ĐỀ CƯƠNG ÔN THI ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA HỌC
Câu 1. Khái niệm Văn hóa, Văn minh, n hiến, Văn vật
Văn hóa
Văn hóa một khái niệm đa dạng nhiều nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu những giá trị tinh hoa của
như văn hóa nghệ thuật, nếp sống văn hóa.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những gtrị trong
từng lĩnh vực như văn hóa kinh doanh, văn hóa giao tiếp.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo không gian, văn hóa được dùng để chỉ những gtrị đặc
thù của từng vùng như văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên, văn hóa Nam Bộ.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo thời gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị tương
ứng trong từng giai đoạn (trình độ phát triển của 1 giai đoạn) như văn hóa Hòa Bình, văn
hóa Đông Sơn.
Theo nghĩa rộng, văn hóa được xem bao gồm tất cả mọi phương diện, những gì do con
người sáng tạo ra.
Theo E.B.Tylor, văn hóa hay văn minh một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục bất cứ năng lực tập quán nào
con người đã đạt được như một thành viên của hội.
Theo Trần Ngọc Thêm, “Văn hóa một hệ thống hữu các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra và tích lũy qua các quá trình hoạt động thực tiễn, trong đó sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.
Văn minh
Khái niệm này dịch từ ngôn ngữ phương Tây “Civilasation” (bắt nguồn từ chữ Civitas
đô thị), chỉ trình độ phát triển cao của văn hóa, đặc trưng cho 1 khu vực rộng lớn, 1 thời
đại hoặc cả nhân loại. Văn minh trạng thái tiến bộ cả vvật chất và tinh thần của
hội loài người, tức trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Trái với văn minh
man”.
Đặc trưng của văn minh:
+ Trạng thái phát triển cao của nền văn hóa, hay một “lát cắt” của lịch sử, cho biết trình
độ phát triển một thời đại, nghĩa phải những tiêu chí xác định. Buổi đầu của thời
đại văn minh, tiêu chí chủ yếu sự xuất hiện của nhà nước tổ chức quản hội
chữ viết – thành tựu tiêu biểu.
+ Mặc dù bao hàm cả giá trị vật chất và tinh thần, song văn minh thường nghiêng về yếu
tố vật chất – kthuật để xác định trình độ của một nền văn minh.
+ Tính quốc tế của văn minh biểu hiện chỗ những thành tựu, giá trị của rất dễ phổ
biến (ví dụ: thuốc súng, máy hơi nước…).
dụ: văn minh nông nghiệp dựa trên lao động chân tay của con người chủ yếu, văn
minh công nghiệp – sức mạnh của máy móc.
Câu 2. Tính đặc thù của đối ợng nghiên cứu của văn hóa học từ khía cạnh văn hóa
học (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Con người chủ thể sáng tạo ra văn hóa. Trong suốt lịch sử nh thành và phát triển của
mình, con người luôn sáng tạo để làm nên các giá trị văn hóa. Một trong số những giá trị
văn hóa được con người sáng tạo ra chính con người văn hóa. Con người sáng tạo ra
văn hóa, đồng thời cũng chính là sản phẩm của văn hóa. Đối với mỗi cá nhân, văn hóa là
môi trường sẵn đứa trẻ sau khi lọt lòng mẹ được nhúng vào. Nếu sau khi ra đời,
đứa trẻ bị đưa vào rừng, bị bứt khỏi cái nôi văn hóa, sẽ lớn lên như một con thú. Chỉ
sống trong môi trường văn hóa, mới trở thành người. Tùy thuộc sống ở môi trường
văn hóa nào, đứa bé sẽ hình thành nhân cách văn hóa nấy. Một đứa trẻ do một mẹ Việt
Nam sinh ra và được lớn lên Việt Nam, sẽ mang trong mình dòng máu văn hóa Việt
Nam. Trên phương diện con người, những sản phẩm văn hóa tiêu biểu nhất các danh
nhân. Họ luôn xuất hiện mọi dân tộc, mọi thời đại. Các danh nhân văn hóa những
đại diện xuất sắcnhất cho nền văn hóa của dân tộc, của thời đại; đồng thời, họ cũng
những người góp phần quan trọng nhất vào việc phát triển, nâng tầm nền văn hóa của
dân tộc trong lịch sử. Văn hóa tạo nên các nhóm hội, các nhóm hội đó lại tác
động mạnh mẽ đến sự bảo tồn phát triển của văn hóa. Nhóm hội nào cũng đồng
thời vừa bảo tồn vừa phát triển văn hóa của dân tộc, song tùy theo tính chất của từng
nhóm hội, vai trò của chúng trong việc bảo tồn phát triển văn hóa n tộc sẽ khác
nhau.Các nhóm hội càng tính đồng nhất cao càng có khả năng bảo tồn văn hóa dân
tộc tốt, các nhóm hội càng tính đa dạng cao càng có khả năng phát triển văn a
dân tộc tốt. Trên thế giới đâu đâu con người cũng tiến đến những tổ chc hộitương
đồng, nhưng mỗi cộng đồng dân tộc lại những nét đặc thù riêng trong cách tổ chức.
Các cộng đồng làm nông nghiệp thường khép kín hơn, tính đồng nhất cao hơn nên bền
vững hơn, trì trệ hơn. Các cộng đồng m thương nghiệp, công nghiệp thường có quan hệ
giao lưu rộng hơn, dễ dàng biến đổi hơn, phát triển nhanh n, dễ hòa nhập n. Hoạt
động, phương thức hoạt động, công nghệ hoạt động của con người tạo ravăn hóa, và bản
thân cũng văn hóa. Song không phải mọi hoạt động đều tínhchất này. Con người
một loài động vật bậc cao hoàn hảo, không bị giới hạn bởikhông gian trú, thể sinh
tồn bất cứ nơi nào trên mặt đất, chỉ trong thời gianngắn đã có thể học hỏi và tiếp thu bất
cứ loại hoạt động phức tạp nào. Con nời thể hành động một cách linh hoạt sáng
tạo không theo bất kỳ một chương trìnhnào. Con người thể hoạt động một cách tự do
ợt qua khỏi giới hạn của bảnnăng do tự nhiên quy định. Những hoạt động sáng tạo này
chỉ thể phát triểntrong môi trường hội, trong sự giao tiếp thường xuyên với
đồng loại. Đó hoạtđộng hội - sáng tạo. Chỉ hoạt động hội - sáng tạo mới
khả năng tạo ravăn hóa một phần của văn hóa. Chỉ những hoạt động mang tính
nhân bản, vìlợi ích của con người mới tạo ra văn hóa, văn hóa. Hoạt động sáng tạo
theonghĩa hẹp tác dụng phát triển vốn văn hóa dân tộc. Hoạt động tái tạo không
pháttriển vốn văn hóa dân tộc, tác dụng bảo tồn và phổ biến các giá trị văn hóa.Với
cách một khoa học luận, văn hóa học nhiệm vụ nghiên cứu vănhóa nmột
đối tượng riêng biệt trên sở những liệu do các ngành dân tộc học,sử học, ngôn ngữ
học, khảo cổ học, tôn giáo học cung cấp với mục đích phát hiệncác đặc trưng, những quy
luật hình thành phát triển. Nghiên cứu văn hóa dân tộckhông chỉ m hiểu cái gì?
còn tìm hiểu tại sao? Như thế nào? Nhờ đi vào chiềusâu, tìm tòi những mối liên hệ
tính bản chất giữa các sự kiện, văn hóa học cho phép biết được một dân tộc sống đâu,
ăn như thế nào, thể nói được dân tộc đómặc ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế
nào. Từ đó có thể lý giải các tư liệu vănhóa mà con người bắt gặp được.
Với cách khách thể nghiên cứu của Văn hóa học, văn hóa thể được hiểunhư kinh
nghiệm xã hội của con nời thông qua việc tích lũy chọn lọc, việc ápdụng những
hình thức hoạt động tác động lẫn nhau, được lựa chọn trên cở sở phùhợp với tiêu chí
không làm tổn hại tính đoàn kết của cộng đồng, được củng cố bởi hệthống các giá trị, quy
tắc, chuẩn mực, truyền thống, Văn hóa được thể hiện tronghệ thống các quy định
tính điều chỉnh như phong tục, đạo đức, luân lý, nghithức, Chúng được vật thể hóa
trong các đặc điểm của các kết quả hoạt động củacon người nhằm thỏa mãn quyền lợi và
nhu cầu của nhân hoặc tập thể. Văn hóa lànội dung bản của mọi phương thức giao
tiếp giữa người với người để hình thànhcác đặc điểm văn hóa của loại giao tiếp đó.
Chúng xác định nội dung phương pháp của quá trình hội hóa nhân cách con người.
Chúng được chuyển giao từ thếhệ này sang thế hệ khác qua các truyền thống, phong tục,
định hướng, giá trị, quy tắc.Và văn hóa cốt lõi nội dung của quá trình tái sản xuất
hội, của các đặc điểmlịch sử cụ thể mang tính địa phương trong các hệ thống
Câu 3. Vai trò của ti p xúc ti p bi n văn hóa (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Văn hóa theo nghĩa rộng đóng vai trò điều chỉnh trong việc xác lập môi trườngsinh thái
nhân văn hài hòa. Tiếp xúc và tiếp biến văn hóa vừa tiền đề vừa độnglực của sự phát
triển. Tiếp xúc tiếp biến nhu cầu tự nhiên cũng điều kiệncủa sự phát triển, sự
tiến hóa văn hóa. Tiếp xúc tiếp biến văn hóa tạo nên sự dunghợp, tổng hợp, tích hợp
văn hóa cộng đồng. Mỗi tộc người đều những nét vănhóa riêng biệt từ điều kiện giao
tiếp - trao đổi - cộng - di cư, các tộc ngưi sẽ cóquá trình học hỏi văn hóa lẫn nhau để
tiếp thu những sắc thái văn hóa của nhau. Tiếpxúc tiếp biến văn hóa tạo nên những
khác biệt cho các cộng đồng tộc người tạicác vùng văn hóa.
Câu 4. Khái niệm văn hóa Bình diện thứ nhất: Phổ quát và đặc thù (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Sự tiến triển của văn hóa học thời k hậu chủ nghĩa Stalinist đã chứng tỏ sựhợp lý của
đối với những truyền thống dân tộc của thuyết phổ quát lẫn đối vớinhững mô hình đa
nguyên tự do. Văn hóa là một chỉnh thể của những lĩnh vực, hoạtđộng, bao hàm tính đa
dạng của các nền văn hóa, mỗi nền văn hóa sở hìnhthành riêng. Trong khi quan m
đến văn hóa với tư cách là cái toàn thể (a whole),văn hóa học cũng thừa nhận tính đa
dạng của những cái toàn thể ấy (wholes) và phân biệt chúng bằng “gtrị”. Nếu trong
một nền văn hóa, những lĩnh vực chuyên biệt và đa dạng được liên kết bởi một trực giác
chung, tính đặc thù của trực giácchung đó sẽ giúp phân biệt các nền văn hóa khác nhau ở
cấp độ toàn cầu. Bình diệnnày của văn hóa học được phát triển xuyên suốt với Aleksei
Losev trong nhữngnghiên cứu của ông về mĩ học cổ định, giữ tính đặc thù của trên tất
cả các cấp độ phân tích. Losev chỉ rõ rằng đằng sau những lý thuyết trừu tượng nhất về
phép biệnchứng của sự đồng nhất và khác biệt của trường phái Platon, và thẳm sâu trong
toàn bộ tính cổ xưa tồn tại một trực giác mạnh mẽ và không thể chối bỏ về một trực
giáccủa toàn bộ hiện thực với tư cách là một cơ thể sống. Hai bình diện phổ quát và
đặcthù của văn hóa học là không thể chia tách nhưng tầm quan trọng của mỗi bình
diệnkhông giống nhau trong từng công trình nghiên cứu. Từ thập niên 1920, trong
khiBakhtin nhấn mạnh đến bản chất đối thoại của nền văn hóa trong những khác biệtnội
tại ngoại biên của nó, Losev lại thiên về thuyết hóa tính đồng nhất của vănhóa như
một biểu thị đa diện của một trực giác căn bản và nguyên sơ.
1.1. Bình diện thứ hai: Ổn định biến đổi (tài liệu 1, 2, 3, 4)
5
Câu 5. Khái niệm văn hóa Bình diện thứ ba: Sinh thái văn hóa tiếpbiến văn hóa (tài
liệu 1, 2, 3, 4)
Mối quan hệ tương tác giữa tự nhiên, xã hội và văn hóa gắn liền với nhữngnghiên cứu
Jullian Stuard (1902-1972). Hướng bản trong các công trình này làtìm hiểu sự thích
nghi của con nờihội với môi trường xung quanh, tìm hiểu vànhận biết các đặc điểm
của hệ thống chỉnh thể xã hội dưới tác động của các hệ sinhthái. Sinh thái học văn hóa là
một mô hình lý thuyết nhằm tìm hiểu mối quan hệ qualại giữa con người và môi trường
tự nhiên bao quanh, mà văn hóa là sản phẩm củamối quan hệ đó. Những người theo
thuyết sinh thái học văn hóa cho rằng văn hóamỗi tộc người được tạo ra bởi những nguồn
tài nguyên và ranh giới của môi trườngchung quanh, kể cả những thay đổi của môi
trường đó. Kiểu văn hóa được hiểu làmột tập hợp những nét khu biệt cho một lối sống do
kết quả thích nghi với môitrường xung quanh. Nó là hạt nhân của văn hóa - cái gắn liền
với các hoạt động tạora phương thức tồn tại các thiết chếhội. Tiếp cận sinh thái học
văn hóa vì vậyđòi hỏi phải tìm hiểu sâu nội dung, đặc điểm cũng như những hệ quả tinh
thần củamột nền văn hóa ở môi trường tự nhiên đã hình thành nên chúng.Việc nhận thức
con người là một bộ phận của tự nhiên, nằm trong một chỉnhthể thống nhất không đồng
nghĩa với việc tách rời nó khỏi việc phải sống hài hòa vớitự nhiên, thúc đẩy nhiều nhà
nghiên cứu xét sự ảnh hưởng của môi trường đến cácthành tố văn hóa trong đời sống con
người. Điều kiện môi trường nơi tộc người cưtrú có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành
các yếu tố văn hóa đảm bảo đời sống. Cóthể nói, sinh sống lâu đời trong một môi trường
sinh thái quen thuộc nên mỗi tộcngười đã hình thành nên những kiểu thích ứng với môi
trường nhất định, tạo nênnhững truyền thống sinh hoạt kinh tế xã hội - văn hóa riêng. Sự
thích nghi của connời với điều kiện tự nhiên nơi cư trú có thể được thể hiện trong
những đặc trưngvăn hóa cũng có thể thể hiện trong những đặc trưng nhân chủng. Sự thay
đổi củanhững điều kiện tự nhiên cũng như việc xuất hiện những cảnh quan văn hóa đa
dạngvới những yếu tố nhân chủng ở mức độ nhất định gắn liền với tộc người và được
thểhiện trong những đặc trưng văn hóa của tộc người đó. vậy, cuộc sống ngườinguyên
thủy vốn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên nên dấu ấn của môi trường đếncác khía
cạnh khác nhau của tộc người đó còn rõ ràng. Cùng một tộc ni nhưngsinh sống trong
môi trường khác nhau, trải qua một thời gian nhất định cũng hìnhthành những yếu tố văn
hóa khác nhau bởi chính điều kiện tự nhiên hoặc do sự vaymượn những tộc người sống
trong địa bàn đó. Tinh thần cơ bản của thuyết sinh tháihọc văn hóa là lao động sáng tạo
của con người đã làm nên một thiên nhiên thứ hai,con người một thực thể mang tính
sinh vật, nên cái thế giới nhân tạo dù vượtqua giới hạn của tự nhiên vẫn không thể là cái
nằm ngoài thiên nhiên thứ nhất(thiên nhiên thiên tạo). vì vậy, mối quan hệ giữa hai cái
thế giới thiên nhiên phảiluôn được tính đến trong cuộc sống con người. Thuyết sinh thái
học văn hóa đã chỉra mối quan hệ gắn bó giữa môi trường tự nhiên và văn hóa, trong đó
các môi trườngtự nhiên đặc thù là cơ sở cho việc hình thành các mô hình văn hóa khác
nhau. Lýthuyết sinh thái học văn hóa muốn mở rộng khuôn khổ cho việc giải thích các
vấn đềcủa đời sống xã hội. Vì mỗi tộc người đều sinh sống trên một lãnh thổ nhất định,
màmôi trường địa lý nơi tộc người đó sinh sống trong mi quan hệ qua lại với thiênnhiên
đã ghi dấu ấn và tác động sâu sắc đến văn hóa của chính tộc ngưi đó nênmuốn tìm hiểu
những đặc trưng của văn hóa tộc người cần phải quan tâm đến khôngchỉ lịch sử tộc người
mà cả môi trường nơi tộc ngưi đó sinh sống. Tuy nhiên, lýthuyết sinh thái học văn hóa
chưa làm rõ sự tác động ngược trở lại của văn hóa đốivới môi trường tự nhiên.
6
Câu 6. Khái niệm văn hóa và Bình diện thứ tư: Bản sắc văn hóa (tài liệu 1, 2,3, 4)
Bản sắc theo đại từ điển tiếng Việt là sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng khác, tínhchất riêng
tạo thành đặc điểm chính. Nói cách khác, bản sắc là đặc điểm căn bản,đặc thù của riêng
một cá nhân hoặc cộng đồng. Ngoài là hệ thống giá trị bền vữngđược định hình và phát
triển trong suốt tiến trình lịch sử của nền văn hóa, bản sắcvăn hóa còn là một kiểu quan
hệ. Trong đó, hệ giá trị của bản sắc văn hóa được hìnhthành trong lịch sử, không ngừng
tự hoàn thiện, tiếp thu, và bổ sung những nội dungmới tiến bộ. Bản sắc văn hóa là cái cốt
lõi bên trong, cái sức mạnh tiềm tàng, là sứcsống bên trong của mỗi nền văn hóa, là động
lực nội sinh thúc đẩy sự phát triển xãhội. Bản sắc văn hóa được thể hiện một cách sâu sắc
và cô động trong hệ giá trịchính trị, nghệ thuật, đạo đức. Bản sắc văn hóa thường được
phát triển theo quy luậtkế thừa và tái tạo để ngày càng sâu sắc hơn các giá trị vốn có
trong tiến trình pháttriển của nền văn hóa.Bản sắc là những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi,
lâu bền, được biểu hiện ra ngoài. Nếu văn minh chỉ ra trình độ phát triển của một xã hội,
thì bản sắc văn hóa chỉ ranhững giá trị tồn tại lâu bền hơn cả ở một nền văn hóa. Nói đến
giá trị lâu bền hơncả được thể hiện ra ngoài, con người thường gán cho những giá trị văn
hóa vật chấtlớn mà muốn làm được những công trình kiến trúc vĩ đại như thế thì phải hội
đủ điềukiện về nhân lực, vật lực và môi trường. Tuy nhiên, thực tế, bản sắc văn hóa là
cáitinh thần được các công trình có giá trị vật chất đó thể hiện. Cái tinh thần được vậtchất
hóa trở thành sức mạnh. Bản sắc văn hóa là cái ổn định tĩnh tại trong một thờigian dài. Là
hệ thống các giá trị sống cốt lõi ít bị biến đổi, bản sắc văn hóa vừa phổquát vừa đặc thù,
và được chọn lọc dựa trên tính cách tâm lý, trải nghiêm lịch sử, vàmôi trường sống của
các dân tộc, tộc người. Được biểu hiện thành sắc thái bên ngoài, bản sắc văn hóa phân
biệt cá nhân, cộng đồng, dân tộc này với các cá nhân, cộngđồng, dân tộc khác.Trong một
khoảng thời gian ngắn, tinh thần cái biến động, còn vật chất làcái ổn định. Nhưng trong
một khoảng thời gian lâu dài, vật chất bị hủy hoại theo sựhủy hoại của chất liệu tạo nên
vật thể ấy. Còn cái tinh thần sẽ mang tính ổn định hơn,khó thay đổi được. Chẳng hạn, tính
cách dân tộc vô cùng bền vững. Việc nhận diệnmột giá trị văn hóa có phải đặc trưng bản
sắc không phụ thuộc vào ba dấu hiệu:Thứ nhất, giá trị văn hóa đó đã tồn tại tương đối lâu
dàiThứ hai, giá trị văn hóa đó có tác dụng chi phối các cách ứng xử và hoạt độngcủa văn
hóa.Thứ ba, giá trị văn hóa đó khả năng cùng vi các đặc trưng bản sắc còn lạikhu biệt
nền văn hóa đó vi các nền văn hóa khácĐặc trưng bản sắc không phải cái duy nhất chỉ
có ở nền văn hóa đó. Nhưng bản sắc văn hóa trong chỉnh thể phối hợp với cả các đặc
trưng còn lại phải cho phép phân biệt được một nền văn hóa với các nền văn hóa khác.
Như vậy, nhìn chung, bản sắc văn hóa là hệ thống giá trị tinh thần ổn định tương đối lâu
dài hơn cả trongtruyền thống văn hóa, tạo nên tính đặc thù của nền văn hóa, khu biệt nền
văn hóa đóvới các nền văn hóa khác. Bản sắc văn hóa cái gốc ổn định của một nền văn
hóa,nó thể hiện ở lĩnh vực tinh thần rõ hơn lĩnh vực vật chất, ở đàn bà rõ hơn đàn ông,
nông thôn rõ hơn thành thị, ở người grõ hơn người trẻ, … Bởi vì mang tính ổnđịnh
tương đối lâu bền, nên bản sắc văn hóa vẫn có thể được điều chỉnh, biến đổi dùsự điều
chỉnh, biến đổi diễn ra rất chậm, và khó khăn. Vì vậy, trong quá trình côngnghiệp hóa -
hiện đại hóa xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cái bản sắc
11
2. Đặc điểm chung của văn hóa học với cách là một khoa học (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Câu 6. Phân biệt Culural Studies (VHH/NCVH) Culturology (VHH)
Culturalogy một chuyên ngành của khoa học hội nhân văn Nga, nền móng từ
những công trình của Nikolai Danilevski (1822-1885) PavelFlorensky (1882-1937),
phát triển đến đỉnh cao trong những thạp niên 1960-1980với những công trình của
Mikhail Bakhtin (1895-1975), Aleksei Losev (1893-1988), Yuri Lotman (1922-1993),
Georgy Gachev, Sergei Averintsev. Culturalogy nghiên cứu tính đa dạng văn hóa,
những phương thức tương tác chức năng của các nền văn hóa mới cách một siêu
ngành (metadiscipline) trong khoa học nhân văn nhằm khái quát liên kết sự đa dạng
của những hiện tượng văn hóa vốn được các ngành khoa học nhân văn khác nghiên cứu
một cách biệt lập. Văn hóa trong cultural studies thực hiện chức năng vừa đối tượng
nghiên cứu vừa nơi định vị của hoạt động phê bình chính trị. Culturology lại xác
định văn hóa nơi định vịcủa những thực tiễn chính trị thông qua viễn cảnh của những
bối cảnh vốn củachúng. Một thực hành tín ngưỡng hay một tác phẩm nghệ thuật được
giải không phải chỉ để lộ một thông điệp chính trị được hóa. Ngay cả những
hoạt độngcủa một đảng phái chính trị cũng thể được xem xét qua lăng kính của văn
hóa họcnhư độ khúc xạ những nghi lễ, trò chơi ngôn từ hay những cổ mẫu tâm lý.
Cultural studies cố gắng vạch và điều hòa sự phân rẽ tri thức để vượt qua sự phân hóa
giữa những dạng tiềm thức những dạng thức phổ quát của tri thức. Cultural studies cho
rằng tồn tại một sự đồng nhất chung quyền lợi chung giữa người quan sát cái
được quan sát. Còn culturology cố gắng tiếp cận văn hóa bằngnhững thuật ngriêng của
để tạo lập một ngôn ngữ chỉnh thể luận, tránh sa vào bất kỳ phương diện đơn lẻ nào
của văn hóa. Cultural studies quan tâm đến sự đánh giá đạo đức của hội hiện đại
những phạm vi bản của hoạt động chính trị. Truyền thống của cultural studies can
dự vào sự tái cấu trúc hội thông qua sự pbình chính trị. vậy, cultural studies
hướng đến mục đích hiểu biến đổi những cấu trúc ưu trội bên ngoài hội tư bản
công nghiệp. Cả cultural studies culturology đều đặt mục tiêu t qua giới hạn tri
thức tự do thuần túy. Cultural studies tập trung vào những dạng thức văn hóa tính
chính trị, và những dạng quyền lực về văn hóa, nhằm mục đích giải cấu trúc trong nghiên
cứu văn hóa. Culturology lại hướng đến việc mở rộng nâng cấp những ý nghĩa của
biểu tượng văn hóa vượt qua ý nghĩa thực dụng tầm thường. Từ quan điểm văn hóa
một cái toàn thể, culturology phê phán chính trị, xem chính trị như một dạng của sự
hào, như một dạng quan hệ của quyền lực, như một thứ chủ nghĩa thực dụng hẹp hòi. Nói
cách khác, culturology không hướng đến sự đối lập hướng đến sự vượt qua một thực
tiễn văn hóa sẵn để sdụng những hóađa tầng giải từng hiện tượng của
nhân loại. Cultural studies hướng đến việc xác định vấn đề trọng tâm trong phạm vi của
những thực tiễn văn hóa mối quan hệ của những thực tiễn văn hóa với quyền lực. Từ
đó, vạch ra những mối quan hệ quyền lực xác định bằng cách nào những mốiquan hệ
này ảnh hưởng và định hình những thực tiễn văn hóa. Culturology lại hướngđến việc xác
định văn hóa với tư cách là nơi những thực tiễn tồn tại
Câu 8. Văn hóa học với các ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa (tài liệu 2, 3, 4, 5,
6)
12
Sự gắn bó nhiều nhất giữa văn hóa học với nhân học và xã hội học liên quanđến chủ thể
là con người. Trong khi đối tượng của văn hóa học là văn hóa, đối tượngcủa nhân học là
con người. Quan hệ giữa con người và văn hóa là quan hệ giữa chủthể và sản phẩm. Văn
hóa học có nhiệm vụ phát hiện các quy luật hình thành, vậnđộng của văn hóa, cũng như
diện mạo các hệ thống vùng văn hóa, tiểu vùng văn hóa,nền văn hóa. Trong khi đó, nhân
học có nhiệm vụ tìm hiểu nguồn gốc, sự tiến hóacủa con người và sự hình thành các
chủng tộc. Việc nghiên cứu văn hóa đối với vănhóa học vì vậy là mục đích cuối cùng,
nhưng với nhân học đó chỉ là một phương tiện.Phương pháp nghiên cứu của nhân học là
phương pháp thực nghiệm, coi trọng việcquan sát - tham dự, điều tra thực địa là những
điều không thể thiếu của nhân học haydân tộc học. Trong khi đó, việc quan sát - điều tra
chỉ mang tính bổ sung, không phảiyêu cầu bắt buộc vì phương pháp nghiên cứu của văn
hóa học là phương pháp làmviệc với tư liệu do các khoa học xã hội và nhân văn khác
cung cấp.Vì đối tượng của xã hội học là xã hội với tất cả mối liên hệ bên trong cũng như
bên ngoài của nó, nên xã hội học gần gũi với nhân học hơn là văn hóa học. Nhân họcnhìn
đối tượng từhội được quan sát, cònhội học nhìn đối tượng từhội củangười quan
sát. Tương tự như nhân học, xã hội học cũng chỉ coi việc nghiên cứu vănhóa (mục đích
cuối cùng của văn hóa học) là một phương tiện nhằm tìm hiểu tổ chứcvận hành và phát
triển của xã hội. Xã hội học cũng là một ngành khoa học xã hộithực nghiệm, sử dụng các
tư liệu thu thập được bằng phương pháp điều tra, khônggiống như văn hóa học chỉ sử
dụng phương pháp điều tra xã hội học để bổ sungthêm cho các tư liệu sẵn có do các
ngành khoa học khác cung cấp. Nhân học cũngnhư xã hội học đều là khoa học xã hội,
trong khi văn hóa học lại là khoa học nhânvăn gần với khoa học xã hội. Phần giáp ranh
giữa nhân học và văn hóa học là nhânhọc văn hóa và văn hóa học nhân loại, phần giáp
ranh giữa xã hội học và văn hóahọc là xã hội học văn hóa và văn hóa học xã hội. Trong
đó, nhân học văn hóa là một bộ phận của nhân học, xã hội học văn hóa là một bộ phận
của xã hội học. Chỉ vănhóa học nhân loại và văn hóa học xã hội mới thuộc về văn hóa
học.Khi xem xét văn hóa trong thời gian, mối quan hệ giữa văn hóa học với sử họcđứng
trước sự hình thành của môn văn hóa học lịch sử. Khi xem xét văn hóa trongkhông gian,
mối quan hệ giữa văn hóa học với địa lý học đứng trước sự hình thànhcủa môn văn hóa
học địa lý. Văn hóa học lịch sử là một bộ phận của văn hóa học cóđối tượng là văn hóa
nhìn trong thời gian, còn sử học văn hóa là một bộ phận của sửhọc đối tượng là lịch sử
nhìn trong phạm vi văn hóa. Việt Nam văn hóa sử cươngcủa Đào Duy Anh là thuộc văn
hóa học lịch sử, còn Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn Khắc Thuần
Lịch sử văn hóa Việt Nam giản yếu của NguyễnThừa Hỷ là thuộc sử học văn hóa. Tương
tự như vậy, văn hóa học địa lý là một bộ phận của văn hóa học có đối tượng văn hóa nhìn
trong không gian, còn địa họcvăn hóa là một bộ phận của địa lý học đối tượng địa
lý nhìn trong những sự vật- sự việc - hiện tượng văn hóa.Khu vực học giới hạn đối tượng
nghiên cứu theo không gian, có nhiệm vụ xemxét đồng thời các vấn đề văn học, sử học,
địa lý học, triết học, kinh tế học, văn hóahọc, xã hội học, sinh thái học trong mối quan hệ
biện chứng lẫn nhau giữa chúng.Còn văn hóa học giới hạn đối tượng theo lĩnh vực, không
giới hạn đối tượng theokhông gian, và có nhiệm vụ xem xét đồng thời văn hóa dân tộc
cũng như văn hóanhân loại. Những người theo chủ nghĩa chức năng đánh giá thấp vai trò
của lịch sử đốivới văn hóa. Họ cho rằng, hoạt động của hệ thống hiện hành trong xã hội
cụ thể làquan trọng hơn cả, vì vậy họ không chú ý đến việc tái cấu trúc văn hóa mà tập
trungnghiên cứu các xã hội như là nó không bị ảnh hưởng bởi thời gian.Đầu thế kỷ XX,
những tư tưởng của nhà xã hội học Pháp Durkheim chiếm vịtrí ưu thế trong nghiên cứu
xã hội học và nhân học thời ấy. Durkheim cho rằng xã
13
hội nào cũng tồn tại một thực thể mà ông gọi là ý thức tập thể, đóng vai trò quyếtđịnh hệ
thống giá trị, niềm tin của các thành viên và những hành vi của họ. Mặc dùcoi ý thức tập
thể là một thực thể mang tính cách tâm lý, nhưng Durkheim khônggiải thích nó bằng
hành vi tâm lý nhân. Theo ông, đơn vị chính xác của sự phântích này là những sự kiện
xã hội. Những luật lệ xã hội và luật lệ hành vi tồn tại trướckhi cá nhân sinh ra, gia nhập
xã hội, cá nhân đó phải học hỏi và tuân thủ chúng.Alfred Louis Kroeber là một trong
những nhà nhân học hiện đại tiêu biểu đitheo và phát triển tư tưởng nhân học văn hóa xã
hội ấy trong các nghiên cứu. Ông đãtiếp tục tư tưởng của E. Durkheim cho rằng mặc dù
con người là giá mang văn hóanhưng không phải vì vậy mà việc nghiên cứu văn hóa bị
thu hẹp vào tâm lý học cánhân. Khác với Boas, ông cho rằng cá nhân không quan trọng
trong việc phân tíchvăn hóa, nhưng về mặt phương pháp, ông chú ý tới việc chiết trung
các phương pháptổng thể - thực chứng với phương pháp tham dự - dân tộc học, trong đó
quan điểmchủ đạo vẫn là văn hóa giữ vai trò quyết định hành vi cá nhân. Theo ông, văn
hóa lànhững khuôn mẫu vượt quá và kiểm soát cá nhân. Ông chứng minh các khuôn
mẫunghệ thuật xuất hiện và biến mất một cách độc lập với các nghệ sĩ phát minh như
thếnào.Với trường phái nhân học địa văn hóa do E. Rassen và L. Frobenius vàF.Grebner
chủ xướng, Rassen phủ nhận sự thống nhất phát triển của văn hóa nhânloại và văn hóa
chịu sự quy định của những điều kiện địa lý. Theo ông, ít có khảnăng các dân tộc khác
nhau lại sản sinh ra các hiện tượng văn hóa giống nhau, nếucó sự giống nhau thì đó kết
quả của sự vay mượn. Frobenius đã củng cố và pháttriển luận điểm trên bằng những kết
quả điền dã ở châu Phi. Đầu thế kỷ XX, trên cơ sở học thuyết ấy, Grebner đã nêu lên
thuyết vòng văn hóa quan điểm căn bản là: Mỗihiện tượng văn hóa chỉ sinh một lần ở
một trung tâm, còn nếu các vùng khác thìdo nó được truyềntừ một trung tâm đầu
tiên. Vì thế, nhiệm v của dân tộc học lànghiên cứu sự phân bố địa lý của các hiện tượng
văn hóa và tìm ra các vòng văn hóa.Trong nhân học sinh thái hiện đại, F. Boas là người
có ảnh hưởng mạnh nhất, vàKroeber là người học trò xuất sắc nhất của ông. Kroeber
nghiên cứu văn hóa trongmối liên hệ với môi trường sinh thái bao quanh nó. Trong tác
phẩm “vùng tự nhiênvà vùng văn hóa của thổ dân Bắc Mỹ”, hệ bản đồ về sự phân bố
thực vật, địa chất,khí tượng liên quan đến văn hóa của thổ dân đã được Kroeber trình bày
rất thuyết phục. J. Steward sau đó đã tiếp tục phát triển cách tiếp cận sinh thái học văn
hóatrong việc phân tích văn hóa. Ông nhấn mạnh đến sự thích nghi của văn hóa cá
nhânvới những điều kiện môi trường riêng biệt. Theo ông, những nền văn hóa ở
nhữngmôi trường tương tự nhau sẽ có xu hướng phát triển theo những quá trình
giốngnhau và sẽ tạo nên những đáp trả tương tự nhau đối với những thách thức của
môitrường. Ông gi những đặc điểm văn hóa đó với những phong tục hạt nhân vănhóa.
Câu 9. Quan điểm tiếp cận chỉnh thể luận trong văn hóa học (tài liệu 2, 3, 4,5, 6)
Giai đoạn đầu tiên trong phân tích văn hóa một dân tộc hoặc một thời klịchsử xa xôi
nào đó được phát triển trong khuôn khổ giải quyết các vấn đề nhân văn củatư liệu, chủ
yếu mang tính chất tả kinh nghiệm. giai đoạn này, các phương pháp được sử dụng
cho phép các nhà nghiên cứu tháo gỡ nhữngo cản "khônghiểu" thời đại khác hoặc nền
văn hóa khác. đây, việc sử dụng các phương pháp phân tích khác nhau nhằm hướng
tới làm rõ các chứng cớ để giải thích và đạt tớicấp độ lý luận. Đồng thời, được tạo dựng
và được phổ biến mô hình phân loại vàmô hình miêu tả để nhận biết văn hóa. Các
hình này chỉ đưa ra những mô tả cấu
14
hình hoặc mô tả nền văn hóa như những chỉnh thể mà không chỉ rõ được mối quanhệ
nhân quả và các chức năng của hiện tượng được nghiên cứu.Hệ thống- chỉnh thể là
phương pháp nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể màkhông cắt đoạn theo địa giới hành
chính hay phân giới địa lý. Theo UNESCO, Vănhóa là các hệ thống các giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ và lối sống. Các yếu tố nàygắn liền, có mối quan hệ mật thiết và không
thể tách rời với nhau tạo nên bản sắcriêng của từng dân tộc. Tiếp cận Văn hóa theo
phương pháp hệ thống- chỉnh thểnghĩa là xem xét văn hóa như một hệ toàn vẹn, có cấu
trúc xác định và vận động, phát triển nhờ sự ơng tác theo quy luật riêng giữa các bộ
phận cấu thành. Xét trên phương diện Văn hóa, hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm
mỹ và lối sống là cácyếu tố để cấu thành nên bản sắc của từng dân tộc, để phân biệt giữa
dân tộc này vớidân tộc khác. Khi ta tư duy theo hệ thống- chỉnh thể về văn hóa tức là
chúng ta đặtvăn hóa vào hệ thống của nó để xem xét, cảm nhận; là nhìn nhận văn hóa từ
nhiềuđiểm nhìn khác nhau để khám phá văn hóa một cách đầy đủ, toàn vẹn và có
nhữngkhám phá mới về nó. Phương pháp tư duy hệ thống là phương pháp tư duy khoa
học, phương pháp tưởng rộng cho phép ôm vào nhiều phương pháp để phát huy,vận
dụng tối đa sức sáng tạo của người tiếp nhận. Phương pháp tư duy hệ thống làmột con
đường giúp xây dựng căn cứ khoa học để “tự do sáng tạo”, đảm bảo khôngrơi vào tình
trạng mông lung, siêu hình hoặc là bình tán, gán ghép. Đây là phương pháp tư duy mà
Giáo sư- Tiến sĩ khoa học Phan Đình Diệu gọi là: “nguồn sức sốngmới của đổi mới tư
duy” hiện nay. Đây chính là cách tiếp cận bản thể luận, chống lạiviệc xa rời bản chất, đặc
trưng của văn hóa. Các cách tiếp cận về văn hóa khácthường quy văn hóa về một hình
thức, dưới một dạng cụ thể. Ví dụ như các địnhnghĩa chuẩn mực coi văn hóa là các giá trị
vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm ngườinào. Hay theo định nghĩa tâm lý học lại coi văn
hóa là: tổng thể những sự thích nghicủa con người với các điều kiện sinh sống của họ. Từ
đó có thể thấy cách tiếp cận đểđưa ra định nghĩa của các phương pháp khác thường
hướng suy nghĩ vào một hìnhtượng, 1 vấn đề cụ thể, còn đối với phương pháp hệ thống-
chỉnh thể lại mở ra sự tựdo trong suy nghĩ để đưa tưởng tượng ra xa hơn, mang lại cái
nhìn mới mẻ về vănhóa. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp Hệ thống- chỉnh thể đòi hỏi
người tìm hiểu phải có một vốn kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực cũng như phải
cái nhìnhtổng quan mới có thể đưa ra một định nghĩa chính xác về vấn đề đang tìm hiểu.
Đâylà một nhược điểm của cách tìm hiểu này. Ví dụ về cách tiếp cận Hệ thống- chỉnhthể
trong tác phẩm Truyện Kiều- Nguyễn Du. Khi tìm hiểu nhân vật Thúy Kiềutrong Truyện
Kiều, chúng ta phải đặt nhân vật trong tương quan với hệ thống nhânvật trong tác phẩm,
tức là đặt hình tượng Thúy Kiều trong mối quan hệ với gia đình(Vương ông, Thúy Vân),
với người yêu ( Kim Trọng), với Thúc Sinh, Từ hải và cảvới các thế lực đói nghịch: Bạc
Bà, Bạc Hạnh, Tú Bà, Sở Khanh,… Từ đó ta mớithấy được cái đẹp cũng như giá trị nhân
văn của nhân vật này. Ta cũng cần đặt ThúyKiều trong hệ thống văn hóa Việt Nam, cách
tư duy của người Việt để thấy đượctinh thần dân tộc đậm đà mà nhà thơ gửi gắm vào
nhân vật khi tác giả đã sáng tạo lạimột tiểu thuyết của Trung Hoa. Nghiên cứu văn hóa
như một chỉnh thể thống nhất cần chia tách chỉnh thể vănhóa thành các bộ phận, các yếu
tố và vạch ra những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhaugiữa chúng. Mỗi yếu tố, mỗi vai trò,
mỗi thiết chế của văn hóa có một chức năngnhất định. Mỗi yếu tố riêng lẻ vừa là một
chỉnh thể, vừa là một mắt xích mà nếuthiếu nó thì văn hóa không thể tồn tại như chỉnh
thể. Ví dụ: thiết chế gia đình đượccấu thành bởi cặp yếu tố vợ-chồng, và cha mẹ-con cái.
Mỗi cặp yếu tố đều chứcnăng riêng. Người cha trụ cột của gia đình, đảm bảo cho sự
tồn tại của gia đình. Người mlà người chăm sóc và giáo dục con cái.
Câu 10. Quan điểm tiếp cận so sánh trong văn hóa học (tài liệu 2, 3, 4, 5, 6)
15
Là sản phẩm của thời đại lịch sử mới ở châu Âu trong khoảng thế kỷ XVIII -XIX xuất
hiện cao trào so sánh chủ nghĩa xuất hiện hàng loạt khoa học theo chủnghĩa so sánh đặt
nền móng quan trọng góp phần thúc đẩy sự hình thành của vănhóa học so sánh, văn hóa
học so sánh tiến hành nghiên cứu so sánh tư duy và phương pháp đối với văn hóa của các
dân tộc khác nhau trên thế giới. Một mặt họthừa nhận văn hóa thế giới do đa dân tộc sáng
tạo đóng góp vào sự phát triển củavăn hóa thế giới. Mặt khác, trong quan niệm họ thể
hiện quan điểm dĩ Âu vi trung,làm cho họ tiến dần đến thuyết tương đối luận văn hóa
trong nghiên cứu so sánh vănhóa thế giới. Văn hóa dân tộc bản địa được xem như một
chỉnh thể hữu cơ độc lập,có tính đối kháng cao. Sự tiếp xúc với văn hóa ngoại lai chỉ
chiều đồng hóa củavăn hóa dân tộc bản địa với các nền văn hóa khác, chỉ có những nền
văn hóa đã biếnđổi thông qua đồng hóa mới thể gia nhập vào hạt nhân văn hóa của nền
văn hóadân tộc bản địa. Trong khi các khoa học mang tính chất so sánh chủ nghĩa phát
triểnnhanh chóng thì chính chủ nghĩa dĩ Âu vi trung đã gây trở lực. Ngày nay, trong
xuhướng hội nhập toàn cầu, lý luận cơ bản của văn hóa học so sánh có những nghiêncứu
tỉ mỉ, ảnh hưởng quan trọng đến nền văn hóa thế giới hội nhập của nhân loại.Một mặt,
văn hóa học so sánh phải cung cấp công cụ khoa học và lý luận cho nghiêncứu văn hóa
dân tộc, mặt khác, văn hóa học so sánh cũng tiến hành nghiên cứu thựctiễn đối với các
nền văn hóa, nghiên cứu hình thái thể hiện văn hóa, sau đó căn cứvào những điểm tương
đồng và dị biệt văn hóa để quan sát các mặt đối lập giữachúng. Cốt lõi của lý luận văn
hóa học so sánh là phá bỏ ranh giới văn hóa để nghiêncứu văn hóa, từ đó hình thành quan
niệm về giao lưu văn hóa và đối thoại văn hóa.Loại nghiên cứu này coi văn hóa thế giới
chỉnh thể đòi hỏi yêu cầu cao hơn về hệthống lý luận văn hóa học so sánh. Trong lĩnh
vực văn hóa, tính ngoại lai là đòn bẩyquan trọng nhất. Từng nền văn hóa chỉ có thể thể
hiện đầy đủ và sâu sắc nhất trongmắt một nền văn hóa khác. Trong tình huống hai nền
văn hóa tiếp xúc đối thoại,giữa chúng sẽ không dung hợp lẫn nhau, cũng không hòa trọn
lẫn nhau. Mỗi bên tựduy trì tính thống nhất và tính hoàn chỉnh trong cải cách, khai m
của chính nó, từđó cả hai cùng phong phú lên.
Câu 11. Quan điểm tiếp cận tương đối luận trong văn hóa học (tài liệu 2, 3,4, 5, 6)
Thuyết tương đối văn hoá (Cultural relativism)
1
một học thuyết ra đời tạiMỹ với quan điểm cho rằng không có những nền văn hoá bậc
cao nền văn hoá hạđẳng, mọi nền văn hoá đều bình đẳng trong môi trường của chúng.
Mọi thành tố củavăn hoá có mối quan hệ chặt chẽ với chính bản chất đặc trưng của văn
hoá. Giữa haicuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ I và lần thứ II, thuyết tương đối văn hoá
đã trở thành công cụ quan trọng để các nhà nhân học Mỹ khước từ một sự thống nhất
văn
1
Xét về mặt từ nguyên relativism gần với nghĩa của từ tương đương trong tiếng Việt hơnlà
tương đối. Trong học thuyết Cultural relativism ý nghĩa thuật ngữ của Boas cũng nhưvậy
(tính cân bằng – tưong đương, không nên có sự phân biệt đối xử với các nền vănhoá). Ở
Việt Nam thuật ngữ này được sử dụng phổ biến là Thuyết tương đối văn hoá. Vìvậy,
trong nội dung bài này chúng tôi sử dụng cách gọi phổ biến trên
hoá” cải biến các nền văn hoá phi phương Tây. Đây thể coi một trong nhữngđóng
góp lớn lao nhất của Fran Boas các nhà khoa học cùng chí hướng vớiông trong việc
chuyển đổi từ nhận thức luận trở thành phương pháp luận. Sự chuyểnđổi này của thuyết
tương đối văn hoá là một công cụ phục vụ đắc lực cho sự ra đờicủa Tuyên ngôn nhân
quyền của Liên Hợp Quốc ngày 10/12/1948. Có thể nói,thuyết tương đối văn hoá cùng
với thuyết đặc thù văn hoá của Fran Boas đã ghi mộtdấu ấn hết sức quan trọng trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa vị chủng (racism)và chủ nghĩa phát xít (facism) đem lại quyền
tự do, bình đẳng của con người không phân biệt đẳng cấp, chủng tộc, màu da... Sự tồn tại
của nền tảng xã hội Mỹ và các
16
quốc gia văn minh có được ngày hôm nay có một phần đóng góp kng nhỏ củanhững
học thuyết này.Tương đối luận văn hóa có mục đích chính là để nhấn mạnh rằng mi một
nềnvăn a những chuẩn mực” riêng củatrong việc hiểu đánh giá, từ đó cácnhà
nghiên cứu có những cách tiếp cận phù hợp, tránh những quan điểm áp đặt, vịchủng luận.
Hiển nhiên có những ứng xử được coi là bình thường trong xã hội này,nhưng lại không
bình thường hay thậm chí không tồn tại trong xã hội khác. Chúng ta biết rằng cùng một
âm thanh, động tác, biểu tượng hay hành động của xã hội này cóthể có ý nghĩa khác nhau
(hay không có ý nghĩa) trong xã hội khác. Vì vậy, áp dụngchuẩn mực của một xã hội này
vào một xã hội khác đơn giản không thực sự đúng vàcó thể là sai.Herscovits đã chia học
thuyết này ra làm ba phương diện:1. Phương diện phương pháp luận: được thể hiện: khi
miêu tả các giá trị củacác nền văn hóa khác nhau thì cần phải miêu tả bằng chính các
thuật ngữ của cácnền văn hóa ấy. Mục đích của phương pháp này là cố gắng tìm hiểu nền
văn hóa từtrong lòng nó bằng ánh sáng của chính xã hội đó. Đây là phương pháp cơ bản
trongnghiên cứu nhân học theo cách nghĩ cách nhìn của người bản địa. Đó là một
quátrình tìm hiểu lâu dài vì nhà nghiên cứu phải thâm nhập, hiểu rõ họ, sống cùng vớihọ
ngay cả phải thực hành những nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng.2. Phương diện triết học:
Đó sự thừa nhận nhiều con đường phát triển vănhóa khác nhau. Đây là chủ nghĩa đa
nguyên. Với quan điểm triết học này, các nhàtương đối luận văn hóa phủ nhận các nền
văn hóa phát triển theo một con đường mà phải phát triển theo nhiều con đường khác
nhau. Đây cũng là cách để chống lại chủnghĩa đế quốc phương Tây (trong bối cảnh toàn
cầu hóa, hiện ợng hòa nhập). Đâychính chủ thuyết không tuyệt đối hóa một kiểu phát
triển văn hóa nào.3. Phương diện thực tiễn đánh giá: Điều này được i lên rằng, trong
thực tếrất phức tạp, bao hàm cả việc tiến bộ lẫn lạc hậu. Nên khi xem xét một nền văn
hóanào cũng phải thực tiễn đánh giá. Điều này có nghĩa là, nhà nghiên cứu phải thựctiễn
vào nền văn hóa, sống trong nó, làm việc trong nó, khi ấy mới có một cái nhìntrung thực
được. Nghiên cứu văn hóa, hơn bao giờ hết, mục đích là tìm cho được cái khuôn củanền
văn hóa đó. Chúng mang một màu sắc đặc trưng của dân tộc, tôn giáo, xã hội...mà màu
sắc ấy thể hiện rất nhạt nhòa trong các nền văn hóa khác. Ví dụ: Ở Ấn Độtriết lý khổ
hạnh và thang bậc đẳng cấp đã bao trùm nền văn hóa nước này; Ở NhậtBản trung thành
với nhà vua là tư tưởng chủ đạo. Nó thể hiện tính toàn vẹn trongvăn hóa. Chính vì vậy,
nghiên cứu văn hóa là nghiên cứu tính toàn vn đó để thấyđược những giác trị riêng của
từng nền văn hóa. Chúng ta biết rằng, văn hóa lànhững cái rất riêng của mỗi dân tộc, mỗi
cộng đồng người (không có văn hóa củatừng thể). Nó là kết tinh của một chuỗi dài
thời gian và lối sống của một dân tộcnào đó. Chính vì vậy, trong vấn đề nghiên cứu văn
hóa, không có hiện tượng áp đặtvăn hóa. Không thể cho và cũng không thể có một mô
hình chung để từ đó các nềnvăn hóa lần lượt phát triển theo. Học thuyết tương đối văn
hóa này, đúng tên gọi củanó là một sự không áp đặt khi xem xét. Mà quá trình nghiên
cứu, giải mã nó phảixuất phát từ bên trong, trong lòng nền văn hóa đó. Ví dụ: để tìm hiểu
nền văn hóaViệt Nam, thì một người Mỹ hay Anh không sống trên đất nước này, không
tham gialao động sản xuất, không thực hiện niềm tin tôn giáo... thì không thể nghiên cứu
trọnvẹn được. Và có nếu có được chăng nữa thì đó chỉ là cái sát không hồn. Bởi
mộtnền văn hóa nào cũng mang đậm dấu ấy của duy, của tình cảm, của ước mong...của
dân tộc ấy. Với học thuyết này, và các học thuyết khác như thuyết chức năngvăn hóa,
thuyết truyền bá văn hóa... đã làm cho văn hóa học được nhiều người chú ýđến. Tuy văn
hóa học ngày nay vẫn chưa phát triển mạnh ở trong nước cũng như
24
Dựa trên cơ sở lý thuyết của Max Webber về xung đột quyền lực và của KarlMarx về
xung đột giai cấp, thuyết xung đột cho rằng các mâu thuẫn và xung độtkhông chỉ là đặc
trưng mà còn giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội.Xã hội là sự kết nối
không ngừng các va chạm của những lực lượng hội khácnhau, không hoàn cảnh
nào không có xung đột. Đến những năm 70 của thế kỷXX chứng kiến sự đua nở của
thuyết xung đột như trào lưu khoa học. T. Parsonsnhấn mạnh đến sự đồng thuận và hòa
nhập xã hội, những giá trị được thể chế hóa,trong khi coi thường những xung đột về g
trị và lợi ích trong xã hội. Coser lại chorằng với sự thống trị của chức năng luận và hệ
thống - cấu trúc, suốt một thời giandài tư duy xã hội học đã bỏ quên khái niệm xung đột
và thay vào đó các khái niệmthích nghi và căng thẳng. David Lockwood đã làm cho giới
nghiên cứu chú ý tới sựtồn tại của xung đột và mâu thuẫn cũng có vai trò quan trọng
không kém gì sự hộinhập. Ông không tin sự biến đổi xã hội là có trật tự hay tổ chức xã
hội có bản chấthài hòa. Pierre Bourdieu cũng theo xu hướng này và phê phán sự bất bình
đẳng trongquan hệ giới, trong truyền thông đại chúng, cũng như trong văn học nghệ
thuật. Cáchọc giả của trào lưu xung đột thường đưa ra những lý giải về sự hội nhập và
biến đổixã hội trên cơ sở của quyền lực, sự theo đuổi những lợi ích kinh tế và chính trị
tronghoạt động thực tiễn của con người. Trong đó, theo họ, mâu thuẫn và xung đột
hộilà hiện ợng phổ biến lặp đi lặp lại trong c xã hội, các nền văn hóa khác nhau.Xung
đột không chỉ diễn ra ở mọi cấp độ trong hệ thống xã hội như giữa các cá nhân,các nhóm
xã hội, các giới, các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các quốc gia màcòn diễn ra
trong mọi lĩnh vực tiểu hệ thống của văn hóa như tư tưởng, tôn giáo,nghệ thuật, v.v.
Trong đó, mỗi hiện tượng văn hóa đại diện cho lợi ích của mộtnhóm người có tiểu văn
hóa riêng của nhóm người đó. Đến một cấp độ nhất định,khi một giá trị, chuẩn mực tồn
tại như một đơn vị, vận hành vì lợi ích của một nhómnời, được nhóm người đó tôn
sùng, nâng lên thành lý luận và bảo vệ, khi đó đơnvị văn hóa đó là một hệ tư tưởng. Mâu
thuẫn, xung đột giữa các hệ tư tưởng chính là biểu hiện tập trung của mâu thuẫn, xung
đột giữa các dân tộc thuộc các nền văn hóakc nhau. Câu hỏi cơ bản được đặt ra theo
hướng nghiên cứu này là liệu có nhữngyếu tố mâu thuẫn, xung đột trong đời sống văn
hóa của xã hội và mỗi yếu tố đượcủng hộ bởi những nhóm lợi ích hay giai tầng cư dân
nào không.Quan điểm hậu hiện đại phủ nhận sự đối lập giữa văn hóa bác học và văn
hóađại chúng, nghi vấn những dạng thức được xem là thẩm mỹ cao, bền vững hay
phổquát. Quan điểm hậu hiện đại cho rằng văn hóa được duy trì và lưu dấu bởi những
phẩm chất mơ hồ, không chắc chắn của thế giới cuàng với mức độ phân thân cao củaxã
hội cũng như cá nhân. Chủ nghĩa hậu hiện đại nghi ngờ bất cứ quan điểm, kháiniệm,
thuật ngữ nào được cho là có bản chất chung. Quan điểm hậu hiện đại phủnhận các câu
chuyện dân tộc, những hướngthuyết phổ quát được xem là cơ sở cho sự khẳng định
của mọi hoàn cảnh. Chủ nghĩa hậu hiện đại cổ súy cho những biến cố có tính chất địa
phương, hướng đến sự đa dạng, sự sáng tạo, trân trọng sựkhác biệt và sự đặc thù của con
người, của những vùng văn hóa khác nhau. Quanđiểm hậu hiện đại cho rằng tri thức là
đặc trưng riêng mang tính địa phương, tính đadạng. Các dạng thức văn hóa được đặc
trưng bởi sự tự phân tách, kĩ thuật khảm kếtvà liên văn bản. Các nhà lý luận chủ nghĩa
hậu hiện đại nhấn mạnh cá nhân nào cũngnằm trong cấu trúc nội tại của văn bản, và đó
lý do dẫn tới cái chết của chủ thể màngôn ngđã thác lời vào đó. Chủ nghĩa hậu hiện đại
đã phá bỏ tận gốc truyền thốnglý thuyết và chứng minh rằng cá nhân không thể tồn tại
độc lập trong quá trình tưduy mà luôn bị chi phối một cách vô thức bởi những cấu trúc
ngôn ngữ. Luận điểmnày đã trở thành hằng số quan trọng nhất để nhận diện chnghĩa
hậu hiện đại. Theođó, chủ nghĩa hậu hiện đại thừa nhận những quyền lực, quá trình tồn
tại bênngoài cá nhân, không phụ thuộc vào ý chí và tư tưởng của cá nhân.
25
Câu 21. Các phương pháp thu thập xử dữ liệu nghiên cứu định tính trong văn hóa
học (tài liệu 4, 5)
Nghiên cứu định tính là phương pháp tiếp cận và thu thập dữ liệu nhằm mô tảvà giải
thích đặc điểm văn hóa và hành vi của nhóm người từ quan điểm của nhànghiên cứu. Đây
là hướng nghiên cứu linh hoạt giúp phát hiện những chủ đề nghiêncứu chưa nhân diện
được trước đó. Nghiên cứu định tính thiên về chủ quan, cần sửdụng nhiều phương pháp
khác nhau để thu thập thông tin như quan sát - tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm.
Trên cơ sở xác định vấn đề nghiên cứu, nhà nghiêncứu cần nắm vững các phương pháp
quan sát - tham dự (công khai hay bí mật, quansát hành vi hay quan sát tổng thể), phỏng
vấn sâu (phỏng vấn cấu trúc hay phi cấutrúc hay bán cấu trúc) để tiến hành nghiên cứu,
thu thập dữ liệu.Dịch là sự biến động, mà vận động không ngừng là bản chất của vũ trụ,
nêndịch học hay tri thức về sự vận động cũng là sản phẩm của triết lý Âm Dương dovăn
hóa gốc nông nghiệp mang tính tĩnh, sinh ra tư duy động. Dịch lý là nguyên lýchung của
tư duy vận động dựa trên tri thức dịch học. Cơ sở chung của dịch học vàdịch lý là triết
âm dương. Khoa học theo truyền thống phương Tây dựa trên phương pháp logic đối lập
tĩnh tại và chủ yếu chú trọng yếu tố phân bố cực đoan,trong khi vạn vật trong vũ trụ đều
vận động không ngừng phân bố theo nguyên lýâm dương. Mọi quy luật tìm được trong
các khoa học phương Tây đều không nằmngoài quy luật âm dương. Phép biện chứng duy
vật chịu ảnh hưởng của tư tưởng phương Đông đã bổ sung tư tưởng coi trọng quan hệ, từ
đó khắc phục được khiếmkhuyết của phương pháp logic truyền thống. Như vậy, phương
pháp dịch lý là phương pháp sử dụng các đặc tính và quy luật của triết lý âm dương nói
riêng, dịchhọc nói chung nhằm mục đích bổ sung cho phương pháp logic truyền thống.Hệ
thống là thể thống nhất của tập hợp các yếu tố cấu thành và mạng lưới cácquan hệ giữa
chúng. Hệ thống có tính chỉnh thể vì tồn tại sự khác biệt về chất so với phép cộng đơn
thuần tổng các yếu tố cấu thành. Hệ thống còn có tính bất quy vì cáctính chất của nó
không quy về tổng tính chất của các thành tố. Bên cạnh đó, hệ thốngtính hợp lực vì sự
đồng hướng của các hành động / phẩm chất của các thành tốtạo nên hiệu quả gia tăng
theo cấp số nhân. Tính cấp hệ của hệ thống thể hiện ở chỗmỗi hệ thống là thành tố của
một siêu hệ thống bậc cao hơn, song cũng cha trongnó các thành tố là những tiểu hệ
thống bậc thấp hơn. Tính tương tác của hệ thống vớimôi trường giúp nó có thể tự điều
chỉnh để tạo thế cân bằng sao cho phù hợp vớinhững biến đổi của môi trường. Theo quan
hệ với môi trường, có hệ thống đóngkhông có trao đổi với môi trường một cách chủ
động, có hệ thống khép có trao đổivới môi trường vmặt vật chất và không trao đổi vi
môi trường về mặt tinh thần,lại cũng có hệ thống cô lập không trao đổi với môi trường
một cách bị động. Theothời gian, hệ thống đóng sẽ ngày càng hỗn độn (ví dụ như hệ
thống xã hội chủ nghĩaLiên Xô cũ), hệ thống m sẽ có khả năng tự điều chỉnh vì tự do
trao đổi với môitrường cả về mặt vật chất lẫn mặt tinh thần. Hệ thống xã hội chủ nghĩa
quá độ hiệnnay trên thế giới là hệ thống khép (có trao đổi vmặt vật chất nhưng kng
trao đổivề mặt tinh thần). Phương pháp hệ thống là phương pháp tư duy và hành động
nhằmtìm kiếm, xác lập hoặc mô phỏng các mi quan hệ qua lại giữa các thành tố của
đốitượng duy hành động. Phương pháp hệ thống cũng nguồn gốc từ tưởngdịch
học, coi trọng cả quan hệ lẫn thành tố. Nhưng phương pháp hệ thống vẫn sản phẩm của
tư duy phân tích tổng hợp. Phương pháp dịch lý giúp phương pháp hệthống mềm dẻo
hơn, từ đó khắc phục được tính tĩnh tại, quá rạch ròi của phương pháp hệ thống.Loại hình
là chùm đặc trưng cần và đủ để khu biệt một nhóm phân loại với cácnhóm phân loại còn
lại. Phương pháp loại hình là cách dùng các thủ pháp phân loại, so sánh và đối chiếu để
quy đối tượng nghiên cứu về một trong những loại hình đã biết, vận dụng những chùm
đặc trưng này để giải thích đối tượng nghiên cứu.
Câu 22. Các phương pháp thu thập xử dữ liệu định lượng trong vănhóa học (tài liệu
4, 5)
Phương pháp nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu. Phương pháp
nghiên cứu khoa học không chỉ là thao tác, cách thức giải quyết vấn đề mà còndựa vào
thuyết diễn giải bằng chứng và lập luận khoa học. Vì vậy, phương phápnghiên cứu khoa
học gắn liền với những yêu cầu phương pháp luận, yêu cầu xử lýdữ liệu cùng các quy
trình cụ thể khác. Trong nghiên cứu khoa học, các tư liệu và dữkiện đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Tùy đối tượng và mục tiêu nghiên cứu màchọn cách thức thu thập dữ liệu,
đảm bảo việc thu thập tư liệu đủ để nghiên cứu,diễn giải, chứng minh, kiểm nghiệm, gồm
cả tư liệu có sẵn cần sưu tầm, tập hợp vàcác tư liệu trực tiếp điều tra, thu thập. Nghiên
cứu định lượng phương pháp thuthập dữ liệu bằng các con số, thường sử dụng bảng hỏi
để chuẩn bị theo cấu trúcnhất định cho tất cả các đối tượng nghiên cứu. Đây là hướng
nghiên cứu thườngđược áp dụng trong các điều trahội học. Nghiên cứu định lượng đòi
hỏi tínhchính xác khách quan với những số liệu đo đếm được. Tuy nhiên, nghiên cứu
địnhlượng dễ bị hạn chế trong diễn giải hoặc gặp phải những sai số ngữ cảnh liên
quanđến cuộc phỏng vấn.

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA HỌC
Câu 1. Khái niệm Văn hóa, Văn minh, Văn hiến, Văn vật Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm đa dạng nhiều nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của
nó như văn hóa nghệ thuật, nếp sống văn hóa.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong
từng lĩnh vực như văn hóa kinh doanh, văn hóa giao tiếp.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo không gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị đặc
thù của từng vùng như văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên, văn hóa Nam Bộ.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo thời gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị tương
ứng trong từng giai đoạn (trình độ phát triển của 1 giai đoạn) như văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn.
Theo nghĩa rộng, văn hóa được xem là bao gồm tất cả mọi phương diện, những gì do con người sáng tạo ra.
Theo E.B.Tylor, văn hóa hay văn minh một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục bất cứ năng lực tập quán nào
con người đã đạt được như một thành viên của hội.
Theo Trần Ngọc Thêm, “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra và tích lũy qua các quá trình hoạt động thực tiễn, trong đó có sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Văn minh
Khái niệm này dịch từ ngôn ngữ phương Tây “Civilasation” (bắt nguồn từ chữ Civitas –
đô thị), chỉ trình độ phát triển cao của văn hóa, đặc trưng cho 1 khu vực rộng lớn, 1 thời
đại hoặc cả nhân loại. “Văn minh là trạng thái tiến bộ cả về vật chất và tinh thần của xã
hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Trái với văn minh là dã man”.
Đặc trưng của văn minh:
+ Trạng thái phát triển cao của nền văn hóa, hay một “lát cắt” của lịch sử, cho biết trình
độ phát triển ở một thời đại, nghĩa là phải có những tiêu chí xác định. Buổi đầu của thời
đại văn minh, tiêu chí chủ yếu là sự xuất hiện của nhà nước – tổ chức quản lý xã hội và
chữ viết – thành tựu tiêu biểu.
+ Mặc dù bao hàm cả giá trị vật chất và tinh thần, song văn minh thường nghiêng về yếu
tố vật chất – kỹ thuật để xác định trình độ của một nền văn minh.
+ Tính quốc tế của văn minh biểu hiện ở chỗ những thành tựu, giá trị của nó rất dễ phổ
biến (ví dụ: thuốc súng, máy hơi nước…).
Ví dụ: văn minh nông nghiệp – dựa trên lao động chân tay của con người là chủ yếu, văn
minh công nghiệp – sức mạnh của máy móc.
Câu 2. Tính đặc thù của đối tượng nghiên cứu của văn hóa học từ khía cạnh văn hóa
học (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của
mình, con người luôn sáng tạo để làm nên các giá trị văn hóa. Một trong số những giá trị
văn hóa được con người sáng tạo ra chính là con người có văn hóa. Con người sáng tạo ra
văn hóa, đồng thời cũng chính là sản phẩm của văn hóa. Đối với mỗi cá nhân, văn hóa là
môi trường có sẵn mà đứa trẻ sau khi lọt lòng mẹ được nhúng vào. Nếu sau khi ra đời,
đứa trẻ bị đưa vào rừng, bị bứt khỏi cái nôi văn hóa, nó sẽ lớn lên như một con thú. Chỉ
có sống trong môi trường văn hóa, nó mới trở thành người. Tùy thuộc sống ở môi trường
văn hóa nào, đứa bé sẽ hình thành nhân cách văn hóa nấy. Một đứa trẻ do một bà mẹ Việt
Nam sinh ra và được lớn lên ở Việt Nam, nó sẽ mang trong mình dòng máu văn hóa Việt
Nam. Trên phương diện con người, những sản phẩm văn hóa tiêu biểu nhất là các danh
nhân. Họ luôn xuất hiện ở mọi dân tộc, mọi thời đại. Các danh nhân văn hóa những
đại diện xuất sắcnhất cho nền văn hóa của dân tộc, của thời đại; đồng thời, họ cũng là
những người góp phần quan trọng nhất vào việc phát triển, nâng tầm nền văn hóa của
dân tộc trong lịch sử. Văn hóa tạo nên các nhóm hội, và các nhóm xã hội đó lại tác
động mạnh mẽ đến sự bảo tồn và phát triển của văn hóa. Nhóm xã hội nào cũng đồng
thời vừa bảo tồn vừa phát triển văn hóa của dân tộc, song tùy theo tính chất của từng
nhóm xã hội, vai trò của chúng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc sẽ khác
nhau.Các nhóm xã hội càng có tính đồng nhất cao càng có khả năng bảo tồn văn hóa dân
tộc tốt, các nhóm xã hội càng có tính đa dạng cao càng có khả năng phát triển văn hóa
dân tộc tốt. Trên thế giới đâu đâu con người cũng tiến đến những tổ chức xã hộitương
đồng, nhưng mỗi cộng đồng dân tộc lại có những nét đặc thù riêng trong cách tổ chức.
Các cộng đồng làm nông nghiệp thường khép kín hơn, có tính đồng nhất cao hơn nên bền
vững hơn, trì trệ hơn. Các cộng đồng làm thương nghiệp, công nghiệp thường có quan hệ
giao lưu rộng hơn, dễ dàng biến đổi hơn, phát triển nhanh hơn, dễ hòa nhập hơn. Hoạt
động, phương thức hoạt động, công nghệ hoạt động của con người tạo ravăn hóa, và bản
thân cũng là văn hóa. Song không phải mọi hoạt động đều có tínhchất này. Con người là
một loài động vật bậc cao hoàn hảo, không bị giới hạn bởikhông gian cư trú, có thể sinh
tồn ở bất cứ nơi nào trên mặt đất, chỉ trong thời gianngắn đã có thể học hỏi và tiếp thu bất
cứ loại hoạt động phức tạp nào. Con người cóthể hành động một cách linh hoạt và sáng
tạo không theo bất kỳ một chương trìnhnào. Con người có thể hoạt động một cách tự do
vượt qua khỏi giới hạn của bảnnăng do tự nhiên quy định. Những hoạt động sáng tạo này
chỉ có thể có và phát triểntrong môi trường xã hội, trong sự giao tiếp thường xuyên với
đồng loại. Đó là hoạtđộng xã hội - sáng tạo. Chỉ có hoạt động xã hội - sáng tạo mới có
khả năng tạo ravăn hóa và là một phần của văn hóa. Chỉ có những hoạt động mang tính
nhân bản, vìlợi ích của con người mới tạo ra văn hóa, và là văn hóa. Hoạt động sáng tạo
theonghĩa hẹp có tác dụng phát triển vốn văn hóa dân tộc. Hoạt động tái tạo không
pháttriển vốn văn hóa dân tộc, nó có tác dụng bảo tồn và phổ biến các giá trị văn hóa.Với
tư cách là một khoa học lý luận, văn hóa học có nhiệm vụ nghiên cứu vănhóa như một
đối tượng riêng biệt trên cơ sở những tư liệu do các ngành dân tộc học,sử học, ngôn ngữ
học, khảo cổ học, tôn giáo học cung cấp với mục đích phát hiệncác đặc trưng, những quy
luật hình thành và phát triển. Nghiên cứu văn hóa dân tộckhông chỉ tìm hiểu cái gì? Mà
còn tìm hiểu tại sao? Như thế nào? Nhờ đi vào chiềusâu, tìm tòi những mối liên hệ có
tính bản chất giữa các sự kiện, văn hóa học cho phép biết được một dân tộc sống ở đâu,
ăn như thế nào, có thể nói được dân tộc đómặc và ở ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế
nào. Từ đó có thể lý giải các tư liệu vănhóa mà con người bắt gặp được.
Với tư cách khách thể nghiên cứu của Văn hóa học, văn hóa có thể được hiểunhư kinh
nghiệm xã hội của con người thông qua việc tích lũy có chọn lọc, việc ápdụng những
hình thức hoạt động và tác động lẫn nhau, được lựa chọn trên cở sở phùhợp với tiêu chí
không làm tổn hại tính đoàn kết của cộng đồng, được củng cố bởi hệthống các giá trị, quy
tắc, chuẩn mực, truyền thống, … Văn hóa được thể hiện tronghệ thống các quy định có
tính điều chỉnh như phong tục, đạo đức, luân lý, nghithức, … Chúng được vật thể hóa
trong các đặc điểm của các kết quả hoạt động củacon người nhằm thỏa mãn quyền lợi và
nhu cầu của cá nhân hoặc tập thể. Văn hóa lànội dung cơ bản của mọi phương thức giao
tiếp giữa người với người để hình thànhcác đặc điểm mã văn hóa của loại giao tiếp đó.
Chúng xác định nội dung và phương pháp của quá trình xã hội hóa nhân cách con người.
Chúng được chuyển giao từ thếhệ này sang thế hệ khác qua các truyền thống, phong tục,
định hướng, giá trị, quy tắc.Và văn hóa là cốt lõi nội dung của quá trình tái sản xuất xã
hội, của các đặc điểmlịch sử cụ thể mang tính địa phương trong các hệ thống
Câu 3. Vai trò của ti p xúc và ti p bi n văn hóa (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Văn hóa theo nghĩa rộng đóng vai trò điều chỉnh trong việc xác lập môi trườngsinh thái
nhân văn hài hòa. Tiếp xúc và tiếp biến văn hóa vừa là tiền đề vừa là độnglực của sự phát
triển. Tiếp xúc và tiếp biến là nhu cầu tự nhiên và cũng là điều kiệncủa sự phát triển, sự
tiến hóa văn hóa. Tiếp xúc và tiếp biến văn hóa tạo nên sự dunghợp, tổng hợp, tích hợp
văn hóa ở cộng đồng. Mỗi tộc người đều có những nét vănhóa riêng biệt từ điều kiện giao
tiếp - trao đổi - cộng cư - di cư, các tộc người sẽ cóquá trình học hỏi văn hóa lẫn nhau để
tiếp thu những sắc thái văn hóa của nhau. Tiếpxúc và tiếp biến văn hóa tạo nên những
khác biệt cho các cộng đồng tộc người tạicác vùng văn hóa.
Câu 4. Khái niệm văn hóa và Bình diện thứ nhất: Phổ quát và đặc thù (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Sự tiến triển của văn hóa học thời kỳ hậu chủ nghĩa Stalinist đã chứng tỏ sựhợp lý của nó
đối với những truyền thống dân tộc của thuyết phổ quát lẫn đối vớinhững mô hình đa
nguyên tự do. Văn hóa là một chỉnh thể của những lĩnh vực, hoạtđộng, bao hàm tính đa
dạng của các nền văn hóa, mỗi nền văn hóa có cơ sở hìnhthành riêng. Trong khi quan tâm
đến văn hóa với tư cách là cái toàn thể (a whole),văn hóa học cũng thừa nhận tính đa
dạng của những cái toàn thể ấy (wholes) và phân biệt chúng bằng “giá trị”. Nếu trong
một nền văn hóa, những lĩnh vực chuyên biệt và đa dạng được liên kết bởi một trực giác
chung, tính đặc thù của trực giácchung đó sẽ giúp phân biệt các nền văn hóa khác nhau ở
cấp độ toàn cầu. Bình diệnnày của văn hóa học được phát triển xuyên suốt với Aleksei
Losev trong nhữngnghiên cứu của ông về mĩ học cổ định, giữ tính đặc thù của nó trên tất
cả các cấp độ phân tích. Losev chỉ rõ rằng đằng sau những lý thuyết trừu tượng nhất về
phép biệnchứng của sự đồng nhất và khác biệt của trường phái Platon, và thẳm sâu trong
toàn bộ tính cổ xưa tồn tại một trực giác mạnh mẽ và không thể chối bỏ về một trực
giáccủa toàn bộ hiện thực với tư cách là một cơ thể sống. Hai bình diện phổ quát và
đặcthù của văn hóa học là không thể chia tách nhưng tầm quan trọng của mỗi bình
diệnkhông giống nhau trong từng công trình nghiên cứu. Từ thập niên 1920, trong
khiBakhtin nhấn mạnh đến bản chất đối thoại của nền văn hóa trong những khác biệtnội
tại và ngoại biên của nó, Losev lại thiên về lý thuyết hóa tính đồng nhất của vănhóa như
một biểu thị đa diện của một trực giác căn bản và nguyên sơ.
1.1. Bình diện thứ hai: Ổn định và biến đổi (tài liệu 1, 2, 3, 4) 5
Câu 5. Khái niệm văn hóa và Bình diện thứ ba: Sinh thái văn hóa và tiếpbiến văn hóa (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Mối quan hệ tương tác giữa tự nhiên, xã hội và văn hóa gắn liền với nhữngnghiên cứu
Jullian Stuard (1902-1972). Hướng cơ bản trong các công trình này làtìm hiểu sự thích
nghi của con người xã hội với môi trường xung quanh, tìm hiểu vànhận biết các đặc điểm
của hệ thống chỉnh thể xã hội dưới tác động của các hệ sinhthái. Sinh thái học văn hóa là
một mô hình lý thuyết nhằm tìm hiểu mối quan hệ qualại giữa con người và môi trường
tự nhiên bao quanh, mà văn hóa là sản phẩm củamối quan hệ đó. Những người theo
thuyết sinh thái học văn hóa cho rằng văn hóamỗi tộc người được tạo ra bởi những nguồn
tài nguyên và ranh giới của môi trườngchung quanh, kể cả những thay đổi của môi
trường đó. Kiểu văn hóa được hiểu làmột tập hợp những nét khu biệt cho một lối sống do
kết quả thích nghi với môitrường xung quanh. Nó là hạt nhân của văn hóa - cái gắn liền
với các hoạt động tạora phương thức tồn tại và các thiết chế xã hội. Tiếp cận sinh thái học
văn hóa vì vậyđòi hỏi phải tìm hiểu sâu nội dung, đặc điểm cũng như những hệ quả tinh
thần củamột nền văn hóa ở môi trường tự nhiên đã hình thành nên chúng.Việc nhận thức
con người là một bộ phận của tự nhiên, nằm trong một chỉnhthể thống nhất không đồng
nghĩa với việc tách rời nó khỏi việc phải sống hài hòa vớitự nhiên, thúc đẩy nhiều nhà
nghiên cứu xét sự ảnh hưởng của môi trường đến cácthành tố văn hóa trong đời sống con
người. Điều kiện môi trường nơi tộc người cưtrú có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành
các yếu tố văn hóa đảm bảo đời sống. Cóthể nói, sinh sống lâu đời trong một môi trường
sinh thái quen thuộc nên mỗi tộcngười đã hình thành nên những kiểu thích ứng với môi
trường nhất định, tạo nênnhững truyền thống sinh hoạt kinh tế xã hội - văn hóa riêng. Sự
thích nghi của conngười với điều kiện tự nhiên nơi cư trú có thể được thể hiện trong
những đặc trưngvăn hóa cũng có thể thể hiện trong những đặc trưng nhân chủng. Sự thay
đổi củanhững điều kiện tự nhiên cũng như việc xuất hiện những cảnh quan văn hóa đa
dạngvới những yếu tố nhân chủng ở mức độ nhất định gắn liền với tộc người và được
thểhiện trong những đặc trưng văn hóa của tộc người đó. Vì vậy, cuộc sống ngườinguyên
thủy vốn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên nên dấu ấn của môi trường đếncác khía
cạnh khác nhau của tộc người đó còn rõ ràng. Cùng một tộc người nhưngsinh sống trong
môi trường khác nhau, trải qua một thời gian nhất định cũng hìnhthành những yếu tố văn
hóa khác nhau bởi chính điều kiện tự nhiên hoặc do sự vaymượn những tộc người sống
trong địa bàn đó. Tinh thần cơ bản của thuyết sinh tháihọc văn hóa là lao động sáng tạo
của con người đã làm nên một thiên nhiên thứ hai,và con người là một thực thể mang tính
sinh vật, nên cái thế giới nhân tạo dù vượtqua giới hạn của tự nhiên vẫn không thể là cái
gì nằm ngoài thiên nhiên thứ nhất(thiên nhiên thiên tạo). vì vậy, mối quan hệ giữa hai cái
thế giới thiên nhiên phảiluôn được tính đến trong cuộc sống con người. Thuyết sinh thái
học văn hóa đã chỉra mối quan hệ gắn bó giữa môi trường tự nhiên và văn hóa, trong đó
các môi trườngtự nhiên đặc thù là cơ sở cho việc hình thành các mô hình văn hóa khác
nhau. Lýthuyết sinh thái học văn hóa muốn mở rộng khuôn khổ cho việc giải thích các
vấn đềcủa đời sống xã hội. Vì mỗi tộc người đều sinh sống trên một lãnh thổ nhất định,
màmôi trường địa lý nơi tộc người đó sinh sống trong mối quan hệ qua lại với thiênnhiên
đã ghi dấu ấn và tác động sâu sắc đến văn hóa của chính tộc người đó nênmuốn tìm hiểu
những đặc trưng của văn hóa tộc người cần phải quan tâm đến khôngchỉ lịch sử tộc người
mà cả môi trường nơi tộc người đó sinh sống. Tuy nhiên, lýthuyết sinh thái học văn hóa
chưa làm rõ sự tác động ngược trở lại của văn hóa đốivới môi trường tự nhiên. 6
Câu 6. Khái niệm văn hóa và Bình diện thứ tư: Bản sắc văn hóa (tài liệu 1, 2,3, 4)
Bản sắc theo đại từ điển tiếng Việt là sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng khác, tínhchất riêng
tạo thành đặc điểm chính. Nói cách khác, bản sắc là đặc điểm căn bản,đặc thù của riêng
một cá nhân hoặc cộng đồng. Ngoài là hệ thống giá trị bền vữngđược định hình và phát
triển trong suốt tiến trình lịch sử của nền văn hóa, bản sắcvăn hóa còn là một kiểu quan
hệ. Trong đó, hệ giá trị của bản sắc văn hóa được hìnhthành trong lịch sử, không ngừng
tự hoàn thiện, tiếp thu, và bổ sung những nội dungmới tiến bộ. Bản sắc văn hóa là cái cốt
lõi bên trong, cái sức mạnh tiềm tàng, là sứcsống bên trong của mỗi nền văn hóa, là động
lực nội sinh thúc đẩy sự phát triển xãhội. Bản sắc văn hóa được thể hiện một cách sâu sắc
và cô động trong hệ giá trịchính trị, nghệ thuật, đạo đức. Bản sắc văn hóa thường được
phát triển theo quy luậtkế thừa và tái tạo để ngày càng sâu sắc hơn các giá trị vốn có
trong tiến trình pháttriển của nền văn hóa.Bản sắc là những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi,
lâu bền, được biểu hiện ra ngoài. Nếu văn minh chỉ ra trình độ phát triển của một xã hội,
thì bản sắc văn hóa chỉ ranhững giá trị tồn tại lâu bền hơn cả ở một nền văn hóa. Nói đến
giá trị lâu bền hơncả được thể hiện ra ngoài, con người thường gán cho những giá trị văn
hóa vật chấtlớn mà muốn làm được những công trình kiến trúc vĩ đại như thế thì phải hội
đủ điềukiện về nhân lực, vật lực và môi trường. Tuy nhiên, thực tế, bản sắc văn hóa là
cáitinh thần được các công trình có giá trị vật chất đó thể hiện. Cái tinh thần được vậtchất
hóa trở thành sức mạnh. Bản sắc văn hóa là cái ổn định tĩnh tại trong một thờigian dài. Là
hệ thống các giá trị sống cốt lõi ít bị biến đổi, bản sắc văn hóa vừa phổquát vừa đặc thù,
và được chọn lọc dựa trên tính cách tâm lý, trải nghiêm lịch sử, vàmôi trường sống của
các dân tộc, tộc người. Được biểu hiện thành sắc thái bên ngoài, bản sắc văn hóa phân
biệt cá nhân, cộng đồng, dân tộc này với các cá nhân, cộngđồng, dân tộc khác.Trong một
khoảng thời gian ngắn, tinh thần là cái biến động, còn vật chất làcái ổn định. Nhưng trong
một khoảng thời gian lâu dài, vật chất bị hủy hoại theo sựhủy hoại của chất liệu tạo nên
vật thể ấy. Còn cái tinh thần sẽ mang tính ổn định hơn,khó thay đổi được. Chẳng hạn, tính
cách dân tộc vô cùng bền vững. Việc nhận diệnmột giá trị văn hóa có phải đặc trưng bản
sắc không phụ thuộc vào ba dấu hiệu:Thứ nhất, giá trị văn hóa đó đã tồn tại tương đối lâu
dàiThứ hai, giá trị văn hóa đó có tác dụng chi phối các cách ứng xử và hoạt độngcủa văn
hóa.Thứ ba, giá trị văn hóa đó có khả năng cùng với các đặc trưng bản sắc còn lạikhu biệt
nền văn hóa đó với các nền văn hóa khácĐặc trưng bản sắc không phải là cái duy nhất chỉ
có ở nền văn hóa đó. Nhưng bản sắc văn hóa trong chỉnh thể phối hợp với cả các đặc
trưng còn lại phải cho phép phân biệt được một nền văn hóa với các nền văn hóa khác.
Như vậy, nhìn chung, bản sắc văn hóa là hệ thống giá trị tinh thần ổn định tương đối lâu
dài hơn cả trongtruyền thống văn hóa, tạo nên tính đặc thù của nền văn hóa, khu biệt nền
văn hóa đóvới các nền văn hóa khác. Bản sắc văn hóa là cái gốc ổn định của một nền văn
hóa,nó thể hiện ở lĩnh vực tinh thần rõ hơn lĩnh vực vật chất, ở đàn bà rõ hơn đàn ông, ở
nông thôn rõ hơn thành thị, ở người già rõ hơn người trẻ, … Bởi vì mang tính ổnđịnh
tương đối lâu bền, nên bản sắc văn hóa vẫn có thể được điều chỉnh, biến đổi dùsự điều
chỉnh, biến đổi diễn ra rất chậm, và khó khăn. Vì vậy, trong quá trình côngnghiệp hóa -
hiện đại hóa xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cái bản sắc 11
2. Đặc điểm chung của văn hóa học với tư cách là một khoa học (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Câu 6. Phân biệt Culural Studies (VHH/NCVH) Culturology (VHH)
Culturalogy là một chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn Nga, có nền móng từ
những công trình của Nikolai Danilevski (1822-1885) và PavelFlorensky (1882-1937),
phát triển đến đỉnh cao trong những thạp niên 1960-1980với những công trình của
Mikhail Bakhtin (1895-1975), Aleksei Losev (1893-1988), Yuri Lotman (1922-1993),
Georgy Gachev, và Sergei Averintsev. Culturalogy nghiên cứu tính đa dạng văn hóa,
những phương thức tương tác và chức năng của các nền văn hóa mới tư cách là một siêu
ngành (metadiscipline) trong khoa học nhân văn nhằm khái quát và liên kết sự đa dạng
của những hiện tượng văn hóa vốn được các ngành khoa học nhân văn khác nghiên cứu
một cách biệt lập. Văn hóa trong cultural studies thực hiện chức năng vừa là đối tượng
nghiên cứu vừa là nơi định vị của hoạt động và phê bình chính trị. Culturology lại xác
định văn hóa là nơi định vịcủa những thực tiễn chính trị thông qua viễn cảnh của những
bối cảnh vốn có củachúng. Một thực hành tín ngưỡng hay một tác phẩm nghệ thuật được
giải mã không phải chỉ để hé lộ một thông điệp chính trị được mã hóa. Ngay cả những
hoạt độngcủa một đảng phái chính trị cũng có thể được xem xét qua lăng kính của văn
hóa họcnhư độ khúc xạ những mã nghi lễ, trò chơi ngôn từ hay những cổ mẫu tâm lý.
Cultural studies cố gắng vạch rõ và điều hòa sự phân rẽ tri thức để vượt qua sự phân hóa
giữa những dạng tiềm thức và những dạng thức phổ quát của tri thức. Cultural studies cho
rằng có tồn tại một sự đồng nhất chung và quyền lợi chung giữa người quan sát và cái
được quan sát. Còn culturology cố gắng tiếp cận văn hóa bằngnhững thuật ngữ riêng của
nó để tạo lập một ngôn ngữ chỉnh thể luận, tránh sa vào bất kỳ phương diện đơn lẻ nào
của văn hóa. Cultural studies quan tâm đến sự đánh giá đạo đức của xã hội hiện đại và
những phạm vi cơ bản của hoạt động chính trị. Truyền thống của cultural studies là can
dự vào sự tái cấu trúc xã hội thông qua sự phê bình chính trị. Vì vậy, cultural studies
hướng đến mục đích hiểu và biến đổi những cấu trúc ưu trội ở bên ngoài xã hội tư bản
công nghiệp. Cả cultural studies và culturology đều đặt mục tiêu vượt qua giới hạn tri
thức tự do thuần túy. Cultural studies tập trung vào những dạng thức văn hóa có tính
chính trị, và những dạng quyền lực về văn hóa, nhằm mục đích giải cấu trúc trong nghiên
cứu văn hóa. Culturology lại hướng đến việc mở rộng và nâng cấp những ý nghĩa của
biểu tượng văn hóa vượt qua ý nghĩa thực dụng tầm thường. Từ quan điểm văn hóa là
một cái toàn thể, culturology phê phán chính trị, xem chính trị như một dạng của sự hô
hào, như một dạng quan hệ của quyền lực, như một thứ chủ nghĩa thực dụng hẹp hòi. Nói
cách khác, culturology không hướng đến sự đối lập mà hướng đến sự vượt qua một thực
tiễn văn hóa có sẵn để sử dụng những mã hóađa tầng và giải mã từng hiện tượng của
nhân loại. Cultural studies hướng đến việc xác định vấn đề trọng tâm trong phạm vi của
những thực tiễn văn hóa và mối quan hệ của những thực tiễn văn hóa với quyền lực. Từ
đó, vạch ra những mối quan hệ quyền lực và xác định bằng cách nào những mốiquan hệ
này ảnh hưởng và định hình những thực tiễn văn hóa. Culturology lại hướngđến việc xác
định văn hóa với tư cách là nơi những thực tiễn tồn tại
Câu 8. Văn hóa học với các ngành khoa học có nghiên cứu về văn hóa (tài liệu 2, 3, 4, 5, 6) 12
Sự gắn bó nhiều nhất giữa văn hóa học với nhân học và xã hội học liên quanđến chủ thể
là con người. Trong khi đối tượng của văn hóa học là văn hóa, đối tượngcủa nhân học là
con người. Quan hệ giữa con người và văn hóa là quan hệ giữa chủthể và sản phẩm. Văn
hóa học có nhiệm vụ phát hiện các quy luật hình thành, vậnđộng của văn hóa, cũng như
diện mạo các hệ thống vùng văn hóa, tiểu vùng văn hóa,nền văn hóa. Trong khi đó, nhân
học có nhiệm vụ tìm hiểu nguồn gốc, sự tiến hóacủa con người và sự hình thành các
chủng tộc. Việc nghiên cứu văn hóa đối với vănhóa học vì vậy là mục đích cuối cùng,
nhưng với nhân học đó chỉ là một phương tiện.Phương pháp nghiên cứu của nhân học là
phương pháp thực nghiệm, coi trọng việcquan sát - tham dự, điều tra thực địa là những
điều không thể thiếu của nhân học haydân tộc học. Trong khi đó, việc quan sát - điều tra
chỉ mang tính bổ sung, không phảiyêu cầu bắt buộc vì phương pháp nghiên cứu của văn
hóa học là phương pháp làmviệc với tư liệu do các khoa học xã hội và nhân văn khác
cung cấp.Vì đối tượng của xã hội học là xã hội với tất cả mối liên hệ bên trong cũng như
bên ngoài của nó, nên xã hội học gần gũi với nhân học hơn là văn hóa học. Nhân họcnhìn
đối tượng từ xã hội được quan sát, còn xã hội học nhìn đối tượng từ xã hội củangười quan
sát. Tương tự như nhân học, xã hội học cũng chỉ coi việc nghiên cứu vănhóa (mục đích
cuối cùng của văn hóa học) là một phương tiện nhằm tìm hiểu tổ chứcvận hành và phát
triển của xã hội. Xã hội học cũng là một ngành khoa học xã hộithực nghiệm, sử dụng các
tư liệu thu thập được bằng phương pháp điều tra, khônggiống như văn hóa học chỉ sử
dụng phương pháp điều tra xã hội học để bổ sungthêm cho các tư liệu sẵn có do các
ngành khoa học khác cung cấp. Nhân học cũngnhư xã hội học đều là khoa học xã hội,
trong khi văn hóa học lại là khoa học nhânvăn gần với khoa học xã hội. Phần giáp ranh
giữa nhân học và văn hóa học là nhânhọc văn hóa và văn hóa học nhân loại, phần giáp
ranh giữa xã hội học và văn hóahọc là xã hội học văn hóa và văn hóa học xã hội. Trong
đó, nhân học văn hóa là một bộ phận của nhân học, xã hội học văn hóa là một bộ phận
của xã hội học. Chỉ vănhóa học nhân loại và văn hóa học xã hội mới thuộc về văn hóa
học.Khi xem xét văn hóa trong thời gian, mối quan hệ giữa văn hóa học với sử họcđứng
trước sự hình thành của môn văn hóa học lịch sử. Khi xem xét văn hóa trongkhông gian,
mối quan hệ giữa văn hóa học với địa lý học đứng trước sự hình thànhcủa môn văn hóa
học địa lý. Văn hóa học lịch sử là một bộ phận của văn hóa học cóđối tượng là văn hóa
nhìn trong thời gian, còn sử học văn hóa là một bộ phận của sửhọc có đối tượng là lịch sử
nhìn trong phạm vi văn hóa. Việt Nam văn hóa sử cươngcủa Đào Duy Anh là thuộc văn
hóa học lịch sử, còn Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn Khắc Thuần và
Lịch sử văn hóa Việt Nam giản yếu của NguyễnThừa Hỷ là thuộc sử học văn hóa. Tương
tự như vậy, văn hóa học địa lý là một bộ phận của văn hóa học có đối tượng văn hóa nhìn
trong không gian, còn địa lý họcvăn hóa là một bộ phận của địa lý học có đối tượng là địa
lý nhìn trong những sự vật- sự việc - hiện tượng văn hóa.Khu vực học giới hạn đối tượng
nghiên cứu theo không gian, có nhiệm vụ xemxét đồng thời các vấn đề văn học, sử học,
địa lý học, triết học, kinh tế học, văn hóahọc, xã hội học, sinh thái học trong mối quan hệ
biện chứng lẫn nhau giữa chúng.Còn văn hóa học giới hạn đối tượng theo lĩnh vực, không
giới hạn đối tượng theokhông gian, và có nhiệm vụ xem xét đồng thời văn hóa dân tộc
cũng như văn hóanhân loại. Những người theo chủ nghĩa chức năng đánh giá thấp vai trò
của lịch sử đốivới văn hóa. Họ cho rằng, hoạt động của hệ thống hiện hành trong xã hội
cụ thể làquan trọng hơn cả, vì vậy họ không chú ý đến việc tái cấu trúc văn hóa mà tập
trungnghiên cứu các xã hội như là nó không bị ảnh hưởng bởi thời gian.Đầu thế kỷ XX,
những tư tưởng của nhà xã hội học Pháp Durkheim chiếm vịtrí ưu thế trong nghiên cứu
xã hội học và nhân học thời ấy. Durkheim cho rằng xã 13
hội nào cũng tồn tại một thực thể mà ông gọi là ý thức tập thể, đóng vai trò quyếtđịnh hệ
thống giá trị, niềm tin của các thành viên và những hành vi của họ. Mặc dùcoi ý thức tập
thể là một thực thể mang tính cách tâm lý, nhưng Durkheim khônggiải thích nó bằng
hành vi tâm lý cá nhân. Theo ông, đơn vị chính xác của sự phântích này là những sự kiện
xã hội. Những luật lệ xã hội và luật lệ hành vi tồn tại trướckhi cá nhân sinh ra, gia nhập
xã hội, cá nhân đó phải học hỏi và tuân thủ chúng.Alfred Louis Kroeber là một trong
những nhà nhân học hiện đại tiêu biểu đitheo và phát triển tư tưởng nhân học văn hóa xã
hội ấy trong các nghiên cứu. Ông đãtiếp tục tư tưởng của E. Durkheim cho rằng mặc dù
con người là giá mang văn hóanhưng không phải vì vậy mà việc nghiên cứu văn hóa bị
thu hẹp vào tâm lý học cánhân. Khác với Boas, ông cho rằng cá nhân không quan trọng
trong việc phân tíchvăn hóa, nhưng về mặt phương pháp, ông chú ý tới việc chiết trung
các phương pháptổng thể - thực chứng với phương pháp tham dự - dân tộc học, trong đó
quan điểmchủ đạo vẫn là văn hóa giữ vai trò quyết định hành vi cá nhân. Theo ông, văn
hóa lànhững khuôn mẫu vượt quá và kiểm soát cá nhân. Ông chứng minh các khuôn
mẫunghệ thuật xuất hiện và biến mất một cách độc lập với các nghệ sĩ phát minh như
thếnào.Với trường phái nhân học địa văn hóa do E. Rassen và L. Frobenius vàF.Grebner
chủ xướng, Rassen phủ nhận sự thống nhất phát triển của văn hóa nhânloại và văn hóa
chịu sự quy định của những điều kiện địa lý. Theo ông, ít có khảnăng các dân tộc khác
nhau lại sản sinh ra các hiện tượng văn hóa giống nhau, nếucó sự giống nhau thì đó là kết
quả của sự vay mượn. Frobenius đã củng cố và pháttriển luận điểm trên bằng những kết
quả điền dã ở châu Phi. Đầu thế kỷ XX, trên cơ sở học thuyết ấy, Grebner đã nêu lên
thuyết vòng văn hóa quan điểm căn bản là: Mỗihiện tượng văn hóa chỉ sinh một lần ở
một trung tâm, còn nếu nó ở các vùng khác thìdo nó được truyền bá từ một trung tâm đầu
tiên. Vì thế, nhiệm vụ của dân tộc học lànghiên cứu sự phân bố địa lý của các hiện tượng
văn hóa và tìm ra các vòng văn hóa.Trong nhân học sinh thái hiện đại, F. Boas là người
có ảnh hưởng mạnh nhất, vàKroeber là người học trò xuất sắc nhất của ông. Kroeber
nghiên cứu văn hóa trongmối liên hệ với môi trường sinh thái bao quanh nó. Trong tác
phẩm “vùng tự nhiênvà vùng văn hóa của thổ dân Bắc Mỹ”, hệ bản đồ về sự phân bố
thực vật, địa chất,khí tượng liên quan đến văn hóa của thổ dân đã được Kroeber trình bày
rất thuyết phục. J. Steward sau đó đã tiếp tục phát triển cách tiếp cận sinh thái học văn
hóatrong việc phân tích văn hóa. Ông nhấn mạnh đến sự thích nghi của văn hóa cá
nhânvới những điều kiện môi trường riêng biệt. Theo ông, những nền văn hóa ở
nhữngmôi trường tương tự nhau sẽ có xu hướng phát triển theo những quá trình
giốngnhau và sẽ tạo nên những đáp trả tương tự nhau đối với những thách thức của
môitrường. Ông gọi những đặc điểm văn hóa đó với những phong tục là hạt nhân vănhóa.
Câu 9. Quan điểm tiếp cận chỉnh thể luận trong văn hóa học (tài liệu 2, 3, 4,5, 6)
Giai đoạn đầu tiên trong phân tích văn hóa một dân tộc hoặc một thời kỳ lịchsử xa xôi
nào đó được phát triển trong khuôn khổ giải quyết các vấn đề nhân văn củatư liệu, chủ
yếu mang tính chất mô tả kinh nghiệm. Ở giai đoạn này, các phương pháp được sử dụng
cho phép các nhà nghiên cứu tháo gỡ những rào cản "khônghiểu" thời đại khác hoặc nền
văn hóa khác. Ở đây, việc sử dụng các phương pháp phân tích khác nhau là nhằm hướng
tới làm rõ các chứng cớ để giải thích và đạt tớicấp độ lý luận. Đồng thời, được tạo dựng
và được phổ biến là mô hình phân loại vàmô hình miêu tả để nhận biết văn hóa. Các mô
hình này chỉ đưa ra những mô tả cấu 14
hình hoặc mô tả nền văn hóa như những chỉnh thể mà không chỉ rõ được mối quanhệ
nhân quả và các chức năng của hiện tượng được nghiên cứu.Hệ thống- chỉnh thể là
phương pháp nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể màkhông cắt đoạn theo địa giới hành
chính hay phân giới địa lý. Theo UNESCO, Vănhóa là các hệ thống các giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ và lối sống. Các yếu tố nàygắn liền, có mối quan hệ mật thiết và không
thể tách rời với nhau tạo nên bản sắcriêng của từng dân tộc. Tiếp cận Văn hóa theo
phương pháp hệ thống- chỉnh thểnghĩa là xem xét văn hóa như một hệ toàn vẹn, có cấu
trúc xác định và vận động, phát triển nhờ sự tương tác theo quy luật riêng giữa các bộ
phận cấu thành. Xét trên phương diện Văn hóa, hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm
mỹ và lối sống là cácyếu tố để cấu thành nên bản sắc của từng dân tộc, để phân biệt giữa
dân tộc này vớidân tộc khác. Khi ta tư duy theo hệ thống- chỉnh thể về văn hóa tức là
chúng ta đặtvăn hóa vào hệ thống của nó để xem xét, cảm nhận; là nhìn nhận văn hóa từ
nhiềuđiểm nhìn khác nhau để khám phá văn hóa một cách đầy đủ, toàn vẹn và có
nhữngkhám phá mới về nó. Phương pháp tư duy hệ thống là phương pháp tư duy khoa
học, phương pháp tư tưởng rộng cho phép ôm vào nó nhiều phương pháp để phát huy,vận
dụng tối đa sức sáng tạo của người tiếp nhận. Phương pháp tư duy hệ thống làmột con
đường giúp xây dựng căn cứ khoa học để “tự do sáng tạo”, đảm bảo khôngrơi vào tình
trạng mông lung, siêu hình hoặc là bình tán, gán ghép. Đây là phương pháp tư duy mà
Giáo sư- Tiến sĩ khoa học Phan Đình Diệu gọi là: “nguồn sức sốngmới của đổi mới tư
duy” hiện nay. Đây chính là cách tiếp cận bản thể luận, chống lạiviệc xa rời bản chất, đặc
trưng của văn hóa. Các cách tiếp cận về văn hóa khácthường quy văn hóa về một hình
thức, dưới một dạng cụ thể. Ví dụ như các địnhnghĩa chuẩn mực coi văn hóa là các giá trị
vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm ngườinào. Hay theo định nghĩa tâm lý học lại coi văn
hóa là: tổng thể những sự thích nghicủa con người với các điều kiện sinh sống của họ. Từ
đó có thể thấy cách tiếp cận đểđưa ra định nghĩa của các phương pháp khác thường
hướng suy nghĩ vào một hìnhtượng, 1 vấn đề cụ thể, còn đối với phương pháp hệ thống-
chỉnh thể lại mở ra sự tựdo trong suy nghĩ để đưa tưởng tượng ra xa hơn, mang lại cái
nhìn mới mẻ về vănhóa. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp Hệ thống- chỉnh thể đòi hỏi
người tìm hiểu phải có một vốn kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực cũng như phải có
cái nhìnhtổng quan mới có thể đưa ra một định nghĩa chính xác về vấn đề đang tìm hiểu.
Đâylà một nhược điểm của cách tìm hiểu này. Ví dụ về cách tiếp cận Hệ thống- chỉnhthể
trong tác phẩm Truyện Kiều- Nguyễn Du. Khi tìm hiểu nhân vật Thúy Kiềutrong Truyện
Kiều, chúng ta phải đặt nhân vật trong tương quan với hệ thống nhânvật trong tác phẩm,
tức là đặt hình tượng Thúy Kiều trong mối quan hệ với gia đình(Vương ông, Thúy Vân),
với người yêu ( Kim Trọng), với Thúc Sinh, Từ hải và cảvới các thế lực đói nghịch: Bạc
Bà, Bạc Hạnh, Tú Bà, Sở Khanh,… Từ đó ta mớithấy được cái đẹp cũng như giá trị nhân
văn của nhân vật này. Ta cũng cần đặt ThúyKiều trong hệ thống văn hóa Việt Nam, cách
tư duy của người Việt để thấy đượctinh thần dân tộc đậm đà mà nhà thơ gửi gắm vào
nhân vật khi tác giả đã sáng tạo lạimột tiểu thuyết của Trung Hoa. Nghiên cứu văn hóa
như một chỉnh thể thống nhất cần chia tách chỉnh thể vănhóa thành các bộ phận, các yếu
tố và vạch ra những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhaugiữa chúng. Mỗi yếu tố, mỗi vai trò,
mỗi thiết chế của văn hóa có một chức năngnhất định. Mỗi yếu tố riêng lẻ vừa là một
chỉnh thể, vừa là một mắt xích mà nếuthiếu nó thì văn hóa không thể tồn tại như chỉnh
thể. Ví dụ: thiết chế gia đình đượccấu thành bởi cặp yếu tố vợ-chồng, và cha mẹ-con cái.
Mỗi cặp yếu tố đều có chứcnăng riêng. Người cha là trụ cột của gia đình, đảm bảo cho sự
tồn tại của gia đình. Người mẹ là người chăm sóc và giáo dục con cái.
Câu 10. Quan điểm tiếp cận so sánh trong văn hóa học (tài liệu 2, 3, 4, 5, 6) 15
Là sản phẩm của thời đại lịch sử mới ở châu Âu trong khoảng thế kỷ XVIII -XIX xuất
hiện cao trào so sánh chủ nghĩa xuất hiện hàng loạt khoa học theo chủnghĩa so sánh đặt
nền móng quan trọng góp phần thúc đẩy sự hình thành của vănhóa học so sánh, văn hóa
học so sánh tiến hành nghiên cứu so sánh tư duy và phương pháp đối với văn hóa của các
dân tộc khác nhau trên thế giới. Một mặt họthừa nhận văn hóa thế giới do đa dân tộc sáng
tạo đóng góp vào sự phát triển củavăn hóa thế giới. Mặt khác, trong quan niệm họ thể
hiện quan điểm dĩ Âu vi trung,làm cho họ tiến dần đến thuyết tương đối luận văn hóa
trong nghiên cứu so sánh vănhóa thế giới. Văn hóa dân tộc bản địa được xem như một
chỉnh thể hữu cơ độc lập,có tính đối kháng cao. Sự tiếp xúc với văn hóa ngoại lai chỉ là
chiều đồng hóa củavăn hóa dân tộc bản địa với các nền văn hóa khác, chỉ có những nền
văn hóa đã biếnđổi thông qua đồng hóa mới có thể gia nhập vào hạt nhân văn hóa của nền
văn hóadân tộc bản địa. Trong khi các khoa học mang tính chất so sánh chủ nghĩa phát
triểnnhanh chóng thì chính chủ nghĩa dĩ Âu vi trung đã gây trở lực. Ngày nay, trong
xuhướng hội nhập toàn cầu, lý luận cơ bản của văn hóa học so sánh có những nghiêncứu
tỉ mỉ, ảnh hưởng quan trọng đến nền văn hóa thế giới hội nhập của nhân loại.Một mặt,
văn hóa học so sánh phải cung cấp công cụ khoa học và lý luận cho nghiêncứu văn hóa
dân tộc, mặt khác, văn hóa học so sánh cũng tiến hành nghiên cứu thựctiễn đối với các
nền văn hóa, nghiên cứu hình thái thể hiện văn hóa, sau đó căn cứvào những điểm tương
đồng và dị biệt văn hóa để quan sát các mặt đối lập giữachúng. Cốt lõi của lý luận văn
hóa học so sánh là phá bỏ ranh giới văn hóa để nghiêncứu văn hóa, từ đó hình thành quan
niệm về giao lưu văn hóa và đối thoại văn hóa.Loại nghiên cứu này coi văn hóa thế giới
là chỉnh thể đòi hỏi yêu cầu cao hơn về hệthống lý luận văn hóa học so sánh. Trong lĩnh
vực văn hóa, tính ngoại lai là đòn bẩyquan trọng nhất. Từng nền văn hóa chỉ có thể thể
hiện đầy đủ và sâu sắc nhất trongmắt một nền văn hóa khác. Trong tình huống hai nền
văn hóa tiếp xúc đối thoại,giữa chúng sẽ không dung hợp lẫn nhau, cũng không hòa trọn
lẫn nhau. Mỗi bên tựduy trì tính thống nhất và tính hoàn chỉnh trong cải cách, khai mở
của chính nó, từđó cả hai cùng phong phú lên.
Câu 11. Quan điểm tiếp cận tương đối luận trong văn hóa học (tài liệu 2, 3,4, 5, 6)
Thuyết tương đối văn hoá (Cultural relativism) 1
là một học thuyết ra đời tạiMỹ với quan điểm cho rằng không có những nền văn hoá bậc
cao và nền văn hoá hạđẳng, mọi nền văn hoá đều bình đẳng trong môi trường của chúng.
Mọi thành tố củavăn hoá có mối quan hệ chặt chẽ với chính bản chất đặc trưng của văn
hoá. Giữa haicuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ I và lần thứ II, thuyết tương đối văn hoá
đã trở thành công cụ quan trọng để các nhà nhân học Mỹ khước từ một sự “thống nhất văn 1
Xét về mặt từ nguyên relativism gần với nghĩa của từ tương đương trong tiếng Việt hơnlà
tương đối. Trong học thuyết Cultural relativism ý nghĩa thuật ngữ của Boas cũng nhưvậy
(tính cân bằng – tưong đương, không nên có sự phân biệt đối xử với các nền vănhoá). Ở
Việt Nam thuật ngữ này được sử dụng phổ biến là Thuyết tương đối văn hoá. Vìvậy,
trong nội dung bài này chúng tôi sử dụng cách gọi phổ biến trên
hoá” và cải biến các nền văn hoá phi phương Tây. Đây có thể coi là một trong nhữngđóng
góp lớn lao nhất của Fran Boas và các nhà khoa học có cùng chí hướng vớiông trong việc
chuyển đổi từ nhận thức luận trở thành phương pháp luận. Sự chuyểnđổi này của thuyết
tương đối văn hoá là một công cụ phục vụ đắc lực cho sự ra đờicủa Tuyên ngôn nhân
quyền của Liên Hợp Quốc ngày 10/12/1948. Có thể nói,thuyết tương đối văn hoá cùng
với thuyết đặc thù văn hoá của Fran Boas đã ghi mộtdấu ấn hết sức quan trọng trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa vị chủng (racism)và chủ nghĩa phát xít (facism) đem lại quyền
tự do, bình đẳng của con người không phân biệt đẳng cấp, chủng tộc, màu da... Sự tồn tại
của nền tảng xã hội Mỹ và các 16
quốc gia văn minh có được ngày hôm nay có một phần đóng góp không nhỏ củanhững
học thuyết này.Tương đối luận văn hóa có mục đích chính là để nhấn mạnh rằng mỗi một
nềnvăn hóa có những “chuẩn mực” riêng của nó trong việc hiểu và đánh giá, từ đó cácnhà
nghiên cứu có những cách tiếp cận phù hợp, tránh những quan điểm áp đặt, vịchủng luận.
Hiển nhiên có những ứng xử được coi là bình thường trong xã hội này,nhưng lại không
bình thường hay thậm chí không tồn tại trong xã hội khác. Chúng ta biết rằng cùng một
âm thanh, động tác, biểu tượng hay hành động của xã hội này cóthể có ý nghĩa khác nhau
(hay không có ý nghĩa) trong xã hội khác. Vì vậy, áp dụngchuẩn mực của một xã hội này
vào một xã hội khác đơn giản không thực sự đúng vàcó thể là sai.Herscovits đã chia học
thuyết này ra làm ba phương diện:1. Phương diện phương pháp luận: được thể hiện: khi
miêu tả các giá trị củacác nền văn hóa khác nhau thì cần phải miêu tả bằng chính các
thuật ngữ của cácnền văn hóa ấy. Mục đích của phương pháp này là cố gắng tìm hiểu nền
văn hóa từtrong lòng nó bằng ánh sáng của chính xã hội đó. Đây là phương pháp cơ bản
trongnghiên cứu nhân học theo cách nghĩ cách nhìn của người bản địa. Đó là một
quátrình tìm hiểu lâu dài vì nhà nghiên cứu phải thâm nhập, hiểu rõ họ, sống cùng vớihọ
ngay cả phải thực hành những nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng.2. Phương diện triết học:
Đó là sự thừa nhận có nhiều con đường phát triển vănhóa khác nhau. Đây là chủ nghĩa đa
nguyên. Với quan điểm triết học này, các nhàtương đối luận văn hóa phủ nhận các nền
văn hóa phát triển theo một con đường mà phải phát triển theo nhiều con đường khác
nhau. Đây cũng là cách để chống lại chủnghĩa đế quốc phương Tây (trong bối cảnh toàn
cầu hóa, hiện tượng hòa nhập). Đâychính là chủ thuyết không tuyệt đối hóa một kiểu phát
triển văn hóa nào.3. Phương diện thực tiễn đánh giá: Điều này được nói lên rằng, trong
thực tếrất phức tạp, bao hàm cả việc tiến bộ lẫn lạc hậu. Nên khi xem xét một nền văn
hóanào cũng phải thực tiễn đánh giá. Điều này có nghĩa là, nhà nghiên cứu phải thựctiễn
vào nền văn hóa, sống trong nó, làm việc trong nó, khi ấy mới có một cái nhìntrung thực
được. Nghiên cứu văn hóa, hơn bao giờ hết, mục đích là tìm cho được cái khuôn củanền
văn hóa đó. Chúng mang một màu sắc đặc trưng của dân tộc, tôn giáo, xã hội...mà màu
sắc ấy thể hiện rất nhạt nhòa trong các nền văn hóa khác. Ví dụ: Ở Ấn Độtriết lý khổ
hạnh và thang bậc đẳng cấp đã bao trùm nền văn hóa nước này; Ở NhậtBản trung thành
với nhà vua là tư tưởng chủ đạo. Nó thể hiện tính toàn vẹn trongvăn hóa. Chính vì vậy,
nghiên cứu văn hóa là nghiên cứu tính toàn vẹn đó để thấyđược những giác trị riêng của
từng nền văn hóa. Chúng ta biết rằng, văn hóa lànhững cái rất riêng của mỗi dân tộc, mỗi
cộng đồng người (không có văn hóa củatừng cá thể). Nó là kết tinh của một chuỗi dài
thời gian và lối sống của một dân tộcnào đó. Chính vì vậy, trong vấn đề nghiên cứu văn
hóa, không có hiện tượng áp đặtvăn hóa. Không thể cho và cũng không thể có một mô
hình chung để từ đó các nềnvăn hóa lần lượt phát triển theo. Học thuyết tương đối văn
hóa này, đúng tên gọi củanó là một sự không áp đặt khi xem xét. Mà quá trình nghiên
cứu, giải mã nó phảixuất phát từ bên trong, trong lòng nền văn hóa đó. Ví dụ: để tìm hiểu
nền văn hóaViệt Nam, thì một người Mỹ hay Anh không sống trên đất nước này, không
tham gialao động sản xuất, không thực hiện niềm tin tôn giáo... thì không thể nghiên cứu
trọnvẹn được. Và có nếu có được chăng nữa thì đó chỉ là cái sát không hồn. Bởi vì
mộtnền văn hóa nào cũng mang đậm dấu ấy của tư duy, của tình cảm, của ước mong...của
dân tộc ấy. Với học thuyết này, và các học thuyết khác như thuyết chức năngvăn hóa,
thuyết truyền bá văn hóa... đã làm cho văn hóa học được nhiều người chú ýđến. Tuy văn
hóa học ngày nay vẫn chưa phát triển mạnh ở trong nước cũng như 24
Dựa trên cơ sở lý thuyết của Max Webber về xung đột quyền lực và của KarlMarx về
xung đột giai cấp, thuyết xung đột cho rằng các mâu thuẫn và xung độtkhông chỉ là đặc
trưng mà còn giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội.Xã hội là sự kết nối
không ngừng các va chạm của những lực lượng xã hội khácnhau, và không có hoàn cảnh
nào không có xung đột. Đến những năm 70 của thế kỷXX chứng kiến sự đua nở của lý
thuyết xung đột như trào lưu khoa học. T. Parsonsnhấn mạnh đến sự đồng thuận và hòa
nhập xã hội, những giá trị được thể chế hóa,trong khi coi thường những xung đột về giá
trị và lợi ích trong xã hội. Coser lại chorằng với sự thống trị của chức năng luận và hệ
thống - cấu trúc, suốt một thời giandài tư duy xã hội học đã bỏ quên khái niệm xung đột
và thay vào đó các khái niệmthích nghi và căng thẳng. David Lockwood đã làm cho giới
nghiên cứu chú ý tới sựtồn tại của xung đột và mâu thuẫn cũng có vai trò quan trọng
không kém gì sự hộinhập. Ông không tin sự biến đổi xã hội là có trật tự hay tổ chức xã
hội có bản chấthài hòa. Pierre Bourdieu cũng theo xu hướng này và phê phán sự bất bình
đẳng trongquan hệ giới, trong truyền thông đại chúng, cũng như trong văn học nghệ
thuật. Cáchọc giả của trào lưu xung đột thường đưa ra những lý giải về sự hội nhập và
biến đổixã hội trên cơ sở của quyền lực, sự theo đuổi những lợi ích kinh tế và chính trị
tronghoạt động thực tiễn của con người. Trong đó, theo họ, mâu thuẫn và xung đột xã
hộilà hiện tượng phổ biến lặp đi lặp lại trong các xã hội, các nền văn hóa khác nhau.Xung
đột không chỉ diễn ra ở mọi cấp độ trong hệ thống xã hội như giữa các cá nhân,các nhóm
xã hội, các giới, các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các quốc gia màcòn diễn ra
trong mọi lĩnh vực tiểu hệ thống của văn hóa như tư tưởng, tôn giáo,nghệ thuật, v.v.
Trong đó, mỗi hiện tượng văn hóa đại diện cho lợi ích của mộtnhóm người có tiểu văn
hóa riêng của nhóm người đó. Đến một cấp độ nhất định,khi một giá trị, chuẩn mực tồn
tại như một đơn vị, vận hành vì lợi ích của một nhómngười, được nhóm người đó tôn
sùng, nâng lên thành lý luận và bảo vệ, khi đó đơnvị văn hóa đó là một hệ tư tưởng. Mâu
thuẫn, xung đột giữa các hệ tư tưởng chính là biểu hiện tập trung của mâu thuẫn, xung
đột giữa các dân tộc thuộc các nền văn hóakhác nhau. Câu hỏi cơ bản được đặt ra theo
hướng nghiên cứu này là liệu có nhữngyếu tố mâu thuẫn, xung đột trong đời sống văn
hóa của xã hội và mỗi yếu tố có đượcủng hộ bởi những nhóm lợi ích hay giai tầng cư dân
nào không.Quan điểm hậu hiện đại phủ nhận sự đối lập giữa văn hóa bác học và văn
hóađại chúng, nghi vấn những dạng thức được xem là thẩm mỹ cao, bền vững hay
phổquát. Quan điểm hậu hiện đại cho rằng văn hóa được duy trì và lưu dấu bởi những
phẩm chất mơ hồ, không chắc chắn của thế giới cuàng với mức độ phân thân cao củaxã
hội cũng như cá nhân. Chủ nghĩa hậu hiện đại nghi ngờ bất cứ quan điểm, kháiniệm,
thuật ngữ nào được cho là có bản chất chung. Quan điểm hậu hiện đại phủnhận các câu
chuyện dân tộc, những hướng lý thuyết phổ quát được xem là cơ sở cho sự khẳng định
của mọi hoàn cảnh. Chủ nghĩa hậu hiện đại cổ súy cho những biến cố có tính chất địa
phương, hướng đến sự đa dạng, sự sáng tạo, trân trọng sựkhác biệt và sự đặc thù của con
người, của những vùng văn hóa khác nhau. Quanđiểm hậu hiện đại cho rằng tri thức là
đặc trưng riêng mang tính địa phương, tính đadạng. Các dạng thức văn hóa được đặc
trưng bởi sự tự phân tách, kĩ thuật khảm kếtvà liên văn bản. Các nhà lý luận chủ nghĩa
hậu hiện đại nhấn mạnh cá nhân nào cũngnằm trong cấu trúc nội tại của văn bản, và đó là
lý do dẫn tới cái chết của chủ thể màngôn ngữ đã thác lời vào đó. Chủ nghĩa hậu hiện đại
đã phá bỏ tận gốc truyền thốnglý thuyết và chứng minh rằng cá nhân không thể tồn tại
độc lập trong quá trình tưduy mà luôn bị chi phối một cách vô thức bởi những cấu trúc
ngôn ngữ. Luận điểmnày đã trở thành hằng số quan trọng nhất để nhận diện chủ nghĩa
hậu hiện đại. Theođó, chủ nghĩa hậu hiện đại thừa nhận có những quyền lực, quá trình tồn
tại bênngoài cá nhân, không phụ thuộc vào ý chí và tư tưởng của cá nhân. 25
Câu 21. Các phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu định tính trong văn hóa học (tài liệu 4, 5)
Nghiên cứu định tính là phương pháp tiếp cận và thu thập dữ liệu nhằm mô tảvà giải
thích đặc điểm văn hóa và hành vi của nhóm người từ quan điểm của nhànghiên cứu. Đây
là hướng nghiên cứu linh hoạt giúp phát hiện những chủ đề nghiêncứu chưa nhân diện
được trước đó. Nghiên cứu định tính thiên về chủ quan, cần sửdụng nhiều phương pháp
khác nhau để thu thập thông tin như quan sát - tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm.
Trên cơ sở xác định vấn đề nghiên cứu, nhà nghiêncứu cần nắm vững các phương pháp
quan sát - tham dự (công khai hay bí mật, quansát hành vi hay quan sát tổng thể), phỏng
vấn sâu (phỏng vấn cấu trúc hay phi cấutrúc hay bán cấu trúc) để tiến hành nghiên cứu,
thu thập dữ liệu.Dịch là sự biến động, mà vận động không ngừng là bản chất của vũ trụ,
nêndịch học hay tri thức về sự vận động cũng là sản phẩm của triết lý Âm Dương dovăn
hóa gốc nông nghiệp mang tính tĩnh, sinh ra tư duy động. Dịch lý là nguyên lýchung của
tư duy vận động dựa trên tri thức dịch học. Cơ sở chung của dịch học vàdịch lý là triết lý
âm dương. Khoa học theo truyền thống phương Tây dựa trên phương pháp logic đối lập
tĩnh tại và chủ yếu chú trọng yếu tố phân bố cực đoan,trong khi vạn vật trong vũ trụ đều
vận động không ngừng và phân bố theo nguyên lýâm dương. Mọi quy luật tìm được trong
các khoa học phương Tây đều không nằmngoài quy luật âm dương. Phép biện chứng duy
vật chịu ảnh hưởng của tư tưởng phương Đông đã bổ sung tư tưởng coi trọng quan hệ, từ
đó khắc phục được khiếmkhuyết của phương pháp logic truyền thống. Như vậy, phương
pháp dịch lý là phương pháp sử dụng các đặc tính và quy luật của triết lý âm dương nói
riêng, dịchhọc nói chung nhằm mục đích bổ sung cho phương pháp logic truyền thống.Hệ
thống là thể thống nhất của tập hợp các yếu tố cấu thành và mạng lưới cácquan hệ giữa
chúng. Hệ thống có tính chỉnh thể vì tồn tại sự khác biệt về chất so với phép cộng đơn
thuần tổng các yếu tố cấu thành. Hệ thống còn có tính bất quy vì cáctính chất của nó
không quy về tổng tính chất của các thành tố. Bên cạnh đó, hệ thốngcó tính hợp lực vì sự
đồng hướng của các hành động / phẩm chất của các thành tốtạo nên hiệu quả gia tăng
theo cấp số nhân. Tính cấp hệ của hệ thống thể hiện ở chỗmỗi hệ thống là thành tố của
một siêu hệ thống bậc cao hơn, song cũng chứa trongnó các thành tố là những tiểu hệ
thống bậc thấp hơn. Tính tương tác của hệ thống vớimôi trường giúp nó có thể tự điều
chỉnh để tạo thế cân bằng sao cho phù hợp vớinhững biến đổi của môi trường. Theo quan
hệ với môi trường, có hệ thống đóngkhông có trao đổi với môi trường một cách chủ
động, có hệ thống khép có trao đổivới môi trường về mặt vật chất và không trao đổi với
môi trường về mặt tinh thần,lại cũng có hệ thống cô lập không trao đổi với môi trường
một cách bị động. Theothời gian, hệ thống đóng sẽ ngày càng hỗn độn (ví dụ như hệ
thống xã hội chủ nghĩaLiên Xô cũ), hệ thống mở sẽ có khả năng tự điều chỉnh vì tự do
trao đổi với môitrường cả về mặt vật chất lẫn mặt tinh thần. Hệ thống xã hội chủ nghĩa
quá độ hiệnnay trên thế giới là hệ thống khép (có trao đổi về mặt vật chất nhưng không
trao đổivề mặt tinh thần). Phương pháp hệ thống là phương pháp tư duy và hành động
nhằmtìm kiếm, xác lập hoặc mô phỏng các mối quan hệ qua lại giữa các thành tố của
đốitượng tư duy và hành động. Phương pháp hệ thống cũng có nguồn gốc từ tư tưởngdịch
học, coi trọng cả quan hệ lẫn thành tố. Nhưng phương pháp hệ thống vẫn là sản phẩm của
tư duy phân tích tổng hợp. Phương pháp dịch lý giúp phương pháp hệthống mềm dẻo
hơn, từ đó khắc phục được tính tĩnh tại, quá rạch ròi của phương pháp hệ thống.Loại hình
là chùm đặc trưng cần và đủ để khu biệt một nhóm phân loại với cácnhóm phân loại còn
lại. Phương pháp loại hình là cách dùng các thủ pháp phân loại, so sánh và đối chiếu để
quy đối tượng nghiên cứu về một trong những loại hình đã biết, vận dụng những chùm
đặc trưng này để giải thích đối tượng nghiên cứu.
Câu 22. Các phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu định lượng trong vănhóa học (tài liệu 4, 5)
Phương pháp nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu. Phương pháp
nghiên cứu khoa học không chỉ là thao tác, cách thức giải quyết vấn đề mà còndựa vào lý
thuyết diễn giải bằng chứng và lập luận khoa học. Vì vậy, phương phápnghiên cứu khoa
học gắn liền với những yêu cầu phương pháp luận, yêu cầu xử lýdữ liệu cùng các quy
trình cụ thể khác. Trong nghiên cứu khoa học, các tư liệu và dữkiện đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Tùy đối tượng và mục tiêu nghiên cứu màchọn cách thức thu thập dữ liệu,
đảm bảo việc thu thập tư liệu đủ để nghiên cứu,diễn giải, chứng minh, kiểm nghiệm, gồm
cả tư liệu có sẵn cần sưu tầm, tập hợp vàcác tư liệu trực tiếp điều tra, thu thập. Nghiên
cứu định lượng là phương pháp thuthập dữ liệu bằng các con số, thường sử dụng bảng hỏi
để chuẩn bị theo cấu trúcnhất định cho tất cả các đối tượng nghiên cứu. Đây là hướng
nghiên cứu thườngđược áp dụng trong các điều tra xã hội học. Nghiên cứu định lượng đòi
hỏi tínhchính xác khách quan với những số liệu đo đếm được. Tuy nhiên, nghiên cứu
địnhlượng dễ bị hạn chế trong diễn giải hoặc gặp phải những sai số ngữ cảnh liên
quanđến cuộc phỏng vấn.
Document Outline

  • Văn hóa
  • Văn minh
  • Câu 6. Phân biệt Culural Studies (VHH/NCVH) và Culturology (VHH)