việc thực thi pháp luật dựa trên nguyên tắc khách quan và công bằng.
Tóm lại, hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực thì những tác động tiêu cực của tính cộng đồng
vẫn còn để lại dư vị nặng nề trong xã hội, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tiêu cực đến văn hóa
ứng xử với pháp luật của người Việt, gây khó khăn, cản trở không ít cho công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền mà tinh thần "thượng tôn pháp luật" là một đòi hỏi tất yếu của xã hội văn
minh. Chính từ nếp sống, thói quen ứng xử kiểu chủ nghĩa thân quen, dựa dẫm, ỉ lại, bè phái,
bao che, đặt tình cao hơn lý, cả nể, ngại va chạm khiến cho pháp luật nhiều khi bị vô hiệu hóa.
Vì vậy, văn hóa ứng xử "lấy cảm tình làm bản vị" của người Việt đang là một thách đố gay gắt
khi đất nước bước vào tiến trình hội nhập mã tỉnh thần thượng tôn pháp luật” là điểm tựa của
việc thực hiện những cam kết quốc tế.
+ Tính tự trị
Tính tự trị: tính tự trị làm nên sự khác biệt giữa làng này với làng khác.
a, Cơ sở hình thành tỉnh tự trị:
- Cơ sở hình thành chính là nông nghiệp trồng trọt ở định cư, kinh tế tiểu nông tư cung tự cấp
hình thành nên lối sống khép kín, tự trị, hướng nội.
- Bộ máy hành chính tự quản của làng cũng khiến cho lang tồn tại như một “tiểu vương quốc”,
luôn có xu hướng ly tân với chính quyền trung ương, đó cũng là một cơ sở hình thành mở sống
khép kín, tự trị, hướng nội trong văn hóa làng.
Ngoài ra, do tính cố kết cộng đồng cao cũng khiến chi mỗi làng tồn tại như một đơn vị độc lập,
tự đầy đủ, khép kín cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng.
b. Biểu hiện của tỉnh tự trị.
- Về không gian địa lý: mỗi làng sống quần tụ trong một không gian với ranh giới bao quanh
làng là lũy tre và cổng làng khiến cho mỗi làng tồn tại như một “vương quốc" nhỏ khép kín,
làng nào biết làng ấy
- Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, tự túc tự cấp nền ít có nhu cầu
quan hệ giao thương với bên ngoài
- Về tình cảm: một vài dòng họ thường sống quần tụ trong một làng, việc dựng vợ gả chồng
khuyến khích lấy nhau cùng làng (lấy chồng khó ở làng hơn lấy chồng sang thiên hạ). Vì vậy
quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.
- Về phong tục và tín ngưỡng, mỗi làng thờ Thánh Hoàng làng là ông tổ của làng được thờ ở
đình làng, ngoài ra còn có đền, chùa, miếu là những không gian thờ phụng gắn với những
phong tục, tín ngưỡng riêng của làng, có lễ hội, đình đám của làng...
- Về luật pháp:
Mỗi làng có lệ làng- hương ước là luật lệ của làng.
Hương ước là văn bản ghi chép các lệ làng, trong đó quy định những điều cấm không được
làm, những điều được làm; những hình phạt khi làm trái với lệ làng và những hình thức khen
thưởng đối với những việc làm tốt, có ích cho làng.
⇨ Vì thế, luật tục-hương ước-lệ làng đã ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nè nếp, quy
cũ, tạo thành nếp sống chung ổn định trong không gian khép kín của mỗi làng. Hương ước
chính là hệ thống giá trị chuẩn mực của làng xã, quy định cung cách ứng xử, lối sống của cá
nhân trong làng, tạo nên sự đồng nhất. Trong xã hội truyền thống VN, từ hàng nghìn năm, luật
tục đã tồn tại song song với pháp luật của nhả nước (lệ làng/ phép nước).
Có thể nói, trong tổ chức làng xã Việt Nam truyền thống, hương ước lệ làng về cơ bản là một
hiện tượng văn hóa độc đáo với rất nhiều các giá trị tích cực đã góp phần giữ gìn kỷ cương, trật
tự xã hội, thuần phong mỹ tụ với các quy định mang tính cách đặc thù của mỗi địa phương. Với
luật lệ riêng, làng xã Việt Nam đã tồn tại như một vương quốc thu nhỏ với sự cố kết rất bền vững.
Tính tự túc tự cấp của nền kinh tế tiểu năng cùng với bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho
làng luôn có xu hướng ly tâm với chính quyền trung ương
c. Biểu tượng của tinh tự trị:
Nếu cây đa, bến nước, đình làng là những hình ảnh biểu tượng cho tính cộng đồng thi lũy tre
làng và cổng làng vừa là ranh giới cụ thể phân định không gian sống biệt lập của mỗi làng,
nhưng đồng thời cũng là những hình ảnh biểu tượng cho tính tự trị, khép kín của văn hóa làng.
d. Tác động của tỉnh tự trị đến lối sống, cách tư duy, ứng Tử của người Việt:
+ Tác động tích cực:
- Do lối sống nông nghiệp quần cư khép kín, hướng nội, thành phần cư dân ổn định, quan hệ xã
hội chủ yếu dựa trên các mối quan hệ thân quen, thân tộc nên tính tự quản cao, ít xảy ra những
tranh chấp, kiện tụng, vì vậy việc quản lý xã hội có nhiều thuận lợi
– Tính tự trị cũng tạo cho người dân tinh thần độc lập, ý thức tự lực tự cường và đức tỉnh cần
cù, chịu khó, tiết kiệm. (Được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi thất bại lấy ai bạn cùng).
+ Tác động tiêu cực
- Tính tự trị là cơ sở hình thành tư tưởng tiểu nông sản ích kỷ (Bè ai người nấy chống. Ruộng ai
người nấy đắp bờ; Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu; Của mình thì giữ bo bo, của người thì để
cho bò nó ăn...).
- Tư tưởng bè phái, địa phương cục bộ (Nhập gia tùa tục; Trâu ta ăn cỏ đồng ta; Ta về ta tắm
ao ta...) là nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế ý thức hợp quần xã hội khi vượt quá phạm cộng đồng làng.
- Lối Sống khép kín, quan hệ xã hội không mở rộng tạo nên tư duy bảo thủ, trì trệ, tâm lý
không thích sự thay đổi này đã làm hạn chế, thui chột năng lực và thói quen của tư duy phản
biện của người Việt, trong khi đây lại là một yếu tố quan 1 động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong ứng xử với pháp luật, tính tự trị làng xã tồn tại của luật tục lệ làng đã tạo nên lối sống
trọng lệ hơn luật lệ, làm thói quen ứng xử “Phép vua thua lệ làng”. Lối sống, thói quen ứng xử
này hiện nay còn ảnh hưởng khá nặng nề, tác động tiêu cực đen công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền mà tinh thần Thượng tôn pháp luật là một tiêu chí hàng đầu.
Sưu tầm những câu thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt.
Tính cộng đồng
+ Một miếng khi đói bằng một gói khi no; Lá lành đùm lá rách; Lụt thì lút cả làng, đắp để chống
lụt thuếp chàng cùng lo.
+ Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Bầu ơi thương lẩy bị cùng.
+ Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu
+ Tay đứt ruột xót, Chị ngã Em nâng, Lá lành đùm lá rách.
+ Nhất thân nhì quen tam thần tứ thế
+ Một người làm quan cả họ được nhờ, Nước nổi thì bèo nổi, Cha chung không ai khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa.
+ Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng ngốc đàn; Chết một đống còn hơn sống một người.
+ Chín bỏ làm mười; Một sự nhịn chín sự lành; Nhất ỉ nhì làm thính; Tháng ba cũng ừ, tháng tư
cũng gật; Sự nổi cũng phải, vãi nói cũng hay; Gió chiều nào theo chiều ấy; Một đời kiện chín đời thù.
Tính tự trị:
+ Lấy chồng khó ở làng hơn lấy chồng sang thiên hạ
+ Được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi thất bại lấy ai bạn cùng
+ Bè ai người nấy chống; Ruộng ai người nấy đắp bờ; thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu; của mình
thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn.
+ Nhập gia tùy tục; trâu ta ăn cỏ đồng ta; ta về ta tắm ao ta. + Phép vua thua lệ làng
+ Rút dây đồng rừng. Mỗi hở răng lạnh, đồng của bảo nhau, không vạch áo cho người xem lưn
+ Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu
+ Một người gây nên tội khiến cả họ hàng, thậm chí láng giềng phải chịu vạ lây
+ Một cái lý không bằng một tỉ cái tình
+ Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; yêu nhau mọi việc chẳng nề, dẫu
trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng, yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo.
Câu 11: Hãy phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt
Nam từ truyền thống đến hiện đại.
1. Sự du nhập của văn hóa phương Tây.
- Sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây dẫn đến quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam
từ truyền thống sang hiện đại.
+ Văn hóa vật chất:
- Phát triển về đô thị (Hà Nội, Sài gòn, Hải Phòng, Quy Nhơn...), công nghiệp (Hồng Gai, Cẩm
Phả), giao thông (1920 có 20000 km đường trải nhựa, 2000 km đường sắt).
- Du nhập văn minh vật chất (phương tiện giao thông, kiến trúc, trang phục, ẩm thực...).
+ Văn hóa xã hội
- Sự ra đời của một số giai cấp xã hội mới {Tư sản, Tiểu tư sản, Vô sản (công nhân)}
- Tri thức Tây học phát triển, tri thức Nho giáo mất dần vai trò
- Sự tồn tại của 2 hình thái kinh tế xã hội. (Phong kiến và Tư bản chủ nghĩa)
+ Văn hóa tinh thần
Sự giao lưu tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã tạo ra cuộc chuyển mình có tính bước ngoặt
của hệ tư tưởng Việt Nam truyền thống, đó là sự tồn tại nhiều hệ tư tưởng khác nhau. Ví dụ
1. Hệ tư tưởng nho giáo)
2. Tư tưởng dân chủ tư sản
3. Tư tưởng vô sản
-+ Về ngôn ngữ:
- Chữ quốc ngữ thay thế chứ Hán, chữ Nôm tạo nên biến đổi toàn diện trong bộ mặt văn hóa tinh thần của xã hội.
➔ Sự kiện chữ Quốc ngữ ra đời thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm là một bước ngoặc quan
trọng đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc hội nhập văn hóa VN vào nền văn hóa hiện đại của nhân loại.
- Ảnh hưởng tiếng Pháp. [xà bông (savon), kem(creme), gagaz), bằng (band)]
- Báo chí Quốc ngữ ra đời và phát triển nhanh chóng. Việc dùng chữ Quốc ngữ để làm báo đã
góp phần to lớn trong việc mở mang, khai thông dân trí
+ Về nghệ thuật:
- Các loại hình nghệ thuật mới ( kịch nói, nhạc cổ điển, điện ảnh ...)