



















Preview text:
ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1. Anh chị hãy chi ra sự khác nhau giữa hai loại hình văn hóa nông nghiệp
trồng trọt và chăn nuôi du mục, lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Trả lời: Mỗi quốc gia, dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là một tiêu chí quan
trọng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân
tộc dù phong phú, đa dạng đến mấy cũng đều có nguồn gốc xuất phát từ một trong hai
loại hình văn hóa gốc của nhân loại gắn liền với hai phương thức sản xuất chủ đạo: văn
hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa nông nghiệp trồng trọt.
- Loại hình văn hóa chăn nuôi du mục:
Loại hình văn hóa chăn nuôi du mục hình thành ở phương Tây (văn hóa phương Tây) bao
gồm toàn bộ châu Âu, trên cơ sở của phương thức sản xuất chăn nuôi du mục. Phương
Tây là vùng khí hậu lạnh, khô, địa hình chủ yếu là thảo nguyên - xứ sở của những đồng
cỏ, rất thích hợp cho nghề chăn nuôi, bởi vậy chăn nuôi là nghề truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa.
→ Văn hóa chăn nuôi du mục nên đồ ăn chủ yếu là động vật.
+ Đặc điểm của loại hình văn hóa chăn nuôi du mục:
- Nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi cư dân phải sống theo lối du cư, nay đây mai đó, từ đó
tạo thành thói quen, lổi sống thích di chuyển (trọng động).
- Vì luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên, từ đó nảy sinh tâm lý coi thường tự nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự thiên nhiên.
- Vì sống du cư nên tính gắn kết cộng đồng của cư dân du mục không cao, yếu tố cá nhân
được coi trọng, dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh tranh, hiểu thắng, lồi ứng xử độc tôn, độc
đoán trong tiếp nhận, cứng rắn trong đối phó.
- Cũng vì cuộc sống du cư cần đến sức mạnh và bản lĩnh nên người đàn ông có vai trò
quan trọng; tư tưởng trọng sức mạnh, trọng võ, trọng nam giới cũng từ đó mà ra.
- Nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, thêm vào đó, đối tượng
mà hàng ngày con người tiếp xúc là đàn gia súc với từng cá thể độc lập, từ đó hình thành
kiểu tư duy phân tích chú trọng vào từng yếu tố. Kiểu tư duy này là cơ sở cho sự phát
triển của khoa học dựa trên những cơ sở khách quan, lý tính.
- Kiểu tư duy phân tích là nguyên nhân đẻ ra lối sống trọng lý, ứng xử theo nguyên tắc;
thói quen tôn trọng pháp luật cũng vì vậy mà được hình thành rất sớm ở phương Tây.
- Thiên về khoa học tự nhiên, kỹ thuật và văn minh thành thị.
- Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt: Loai hình văn hóa nông nghiệp trồng
trọt hình thành ở phương Đông (văn hóa phương Đông), gồm châu Á và châu Phi.
Phương Đông là khu vực có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều với những con sông lớn, theo
đó là những vùng đông bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trông trọt phát triển.
Điều tự nhiên và phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt đã hình thành một loại
hình văn hóa khác với phương Tây.
→ Văn hóa nông nghiệp trồng trọt (đặc biệt là trồng lúa nước) nên đồ ăn là thực vật.
+ Đặc điểm của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt:
- Nghề trồng trọt buộc con người phải sống định cư. Do sống định cư nên cư dân nông
nghiệp phải lo tạo dựng một cuộc sống ổn định lâu dài, không thích sự di chuyển, đổi thay (trọng tĩnh).
- Vì nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp rất tôn thờ,
sùng bái tự nhiên và mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
- Cuộc sống định cư và phải liên kết để chống chọi, ứng phó với tự nhiên nên đã tạo cho
cư dân nông nghiệp tính gắn kết cộng đồng cao.
- Phương thức sản xuất nông nghiệp sống định cư và tính gắn kết cộng đồng tạo nên lối
sống trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ (chế độ mẫu hệ ở phương Đông tổn tại lâu hơn phương Tây).
- Nghề trồng trọt phụ thuộc cùng một lúc vào nhiều yếu tố với sự tương tác lẫn nhau: thời
tiết nắng, mưa, đất đai, khi hậu, giống cây trồng, chế độ chăm sóc... nên từ đây đã hình
thành kiểu tư duy tổng hợp - biện chứng, coi trọng mối quan hệ giữa các yếu tố hơn là
tách bạch từng thành tố riêng lẻ. Lối tư duy tổng hợp, biện chứng là nguyên nhân dẫn đến
thái độ ứng xử mềm đẻo, linh hoạt.
- Phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đúc kết từ thực tế nên
từ đây cũng hình thành kiểu tư duy kinh nghiệm chủ quan, cảm tính, thay vì tư duy khoa
học khám phá bản chất của đối tượng trên cơ sở khách quan và khoa hoc.
- Thiên về thơ, nhạc trữ tình, thiên văn, triết học,... Tâm linh và tôn giáo, thiên về văn hóa nông thôn.
Kết luận: Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc do những đặc
trưng về điều kiện khí hậu, tự nhiên đã hình thành nên những phương thức sản xuất khác
nhau từ đó quy định nên những đặc trưng nổi bật khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều
có những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Tuy nhiên, trong thực tế thường không có nền
văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính chất nông nghiệp trồng trọt hay tính chất chăn nuôi
du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn hóa chi là tương đối, căn cứ vào yếu tố có tính trội.
Câu 2. Anh hay chị hãy chứng minh Việt Nam là một nước văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Trà lời: Do Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, với điều kiện vị trí
địa lí, tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía Đông - Nam Châu Á nên Việt Nam
thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình, khí hậu nóng ẩm, mưa
nhiều, có nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong,... nhiều vùng đồng bằng phù
sa màu mỡ là điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước. Tất cả những đặc
trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.
- Người Việt từ xưa đến nay đều ưa thích một cuộc sống định cư, ổn định, không thích sự
đi chuyển "An cư lạc nghiệp", vì vậy đã tạo nên tình cảm gắn bó với quê hương xứ sở,
với làng, nước,... nên hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội, hạn chế sự giao lưu mở rộng bên ngoài.
- Do cư dân Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp nên rất sùng bái tự nhiên, luôn mong
muốn mưa thuận gió hòa để có cuộc sông no đủ (Câu cửa miệng của người Việt Nam là
"Lạy trời, ơn trời,..."). Các tín nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên vì vậy phổ biến
ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là các dân tộc thiều số.
- Cuộc sống định cư tạo cho người Việt có tính gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ vai trò cá
nhân: "Bán anh em xa mua láng giềng gần; Một con ngựa đau cả tàu bỏ cò; Lụt thì lút cả
làng; Nước nổi thì bèo nổi;...".
- Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa "Lá lành đùm lá rách; Chị ngã
em nâng; Nhiễu điều phủ lấy giá gương...", các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lí
"Một bồ cái lý không băng một tí cái tinh; Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế;...", ứng
xử nhiều hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực.
- Cuộc sống định cư ổn định của nghề nông nghiệp trồng trọt cần đến vai trò chăm lo thú
vén của người phụ nữ. Thêm nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng là công việc phù hợp
với phụ nữ cho nên vai trò của người phụ nữ được tôn trọng và đề cao "Ruộng sâu trâu lái
không bằng con gái đầu lòng; Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà; Ba đồng
một mớ đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha; Ba trăm một mụ đàn bà, đem về mà
trải chiếu hoa cho ngồi;..."
- Sau này, do sự ảnh hưởng, chi phối của tư tưởng Nho giáo mới hình thành tư tưởng
trọng nam khinh nữ. Hiện nay, các dân tộc không chịu ảnh hướng, hoặc ít chịu ảnh hưởng
của văn hóa Trung Hoa (dân tộc Chăm, Êđê, Giarai...) vẫn còn chế độ mẫu hệ nhưng hiện
vẫn còn lưu lại những vết tích (người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc là "mê
phum", "mê sóc" (mê = mẹ), dù người đó là đàn ông).
- Lối tư duy tổng hợp - biện chứng kết hợp với lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư
duy, ứng xử tùy tiện, vô nguyên tắc "Yêu nên tốt, ghét nên xấu; Yêu nhau cau sáu bổ ba,
ghét nhua cau sáu bổ làm mười; Thương nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng".
- Lối tư duy tổng hợp - biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm đẻo,
linh hoạt, được thể hiện rõ qua quan niệm sống của người Việt "Tùy cơ ứng biến; Ở bầu
thì tròn, ở ống thì dài; Đi với Bụt mặc cà sa, đi với ma mặc áo giấy...).
- Kiểu tư duy nặng nề về kinh nghiệm chủ quan, cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn hóa
nhận thức, ứng xử của người Việt: coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn cơ sở khách quan
và tri thức khoa học "Nhìn mặt mà bắt hình dong; Trăm hay không bằng tay quen; Sống lâu lên lão làng...).
Như vậy, loại hình văn hóa Việt Nam được xem là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình, đều được thể hiện rõ nét trong cách tổ chức đời sống phương thức tư
duy, lối ứng xử của người Việt, được thể hiện qua kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ -
đó là những giá trị văn hóa phi vật thể được đúc kết qua nhiều thế hệ, được lưu luyến trong dân gian.
Câu 3. Anh hay chị hãy phân tích sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi
trường tự nhiên và xã hội của người Việt được thể hiện qua phần văn hóa vật chất.
Trả lời: Lĩnh vực văn hóa vật chất được thể hiện qua 4 nội dung chính sau:
-Văn hóa sản xuất vật chất. -Văn hóa ẩm thực. -Văn hóa trang phục. -Văn hóa đi lại.
Trong văn hóa sản xuất vật chất, người Việt đã biết tận dụng và ứng phó với môi trường.
Từ điều kiện tự nhiên nóng ẩm mưa nhiều,…, thuận lợi phát triển nghề nông trồng lúa
nước và giữ vị trí chủ đạo, chi phối toàn bộ nền kinh tế của XH VN truyền thống. Quá
trình cải tạo và chinh phục tự nhiên, chinh phục đầm lầy, lấn biểnn, đắp đê chống lụt... đã
trở thành những vùng đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ và Nam bộ để chuyên canh lúa
nước. Ngoài ra, với điêu kiện tự nhiện thuận lợi, người Việt còn tận dụng để trồng các
loại cây cho củ, cho quả, cho lá cây, cho sợi để làm các nghề thủ công... Tận dụng điều
kiện tự nhiên để chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, các nguồn lợi thủy hải sản từ tự nhiên.
Trong văn hóa ẩm thực: Hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn hóa vật chất của người
Việt là tính chất sông nước và thực vật. Sự chi phối của hai yếu tố tự nhiên này được thể
hiện trước hết trong việc lựa chọn cơ cấu một bữa ăn truyền thống với 3 thành phần
chính: cơm - rau - cá. Cơm được làm từ gạo, đứng vị trí đầu tiên trong bữa ăn "Người
sông vì gạo, các bạo vì nước", bữa ăn của người Việt gọi là bữa cơm. Người Việt không
chỉ tận dụng cây lúa thành gạo để nấu cơm mà còn biết tận dụng từ gạo để làm bún và
làm bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh tráng... Gạo nếp dùng làm xôi, làm bánh mặn, bánh
ngọt... Thành phần thứ hai trong cơ cấu bữa ăn người Việt là rau quả. Là nước nằm trong
vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông nghiệp lại là ngành kinh tế chủ yếu nên rau quả
vô cùng phong phú. Việc dùng rau trong cơ cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận dùng môi
trường tự nhiên của người Việt. Người Việt thường hay nói "Đói ăn rau, đau uống thuốc",
"Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ",
"Ăn cơm không rau như người giàu chết không kèn trống". Rau quả đặc thù trong cơ cấu
bữa ăn là rau muống và dưa cà: "Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống, nhớ cà
dầm tương". Cà và dưa cà, dưa cải là những món ăn hợp thời tiết, được người Việt ưa
thích và thường được dự trữ để ăn thường xuyên: "có dưa chừa rau", "có cà thì tha gắp
mắm", "thịt cá là hoa, tương cà là gia bản". Bên cạnh các loại rau quả là thành phần chính
trong cơ cấu bữa ăn còn có những loại rau quả dùng làm gia vị như: hành, gừng, ớt, tỏi,
rau răm, rau diếp cá... Gia vị cũng là thành phần không thể thiếu trong bữa ăn của người
Việt. Thành phần thứ ba trong bữa ăn của người Việt là cá. Việt Nam có phía Đông giáp
với biển Đông lại có hệ thống sông ngòi, ao hồ chằng chịt nên dùng cá trong cơ cầu bữa
ăn cũng là khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt. Cá đứng thứ ba trong
cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong bảng các loại thức ăn thủy sản (so với tôm, cua, mực...).
Người Việt thường nói: "Cơm với cá như má với con". "Có cá đổ vạ cho cơm", "con cá đành ngã bát cơm".
Người Việt còn tận dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ chấm đặc biệt là
nước mắm và mắm các loại: nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm sét, các loại nước mắm nồi
tiếng: Nghệ An, Phan Thiết, Phú Quốc. Thực phẩm được chế biến từ thủy sản cũng rất đa
dạng: nấu chín, ướp mắm, phơi khô. Chế biến cũng có nhiều cách: chiên, xào, kho, luộc,
nướng, gỏi... Văn hóa ẩm thực của người Việt thể hiện ở việc ăn uống theo mùa, theo
vùng miền. Đó là biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên, thích nghi
với nền kinh tế tự cung tự cấp.
Trong văn hóa trang phục, người Việt biết tận dụng các điều kiện tự nhiên chọn các màu
sắc trang phục phù hợp với môi trường sông nước như màu nâu, màu đen... , có ý thức
làm đẹp. Người Việt sử dụng các chất liệu may mặc có sẵn trong tự nhiên, mang đậm dấu
ấn nông nghiệp trồng trọt, sông ở xứ nóng nên chọn các chât liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát
như tơ tằm, sợi bông, sợi đay ... trang phục của phụ nữ: váy, yếm, áo tứ thân, áo dài, quân
lĩnh ... Ngoài ra chiếc nón là phần không thể thiếu trong trang phục phụ nữ được tận dụng
để che mưa, che nắng. Trang phục của nam giới: áo cánh, quần ống rộng để phù hợp với
khí hậu nóng bức và công việc đồng án.
Văn hóa ở và đi lại: Văn hóa ở - tận dụng điều kiện tự nhiên, có sẵn trong tự nhiên người
Việt xây nhà bằng các chất liệu như gỗ, tre, nữa, rơm rạ,… Kiến trúc nhà mang đến ấn
của vùng sông nước, lá nhà sàn thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi để ứng
phó với những tác động xấu của môi trường. Không gian nhà là không gian mở, có cửa
rộng thoáng mát và giao hợp với thiên nhiên. Trong quan niệm về kiến trúc, xây nhà,
dựng cửa: người Việt biết chọn hướng nhà, chọn đất, tránh hướng gió độc, đó lấy hướng
mặt trời, hay xây dựng nhà cửa gần sông suối để tiện nước sinh hoạt ("nhất cận thị, nhị
cận giang"), trồng trọt. Một điểm đặc biệt trong kiến trúc nhà cửa là các kiến trúc đều
thuận theo phong thủy. Đó là sự hài hòa giữa thề đất, thế núi, nguồn nước... Điều này thể
hiện rất rõ trong kiến trúc thành quách như thành Thăng Long, thành nhà Hồ, kinh thành
Huế... hay trong thuyết tam tài của người dân: "thiên-địa-nhân".
Văn hóa đi lại: do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều sông ngòi... tận dụng sông nước nên
phương tiện đi lại của người Việt chủ yếu là thuyền, ghe, đò, xuồng...
Tóm lại, ăn mặc, ở, đi lại là những nhu cầu tiết thân của con người nhưng cũng đồng thời
thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường tự nhiên. Thể hiện rõ nét dấu
ấn loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích
nghi và ứng phó linh hoạt với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật.
Câu 4. Anh hay chị hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được
thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất.
Trả lời: Đó là việc coi trọng nông nghiệp, chính sách khuyến nông tích cực, khuyến khích
khai hoang, mở rộng diện tích canh tác, bảo vệ sức kéo trong văn hóa sản xuất vật chất.
Trong văn hóa ẩm thực thể hiện ở tính cộng đồng và tính mực thước, bữa ăn của người
Việt là ăn chung nên người Việt rất thích trò chuyện nên qua đó cũng thể hiện thái độ ứng
xử ý chừng mực trong ăn uống. Ngoài ra trong văn hóa ẩm thực còn thể hiện tính linh
hoạt theo mùa, theo vùng miền, cách chế biến và lựa chọn món ăn và trong dụng cụ ăn đó là đôi đũa.
Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt luôn thể hiện vé kín đáo, tế nhị.
Kiến trúc nhà ở mang tính cộng đồng, giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thủy nên văn
hóa cũng gắn liền với những phương tiện đi lại, coi đó như là nền tảng cho thái độ ứng xử
văn hóa với môi trường xã hội.
Câu 5. Anh hay chị hãy chi ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương - Ngũ hành với sự
hình thành các triết lý sống của người của người Việt.
Trả lời: Thuyết Âm Dương - Ngũ hành với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Từ
việc nhận thức các quy luật của vạn vật trong tự nhiên và xã hội đã chi phối việc hình
thành các triết lý sống của người Việt. Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết
âm dương - ngũ hành, đây là hệ tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản
chất và qui luật tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời
sống xã hội con người.
a. Triết lý về sự cân xứng, cặp đôi:
Trang văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi,
các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng,
các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Là cơ sở để thuyết âm dương ngũ hành
ăn sâu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở thành cơ sở nhận thức, từ đó
người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể hiện qua các
mối liên hệ với: Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân xứng,
cặp đôi: trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương
ứng, cân bằng âm dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các
cặp âm dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước...
b. Triết lý sống quân bình, hài hòa âm - dương:
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: Từ triết
lí âm dương người Việt quan niệm trạng thái tồn tại tối ưu của mọi sự vật, từ tự nhiên đến
xã hội là sự tồn tại trong trạng thái cân bằng, hài hòa âm dương thì mới bền vững, không
bị biến đổi trạng thái khác (vì âm cực sinh dương, dương cực sinh âm nên cái gì thái quá
cũng dẫn đến bất cập và sinh biến: "Đầy quá sẽ đổ; Trèo cao ngã đau; Tham thì thâm;
Tức nước vỡ bở,...". Người Việt sống theo triết lí quân bình, duy trì trạng thái âm - dương
bù trừ nhau từ việc ăn uống tới việc làm nhà ở, cho đến việc ứng xử hài hòa trong quan
hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận
với những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực
đoan: "Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Yêu nhau lắm, cắn nhau đau.."
c. Triết lý sống lạc quan:
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do nhận
thức được qui luật bù trừ âm - dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có
cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến: "Trong rủi có may; Trong dở có hay; Trong họa có phúc,...
Nhận thức được qui luật chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống:
"Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời; Khổ trước sướng sau, sướng trước khổ sau,
..." Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc quan.
Nguyễn Trãi cũng từng tổng kết trong bài Cáo bình Ngô: "Càn khôn bĩ rồi lại thái, nhật
nguyệt hối rồi lại minh". Các sử gia thế kỷ XVII cũng quan niệm: " Loạn lạc tột cùng thì
trị bình sẽ tới. Đó là vận hành của trời". Bác Hồ cũng từng nói: "Hết mưa là nắng hửng
lên thôi...Hết khổ là vui vốn lẽ đời".
Tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống
hiện tại, phó mặc cho số phận, không nỗ lực cố gắng hết mình.
Câu 6. Anh hay chị hãy trình bày những hiểu biết về Phật giáo trong văn hóa Việt
Nam và vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam
xưa và nay.
Trả lời: Phật giáo là một trong ba luồng tư tưởng nổi bật của tư tưởng và tôn giáo thời
Đại Việt và cho đến ngày nay. Vào những thế kỉ đầu thời kì Đại Việt, phật giáo phát triển
rất nhanh và đạt tối cực thịnh vào thời Lý – Trần và được xem là quốc giáo với những đặc điềm nổi bật như sau:
Tính nhập thế: Giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh, luôn đồng
hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các hoạt động
XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều nhà sư đồng thời nhà
sư đồng thời là thấy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người Việt cụ thể
hóa trong các mối liên hệ đời thường.
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến thái
độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
-Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa: dung hợp
với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các
vị thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa...
- Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo.
- Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho
nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyển thống tín ngưỡng và
văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên
khắp mọi miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí
sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là
trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã
có lịch sử từ lâu. "Mái chùa che chở hôn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên".
Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn
nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay
Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến 10% dân số. Hiện nay, số
lượng người đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay
vào các ngày rằm, mồng một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy
được vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Sự ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa ứng xử của người Việt: + Tác động tích cực:
Tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh ý thức và
hành vi của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha, "khuyết thiện từ
ác" đã giúp hạn chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần đem sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống. + Tác động tiêu cực:
- Với việc khuyên con người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ nhường nhịn,
cam chịu, thậm chí cả nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần hạn chế, thui chột khả năng hành
động và đấu tranh của con người khi cần bảo vệ công lý, lẽ phải.
- Do ảnh hưởng bởi thuyết "luân hồi", "quả báo" của Phật giáo, nhiều người Việt thường
không chủ động sử dụng luật pháp là công cụ bảo vệ mình khi quyền lợi bị xâm hại, mà
chọn phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự trừng phạt của luật Trời hơn
là luật pháp, vì vậy từ đây cũng không hình thành thói quen sử dụng công cụ luật pháp
trong đời sống dân sự. Mở rộng:
Phật giáo với tư tưởng hiếu hòa, nhân ái, vị tha
Khác với Nho giáo, Phật giáo du nhập vào nước ta bằng con đường hòa bình nên đã
nhanh chóng bén rễ ngay từ thời Bắc thuộc, để rồi cộng sinh và thẩm thấu trong văn hóa
Việt ở tầng sâu nhất của triết lí sống từ ngàn năm nay. Ngay từ khi du nhập vào Việt
Nam, những giáo lí cơ bản của đạo Phật như: "từ bi hi xả", "cứu khổ cứu nạn", "phổ độ
chúng sinh", đưa chúng sinh tới cõi cực lạc, giải thoát chúng sinh khỏi mọi nỗi khổ, đã
sớm được cư dân Việt chấp nhận rộng rãi và đã nhanh chóng có được chỗ đứng quan
trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Trong cuộc hành trình đi tìm hạnh
phúc cho con người, Phật giáo đã ngộ ra rằng, Tham - Sân - Si là cái gốc của khổ đau, bất
hạnh nên muốn gạt bỏ nó để đạt tới hạnh phúc thì người ta phải tiêu diệt ngay từ trong
trứng dục vọng tham - sân - si, là gốc khởi phát của mâu thuẫn, tranh giành. Cùng với đó,
Phật giáo chủ trương triết lý sống Nhân - Quả, bởi dù người ta làm gì thì cũng đều gieo
nguyên nhân, để rồi chính nó sau này sẽ thành kết quả dành cho người đã gieo. Vì "thiện
giá thiện lai", "ác giả ác báo" cho nên Phật giáo khuyên con người hãy gieo nhân lành để
hái quả thiện. Tư tưởng "nhân quả" của Phật giáo thấm sâu trong tư duy và hiện diện rõ
nét trong hành vi của người Việt, khiến cho khi làm điều gì người ta cũng luôn chủ
trương khuyến thiện trừ ác để tránh "gieo gió gặt bão", "chạy trời không khỏi nắng", ác
giả ác báo", không chỉ trong kiếp sống hiện tại mà còn cho cả "luân hồi" vì "đời cha ăn
mặn đời con khát nước". Tư tưởng khoan dung, nhân ái của Phật giáo đã cộng hưởng rất
đồng điệu với văn hóa trọng tình của người Việt nên đã được các thế hệ người Việt tiếp
thu một cách tự nhiên, tự nguyện "như nước mưa thấm vào lòng đất mẹ", để rồi từ đó
càng tô đậm thêm triết lí sống thương người, lòng nhân ái, vị tha, bao dung trong lối sống
cộng đồng và ứng xử trọng tình vốn đã rất đậm nét trong truyền thống của dân tộc ta.
Như vậy, với chủ trương gạt bỏ tham - sân - si, làm lành lánh giữ, Phật giáo đòi hỏi con
người trước hết phải tự hòa giài với bản thân mình. Sau khi tự hoa giải với minh, nghĩa
làm dịu lăng, triệt tiêu dục vọng của mình, con người mới có thể tiến hành hòa giải với
người khác. "Chiến đấu với chính mình để nhường nhịn người khác" - đó là triết lý sống
mà Phật giáo mong muốn đạt tới. Như thế, Phật giáo với phương châm hòa giải từ mình,
tiến đến hòa giải với người khác, rồi hòa giải với vũ trụ chính là cách tạo ra một môi
trường hòa giải rộng lớn bao la để con người và vạn vật có thể sống cùng nhau một cách tốt lành.
Có thể nói, tư tưởng, giáo lí của Phật giáo ở tầng sâu nhất của triết lí sống đã góp phần
quan trọng trong việc điều chinh suy nghĩ, quan điểm nhận thức về cuộc sống cũng như
hành động hằng ngày của con người, góp phần đem lại sự bình yên cho cuộc sống. Tuy
nhiên, từ góc nhìn của văn hóa ứng xử với pháp luật thì Phật giáo lại cũng không tránh
khỏi sự tác động tiêu cực. Bởi trong khi đề cao những giá trị sống tốt đẹp, nhân văn để
tạo lập sự bình yên, hòa mục cho xã hội thì lại cũng chính tư tưởng từ bi bác ái của Phật
giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và đấu tranh của con người
khi cần phải bảo vệ công lý, lẽ phải. Với thuyết "luân hồi", "quả báo", Phật giáo khuyên
con người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm chí
cả nhẫn nhục. Điều này lý giải vì sao khi quyền lợi của mình bị xâm hại, người Viêt Nam
thường không đấu tranh đến cùng mà chọn phương pháp im lặng và trông chờ nhiều vào
quả báo, tin vào sự trừng phạt của lương tâm, của luật Trời hơn là luật pháp. Khi những
quy tắc ứng xử này đã thành đạo lý, thành truyền thống thì người ta cũng không mấy
quan tâm đến việc nó có phù hợp với pháp luật hay không.
Câu 7. Anh hay chị hãy trình bày những hiểu biết của anh chị về Nho giáo ở Việt
Nam và vai trò của Nho giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay.
Trả lời: Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc và đến thế ki XV, Nho giáo
được xem là đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên bố lây Nho giáo làm quốc giáo. Các triều
đại phong kiên Đại Việt lầy Nho giáo làm nền tăng đề xây dựng hệ tư tưởng, đạo đức,
giáo dục, pháp luật, qua đó đê xây dựng mô hình nhân cách con người. Tuy nhiên do sự
phân phôi của văn hóa bản địa nên Nho giáo Trung Hoa đã được người Việt tiêp nhận và
vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt:
Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua
được đế cao tuyệt đối thì Nho giáo Việt Nam tuy vẫn đề cao tư tưởng này nhưng không
cực đoan đến mức phải hy sinh tính mạng vì vua, quan niệm trung quan của người Việt
gắn liền với ái quốc, trong nhiều trường hợp nước còn được đề cao hơn vua. Người Việt
đề cao tinh thần yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc.
Câu 7. Anh hay chị hãy trình bày những hiểu biết của anh chị về Nho giáo ở Việt
Nam và ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
xưa và nay.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tư tưởng - giáo
lý nhằm tổ chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị.
Khổng Tử được coi là người có công đầu trong việc hệ thống hóa và hoàn chỉnh hệ thống
tư tưởng Nho giáo của Trung Hoa. Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc và
đến thế kỉ XV, Nho giáo được xem là đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo.
1. Tư tưởng giáo lí của nho giáo:
-Nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo được biểu hiện trong hệ thống giáo lí Tam
cương, Ngũ thường, thuyết Chính danh.
- Tam cương (ba mối quan hệ rường cột để duy trì trật tự xã hội): Quân-thần (vua-tôi);
Phụ-tử(cha- con); Phu-phụ (chồng-vợ). Trong các mối quan hệ này đòi hỏi bề trên (vua,
cha, chồng) phải yêu thương, chăm sóc và bao dung kẻ dưới (bề tôi, con, vợ). Kẻ dưới
phải kính nhường, thương yêu, phục tùng và biết ơn bề trên (bề tôi phải tuyệt đối trung
với vua - đề cao chữ trung (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung); con phải tuyệt đối
phục tùng cha-đề cao chữ hiếu (Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu); vợ phải phục tùng
chồng (Phu xướng phụ tùy). Trong đó, mối quan hệ vua-tôi là trọng tâm, vì vậy chữ trung
được đăc biệt đề cao.
Ngũ thường (năm đức cơ bản, thường hằng của con người, làm nền tảng đạo đức cho xã
hội): Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong đó, chữ Nhân được coi là trung tâm, là nền tảng
chi phối mọi quan hệ ứng xử.
Nho giáo coi Tam cương, Ngũ thường là các nguyên lý đạo đức cơ bản làm chuẩn mực
cho việc xây dựng nhân cách con người và quan hệ ứng xử giữa người với người trong
gia đình và ngoài xã hội, coi đó là nền tảng để xây dựng xã hội thái bình, trật tự và ổn
định. Từ đó Nho giáo cũng xác lập các tiêu chí để xây dựng mô hình nhân cách của con người lý tưởng:
- Hình mẫu của đấng nam nhi: người quân tử. Con đường phấn đấu để trở thành người
quân tử: tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ.
- Hình mẫu của phụ nữ: tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), và
tứ đức (công-dung-ngôn-hạnh).
+ Thuyết chính danh: Nho giáo quan niệm muốn xây dựng xã hội ổn định, lý tưởng thì
mỗi người phải làm đúng vai trò, danh phận của mình (Thượng bất chính thì hạ tắc loạn).
Các triều đại phong kiến Đại Việt dùng Nho giáo làm nền tảng để xây dựng hệ tư tưởng,
đạo đức, pháp luật, giáo dục, qua đó để xây dựng mô hình nhân cách con người. Tuy
nhiên, do sự chi phối của văn hóa bản địa nên Nho giáo Trung Hoa đã được người Việt
tiếp nhận một cách linh hoạt, mềm dẻo.
2. Đặc điểm Nho giáo ở Việt Nam:
Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của
nhà vua được đế cao tuyệt đối thì Nho giáo Việt Nam tuy vẫn đề cao tư tưởng này
nhưng không cực đoan đến mức phải hy sinh tính mạng vì vua, quan niệm trung
quan của người Việt gắn liền với ái quốc, trong nhiều trường hợp nước còn được
đề cao hơn vua. Người Việt đề cao tinh thần yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc.
- Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa đã bị khúc xạ qua lăng kính
của người Việt, nó không chỉ là một khái niện hạn hẹp về đạo đức mà nó còn trở
thành một lý tưởng xã hội cao đẹp vì cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân
- "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" trong Cáo bình Ngô của Nuyễn Trãi.
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào Việt Nam cũng đã được giảm
bớt tính cực đoan bởi sự ảnh hưởng của văn hóa mẫu hệ.
3. Ảnh hưởng của Nho giáo:
- Mặc dù, không thể phủ nhận một thực tế rằng trong gần 10 thế ki xây dựng và
củng cố nhà nước phong kiến nho giáo đã trở thành nền tảng tư tưởng chi phối về
mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam, thấy được vai trò của Nho giáo trong đời
sống tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt:
-Là nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ sở pháp lý để
quản lý, duy trì dự ổn định của xã hội dựa trên các mối quan hệ cộng đồng xã hội
và gia đình theo quan niệm tam cương, ngũ thường.
-Xây dựng nền tảng đạo đức, củng cố các mối quan hệ gia đình theo thứ bậc, kỹ
cương của giáo lý nho giáo, xác lập chuẩn mực đạo đức để xây dựng mô hình
nhân con người Việt Nam truyền thống với các tiêu chí: đạt đức, đạt đạo.
-Ngoài ra, nho giáo đã chi phối trực tiếp và toàn diện hệ thống giáo dục, thi cử
truyền thống, từ mục đích đến nội dung và phương pháp giáo dục.
* Nho giáo đối với GDVN hiện nay:
Nền giáo dục Việt Nam truyền thống được xây dựng theo mô hình của nền giáo
dục Nho giáo với các đặc điểm sau:
- Mục đích giáo dục: đào tạo ra người quân tử, những người để làm quan trị nước,
giáo dục nho giáo rất đề cao vinh quan của người đỗ đạt với các tục lệ như tục
xướng danh, tục ban áo mão và đãi yến tiệc, tục vinh qui bái tổ, khắc bia tiến sĩ ở
Văn Miếu để lưu danh thiên cổ...
- Nội dung giáo dục: không truyền thụ tri thức khoa học mà coi trọng việc giáo dục
tư tưởng, đạo đức, lễ giáo để đào tạo nên mẫu người quân tử hiểu biết về thi, thư,
lễ nhạc, có đủ phẩm chất để làm quan cai trị thiên hạ, các nội dung ấy được thể
hiện trong hai bộ sách kinh điển của Nho giáo: tứ thư và ngũ kinh.
- Về phương pháp truyền thụ tri thức: coi trọng việc ghi nhớ máy móc các tư
tưởng của Khổng Mạnh, các lời dạy của thánh hiền, các nội dung trong hai bộ sách
kinh điển và được thầy giáo truyền thụ nguyên vẹn, máy móc "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư".
Những đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo đã tạo nên truyền thống hiếu học và
tôn sư trọng đạo của người Việt Nam, tuy nhiên quan niệm và phương pháp giáo
dục của nho giáo cũng đã để lại những "di chứng" rất nặng nề cho nền giáo dục
của Việt Nam hiện nay - coi trọng con đường lập thân bằng học vấn, học đề làm
thấy chứ không làm thợ, nội dung và phương pháp học nặng về lý thuyết, học vẹt, thầy đọc trò chép...
Xây dựng nền tảng giáo dục, thi cử, từ mục đích đến nội dung và phương pháp giáo dục.
Với sự chi phối, ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện mọi mặt đời sống tinh thần của xã hội
VN, Nho giáo đã tác động đến văn hóa VN với cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Tác động tích cực:
- Tư tưởng và giáo lý Nho giáo đã góp phần xây dựng xã hội ổn định, nề nếp theo tôn ti
trật tự, thứ bậc, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
- Đề cao các giá trị đạo đức, nhân cách và các giá trị tinh thần, xây dựng mô hình nhân
cách mẫu mực đối với nam giới (tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ), và phụ nữ (tam tòng, tứ đức).
Tác động tiêu cực:
- Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc, phân biệt đối xử bất bình đẳng (vị thế xã hội, giới
tính, tuổi tác), là nguyên nhân tạo nên tư tưởng tôn quan quyền, gia trưởng, thiếu dân
chủ. (Sống lâu lên lão làng; Áo mặc không qua khỏi đầu…)
Tác động tiêu cực của Nho giáo đến văn hóa ứng xử với pháp luật:
- Việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là nguyên nhân làm hạn chế ý thức về quyền cá
nhân, mà hệ quả trực tiếp là sự triệt tiêu ý thức phản biện/ phản kháng của con người, đó
cũng là nguyên nhân làm hạn chế việc sử dụng công cụ pháp luật để bảo vệ quyền cá nhân.
- Vì chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị nên Nho giáo khuyến khích “vô tụng”. Khổng
Tử cho rằng: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng”.
- Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và
pháp lý là một ranh giới mờ, nhập nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các bộ
luật thời phong kiến VN, “Tam cương”, “Ngũ thường” là đạo lý nhưng cũng đồng thời là
pháp lý. Điều này dẫn đến hệ quả là việc xét xử các vụ án thường khó tránh khỏi hiện
tượng “tội đồng luận dị” (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ
quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Câu 8. Hãy trình bày dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao
tiếp ứng xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp nào cần được giữ
gìn và phát huy.
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ nét.
Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng
xử của người Việt có những đặc điêm cơ bản sau đây:
- Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt
coi trọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức ứng
xử văn hóa quan trọng của người Việt "lời chào cao hơn mâm cổ", thích thăm viếng nhau,
coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ và
giàu tính hiếu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
- Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích tìm
hiểu, quan sát, đánh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân của
đối tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoàn cảnh gia đình...). Đặc
điểm này cũng có nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối sống trọng tinh (quan tâm đến
người khác). Tuy nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm hơn lý
trí. Trong thực tế người Việt Nam vẫn coi trọng "cái tình" hơn cả, bất đắc dĩ lắm mới
dùng "cái lý" để giải quyết những mâu thuẫn. "Cái tình" sẽ làm cho người gần người hơn.
Xử sự với nhau bằng "cái tình" là rất đẹp, để rồi "một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng",
để không phải hối hận về sau. Người ta thường nói "tình làng nghĩa xóm" lúc "tắt lửa tối
đèn" là để nhấn mạnh "cái tình", chứ ít ai đưa "cái lý" ra làm thước đo con người.
Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số trươờng hợp ảnh hưởng tiêu cực
đến đời sống người dân Việt. Vì không giải quyết theo lý mà chỉ lụy tình, người Việt
thường có thói quen: Người càng thân ta thì càng đúng hơn. Thậm chí có việc người nhà
ta, người làng ta, người cơ quan ta sai lẻ, không còn cách nào khác, người đứng ra bênh
vực bảo: "Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai". Vì thế mọi người mới có kiểu
xưng hùng xưng bá địa phương: "Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng".
Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo quan hệ
thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì, cháu, con...
Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiềng hơn là giá trị
vật chất (Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng giữa làng bằng
một sàng xó bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng..). Vì coi trọng danh dự nên nghi
thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn
định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo
quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động
lại phân biệt kỹ các lời chảo theo thời gian như chảo gặp mặt, chào chia tay, chào buổi
sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối....
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện "ở đời muôn sự
của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi"; "đem chuông đi đánh nước người,
không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh"; "một quan tiền công không bằng một đồng tiến
thưởng", ... Vì trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi vậy, dư luận trở
thành một thứ vũ khí lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá nhân với cộng đồng,
nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nế, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thắng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu "vòng vo tam quốc"
để đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp. Chính sự
đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán.
Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa
thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong
thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những
lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị,
ý tứ và trọng sự hòa thuận. Người Việt thường không biểu lộ trực tiếp cảm úc của mình
với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu ca dao, thành ngữ, thơ ca thường dùng hinh
tượng ẩn dụ, bóng gió "tram dâu đồ một đầu tằm"; "tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài,
ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây";... Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý
nhường nhịn, cả nề, sợ mất lòng người đối thoại "lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lơi mà
nói cho vừa long nhau; "Một sự nhịn, chin sự lành";... Và hệ quả của việc giữ ý, cả nề dẫn
đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp "người khôn
ăn nói nửa chừng, để cho ngưrời đại nửa mừng nửa lo; "uốn lưỡi ba lần trước khi nói...).
Chính thói quen ứng xử nặng tinh cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nề, thiếu tính quyết
đoán trong giao tiếp đã khiến cho ngươi Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái
chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu
cực để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng
xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc Việt
Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh mềm làm
nên nét đẹp và là chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi nét đặc
trưng văn hóa ứng xử giao tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền văn
hóa ứng xử muôn màu, phong phú thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét đến
những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật
tất yếu đêu phải có những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hai yếu tố này luôn song hành
cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh sáng thì không thể nhận diện
được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu cực này mà có thể
thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát huy các đặc
trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Câu 9. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra
vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Văn hóa gia đình truyền thống Việt Nam là toàn bộ những giá trị, chuẩn mực truyền
thống của gia đình Việt Nam trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, mối
quan hệ giữa gia đình với xã hội được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời
sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã
hội. Đó là những giá trị được kết tinh của kiểu gia đình truyền thống Việt Nam qua hàng
ngàn năm lịch sử gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước và cốt lõi quan hệ văn hóa
gia đình Nho giáo phương Đông. Do sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp
và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
Từ lâu truyền thống Việt Nam đã dành cho gia đình một chỗ đứng quan trọng không chỉ
trong công việc xây dựng xã hội quốc gia, mà cả trong việc đào tạo con người nữa.
Truyền thống văn hóa Việt Nam coi gia đình là con đường phải qua nếu các cá nhân
muốn thành đạt và được kính trọng ngoài xã hội. Tư tưởng này đã ăn sâu trong quan niệm
thăng tiến xã hôi của con người Việt Nam: muốn ổn định thiên hạ thì phải có khả năng trị
quốc; muốn trị được quốc điều trước tiên là phải tề gia. Phần quan trọng nhất trong văn
hóa làm người Việt Nam là phải tuân thủ gia đạo. Đạo là con đường dẫn từ khởi điểm tới
đích điểm. Gia đạo chính là những nguyên tắc cơ bản và ổn định, những bồn phận phải
làm và những điều phải tránh trong sinh hoạt gia đình. Đây chính là cái khung tiêu chuẩn
của đạo lý con người. Những điều nầy được chi dạy cho mọi thành viên trong gia đình.
Khi mọi người một mực trung thành tuân giữ, người ta gọi là người có gia giáo. Một cách
đơn giản, gia giáo là sự chi dạy cách ăn nết ở trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làng nước.
Thường những lời chỉ dạy nầy xuất phát từ kinh nghiệm sống của người trước về cách cư
xử, phép tắc, thói tục; các kinh nghiệm này đã được xã hội hóa. Người lớn trong gia đình
đóng vai trò làm gương sáng, chi dạy cho trẻ nhỏ. Một gia đình có gia giáo là gia đình có
nề nếp, tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới.
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với nền
văn hóa nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình. Mỗi gia
đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng
đường), vì vậy các thành viên trong gia đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa
vào nhau (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót; Chị ngã em
nâng; Anh em như thể tay chân...). Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt
đối của tập thể gia đình đối với mỗi thành viên), tinh thần vì lợi ích chung, vừa coi trọng
đúng mức vai trò cá nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn trọng giới hạn tự do cá
nhân. Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy tính cộng đồng, tinh tập thể thường lần át, tới mức,
người phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
Người Việt Nam quen với đời sống nông nghiệp, gần gũi với trời đất, thiên nhiên và vạn
vật. Ngôi nhà của gia đình Việt Nam nép mình bên dòng suối, bờ sông, dưới gốc đa, tàn
lá, được bảo bọc che chở bởi lũy tre xanh, bởi đồng lúa vàng, luôn tìm sự nương tựa vào
thiên nhiên, đất trời. Người Việt luôn ý thức trên đầu mình, trong nhà ngoài ngõ, nơi sông
núi và ngoài đại dương luôn có những lực lượng thần thiêng chi phối cuộc sống và an
sinh của mình. Tình cảm tín ngưỡng nẩy đã ăn sâu trong văn hóa gia đình Việt Nam. Các
lễ nghi cúng vái thờ thần luôn được thể hiện trong cuộc sống gia đình và làng nước. Tin
vào lẽ phải thiêng liêng và đó là lẽ trời luôn thúc giục người ta biết ăn ở ngay lành, làm
điều thiện được phúc đức, làm điều ác sẽ bị quả báo trừng phạt "Ai ơi, chớ ở đầy vơi.
Trời cao không phụ lòng người hiểu trung." Người thành công trong công ăn việc làm,
cha mẹ đông con, gia đạo bằng yên hạnh thông đều nhờ lộc trời, ân đất. Quan điểm về
phúc đức nầy đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam: "trời cho thanh cao mới được phần thanh
cao." Nhưng phúc đức cũng có thể do bởi ông bà cha mẹ nữa, "Cây xanh thì lá cũng
xanh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con."
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sự ảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn hóá gia
đình Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ có quyền uy tuyệt đổi và
chịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt đầu
con ngồi đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng phong
kiến, phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tỏng tư đức, chấp nhận gia đình đa
thê, "trai chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"..., Quan niệm gia
đình đông con là phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ thực tiễn của cuộc sống nông
nghiệp. Sinh con là đề có người lo việc đồng áng, và lập gia đình để có người phụ giúp nông trang.
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng
nam khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên nhân
gây ra nhiều thiệt thời và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong
thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền phân công
lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia
đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền đánh đập. "bán
vợ, đợ con", xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền lực chính trong
gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò của họ vẫn là không thể phủ
nhận đổi với gia đình và xã hội.
Vai trò: Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính
bền vững, gia đình luôn là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất
tiếc khóc chào đời đến khi mất đi. Ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn luôn là
nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng
quan trọng của gia đình đó là: Tái tạo sản xuất ra con người; tái tạo sức lao động, sản xuất
ra của cải vật chất và cũng là nơi gìn giữ và phát huy giá trị tinh thân cao quý của dân tộc;
tổ ấm đem lại hạnh phúc, yêu thương, chia sẻ vui buồn, luôn đảm bảo những điều kiện tốt
nhất, an toàn nhất cho mỗi con người. Bên cạnh vai trò đó, gia đình còn là môi trường
sống, môi trường giáo dục đầu tiên đề mỗi cá nhân hình thành, hoàn thiện nhân cách.
Vai trò giáo dục trong gia đình giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân
cách con người, kết hợp giáo dục từ nhà trường và xã hội. Mỗi cá nhân, từ khi lọt lòng
mẹ đến khi trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời ăn, tiếng nói, từ cách ứng xử với ông
bà, cha mẹ, anh chị em, với cộng đồng thế nào cho đúng, cho lễ phép. Khi bước chân vào
cánh cửa nhà trường, môi trường giáo dục nhà trường, bên cạnh việc dạy chúng ta kiến
thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật thì giáo dục đạo đức, lối sống vẫn là nội dung quan
trọng để mỗi cá nhân hình thành nhân cách. Trong môi trường giáo dục, khẩu hiệu mà
chúng ta thường gặp đó là: "Tiên học lễ, hậu học văn". Một cá nhân trước tiên phải có
nhân cách tốt, có đạo đức, làm điều thiện, biết chăm lo cho bản thân, gia đình và rộng
hơn phải biết thương yêu đồng loại; biết ứng xử làm sao cho văn hóa, văn minh nơi công