






Preview text:
Như đã được biết về nguồn gốc của NG thông
qua phần trình bày trước đó, tiếp theo đây e xin
mời cô và các bạn cùng tìm hiểu về đặc điểm của
Nho giáo nói chung cũng như là nho giáo nói riêng
2. Đặc điểm tôn giáo nói chung
Nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo được biểu hiện
trong hệ thống giáo lý Tam cương, Ngũ thường và thuyết Chính danh
+Tam cương là ba mối quan hệ rường cột để duy trì trật tự xã hội . quân - thần: vua - tôi . phụ - tử: cha - con . phu - phụ: chồng - vợ
Trong những mối quan hệ này đòi hỏi bề trên ( vua,
cha, chồng) phải thương yêu, chăm sóc và bao dung kẻ
dưới (tôi, con, vợ). Và đồng thời kẻ dưới phải biết kính
nhường, thương yêu, phục tùng và biết ơn bề trên. Điều
đó được thể hiện rõ hơn qua những biểu hiện sau:
=> bề tôi phải phục tùng và trung thành tuyệt
đối với vua đề cao chữ trung (quân xử thần tử, thần bất tử bất trung)
=>con phải tuyệt đối phục tùng cha , đề cao chữ
hiếu (phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu)
=>vợ phải phục tùng chồng (phu xướng phụ tùy)
mỗi nhân tố trong 3 mối quan hệ trên đều phụ thuộc và
hỗ trợ cho nhau. Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc
gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ gia đình. Thời
xưa thứ tự trước sau trong đạo lý Nho giáo rất quan
trọng, người xưa rất chú ý tới thứ bậc ưu tiên như để
nhấn mạnh đến tầm quan trọng khi nói đến. Vì thế,
trong 3 quan hệ thì quan hệ vua-tôi là quan trọng và
được đề cao nhất. => chữ trung được đặt biệt đề cao.
Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa
chồng và vợ, giữa anh em với nhau là những tình cảm
tự nhiên, vốn có thuộc về bản tính con người. Từ cách
hiểu này, ông cho rằng, trong gia đình nếu người cha
đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có nhà vua đứng
đầu. Khổng Tử hình dung quốc gia là một gia đình lớn,
ông vua là người cha của gia đình ấy. Một người biết
yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì mới biết yêu
thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất
phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó suy rộng ra đến
quốc gia và thiên hạ. Coi trọng vai trò gia đình trong
việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở
Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa
nhất định trong thời đại ngày nay, bởi lẽ, gia đình là
một tế bào của xã hội, xã hội không thể ổn định, thịnh
trị nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Sau khi nhìn
nhận cả 3 mối quan hệ trên ta thấy Nho giáo đặc biệt
quan tâm tới những quan hệ nền tảng của xã hội là
quan hệ gia đình. Xã hội trị hay loạn trước hết thể hiện
ở chỗ có giữ vững được ba quan hệ ấy hay không. +Ngũ thường
5 đức cơ bản: nhân, nghĩa , lễ: , trí, tín: thường
hằng của con người, làm nền tảng đạo đức cho xã
hội ( Thường hằng" chỉ những nguyên tắc, đạo lý, quy luật vĩnh
cửu của trời đất, xã hội và con người. Ví dụ, trong Nho giáo, các
giá trị như Tam cương – Ngũ thường được coi là "thường
hằng" vì chúng mang tính nguyên tắc nền tảng cho trật tự xã hội.)
Nhân: nhân được hiểu là người, học cách làm người. KT
đã xây dựng phạm trù nhân với tư cách là phạm trù
trung tâm trong triết học của ông. Ông cho rằng 1 triều
đại muốn thái bình thịnh trị thì người cầm quyền phải
có đức Nhân, một xã hội muốn hoà mục thì phải có
nhiều người theo về điều Nhân. Chữ Nhân được coi là
nền tảng để chi phối mọi quan hệ ứng xử và là nguyên
lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người. Tuy
nhiên quan niệm về Nhân của Khổng Tử có nội dung
giai cấp rõ ràng, ông cho rằng chỉ có người quân tử,
tức kẻ cai trị mới có được đức nhân, còn tiểu nhân, tức
nhân dân lao động, không thể có được đức nhân. Đạo
nhân chỉ là đạo của người quân tử, tức giai cấp thống
trị. Đây chính là điểm hạn chế bởi lập trường giai cấp
trong quan điểm của Khổng Tử khi ông cho rằng Tiểu
nhân và Quân tử là hai loại người đối lập nhau không
phải chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu là về phẩm chất đạo đức.
Nghĩa: có nghĩa là chính nghĩa, công bằng, ngay thẳng.
Nghĩa trong Ngũ thường dạy chúng ta cách cư xử với
mọi người xung quanh sao cho công bằng, hợp lẽ phải.
Lễ: có nghĩa là lễ phép, lễ độ. Lễ là quy định về mặt
đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa người với người.
Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với
vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính
dưới nhườg. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai
cũng phải tuân theo. Lễ là sợi dây buộc chặt con người
với chế độ phong kiến tập quyền. Từ vua cho đến dân
phải rèn luyện và thực hiện theo lễ để thể hiện được sự
tôn trọng, hòa nhã đối với mọi người
Trí: có nghĩa là trí tuệ, khôn ngoan, thông biết lý lẽ. Trí
trong Ngũ thường dạy chúng ta phải sáng suốt để đánh
giá đúng phẩm chất, tính cách của một người, nhìn
nhận được đúng sai, phải trái.
Tín: đức tính thứ năm trong Ngũ thường. có nghĩa là uy
tín, tín nhiệm, lòng tin. Tín trong Ngũ thường dạy chúng
ta phải cam kết thực hiện một cách nhất quán, phải giữ
đúng lời hứa với người khác, củng cố lòng tin giữa người
với người. Thường thì tín là điều kiện đầu tiên trong
quan hệ bè bạn. Tuy nhiên, nội hàm của đức tín không
chỉ bó hẹp trong mối quan hệ duy nhất này mà nó còn
bao gồm cả lòng tin vô hạn vào đạo lý của bậc thánh
hiền và các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ.
Theo quan niệm của Nho giáo thì đức tín là nền tảng của trật tự xã hội.
+ Thuyết chính danh: Để thực hiện nhân và lễ, Khổng
tử đã nêu ra tư tưởng chính danh (danh nghĩa là tên
gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn
chỉnh lại cho đúng tên gọi và danh phận). Thuyết chính
danh là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận
nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, không
giành vị trí của người khác và làm rối loạn. Theo ông,
“Danh không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói
không thuận thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ
nhạc chẳng hưng vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì
hình phạt chẳng trúng, hình phạt không trúng ắt dân
không biết xử trí ra sao”. Riêng đối với người cầm
quyền vua- thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải
làm đúng danh của mình, như vậy mọi người mới noi
theo. Nho giáo quan niệm muốn xây dựng xã hội ổn
định, lý tưởng thì mỗi người phải làm đúng vai trò, danh
phận của mình (Thượng bất chính thì hạ tắc loạn).
Chính danh không những chỉ là nội dung tư tưởng chính
trị của Nho giáo, mà còn mang ý nghĩa đạo đức, là một
yêu cầu về mặt đạo đức của con người.
Từ đó Nho giáo xác lập các tiêu chí để xây dựng mô
hình nhân cách lý tương của con người:
- Hình mẫu của đấng nam nhi: người quân tử. Con
đường phấn đấu để trở thành người quân tử:
tu thân ( học tập, rèn luyện đạo đức, phát triển bản
thân: Đây là nền tảng quan trọng nhất, vì muốn lãnh
đạo người khác trước hết phải tự hoàn thiện bản thân.
Người quân tử phải tu dưỡng đạo đức, trau dồi trí tuệ,
rèn luyện các phẩm chất như nhân , lễ, nghĩa, trí , tín.
- tề gia (qly gia đình): Gia đình là tế bào của xã hội, nếu
không thể quản lý tốt gia đình thì không thể quản lý đất
nước. Người quân tử phải làm gương trong gia đình,
hiếu kính cha mẹ, hòa thuận với anh em
- trị quốc (cai trị đất nước): Khi bản thân đã chính chắn,
gia đình đã hòa thuận, người quân tử có thể đảm đương
việc nước. Một đất nước muốn thịnh trị thì người đứng
đầu phải chính trực, biết dùng hiền tài, thi hành chính
sách nhân nghĩa, giữ vững kỷ cương
- bình thiên hạ (mang lại hòa bình cho thiên hạ): Đây là
lý tưởng cao nhất của Nho giáo Khi quốc gia thịnh trị,
thì có thể giúp thế giới đạt được hòa bình, xây dựng
một trật tự thế giới hài hòa, không có chiến tranh.
- Hình mẫu của phụ nữ: tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất
giá tòng phu, phu tử tòng tử), và tứ đức (công - dung - ngôn - hạnh).
Phụ nữ thời bấy giờ đa số chỉ sống giống nhau là 3 giai đoạn
-Khi còn chưa xuất giá là nghe lời mọi chuyện phải theo
ý cha, cha đặt đâu con ngồi đó,
-Đến khi lấy chồng thì phải theo chồng, nghe theo sự
quyết định của chồng và thực hiện theo
-Tiếp đến ở tới khi chồng mất thì phải nghe theo lời con
trai, con trai là tất cả của mình=> đây là theo quan niệm tam tòng
quan niệm tứ đức là bốn đức tính người phụ nữ trong xã
hội phong kiến. Là giáo lí gắn bó với “Tam tòng”. theo
người Việt mình hay nói “Công, dung, ngôn, hạnh”
Công: (khéo léo) nữ công gia chánh ( bếp núc, dệt may,
buôn bán, cầm kì thi họa), biết chăm sóc nhà cửa, nuôi
dạy con cái. Dung: (dung mạo) biết chăm sóc diện mạo
của bản thân và giữ gìn nhan sắc. Ngôn: (lời ăn tiếng
nói) biết ăn nói khéo léo, dịu dàng. Hạnh: (phẩm hạnh)
phải nết na, hiền thục. Người phụ nữ có đủ những đức
tính trên, sẽ xây dựng được chữ “gia” đúng nghĩa, gia
đình sẽ ấm no, hạnh phúc.
Cả 2 là các nguyên lý đạo đức cơ bản làm chuẩn mực
cho việc xây dựng nhân cách con người. Là nền tảng
cho việc xây dựng, quản lí trật tự xã hội thái bình và ổn định.
3. Đặc điểm của Nho giáo nói riêng
Các triều đại pk Đại Việt dùng Nho Giáo làm nền tảng
để xây dựng hệ tư tưởng, đạo đức, pháp luật, giáo dục,
qua đó để xây dựng mô hình nhân cách con người. Thế
nhưng do sự chi phối của văn hóa bản địa nên Nho giáo
Trung Hoa đã được người Việt tiếp nhận 1 cách linh hoạt, mềm dẻo.
Đầu tiên, phải nói đến tư tưởng “trung quân”. Nho giáo
Trung Hoa rất coi trọng tư tưởng “trung quân”, quyền
lực của nhà vua lúc này được đề cao đến tuyệt đối, còn
tư tưởng yêu nước thì không được đề cập đến (đó là đặc
điểm của truyền thống văn hóa gốc du mục: đề cao vai
trò cá nhân của thủ lĩnh và coi nhẹ quốc gia): quan lại
Trung Hoa đều coi việc trung thành với “minh quân”,
“minh chúa”. “Thiên Hoàng” làm trọng, sẵn sàng xả
thân vì họ. Trong khi đó thì ở Việt Nam, tinh thần yêu
nước và tinh thần dân tộc lại là một truyền thống rất
mạnh bởi nước ta coi trọng hai đơn vị làng và nước.
Người Việt Nam tiếp thu tư tưởng trung quân Nho giáo
trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn
có, khiến cho cái trung quân đó đã bị biến đổi và gắn
liền với ái quốc. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa vua với
đất nước, dân tộc thì đất nước, dân tộc là cái quyết định.
Vd: Khi Tự Đức cắt ba tỉnh Nam Kì cho Pháp, nhiều nhà
nho đã phản ứng dữ dội, Phan Văn Trị thậm chí tuyên
bố: “Chém đầu Tự Đức, moi gan Tự Đức, uống máu Tự Đức”.
Yếu tố “trọng tình”:
Các đức cơ bản của Nho Giáo như: nhân, nghĩa cũng đã
dần thay đổi qua cái nhìn của người Việt. khi tiếp nhận
Nho giáo, người Việt Nam đã tâm đắc với chữ “Nhân”
hơn cả. Nhân là lòng thương người: “Nhân” gắn liền với
“Nghĩa”, như anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới Nguyễn Trãi đã từng nói “Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân”, ông đã mở rộng khái niệm nhân, nghĩa để nó
không chỉ là một khái niệm đạo đức hạn hẹp trong ứng
xử cá nhân mà trở thành 1 lý tưởng xã hội cao đẹp.
Trong Nho giáo Việt Nam, việc trọng tình được bổ sung
bằng truyền thống dân chủ của văn hóa nông. Chính
nhờ ấy mà khi Nho giáo Trung Hoa thâm nhập vào Việt
Nam, nó đã được “làm mềm” đi, không đến mức quá ư
hà khắc chẳng hạn như trong lĩnh vực pháp luật, truyền
thống coi trọng vai trò của người phụ nữ đã làm cho
luật Hồng Đức, luật Gia Long trở nên mềm dẻo hơn.
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ:
Khi vào VN thì tư tưởng trọng nam khinh nữ của NG
cũng đã được giảm bớt tính cực đoan bởi sự ảnh hưởng
của văn hóa mẫu hệ. Từ đó khi tiếp thu chữ hiếu của
Nho giáo, người Việt Nam không gắn nó với tư tưởng
“nam tôn nữ ti” nặng nề của Trung Hoa mà đặt
chữ hiếu trong mối quan hệ bình đẳng với cả cha và mẹ.
Tóm lại, Nho giáo Trung Hoa khi du nhập vào Việt Nam
đã được người Việt tiếp thu, cải biến để phù hợp với
hoàn cảnh và truyền thống văn hóa dân tộc. Sự điều
chỉnh và tái cấu trúc này diễn ra một cách khéo léo bởi
giữa Nho giáo Trung Hoa và văn hóa Việt Nam tồn tại
những nét tương đồng nhất định. Vì thế, khi du nhập
vào Việt Nam, Nho giáo mang trong mình sự hòa quyện
giữa cái quen thuộc và cái mới lạ. Chính nhờ những đặc
điểm ấy, Nho giáo Việt Nam đã hình thành một sắc thái
riêng, độc đáo, khác biệt so với Nho giáo Trung Hoa.
Document Outline
- 2. Đặc điểm tôn giáo nói chung
- +Ngũ thường