ĐỀ CƯƠNG MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục văn hóa
gốc nông nghiệp trồng trọt. giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Mỗi quốc gia, dân tộc đều nền văn hóa riêng của mình, đó một tiêu chí quan trọng
để phân biệt dân tộc này vi dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân tộc
phong phú, đa dạng đến mấy cũng đều nguồn gốc xuất phát từ một trong hai loại hình văn
hóa gốc của nhân loại gắn liền với hai phương thức sản xuất chủ đạo: văn hóa gốc chăn nuôi du
mục và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt.
Văn hóa gốc chăn nuôi du mục
Văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
Nguồn gốc
hình
thành
- Hình thành phương Tây (văn hóa
phương Tây) bao gm toàn bộ Châu Âu,
trên sở của phương thức sản xuất
chăn nuôi du mc. Phương Tây vùng
khí hậu lạnh, khô, địa hình chủ yếu
thảo nguyên xứ sở của những đồng cỏ,
rất thích hợp cho nghề chăn nuôi, bởi
vậy chăn nuôi nghề truyền thống của
cư dân phương Tây cổ xưa.
- Hình thành phương Đông (văn hóa
phương Đông), gồm Châu Á Châu
Phi. Phương Đông khu vực khậu
nóng m, mưa nhiều với những con sông
lớn, theo đó những vùng đồng bằng trù
phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng
trọt phát triển. Điều kiện tự nhiên
phương thức sản xuất nông nghiệp trồng
trọt đã hình thành một loại hình văn hóa
khác với phương Tây.
Đặc điểm
- Nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi dân
phải sống theo lối du cư, nay đây mai đó,
từ đó tạo thành thói quen, lối sống thích
di chuyển (trọng động).
- luôn di chuyển nên cuộc sống của
dân du mục không phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên, từ đó nảy sinh tâm coi
thường tự nhiên và tham vọng chinh
phục, chế ngự thiên nhiên.
- sống du nên tính gn kết cộng
đồng của dân du mục không cao, yếu
tố nhân được coi trọng, dẫn đến tâm
ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối
ứng
xử
độc
tôn,
độc
đoán
trong
tiếp
nhận, cứng rắn trong đối phó.
- Nghề trồng trọt buộc con người phải
sống định cư. Do sống định nên
dân nông nghiệp phải lo tạo dựng một
cuộc sống ổn định lâu dài, không thích
sự di chuyển, đổi thay (trọng tĩnh).
- nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên nên dân nông nghiệp rất
tôn thờ, sùng bái tự nhiên mong muốn
sống hòa hợp với thiên nhiên.
- Cuộc sống định và phải liên kết để
chống chọi, ứng phó với tự nhiên nên đã
tạo cho dân nông nghiệp tính gắn kết
cộng đồng cao.
- Phương
thức
sản
xuất
nông
nghiệp
sống định tính gắn kết cộng đồng
- Cũng vì cuộc sống du cần đến sức
mạnh bản lĩnh nên người đàn ông
vai trò quan trọng, ởng trọng sức
mạnh, trọng võ, trọng nam giới cũng từ
đó mà ra.
- Nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự
khẳng định vai trò nhân, thêm vào đó,
đối tượng hàng ngày con người tiếp
xúc đàn gia súc vi từng thể độc
lập, từ đó hình thành kiểu duy phân
tích chú trọng vào từng yếu tố. Kiểu
duy này sở cho sự phát triển của
khoa học dựa trên những sở khách
quan, lý tính.
- Kiểu duy phân tích nguyên nhân
đẻ ra lối sống trọng lý, ứng xử theo
nguyên tắc; thói quen tôn trọng pháp luật
cũng vậy được hình thành rất sớm
ở phương Tây.
đã tạo nên lối sống trọng tình nghĩa,
trọng văn, trọng phụ nữ (chế độ mẫu hệ
phương Đông tồn tại lâu hơn phương
Tây).
- Nghề trồng trọt phụ thuộc cùng mt
lúc vào nhiều yếu tố với sự tương tác lẫn
nhau: thời tiết nắng, mưa, đất đai, khí
hậu, giống cây trồng, chế độ chăm sóc...
nên từ đây đã hình thành kiểu duy
tổng hợp - biện chứng, coi trọng mối
quan hệ giữa các yếu tố hơn sự tách
bạch từng thành tố riêng lẻ. Lối duy
tổng hợp, biện chứng nguyên nhân dẫn
đến thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
- Phương thức sản xuất nông nghiệp chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm đúc kết từ thực
tế nên từ đây cũng hình thành biểu
duy kinh nghiệm chủ quan, cảm tính,
thay duy khoa học khám phá bản
chất của đối tượng trên sở khách quan
và khoa học.
Trên đây sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi bật
khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Tuy nhiên,
trong thực tế thường không có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính chất nông nghiệp trồng
trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn hóa chỉ tương
đối, căn cứ vào các yếu tố có tính trội.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Do vtrí địa nằm trung tâm khu vực Đông Nam Á nên Việt Nam thuộc loại hình
văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Với điều kiện về vị trí địa lý, khu vực địa nh
chịu tác động của gmùa, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nằm góc tận cùng phía Đông - Nam
Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong...
nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. cây lúa một trong những cây nông nghiệp chính
có từ rất lâu đời ở Việt Nam, cũng chính cấy lúa cùng với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta
đã tạo nên điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước. Căn cứ vào những yếu tố
trên, thể thấy rằng nền văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
điển hình. Tất cả những đặc trưng văn hóa Việt Nam đều thể hiện một cách nét nhất loại
hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt ở Việt Nam:
Tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rõ
nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.
Biểu hiện:
- Về đặc trưng vlối sống, VN do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều,
những con sông lớn, những đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt mà
điển hình nền văn minh lúa nước. Do vậy, người Việt từ xưa đến nay đều ưa thích một cuộc
định ổn định (An lạc nghiệp), không thích di chuyển, vậy đã tạo nên tình cảm gắn
với quê hương xứ sở, với làng, nước. Nhưng cũng từ đây đã hình thành lối sống tự trị, khép
kín, hướng nội, hạn chế sự giao lưu, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
- dân VN do sống bằng nền nông nghiệp nên sự gắn bó, phụ thuộc vào tự nhiên lại
càng lâu dài bền chặt dẫn đến cư dân nông nghiệp Việt Nam rất sùng bái tnhiên, luôn
mong muốn mưa thuận ghòa để cuộc sống no đủ (câu cửa miệng của người Việt “lạy
Trời, “ơn Trời”, “nhờ Trời”,...). Thực vật được tôn sùng nhất cây lúa, Thần Lúa, Hồn Lúa,
Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, cây cau,.. Đó chính nguyên nhân sự ra đời
của nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên phổ biến các tộc người trên khắp mọi miền đất
nước nhưng phổ biến nhất dân tộc thiểu số như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ hình thức
thờ cúng Tam vị Thánh Mẫu cai quản các yếu tố tự nhiên quan trọng nhất, thiết thân nhất đối
với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước; tín ngưỡng Phồn Thực - loại tín ngưỡng
tôn thờ sự giao phối - nguồn gốc của sự sinh sôi nảy nở Việt Nam nền văn hóa gốc
nông nghiệp, mùa màng tươi tốt và muôn loài sinh sôi (hai vấn đề ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với đời sống dân) nên tín ngưỡng Phồn Thực phát triển mạnh bảo tồn lâu dài;
các lễ hội tín ngưỡng nông nghiệp gồm hội Cầu mưa , hội Xuống đồng, hội Đâm trâu, hội Cơm
mớ.
- Cuộc sống định tạo cho người Việt tính gắn kết cộng đồng cao (Bán anh em xa mua
láng giềng gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, Lụt thì lút cả làng, Nước nổi thì bèo nổi...)
- Sự gắn cộng đồng tạo n lối sống trọng nh nghĩa ( lành đùm rách, Chị ngã
em nàng, Bầu ơi thương lấy cùng… ), các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao n (Một
bồ cái không bằng một cái tình; Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế...). Từ đặc trưng sự
gắn cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao
hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực. sống theo tình cảm, người
Việt có lối sống tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc,
trước nền quân chủ phong kiến phương Đông và nền dân chủ sản phương Tây. Lối
sống trọng tình cách xử dân chủ dẫn đến tâm coi trọng cộng đồng, tập thể. Cư dân Việt
Nam làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn tập thể đứng sau.
- Cuộc sống định ổn định cần đến vai trò chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm
nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng công việc phù hợp với phụ nữ, do đó, vai trò của người
phụ nữ được tôn trọng, đề cao. Đặc trưng này hoàn toàn nhất quán nét. Phụ nữ Việt
Nam người quản kinh tế, tài chính trong gia đình người nắm tay hòm chìa khóa biểu hiện
(Ruộng trâu nái không bằng con gái đầu lòng, Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng
cồng ; Ba đồng một mở đàn ông đem bỏ vào lòng cho kiến tha, ba trăm một mụ đàn bà,
đem về trải chiếu hoa cho ngồi… )
Sau này, do sự ảnh hưởng, chi phối của tưởng Nho giáo mới hình thành ng
trọng nam khinh nữ. Hiện nay, các dân tộc không chịu ảnh hưởng, hoặc ít chịu ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa (dân tộc Chăm, Êđê, Giarai...) vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ. Nhiều tộc
người tuy không còn chế độ mẫu hệ nhưng hiện vẫn còn lưu lại những vết tích (người Khmer
vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc "mê phum", "sóc" (mê = mẹ), người đó đàn
ông).
- nghề nông, nhất nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả
mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa, trông gió, trông
ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng hợp - biện chứng kết
hợp với lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen duy, ứng xử tùy tiện, nguyên tắc (Yêu
nên tốt, ghét nên xấu; Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.Thương
nhau mọi việc chẳng nể, dẫu trăm chỗ lệch cũng cho bằng)
- Lối duy tổng hợp, biện chứng cũng nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm dẻo,
linh hoạt, đưc thể hiện qua quan niệm sống của người Việt (Tùy ứng biến; bầu thì
tròn, ổng thì dài; Đi với bụt mặc áo sa, đi với ma mặc áo giấy ).
- Kiểu duy nặng vkinh nghiệm chủ quan, cảm tính cũng thể hiện trong văn hóa
nhận thức, ứng xử của nời Việt: coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn sở khách quan
tri thức khoa học (Nhìn mặt bắt hình dong; Trăm hay không bằng tay quen, Sống lâu lên
lão làng… )
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng
trọt đều được thể hiện rõ nét trong lối sống, phương thức duy và thói quen ứng xử của ngưởi
Việt, được thể hiện qua kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ - đó những giá trị văn hóa phi
vật thể được đúc kết qua nhiều thế hệ, được lưu truyền trong dân gian.
Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt được thể hiện lĩnh vực văn hóa vật chất.
Để đáp ứng nhu cầu sinh tồn, con người phải thực hiện các hoạt động vật chất như: lao
động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại,… Sản phẩm của các hoạt động vật chất thể hiện trong đó các
năng lực tinh thần của con người, phản ánh thói quen, lối sống, phong tục, tập quán, của một
cộng đồng. Đó kết quả của sự thích nghi ứng phó của con người với môi trường tự nhiên
hội cụ thể, làm nên dấu ấn riêng của mỗi cộng đồng đó đặc trưng văn hóa của một
cộng đồng thể hiện phương diện hoạt động vật chất. vậy để nhận diện đặc trưng văn hóa
của một cộng đồng, trước hết cần nhận diện các dấu ấn văn hóa thể hiện phương diện hoạt
động vật chất.
Trải qua trường k lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt qua mười thế kỷ xây
dựngquốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù,
chaông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất vi những nét bản riêng, trên nền tảng của
nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận dụng, thích nghi ứng
phó với môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Về phương thức sản xuất: nghề nông nghiệp lúa nước theo phương thức sản xuất tiểu
nông tự túc tự cấp phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toàn bộ nền tảng kinh tế của
hội VN truyền thống. Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã đúc kết được một hệ thống
kinh nghiệm của nghề trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không chỉ được lưu truyền trong
dân gian, còn được tập hợp lại, biên soạn thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân (Vi
dụ: cuốn sách Minh nông phả của Trần Cảnh đời Lê; Nông gia thuật chiêm kinh nghiệm yếu
quyết của Trần Ngọc Trác; Nông sự toàn đồ của Thúc Hoạch đời Nguyễn). Để phục vụ cho
nghề nông, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ thủ công cổ truyền rất phong
phú, đa dạng, gồm hàng trăm kiểu loại khác nhau. Tất cả những kinh nghiệm được đúc kết
những thành tựu sáng tạo từ phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng
tận dụng, thích nghi ứng phó một cách tối ưu của người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Bên cạnh nghề nông, các nghề thủ công như nghề dệt, gồm sứ, thêu thùa,… hình thành các làng
nghề với các sản phẩm nổi tiếng như: gốm Bát Tràng, dệt thêu Tây,Bằng những công cụ
dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiên như: chuối, sợi đay, sợi gai,
tơ tằm, sợi bông,…
- Trong rất nhiều những yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày của con ngưi từ phía
tự nhiên, các nhà nghiên cứu văn hóa VN đều thừa nhận hai yếu tố tính trội chi phối đến văn
hóa vật chất của người Việt, đó tính chất sông nước thực vật. Sự chi phối của 2 yếu tố tự
nhiên này được thể hiện trước tiên trong việc lựa chọn cấu 1 bữa ăn truyền thống với 3
thành phần chính: cơm rau cá. Stận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên
của người Việt còn được thể hiện nét trong văn hóa m thực qua lối ứng xử mm dẻo, linh
hoạt của dân nông nghiệp Việt Nam. Trước hết việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền,
đó một biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa một cách tự
thích nghi của nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện việc chế biến
lựa chọn các món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của thể (điều hòa âm -
dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi trường để ứng phó với thời tiết.
- Trong văn hóa trang phục Việt Nam, với nghchính trồng trọt nên người Việt chủ
yếu sử dụng các chất liệu sẵn trong tự nhiên, mỏng, nhẹ và nguồn gốc từ thực vật như:
tằm, sợi bông, sợi đay, sợi gai… Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt chủ yếu
những gam màu trầm tối: Miền Bắc màu nâu (màu đất) và Miền Nam màu đen (màu bùn).
Phản ánh phong cách truyền thống của người VN ưa sự kín đáo, giản dị, đồng thời cũng thể
hiện sự thích nghi vi môi trường sống sinh hoạt của nghề nông trồng lúa nước “chân lấm
tay bùn”. Ngoài ra chiếc nón cũng một bộ phận kèm theo không thể thiếu trong trang phục
của phụ nữ VN truyền thống. Nón vành rộng mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm
mưa nhiều. Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần tọa phù hợp
với khậu nóng bức công việc đồng áng, ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the,
quần ống sớ.
- Về văn hóa sinh hoạt, vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa…
thể hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi tận dụng các ĐKTN. Kiến trúc nhà của
người Việt mang dấu ấn của vùng sông nước với nhà sàn kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả
miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó vi những tác động xấu của môi trường (tránh côn
trùng, thú dữ, lũ, ngập lụt…). Sang thời phong kiến thì nhà đất bằng phổ biến, song dấu ấn
văn hóa sông nước còn thể hiện kiểu nhà mái cong phỏng hình mũi thuyền, thậm chí
dân sống bằng nghề sông nước còn dùng thuyền làm nhà ở. Không gian ngôi nhà Việt không
gian mở, cửa rộng, thoáng mát, giao hoà với tự nhiên, xung quanh cây xanh bao bọc che
chở. Về việc chọn hướng nhà và chọn đất làm nhà được đặc biệt coi trọng, dựa theo thuật
phong thủy hướng nhà ưa thích của người Việt hướng nam hoặc đông nam (Lấy vợ hiền hòa,
làm nhà hướng nam) các hướng này sẽ tận dụng được gió mát từ biển thổi vào tránh được
nắng nóng từ phía tây, gió lạnh từ phía bắc xuống,…
- Về văn hóa giao thông đi lại: Giao thông đường thủy do đặc điểm vùng sông
nước,với hệ thống sông ngòi chằng chịt, bờ biển dài... giao thông đường thủy chiếm ưu
thế nên phần lớn đô thị các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc
sống sinh hoạt gắn liền với sông nước đã khiến hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong
duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về nhớ bến chăng...) Trong
khi đó giao thông đường bộ lại hạn chế (do: phương thức sản xuất nông nghiệp định cư, khép
kín ít có nhu cầu di chuyển, địa hình bị chia cắt bởi núi non và sông ngòi dày đặc,..)
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, đi lại - đó là những hoạt động để đáp ứng c
nhu cầu vật chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn
hóa của con người với môi trường tự nhiên với cộng đồng hội. Sự ứng xử văn hóa của
người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện nét dấu ấn của loại hình văn hóa ng
nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt
của người Việt đối với môi trường tự nhiên vùng sông nước xứ sở thực vật, qua đó góp phần
thể hiện các đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam.
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường hội của người Việt được thể hiện lĩnh vực
văn hóa vật chất.
Trải qua trường klịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua ời thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường truyền thống lao động cần cù, cha ông ta
xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn
minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của nời Việt vi
môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Về sở vật chất hội: Để xây dựng một quốc gia phong kiến tự chủ, các triều đại
phong kiến Đại Việt từ Đinh - Lý - Trần - Lê - Nguyễn đều rất chú trọng việc xây dựng sở
vật chất như cung điện, lăng tẩm, đền đài, thành lũy. Nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng của
thời Đại Việt như kinh đô Hoa Lư, kinh đô Thăng Long, kinh thành Huế mặc đã bị tàn phá
nặng nề qua nhiều lần chiến tranh giặc giã, nhưng những còn lại đến ngày nay đã trở thành
những di sản văn hóa vô giá của dân tộc, bằng chứng cho các thời kỳ hung thịnh của các
triều đại phong kiến Đại Việt.
- Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa ớc theo phương thức sản xuất
tiểu nông tự túc tự cấp phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng kinh tế của
hội Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định hình
từ thời Văn Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn m Bắc thuộc, trong quá trình xây dựng
quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông các chính sách
khuyến nông tích cực.
Quá trình cải tạo và chinh phục tự nhiên, khai hoang, cải tạo đầm lầy, lấn biển, mở rộng diện
tích canh tác, làm thủy lợi, đắp đê chống lụt
đã tạo thành các vùng đồng bằng châu thổ Bắc
Bộ, Bắc Trung Bộ, sau này Nam Bđể chuyên canh lúa nước một cách ổn định. Trên
những vùng đồng bằng châu thổ kéo dài từ Bắc đến Nam, người Việt đã phát triển một truyền
thống văn hóa sản xuất tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước.
Bằng những công cụ dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiện như:
chuối, sợi đay, sợi gai, tăm sợi bông, những ngưi thợ thủ công đã dệt ra nhiều loại vải,
lụa rất phong phú, không chỉ đáp ứng được nhu cầu may mặc trong nước còn bán ra ớc
ngoài. Như vậy, từ thời Hùng Vuơng dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại Việt,
phương thức sản xuất ng nghiệp lúa nước được duy trì phát triển với vai trò kinh tế chủ
đạo. Cùng với nghề nông sự m rộng phát triển các làng nghề thủ công phục vụ cho các
nhu cầu sản xuất và sinh sống hàng ngày.
Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiểu nông tự cung tự cấp, các
quan hệ giao luu bị hạn chế, do đó sản xuất nông nghiệp và thủ côngnghiệp chỉ dừng lại quy
mô nhỏ của nên kinh tế tiểu nông đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng chkhông thế vuơn tầm phát
triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
- Trong văn hóa ẩm thực, hành vi ăn uống biểu hiện của văn hóa khi được thực
hiện một cách ý thức hình thành như một thói quen đó vừa văn hóa ứng xử với môi
trường tự nhiên, vừa văn hóa ứng xử hội. Bữa ăn của người Việt ăn chung, các thành
viên trong bữa ăn liên quan phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…).
mang tính cộng đồng nên trong bữa ăn của nời Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng
đồngcùng với sự chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việt rất
coi trọng nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
- Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền
chắc “ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: nâu, đen,
chàm, gụ, tím…phù hợp với môi trường sông c, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ,
vàng, xanh cây,…) chỉ mặc vào các dịp lễ, hội và người Việt rất ý thức về việc m đẹp
(Người đẹp lụa, lúa tốt phân, cau già khéo bổ thì ngon, nạ dòng trang điểm lại giòn hơn
xưa). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân, quần
lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như một trong những nét bản
sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu.
Cái thúng thủng hai đầu
Bên ta thì bên Tàu thì không.
( Câu đố)
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân, bỏ buông 2 vạt trước,
hoặc áo mớ bảy mớ ba với nhiều màu sắc). Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày
áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng bức công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội
thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường hội, trang phục
của người Việt thể hiện quan niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
- Về văn hóa sinh hoạt, ngôi nhà một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
cuộc sống định ổn định (an lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính cộng
đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập thì nhà
Việt truyền thống 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình, các
gian nhà thường để thông nhau, không vách ngăn. Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng
thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt, ruối, mồng i..) được
xén thấp để dễ qua lại.
- Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định nên dân ít
nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa các
vùng do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới những con đường nhỏ, dân chủ yếu đi
bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. giao thông đường thủy vì
đường thủy chiếm ưu thế n phần lớn đô thị các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng
Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con
đò đã ăn sâu vào trong duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái,gái theo chồng; Thuyền về
nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên ng
nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, đi lại - đó những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu vật chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn
hóa của con người với môi trường tự nhiên với cộng đồng hội. Sự ứng xử văn hóa của
người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện nét dấu ấn của loại hình văn hóa ng
nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt
của người Việt đối với môi trường tự nhiên vùng sông nước xứ sở thực vật, qua đó góp phần
thể hiện các đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam.
u 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với sự hình thành triết
sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương ngũ hành, đây hệ
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh v bản chất qui luật tồn tại của vạn vật trong
trụ bao gm nhận thức về tự nhiên về đời sống hội con ngưi. Trong văn hóa bản địa của
người Việt cổ, cũng đã sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất,
nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu
chuyện thần thoại. Đó sở để thuyết âm dương ngũ hành ăn sâu trong đời sống văn hóa
tinh thần của người Việt, trở thành sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết sống
cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ:
Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết vsự cân xứng, cặp đôi: trong
tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân bằng ân
dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm dương thường
được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước…
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết sống quân bình, hài hòa âm dương: từ triết
âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng, hài hòa âm
dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo triết quân bình,
duy trì trạng thái âm dương trừ nhau từ việc ăn uống tời việc m nhà ở, cho đếm việc ng
xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự
bằng lòng, an phận với những mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái
độ sống cực đoan.
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do nhận
thức được qui luật trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường cái
nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi may, trong hỏa phúc, nhận thức được
qui luật chuyển hóa âm dương nên cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ
hành giúp cho con người một triết sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn
đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Phật giáo Việt Nam vai trò của
Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa nay.
Phật giáo chính thức du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc, theo chân quân xâm lược
Trung Hoa, và đã nhanh chóng được người Việt tiếp nhận một cách tự nhiên và tự nguyện.
Phật giáo gồm 2 phái:
- Thưng tọa (tiểu thừa): từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam.
- Đại chúng (đại thừa): từ Trung Hoa du nhập vào Việt Nam.
Nói đến Phật giáo trước hết nói đến tưởng vtha, vị nhân sinh. Phật cho rằng đời là
khổ đã tìm lấy sự giải thoát khỏi cái khổ. Bởi vậy Phật xướng lên thuyết Tứ thánh đế hay Tứ
diệu đế. Đó là Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: chân về bản chất của nỗi khổ. Khổ gì? Đó trạng thái buồn phiền phổ
biến ở con người do sinh, lão , bệnh, tử, do mọi nguyện vọng không được thỏa mãn.
- Nhân đế: chấn vnguyên nhân của nỗi khổ. Đó do ái dục minh (kém
sáng suốt). Dục vọng thể hiện thành hành động Nghiệp (karma), hành động xấu khiến con
người phải nhận hậu quả của nó (nghiệp báo), thành ra cứ luẩn quẩn trong vòng luân hồi không
thoát ra được.
- Diệt đế: chân về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây
ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (nirvana, nghĩa đen “không ham muốn,
dập tắt”). Đó là thế giới của sự giác ngộ và giải thoát.
- Đạo đế: chân chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải thoát giác
ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức( giới), tư tưởng (định) và khai sáng trí tuệ (tuệ).
Đặc điểm của Phật giáo:
- Tính nhập thế: giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh, luôn đồng
hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các hoạt động xã hội:
nhà chùa m trường dạy học, tham gai đào tạo tri thức, nhiều nhà đồng thời nhà đồng
thời thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo Phật giáo được người Việt cụ thể hóa trong các
mối liên hệ đời thường.
- Tính tổng hợp một trong những đặc trưng của lối duy nông nghiệp, chi phối đến
thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
+ Dung hợp giữa Phật go với các tín ngưỡng truyền thống văn hóa bản địa: dung
hợp với tín ngưng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị
thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…
+ Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo.
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như Nho giáo, đạo giáo bổ sung cho
nhau để cùng hướng vmột mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
*Vai trò của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa nay:
- Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng văn hóa dân gian của quần
chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước. Từ xa
xưa, với người dân Việt, giáo phật giáo đã thấm sâu vào triết sống, ngôi chùa nơi giáo
dục đạo đức lòng hướng thiện, nơi an của tâm hồn trung m sinh hoạt cộng đồng
cũng nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã lịch sử từ lâu, “Mái chùa che chở
hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”.
- đến ngày nay, trong số các tôn giáo mặt Việt Nam, Phật giáo vẫn tôn giáo
lớn nhất, ảnh hưởng sâu sắc rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay
Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến 10% dân số. Hiện nay, số lượng
người đi chùa ngày càng đông, niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các
ngày rằm, mồng một, treo ảnh phật bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò
của Phật giáo trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo Việt Nam vai trò của
Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa nay.
Nho giáo một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tưởng go
nhằm quản lý duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị.
tưởng giáo của Nho giáo được thể hiện qua Tam cương, Ngũ thường thuyết
Chính danh:
- Tam cương (3 mối quan hệ rường cột để duy trì trật tự xã hội): quân - thần (vua - tôi),
phụ - tử (cha - con), phụ - phụ (chồng - vợ).
- Ngũ thường (năm đức cơ bản, thường hằng của con người, làm nền tảng đạo đức xã
hội): nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
- Thuyết Chính danh: Nho giáo quan niệm muốn xây dựng hội ổn định, tưởng thì
con người phải làm đúng vai trò, danh phận của mình (Thượng bất chính thì hạ tắc loạn).
Đặc điểm của Nho giáo Việt Nam: tưởng trung quân gắn liền với ái quốc, trong
nhiều trường hợp nước đề cao hơn vua, các khái niệm nhân nghĩa cũng bị khúc xạ qua lăng
kính người Việt, làm nhẹ tưởng trọng nam khinh nữ. Từ TK XVI - XVIII, Nho giáo Việt
Nam suy vong không thể cứu vãn.
*Vai trò của Nho giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa nay:
- Trong gần 10 thế kỉ xây dựng củng cố nhà nước phong kiến, Nho giáo khẳng định
vai trò nền tảng tưởng chi phối đến mọi mặt đời sống hội Việt Nam: nền tảng tư
tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước; hình thành chuẩn mực đạo đức xây dựng
hình nhân cách con ngưi Việt Nam truyền thống với các tiêu chí: đạt đức (Trai thời trung hiếu
làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình; Một lòng thờ mkính cha, cho tròn chữ hiếu mi
là đạo con); đạt đạo (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Xây dựng nền tảng go dục, thi cử.
- Cho đến ngày nay, Nho giáo vẫn giữ được vị trí trong đời sống văn hóa tinh thần người
Việt. tưởng giáo của Nho giáo đã góp phần xây dựng hội ổn định, nề nếp theo tôn ti
trật tự, thứ bậc, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài hội. Trong cuộc sống hiện đại, vai trò
của pháp luật được đề cao, không những pháp luật hình sự như thời xa xưa mà cả pháp luật dân
sự, thương mại, hôn nhân gia đình… Tuy nhiên, điều đó không hề m giảm vai trò của đạo
đức thuần phong mtục mà ngưi Việt đã xây dựng hàng ngàn năm nay, trong đó tưởng
Nho giáo đóng góp một phần không nhỏ.
Câu 8: Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao tiếp ng
xử của người Việt , theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào cần được giữ gìn
phát huy.
Giao tiếp và ứng xử một hình thức biểu đạt văn hóa của nhân, cộng đồng khá
nét. Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng
xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt
coitrọng việc giao tiếp thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem một nghi thức ứng xửvăn
hóa quan trọng của người Việt “Lời chào cao hơn mâm cổ”, thích thăm viếng nhau, coi việc
thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ và giàu tính hiểu
khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
- Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích
tìmhiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin nhân của đối
tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...). Đặc điểm này
cũng có nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối sống trọng tình (quan tâm đến người khác). Tuy
nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xnặng tình cảm hơn trí. Trong thực tế người
Việt Nam vẫn coi trọng “cái tình” hơn cả, bất đắc lắm mi dùng “cái lý” để giải quyết những
mâu thuẫn. “Cái tình” sẽ làm cho người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng cái tình” rất
đẹp, để rồi Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”, để không phải hối hận về sau. Người ta
thường nói tình làng nghĩa xóm lúc tắt lửa tối đèn” để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa
“cái lý” ra m thước đo con người. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn nên trong một số
trươờng hợp ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt. không giải quyết theo
chỉ lụy tình, người Việt thường thói quen: Người càng thân ta thì càng đúng hơn. Thậm chí
việc người nhà ta, người làng ta, người quan ta sai lè, không còn cách nào khác, người
đứng ra bênh vực bảo: “Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. thế mọi người mới
kiểu xưng hùng xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, cậy gần chuồng”.
- Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng theo quan
hệ thân tộc, coi mọi người trong cộng đông ncon họ hàng: cô, bác, chú, dì, cháu, con…
Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, ngưi Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn gtrị vật chất
(Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng giữa làng bằng một sàng
bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...). coi trọng danh dự nên nghi thức lời nói
trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú
trọng đến không gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ hội
theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời
chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổisáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi
tối….
Chính quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh diện “Ở đời muôn
sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng thôi”; “Đem chuông đi đánh nước người,
không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “Một quan tiền công không bằng một đồng tiền
thưởng”;.. trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ luận, bởi vậy, dư luận trở thành
một thứ klợi hại, một sợi dây hình để ràng buộc nhân với cộng đồng,nhờ đó duy
trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thẳng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mđầu “vòng vo tam quốc” để
đưa đẩy, tạo không khí thân mật thăm thái độ của đối tượng giao tiếp. Chính sự đắn đo
cân nhắc này khiến cho người Việt Nam nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải
quyết đoán, đồng thời để không m mất ng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người
Việt Nam rất hay cười. Nụ cười một bộ phận quan trọng trongthói quen giao tiếp của người
Việt; người ta thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên
trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ trọng sự hòa thuận. Người Việt
thường không biểu lộ trực tiếp cảm úc của mình với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu
ca dao, thành ngữ, thơ ca thường dùng hinhtượng ẩn dụ, bóng g“Trăm dâu đổ một đầu tằm”;
“Tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý
trong giao tiếp dẫn đến tâm nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng ngưi đối thoại “lời nói chẳng
mất tiền mua, lựa lơi mà nói chovừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự lành”;… hệ quả của
việc giữ ý, cả nề dẫn đếnthái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp
“Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo”; “uốn lưỡi ba lần trước
khi nói”... Chính thói quen ứng xử nặng tình cảm hơn trí thái độ giý, cả nể, thiếu tính
quyết đoán trong giao tiếp đã khiến cho người Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái
chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để
bảo vlẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử tiêu cực
với pháp luật.
Văn hóa ứng xử một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc ViệtNam qua
hàng nghìn năm dựng nước giữ nước. Đó cũng chính sức mạnh làm nên nét đẹp chìa
khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. vậy, mỗi nét đặc trưng văn hóa ứng xử giao
tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền văn hóa ng xử muôn màu, phong phú
thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng
văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật tất yếu đều phải có những mặt tích cực và mặt tiêu
cực, hai yếu tố này luôn song hành cùng nhau như ánh sáng bóng tối, nếu không ánh sáng
thì không thể nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu
cực này thể thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát
huy các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống
Việt Nam nói chung.
Câu 9: Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai t
của gia đình trong việc hình thành nhân cách nhân.
- Đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình tế bào của hội, một đơn vcộng đồng ra đời cùng với hội loài người, bắt
nguồn từ quan hệ nam nữ việc sinh đẻ, nuôi dạy con cái. Tính chất của gia đình trong lịch sử
thay đổi theo phương thức sản xuất và thể chế chính trị- hội. vậy, cách thức tổ chức gia
đình với cách một tế bào của hội, và ứng xử của văn hóa gia đình cũng là một thành tố
của văn hóa xã hội.
Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống:
Do sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp tưởng nho giáo nên văn hóa gia
đình Việt Nam truyền thốngcác đặc điểm sau:
+ Gia đình tiểu nông (nhiều thế hệ sống chung, cố kết bền vững).
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn m lịch sử gắn vi nền
văn hoá nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình.
Tính cộng đồng lối sống trọng tình: mỗi gia đình thường ba, bốn thế hệ cùng chung
sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vậy các thành viên trong gia đình rất gắn
bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau. (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang;
Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng; Anh em như thể tay chân...).
Gia đình tiểu nông: Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vchi phối tuyệt đối của tập thể gia
đình đối vi mỗi thành viên), tinh thần lợi ích chung, vừa coi trọng đúng mức vai trò
nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn trọng giới hạn tdo nhân. Tuy nhiên, rất dễ
nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể thường lấn át, tới mức, người phương Tây cho rằng gia
đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
+ Gia đình Nho giáo (phụ quyền, đa thê)
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn hoá gia
đình Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ quyền uy tuyệt đổi và chịu
trách nhiệm chính trong gia đình vmọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mđặt đầu con ngồi
đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
Chế độ phong kiến chấp nhận gia đình đa thê (trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên
chỉ có một chồng).
hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tưởng phong kiến,
phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng đức, chấp nhận gia đình đa thê, "trai
chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"....
Quan niệm gia đình đông con phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ thực tiễn của cuộc
sống nông nghiệp. Sinh con để người lo việc đồng áng, và lập gia đình để ngưi phụ
giúp nông trang.
Quan hệ các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ của giáo Nho
giáo (Quyền huynh thế phụ)
tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền nguyên nhân của quan niệm trọng nam
khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô).
Đây nguyên nhân gây ra nhiều thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong
kiến.
Trong thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông hạn. Từ quyền phân công
lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia đình
thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông quyền đánh đập. “bán vợ, đợ con”,
hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền lực chính trong gia đình. Vị thế
người phụ nữ dần bị xem nhẹ, cho vai trò của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình
và xã hội.
- Vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách nhân.
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn một thiết chế hội tồn tại mang tính bền vững, gia
đình luôn tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất tiếc khóc chào đời
đến khi mất đi. hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn luôn nhân tố tích cực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng quan trọng của gia đình.
1. Gia đình môi trường giáo dục đầu tiên để mỗi nhân hình thành, hoàn thiện nhân cách.
Mỗi con người khi sinh ra thông thường đều một gia đình, được sinh ra từ người cha,
người mẹ…vì thế, ánh mắt đầu tiên cái nhìn vcha mẹ, âm thanh đầu tiên tiếp nhận âm
thanh từ cha mẹ, ông bà, anh chị là âm thanh của gia đình.
Mỗi nhân, từ khi lọt lòng mẹ đến khi trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời ăn, tiếng
nói, từ cách ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em, vi cộng đồng thế nào cho đúng, cho lễ
phép. Gia đình nhân tố đầu tiên chỉ bảo, dạy dỗ cho các em hành vi ứng xử theo chuẩn mực
các giá trị tốt đẹp của hội: “Học ăn, học nói, học gói, học m.. Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng; Trên kính duới nhường. ”
Chính vì vậy hành vi đầu đời của các em có dấu ấn sâu sắc của gia đình. Trẻ em có hành vi tốt
hay xấu trước hết và chủ yếu do môi trường giáo dục của gia đình tạo nên.
2. Gia đình chuẩn bị hành trang cho các em bước vào cuộc sống
Trên những bước đường trưởng thành những ức của tuổi thơ luôn đọng lại theo chân
các em trên mỗi hành trình đó thể ức buồn khổ hoặc ức êm đềm ngọt ngào
trong vòng tay yêu thương của gia đình… tất cả đều trở thành hành trang, động lực giúp các em
ơn lên, quyết tâm hơn trên mỗi bước đi của cuộc đời mình.
3. Gia đình nhịp cầu nối với nhà trường
Gia đình là cái nôi giáo dục đầu tiên, giai đoạn sau các em tiếp tục được sự giáo dục của
nhà trường. Đó môi trường rộng lớn hơn, bạn nhiều hơn, kiến thức được m mang, thể
chất ngày càng phát triển, theo đó nhận thức và nhân cách được phát triển rất mạnh thời kỳ
này.
Để định hướng, uốn nắn điều chỉnh về nhân cách của các em gia đình phải luôn liên
hệ với nhà trưng. Sự hợp tác này sẽ đạt hiệu quả rất cao nhà trường chính môi trường
thuận lợi nhất, tốt nhất để các em học tập và rèn luyện.
Câu 10: Hãy trình bày đặc trưng của văn hóa của làng ảnh hưởng của đến thói quen,
lối sống, cách duy, ứng xử của người việt (ảnh hưởng đến pháp luật). Sưu tầm những
câu thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt.
Đặc trưng của văn hóa làng Việt
Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo làm nên
bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã củng gặp nhau khi khái
quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tinh cộng đồng và tính tự trị.
+ Tính cộng đồng
- Tính cộng đồng: sự liên kết, gắnchặc chẽ, giữa các gia đình, gia tộc, giữa các thành viên
trong làng với nhau, là ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng với nhau
- Tính cộng đồng như một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam, được biểu hiện nét
cách thức tổ chức các mối quan hệ trong các đơn vị cộng đồng, từ gia đình - gia tộc đến ng
xã và quốc gia, trong đó tính cộng đồng thể hiện rõ nhất là ở văn hóa làng
a.
sở hình thành tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải sống định cư, vậy, như một
đòi hỏi tự nhiên và tất yếu để sinh tổn, người Việt đã sống quần tụ thảnh cộng đồng, gắn kết để
nương tựa, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ứng phó với thiên tai.
b, Biểu hiện của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Về kinh tế: dân trong cùng một làng luôn tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất,
chống thiên tai (hạn hán, lụt), khi đói kém, mất mùa (Một miếng khi đói bằng một gói khi no;
lành đùm rách; Lụt thì lút cả làng, đắp để chống lụt thuếp chàng cùng lo...).
- Về tình cảm: dân trong làng đều mối quan hệ thân tộc nên luôn giúp đỡ nhau khi khó
khăn hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Bầu ơi thương lẩy bị
cùng...).
- Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng có chung phong tục, Lập quán, tín ngưỡng, củng thờ chung
Thành Hoàng làng, cùng tham gia các hội hè, định đảm...; hôn nhân phải được lảng công nhận
(nộp theo cho lảng).
- Về luật pháp: mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với cách
nhân, bị hỏa tán trong cộng đồng họ mc, làng xã. vậy, trong hội phong kiến, một
người làm quan cả họ được nhờ”, nhưng một người phạm tội thì cả cộng đồng phải chịu vạ lây
(Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu).
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả vquan hệ xã
hội cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật... Tính cộng đồng được bảo tồn, nuôi dưỡng
từ cái nôi văn hóa làng một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, cũng sở để hình
thành tinh thần đoàn kết dân tộc như một gtrị tinh thần truyền thống quý báu, làm nên cội
nguồn sức mạnh của dân tộc ta.
c. Biểu tượng của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
Trong không gian sống của mỗi làng quê Bắc Bộ, đình làng cây đa, bến nước những hình
ảnh cùng quen thuộc, gắn thân thuộc, bởi đây những địa điểm thưởng tập trung đông
người, nơi sinh hoạt cộng đồng. Bởi vậy, trong văn hóa làn những hình ảnh này được coi
biểu tượng cho tỉnh cộng đồng
d.Tác động của tỉnh cộng đồng đến lối sống, cách duy, ứng xử của người Việt,
Tính cộng đồng như một đặc trưng bản sắc của văn hóa tàng đã in đậm dấu ấn trong tâm lý,
tính cách, đã tác động đến lối sống, cách duy, ứng xử (nói chung) văn hóa ứng xử với
pháp luật (nói riêng) của ngưi Việt với cả hai mặt tích cực và tiêu cực
+ Tác động tích cực:
- Tạo nền nếp sống dân chủ bình đẳng tính tập thể hóa đồng (Một con ngựa đau cả tàu bỏ
cỏ...). Tạo nên nếp sống gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc nhau, sở tạo nên
lối sống trong tỉnh
- Một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt (Tay đứt ruột xót, Chị ngã Em nâng,
lành đùm rách...).
- Tinh gắn kết cộng đồng lối sống trong tỉnh tạo nên cuộc sống thoả thuận, lấy tình nghĩa
làm đầu, giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tụng..., khiến cho cuộc sống làng quê được
ổn định, bình yên.
+ Tác động tiêu cực:
- Lối sống để cao tính cộng đồng nguyên nhân tạo nên từ thương phái, bao che ( Rút y
đồng rừng, Môi hở răng lạnh, đóng cửa bảo nhau, không vạch áo cho người xem lưng ). Đặc
điểm này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi ứng xử với pháp luật, nhất khi pháp luật
được xây dựng dựa trên nguyên tắc phúc cùng hướng, họa cùng chịu”, quy định trách
nhiệm liên đới (một người gây nên tội khiến chọ hàng, thậm chí láng giềng phải chịu vy)
thì thói quen ứng xử phái, bao che càng nặng nề hơn, làm hạn chế các hành vi tố giác tội
phạm, gây cản trở cho việc thực thi pháp luật.
Đề cao lối ứng xử kiểu “chủ nghĩa thân quen" (Nhất thân nhì quen tam thần tứ thế) và thói
quen dựa dẫm, lại không cho trách nhiệm nhân (Một người làm quan cả họ được nhờ,
Nước nổi thì bèo nổi, Cha chung không ai khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa...).
- Lối sống đề cao tính cộng đồng cũng nguyên nhân hinh thành thói quen ứng xử cào bằng,
đổ kỵ, kìm hãm, hạn chế thức vquyền nhân (Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng
ngốc đàn; Chết một đống còn hơn sống một người...).
- Tính cộng đồng và lối ứng xử trọng tình nguyên nhà dẫn đến thói quen ứng xử cả nể, ngại
va chạm, sợ mất lòng thỏa hiệp, theo đó sự hạn chế năng lực duy phản biện. Thói quen
duy và ứng xử này đã được dân gian đúc kết qua các cửa thành ngữ, tục ngnhư: Chín bỏ
làm mười; Một sự nhịn chín sự lành; Nhất n làm thính; Tháng ba cũng ừ, tháng cũng gật;
Sự nổi cũng phải, vãi nói cũng hay; Gió chiều nào theo chiều ấy; Một đời kiện chín đời thù...).
Đây nguyên nhân dẫn đến thái độ hành xử thiếu tính quyết đoán trong giải quyết công việc
cũng như thái độ hòa vi quýtrong đấu tranh với những hành vi tiêu cực, với cái xấu, cái
bất công.
- Văn hóa trọng tình coi tình cảm làm thước đo gtrị trị trong các quan hệ dẫn đến thói quen
ứng xử nặng tình nhẹ (một cái không bằng một tỉ cái tình). Trong một hội nếu cái
tình vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái thi pháp luật tất yếu sẽ không được coi
một công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ xã hội
- nguyên tắc ứng xử trọng tình nhẹ nguyên tắc bản chi phối, điều tiết các mối quan
hệ cho nên việc xử sự của con người thường nặng về chủ quan cảm tính, tùy tiện, không coi
trọng tính nguyên tắc. Đặc điểm này được đúc kết lưu truyền trong dân gian qua các cấu
thành ngquen thuộc như: Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu
nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng cho bằng, Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét
nhau quả bồ hòn cũng méo... Đây cũng một nguyên tắc ứng xử tác động tiêu cực, gây khó
khăn, cản trở cho việc thực thi pháp luật dựa trên nguyên tắc khách quan và công bằng.
Tóm lại, hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực thì những tác động tiêu cực của tính cộng đồng
vẫn còn để lại vị nặng nề trong hội, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tiêu cực đến văn hóa
ứng xử với pháp luật của người Việt, gây k khăn, cản trở không ít cho công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền tinh thần "thượng tôn pháp luật" một đòi hỏi tất yếu của hội văn
minh. Chính từ nếp sống, thói quen ứng xkiểu chủ nghĩa thân quen, dựa dẫm, lại, phái,
bao che, đặt tình cao hơn lý, cả nể, ngại va chạm khiến cho pháp luật nhiều khi bị vô hiệu hóa.
vậy, văn hóa ứng xử "lấy cảm tình làm bản vị" của người Việt đang là một thách đố gay gắt
khi đất nước bước vào tiến trình hội nhập tỉnh thần thượng tôn pháp luật” điểm tựa của
việc thực hiện những cam kết quốc tế.
+ Tính tự trị
Tính tự trị: sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng kc, do tính cố kết cộng
đồng cao khiến cho mỗi làng trở thành 1 đơn vị độc lập, khép kín, co cụm lại, trong không gian
khá biệt lập của mỗi làng tạo nên tính chất tự trị của làng.
Nếu như tính cộng đồng thể hiện sự đoàn kết, gắn bó, sẻ chia giữa các thành viên trong cùng
một làng thì tính tự trị lại thể hiện sự tồn tại độc lập, khép kín trong quan hệ giao này vi làng
khác và tính tự quản của làng so với chính trung ương.
a, sở hình thành tỉnh tự trị:
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt định nền kinh tế tiểu nông tự túc tự
cấp nên người Việt sống quần tụ trong không gian làng quê, bao quanh làng lũy tre cổng
làng, khiến cho làng nào biết làng ấy, các quan hệ hội chủ yếu chỉ hẹp trong không gian
sống của làng, hạn chế sự quan hệ giao lưu với bên ngoài.
- Bộ máy hành chính tự quản của làng cũng khiến cho lang tồn tại như một “tiểu vương quốc”,
luôn xu hướng ly tân với chính quyền trung ương, đó cũng một cơ sở hình thành mở sống
khép kín, tự trị, hướng nội trong văn hóa làng.
Ngoài ra, do tính cố kết cộng đồng cao cũng khiến chi mỗi làng tồn tại như một đơn vđộc lập,
tự đầy đủ, khép kín cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng.
b.
Biểu hiện của tỉnh tự trị.
- Về không gian địa : mỗi làng sống quần tụ trong một không gian với ranh giới bao quanh
làng lũy tre và cổng làng khiến cho mỗi ng tồn tại như một “vương quốc" nhỏ khép kín,
làng nào biết làng ấy
- Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vkinh tế độc lập, tự túc tự cấp nền ít nhu cầu
quan hệ giao thương với bên ngoài
- Về tình cảm: một vài dòng họ thường sống quần tụ trong một làng, việc dựng vgchồng
khuyến khích lấy nhau cùng làng (lấy chồng khó làng hơn lấy chồng sang thiên hạ). vậy
quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, kp kín trong phạm vi làng.
- Về phong tục tín ngưỡng, mỗi làng thờ Thánh Hoàng làng ông tổ của làng được thờ
đình làng, ngoài ra còn đền, chùa, miếu những không gian thờ phụng gắn với những
phong tục, tín ngưỡng riêng của làng, có lễ hội, đình đám của làng...
Thường mỗi làng một ngôi đình nơi sinh hoạt văn hóa của cả làng, thờ một vị thành hoàng
vị thần bảo trợ cho dân làng. Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”
cùng đó mỗi làng một lễ hội, đình đám khác nhau, thời gian cách thức thực hiện khác
nhau.
- Về tổ chức hành chính: Mỗi làng một đơn vị hành chính tự quản độc lập, vai trò chức
năng giải quyết mọi việc trong làng. Bộ máy hành chính của mỗi làng gm hai quan quản lý:
+ Cơ quan của nhà nước, đứng đầu là các xã quan xã trưởng, sau này là các lý dịch: lý trưởng,
phó lý, hương thân, hương hào, khán thủ, hương trưởng (chức năng hành pháp).
+ Hội đồng kỳ mục của làng xã đứng đầu là các tiên thứ chỉ - thường là quan lại về hưu, người
cao tuổi trong làng, ... ( chức năng như bộ phận lập pháp).
+ Lệ làng hương ước là luật lệ của làng.
- Về luật pháp:
Mỗi làng lệ làng- hương ước luật lệ của ng.
Hương ước văn bản ghi chép các lệ làng, trong đó quy định những điều cấm không được
làm, những điều được m; những hình phạt khi làm trái với lệ làng những hình thức khen
thưởng đối với những việc làm tốt, có ích cho làng.
thế, luật tục-hương ước-lệ làng đã ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nếp, quy
cũ, tạo thành nếp sống chung ổn định trong không gian khép kín của mỗi làng. Hương ước
chính hệ thống giá trị chuẩn mực của làng xã, quy định cung cách ứng xử, lối sống của
nhân trong làng, tạo nên sự đồng nhất. Trong hội truyền thống VN, từ hàng nghìn năm, luật
tục đã tồn tại song song với pháp luật của nhả nước (lệ làng/ phép nước).
thể nói, trong tổ chức làng Việt Nam truyền thống, hương ước lệ làng về bản một
hiện tượng văn hóa độc đáo với rất nhiều các gtrị tích cực đã góp phần giữ gìn kỷ cương, trật
tựhội, thuần phong mỹ tụ với các quy định mang tính cách đặc thù của mỗi địa phương. Với
luật lệ riêng, làng Việt Nam đã tồn tại như mt vương quốc thu nhỏ với sự cố kết rất bền
vững.
Tính tự túc tự cấp của nền kinh tế tiểu năng cùng với bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho
làng luôn có xu hướng ly tâm vi chính quyền trung ương

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục văn hóa
gốc nông nghiệp trồng trọt. giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Mỗi quốc gia, dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là một tiêu chí quan trọng
để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân tộc dù
phong phú, đa dạng đến mấy cũng đều có nguồn gốc xuất phát từ một trong hai loại hình văn
hóa gốc của nhân loại gắn liền với hai phương thức sản xuất chủ đạo: văn hóa gốc chăn nuôi du
mục và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt.
Văn hóa gốc chăn nuôi du mục
Văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
Nguồn gốc - Hình thành ở phương Tây (văn hóa - Hình thành ở phương Đông (văn hóa hình
phương Tây) bao gồm toàn bộ Châu Âu, phương Đông), gồm Châu Á và Châu thành
trên cơ sở của phương thức sản xuất Phi. Phương Đông là khu vực có khí hậu
chăn nuôi du mục. Phương Tây là vùng nóng ẩm, mưa nhiều với những con sông
khí hậu lạnh, khô, địa hình chủ yếu là lớn, theo đó là những vùng đồng bằng trù
thảo nguyên – xứ sở của những đồng cỏ, phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng
rất thích hợp cho nghề chăn nuôi, bởi trọt phát triển. Điều kiện tự nhiên và
vậy chăn nuôi là nghề truyền thống của phương thức sản xuất nông nghiệp trồng
cư dân phương Tây cổ xưa.
trọt đã hình thành một loại hình văn hóa khác với phương Tây.
Đặc điểm
- Nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi cư dân - Nghề trồng trọt buộc con người phải
phải sống theo lối du cư, nay đây mai đó, sống định cư. Do sống định cư nên cư
từ đó tạo thành thói quen, lối sống thích dân nông nghiệp phải lo tạo dựng một
di chuyển (trọng động).
cuộc sống ổn định lâu dài, không thích
- Vì luôn di chuyển nên cuộc sống của sự di chuyển, đổi thay (trọng tĩnh).
dân du mục không phụ thuộc nhiều vào - Vì nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên, từ đó nảy sinh tâm lý coi thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp rất
thường tự nhiên và có tham vọng chinh tôn thờ, sùng bái tự nhiên và mong muốn
phục, chế ngự thiên nhiên.
sống hòa hợp với thiên nhiên.
- Vì sống du cư nên tính gắn kết cộng - Cuộc sống định cư và phải liên kết để
đồng của cư dân du mục không cao, yếu chống chọi, ứng phó với tự nhiên nên đã
tố cá nhân được coi trọng, dẫn đến tâm tạo cho cư dân nông nghiệp tính gắn kết
lý ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối cộng đồng cao.
ứng xử độc tôn, độc đoán trong tiếp - Phương thức sản xuất nông nghiệp
nhận, cứng rắn trong đối phó.
sống định cư và tính gắn kết cộng đồng
- Cũng vì cuộc sống du cư cần đến sức đã tạo nên lối sống trọng tình nghĩa,
mạnh và bản lĩnh nên người đàn ông có trọng văn, trọng phụ nữ (chế độ mẫu hệ
vai trò quan trọng, tư tưởng trọng sức ở phương Đông tồn tại lâu hơn phương
mạnh, trọng võ, trọng nam giới cũng từ Tây). đó mà ra.
- Nghề trồng trọt phụ thuộc cùng một
- Nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự lúc vào nhiều yếu tố với sự tương tác lẫn
khẳng định vai trò cá nhân, thêm vào đó, nhau: thời tiết nắng, mưa, đất đai, khí
đối tượng mà hàng ngày con người tiếp hậu, giống cây trồng, chế độ chăm sóc...
xúc là đàn gia súc với từng cá thể độc nên từ đây đã hình thành kiểu tư duy
lập, từ đó hình thành kiểu tư duy phân tổng hợp - biện chứng, coi trọng mối
tích chú trọng vào từng yếu tố. Kiểu tư quan hệ giữa các yếu tố hơn là sự tách
duy này là cơ sở cho sự phát triển của bạch từng thành tố riêng lẻ. Lối tư duy
khoa học dựa trên những cơ sở khách tổng hợp, biện chứng là nguyên nhân dẫn quan, lý tính.
đến thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
- Kiểu tư duy phân tích là nguyên nhân - Phương thức sản xuất nông nghiệp chủ
đẻ ra lối sống trọng lý, ứng xử theo yếu dựa vào kinh nghiệm đúc kết từ thực
nguyên tắc; thói quen tôn trọng pháp luật tế nên từ đây cũng hình thành biểu tư
cũng vì vậy mà được hình thành rất sớm duy kinh nghiệm chủ quan, cảm tính, ở phương Tây.
thay vì tư duy khoa học khám phá bản
chất của đối tượng trên cơ sở khách quan và khoa học.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi bật
khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Tuy nhiên,
trong thực tế thường không có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính chất nông nghiệp trồng
trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn hóa chỉ là tương
đối, căn cứ vào các yếu tố có tính trội.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Do vị trí địa lý nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á nên Việt Nam thuộc loại hình
văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Với điều kiện về vị trí địa lý, khu vực địa hình
chịu tác động của gió mùa, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía Đông - Nam
Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong...
nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. Và cây lúa là một trong những cây nông nghiệp chính
có từ rất lâu đời ở Việt Nam, cũng chính cấy lúa cùng với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta
đã tạo nên là điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước. Căn cứ vào những yếu tố
trên, có thể thấy rằng nền văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
điển hình. Tất cả những đặc trưng văn hóa Việt Nam đều thể hiện một cách rõ nét nhất loại
hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt ở Việt Nam:
Tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rõ
nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam. Biểu hiện:
- Về đặc trưng về lối sống, ở VN do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều,
có những con sông lớn, những đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt mà
điển hình là nền văn minh lúa nước. Do vậy, người Việt từ xưa đến nay đều ưa thích một cuộc
định cư ổn định (An lạc nghiệp), không thích di chuyển, vì vậy đã tạo nên tình cảm gắn bó
với quê hương xứ sở, với làng, nước. Nhưng cũng từ đây đã hình thành lối sống tự trị, khép
kín, hướng nội, hạn chế sự giao lưu, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
- Cư dân VN do sống bằng nền nông nghiệp nên sự gắn bó, phụ thuộc vào tự nhiên lại
càng lâu dài và bền chặt dẫn đến cư dân nông nghiệp Việt Nam rất sùng bái tự nhiên, luôn
mong muốn mưa thuận gió hòa để có cuộc sống no đủ (câu cửa miệng của người Việt là “lạy
Trời, “ơn Trời”, “nhờ Trời”,...). Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa,
Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, cây cau,.. Đó chính là nguyên nhân sự ra đời
của nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất
nước nhưng phổ biến nhất là ở dân tộc thiểu số như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ là hình thức
thờ cúng Tam vị Thánh Mẫu cai quản các yếu tố tự nhiên quan trọng nhất, thiết thân nhất đối
với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước; tín ngưỡng Phồn Thực - loại tín ngưỡng
tôn thờ sự giao phối - nguồn gốc của sự sinh sôi nảy nở và vì là Việt Nam có nền văn hóa gốc
nông nghiệp, mùa màng tươi tốt và muôn loài sinh sôi (hai vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với đời sống cư dân) nên tín ngưỡng Phồn Thực phát triển mạnh và bảo tồn lâu dài;
các lễ hội tín ngưỡng nông nghiệp gồm hội Cầu mưa , hội Xuống đồng, hội Đâm trâu, hội Cơm mớ.
- Cuộc sống định cư tạo cho người Việt tính gắn kết cộng đồng cao (Bán anh em xa mua
láng giềng gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, Lụt thì lút cả làng, Nước nổi thì bèo nổi...)
- Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa (Lá lành đùm rách, Chị ngã
em nàng, Bầu ơi thương lấy cùng… ), các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lý (Một
bồ cái không bằng một cái tình; Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế...). Từ đặc trưng sự
gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao
hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực. Vì sống theo tình cảm, người
Việt có lối sống tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc,
nó có trước nền quân chủ phong kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối
sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Cư dân Việt
Nam làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
- Cuộc sống định cư ổn định cần đến vai trò chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm
nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng là công việc phù hợp với phụ nữ, do đó, vai trò của người
phụ nữ được tôn trọng, đề cao. Đặc trưng này là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Phụ nữ Việt
Nam là người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa biểu hiện
(Ruộng trâu nái không bằng con gái đầu lòng, Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng
cồng ; Ba đồng một mở đàn ông đem bỏ vào lòng cho kiến tha, ba trăm một mụ đàn bà,
đem về trải chiếu hoa cho ngồi… )
Sau này, do sự ảnh hưởng, chi phối của tư tưởng Nho giáo mới hình thành tư tưởng
trọng nam khinh nữ. Hiện nay, các dân tộc không chịu ảnh hưởng, hoặc ít chịu ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa (dân tộc Chăm, Êđê, Giarai...) vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ. Nhiều tộc
người tuy không còn chế độ mẫu hệ nhưng hiện vẫn còn lưu lại những vết tích (người Khmer
vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc là "mê phum", "mê sóc" (mê = mẹ), dù người đó là đàn ông).
- Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả
mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa, trông gió, trông
ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng hợp - biện chứng kết
hợp với lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện, vô nguyên tắc (Yêu
nên tốt, ghét nên xấu; Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.Thương
nhau mọi việc chẳng nể, dẫu trăm chỗ lệch cũng cho bằng)
- Lối tư duy tổng hợp, biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm dẻo,
linh hoạt, được thể hiện rõ qua quan niệm sống của người Việt (Tùy ứng biến; bầu thì
tròn, ổng thì dài; Đi với bụt mặc áo sa, đi với ma mặc áo giấy ).
- Kiểu tư duy nặng về kinh nghiệm chủ quan, cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn hóa
nhận thức, ứng xử của người Việt: coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ sở khách quan và
tri thức khoa học (Nhìn mặt bắt hình dong; Trăm hay không bằng tay quen, Sống lâu lên
lão làng… )
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng
trọt đều được thể hiện rõ nét trong lối sống, phương thức tư duy và thói quen ứng xử của ngưởi
Việt, được thể hiện qua kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ - đó là những giá trị văn hóa phi
vật thể được đúc kết qua nhiều thế hệ, được lưu truyền trong dân gian.
Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt được thể hiện lĩnh vực văn hóa vật chất.
Để đáp ứng nhu cầu sinh tồn, con người phải thực hiện các hoạt động vật chất như: lao
động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại,… Sản phẩm của các hoạt động vật chất thể hiện trong đó các
năng lực tinh thần của con người, phản ánh thói quen, lối sống, phong tục, tập quán,… của một
cộng đồng. Đó là kết quả của sự thích nghi và ứng phó của con người với môi trường tự nhiên
và xã hội cụ thể, làm nên dấu ấn riêng của mỗi cộng đồng – đó là đặc trưng văn hóa của một
cộng đồng thể hiện ở phương diện hoạt động vật chất. Vì vậy để nhận diện đặc trưng văn hóa
của một cộng đồng, trước hết cần nhận diện các dấu ấn văn hóa thể hiện ở phương diện hoạt động vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây
dựngquốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù,
chaông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của
nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận dụng, thích nghi và ứng
phó với môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Về phương thức sản xuất: nghề nông nghiệp lúa nước theo phương thức sản xuất tiểu
nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toàn bộ nền tảng kinh tế của xã
hội VN truyền thống. Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã đúc kết được một hệ thống
kinh nghiệm của nghề trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không chỉ được lưu truyền trong
dân gian, mà còn được tập hợp lại, biên soạn thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân (Vi
dụ: cuốn sách Minh nông phả của Trần Cảnh đời Lê; Nông gia thuật chiêm kinh nghiệm yếu
quyết của Trần Ngọc Trác; Nông sự toàn đồ của Thúc Hoạch đời Nguyễn). Để phục vụ cho
nghề nông, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ thủ công cổ truyền rất phong
phú, đa dạng, gồm hàng trăm kiểu loại khác nhau. Tất cả những kinh nghiệm được đúc kết và
những thành tựu sáng tạo từ phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng
tận dụng, thích nghi và ứng phó một cách tối ưu của người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Bên cạnh nghề nông, các nghề thủ công như nghề dệt, gồm sứ, thêu thùa,… hình thành các làng
nghề với các sản phẩm nổi tiếng như: gốm Bát Tràng, dệt thêu Hà Tây,… Bằng những công cụ
dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiên như: tơ chuối, sợi đay, sợi gai, tơ tằm, sợi bông,…
- Trong rất nhiều những yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày của con người từ phía
tự nhiên, các nhà nghiên cứu văn hóa VN đều thừa nhận hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn
hóa vật chất của người Việt, đó là tính chất sông nướcthực vật. Sự chi phối của 2 yếu tố tự
nhiên này được thể hiện trước tiên trong việc lựa chọn cơ cấu 1 bữa ăn truyền thống với 3
thành phần chính: cơm – rau – cá. Sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên
của người Việt còn được thể hiện rõ nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mềm dẻo, linh
hoạt của cư dân nông nghiệp Việt Nam. Trước hết ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền,
đó là một biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa là một cách tự
thích nghi của nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc chế biến
và lựa chọn các món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của cơ thể (điều hòa âm -
dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi trường để ứng phó với thời tiết.
- Trong văn hóa trang phục Việt Nam, với nghề chính là trồng trọt nên người Việt chủ
yếu sử dụng các chất liệu có sẵn trong tự nhiên, mỏng, nhẹ và có nguồn gốc từ thực vật như: tơ
tằm, sợi bông, sợi đay, sợi gai… Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt chủ yếu là
những gam màu trầm tối: Miền Bắc là màu nâu (màu đất) và Miền Nam là màu đen (màu bùn).
Phản ánh phong cách truyền thống của người VN là ưa sự kín đáo, giản dị, đồng thời cũng thể
hiện sự thích nghi với môi trường sống và sinh hoạt của nghề nông trồng lúa nước “chân lấm
tay bùn”. Ngoài ra chiếc nón lá cũng là một bộ phận kèm theo không thể thiếu trong trang phục
của phụ nữ VN truyền thống. Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm
mưa nhiều. Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp
với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng, ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ.
- Về văn hóa ở và sinh hoạt, vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa…
thể hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN. Kiến trúc nhà ở của
người Việt mang dấu ấn của vùng sông nước với nhà sàn là kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả
miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường (tránh côn
trùng, thú dữ, lũ, ngập lụt…). Sang thời phong kiến thì nhà đất bằng là phổ biến, song dấu ấn
văn hóa sông nước còn thể hiện ở kiểu nhà mái cong mô phỏng hình mũi thuyền, thậm chí cư
dân sống bằng nghề sông nước còn dùng thuyền làm nhà ở. Không gian ngôi nhà Việt là không
gian mở, có cửa rộng, thoáng mát, giao hoà với tự nhiên, xung quanh có cây xanh bao bọc che
chở. Về việc chọn hướng nhà và chọn đất làm nhà được đặc biệt coi trọng, dựa theo thuật
phong thủy hướng nhà ưa thích của người Việt là hướng nam hoặc đông nam (Lấy vợ hiền hòa,
làm nhà hướng nam) các hướng này sẽ tận dụng được gió mát từ biển thổi vào và tránh được
nắng nóng từ phía tây, gió lạnh từ phía bắc xuống,…
- Về văn hóa giao thông đi lại: Giao thông đường thủy do đặc điểm là vùng sông
nước,với hệ thống sông ngòi chằng chịt, có bờ biển dài... Vì giao thông đường thủy chiếm ưu
thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc
sống sinh hoạt gắn liền với sông nước đã khiến hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong
tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về nhớ bến chăng...) Trong
khi đó giao thông đường bộ lại hạn chế (do: phương thức sản xuất nông nghiệp định cư, khép
kín ít có nhu cầu di chuyển, địa hình bị chia cắt bởi núi non và sông ngòi dày đặc,..)
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại - đó là những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu vật chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn
hóa của con người với môi trường tự nhiên và với cộng đồng xã hội. Sự ứng xử văn hóa của
người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện rõ nét dấu ấn của loại hình văn hóa nông
nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt
của người Việt đối với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật, qua đó góp phần
thể hiện các đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam.
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường hội của người Việt được thể hiện lĩnh vực
văn hóa vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha ông ta
xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn
minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của người Việt với
môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
- Về cơ sở vật chất xã hội: Để xây dựng một quốc gia phong kiến tự chủ, các triều đại
phong kiến Đại Việt từ Đinh - Lý - Trần - Lê - Nguyễn đều rất chú trọng việc xây dựng cơ sở
vật chất như cung điện, lăng tẩm, đền đài, thành lũy. Nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng của
thời Đại Việt như kinh đô Hoa Lư, kinh đô Thăng Long, kinh thành Huế mặc dù đã bị tàn phá
nặng nề qua nhiều lần chiến tranh giặc giã, nhưng những gì còn lại đến ngày nay đã trở thành
những di sản văn hóa vô giá của dân tộc, là bằng chứng cho các thời kỳ hung thịnh của các
triều đại phong kiến Đại Việt.
- Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất
tiểu nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng kinh tế của
xã hội Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định hình
từ thời Văn Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, trong quá trình xây dựng
quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông và có các chính sách khuyến nông tích cực.
Quá trình cải tạo và chinh phục tự nhiên, khai hoang, cải tạo đầm lầy, lấn biển, mở rộng diện
tích canh tác, làm thủy lợi, đắp đê chống lụt đã tạo thành các vùng đồng bằng châu thổ Bắc
Bộ, Bắc Trung Bộ, và sau này là Nam Bộ để chuyên canh lúa nước một cách ổn định. Trên
những vùng đồng bằng châu thổ kéo dài từ Bắc đến Nam, người Việt đã phát triển một truyền
thống văn hóa sản xuất tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước.
Bằng những công cụ dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiện như: tơ
chuối, sợi đay, sợi gai, tơ tăm và sợi bông, những người thợ thủ công đã dệt ra nhiều loại vải,
lụa rất phong phú, không chỉ đáp ứng được nhu cầu may mặc trong nước mà còn bán ra nước
ngoài. Như vậy, từ thời Hùng Vuơng dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại Việt,
phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước được duy trì và phát triển với vai trò kinh tế chủ
đạo. Cùng với nghề nông là sự mở rộng và phát triển các làng nghề thủ công phục vụ cho các
nhu cầu sản xuất và sinh sống hàng ngày.
Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiểu nông tự cung tự cấp, các
quan hệ giao luu bị hạn chế, do đó sản xuất nông nghiệp và thủ côngnghiệp chỉ dừng lại ở quy
mô nhỏ của nên kinh tế tiểu nông đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng chứ không thế vuơn tầm phát
triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
- Trong văn hóa ẩm thực, hành vi ăn uống là biểu hiện của văn hóa khi nó được thực
hiện một cách có ý thức và hình thành như một thói quen – đó vừa là văn hóa ứng xử với môi
trường tự nhiên, vừa là văn hóa ứng xử xã hội. Bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành
viên trong bữa ăn liên quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì
mang tính cộng đồng nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng
đồngcùng với sự chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việt rất
coi trọng nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
- Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền
chắc “ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: nâu, đen,
chàm, gụ, tím…phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ,
vàng, xanh lá cây,…) chỉ mặc vào các dịp lễ, hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp
(Người đẹp lụa, lúa tốt phân, cau già khéo bổ thì ngon, nạ dòng trang điểm lại giòn hơn
xưa). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân, quần
lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là một trong những nét bản
sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu.
Cái thúng thủng hai đầu
Bên ta thì bên Tàu thì không.
( Câu đố)
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân, bỏ buông 2 vạt trước,
hoặc áo mớ bảy mớ ba với nhiều màu sắc). Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày
là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội
thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục
của người Việt thể hiện quan niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
- Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
cuộc sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính cộng
đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập thì nhà
Việt truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình, các
gian nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn. Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng
thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi..) được
xén thấp để dễ qua lại.
- Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư dân ít
có nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa các
vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ yếu là đi
bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở giao thông đường thủy vì
đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng
Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con
đò đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái,gái theo chồng; Thuyền về
nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông
nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại - đó là những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu vật chất thiết thân của con người, nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn
hóa của con người với môi trường tự nhiên và với cộng đồng xã hội. Sự ứng xử văn hóa của
người Việt qua các hoạt động vật chất đã thể hiện rõ nét dấu ấn của loại hình văn hóa nông
nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt
của người Việt đối với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật, qua đó góp phần
thể hiện các đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam.
Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với sự hình thành triết
sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật trong vũ
trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Trong văn hóa bản địa của
người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất,
nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu
chuyện thần thoại. Đó là cơ sở để thuyết âm dương ngũ hành ăn sâu trong đời sống văn hóa
tinh thần của người Việt, trở thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống
cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ:
Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp đôi: trong
tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân bằng ân
dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm dương thường
được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước…
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: từ triết
lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng, hài hòa âm
dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo triết lí quân bình,
duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc làm nhà ở, cho đếm việc ứng
xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự
bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan.
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do nhận
thức được qui luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái
nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được
qui luật chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ
hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn
đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Phật giáo Việt Nam vai trò của
Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa nay.
Phật giáo chính thức du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc, theo chân quân xâm lược
Trung Hoa, và đã nhanh chóng được người Việt tiếp nhận một cách tự nhiên và tự nguyện. Phật giáo gồm 2 phái:
- Thượng tọa (tiểu thừa): từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam.
- Đại chúng (đại thừa): từ Trung Hoa du nhập vào Việt Nam.
Nói đến Phật giáo trước hết là nói đến tư tưởng vị tha, vị nhân sinh. Phật cho rằng đời là
khổ và đã tìm lấy sự giải thoát khỏi cái khổ. Bởi vậy Phật xướng lên thuyết Tứ thánh đế hay Tứ
diệu đế. Đó là Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: là chân lí về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì? Đó là trạng thái buồn phiền phổ
biến ở con người do sinh, lão , bệnh, tử, do mọi nguyện vọng không được thỏa mãn.
- Nhân đế: Là chấn lí về nguyên nhân của nỗi khổ. Đó là do ái dục và vô minh (kém
sáng suốt). Dục vọng thể hiện thành hành động là Nghiệp (karma), hành động xấu khiến con
người phải nhận hậu quả của nó (nghiệp báo), thành ra cứ luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được.
- Diệt đế: là chân lí về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây
ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (nirvana, nghĩa đen là “không ham muốn,
dập tắt”). Đó là thế giới của sự giác ngộ và giải thoát.
- Đạo đế: là chân lí chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải thoát và giác
ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức( giới), tư tưởng (định) và khai sáng trí tuệ (tuệ).
Đặc điểm của Phật giáo:
- Tính nhập thế: giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh, luôn đồng
hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các hoạt động xã hội:
nhà chùa mở trường dạy học, tham gai đào tạo tri thức, nhiều nhà sư đồng thời nhà sư đồng
thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người Việt cụ thể hóa trong các
mối liên hệ đời thường.
- Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến
thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa: dung
hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị
thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…
+ Dung hợp giữa các tông phái Phật giáo.
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như Nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho
nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
*Vai trò của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa nay:
- Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và văn hóa dân gian của quần
chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước. Từ xa
xưa, với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí sống, ngôi chùa là nơi giáo
dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và
cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ lâu, “Mái chùa che chở
hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”.
- Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo
lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay
Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến 10% dân số. Hiện nay, số lượng
người đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các
ngày rằm, mồng một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò
của Phật giáo trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo Việt Nam vai trò của
Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa nay.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tư tưởng giáo lý
nhằm quản lý duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị.
Tư tưởng giáo lý của Nho giáo được thể hiện qua Tam cương, Ngũ thường và thuyết Chính danh:
- Tam cương (3 mối quan hệ rường cột để duy trì trật tự xã hội): quân - thần (vua - tôi),
phụ - tử (cha - con), phụ - phụ (chồng - vợ).
- Ngũ thường (năm đức cơ bản, thường hằng của con người, làm nền tảng đạo đức xã
hội): nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
- Thuyết Chính danh: Nho giáo quan niệm muốn xây dựng xã hội ổn định, lý tưởng thì
con người phải làm đúng vai trò, danh phận của mình (Thượng bất chính thì hạ tắc loạn).
Đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam: Tư tưởng trung quân gắn liền với ái quốc, trong
nhiều trường hợp nước đề cao hơn vua, các khái niệm nhân nghĩa cũng bị khúc xạ qua lăng
kính người Việt, làm nhẹ tư tưởng trọng nam khinh nữ. Từ TK XVI - XVIII, Nho giáo Việt
Nam suy vong không thể cứu vãn.
*Vai trò của Nho giáo trong đời sống tinh thần của người Việt xưa nay:
- Trong gần 10 thế kỉ xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến, Nho giáo khẳng định
vai trò là nền tảng tư tưởng chi phối đến mọi mặt đời sống xã hội Việt Nam: là nền tảng tư
tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước; hình thành chuẩn mực đạo đức và xây dựng mô
hình nhân cách con người Việt Nam truyền thống với các tiêu chí: đạt đức (Trai thời trung hiếu
làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình; Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới
là đạo con); đạt đạo (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Xây dựng nền tảng giáo dục, thi cử.
- Cho đến ngày nay, Nho giáo vẫn giữ được vị trí trong đời sống văn hóa tinh thần người
Việt. Tư tưởng và giáo lý của Nho giáo đã góp phần xây dựng xã hội ổn định, nề nếp theo tôn ti
trật tự, thứ bậc, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong cuộc sống hiện đại, vai trò
của pháp luật được đề cao, không những pháp luật hình sự như thời xa xưa mà cả pháp luật dân
sự, thương mại, hôn nhân và gia đình… Tuy nhiên, điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo
đức và thuần phong mỹ tục mà người Việt đã xây dựng hàng ngàn năm nay, trong đó tư tưởng
Nho giáo đóng góp một phần không nhỏ.
Câu 8: Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao tiếp ứng
xử của người Việt , theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào cần được giữ gìn
phát huy.
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ
nét. Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng
xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt
coitrọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức ứng xửvăn
hóa quan trọng của người Việt “Lời chào cao hơn mâm cổ”, thích thăm viếng nhau, coi việc
thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ và giàu tính hiểu
khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
- Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích
tìmhiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân của đối
tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...). Đặc điểm này
cũng có nguyên nhân từ tính cộng đồng và lối sống trọng tình (quan tâm đến người khác). Tuy
nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí. Trong thực tế người
Việt Nam vẫn coi trọng “cái tình” hơn cả, bất đắc dĩ lắm mới dùng “cái lý” để giải quyết những
mâu thuẫn. “Cái tình” sẽ làm cho người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng “cái tình” là rất
đẹp, để rồi “Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”, để không phải hối hận về sau. Người ta
thường nói tình làng nghĩa xóm lúc “tắt lửa tối đèn” là để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa
“cái lý” ra làm thước đo con người. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số
trươờng hợp ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt. Vì không giải quyết theo lý mà
chỉ lụy tình, người Việt thường có thói quen: Người càng thân ta thì càng đúng hơn. Thậm chí
có việc người nhà ta, người làng ta, người cơ quan ta sai lè lè, không còn cách nào khác, người
đứng ra bênh vực bảo: “Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có
kiểu xưng hùng xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, cậy gần chuồng”.
- Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo quan
hệ thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì, cháu, con…
Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn là giá trị vật chất
(Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng giữa làng bằng một sàng
bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...). Vì coi trọng danh dự nên nghi thức lời nói
trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú
trọng đến không gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và
theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời
chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổisáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối….
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện “Ở đời muôn
sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng thôi”; “Đem chuông đi đánh nước người,
không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “Một quan tiền công không bằng một đồng tiền
thưởng”;.. Vì trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi vậy, dư luận trở thành
một thứ vũ khí lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá nhân với cộng đồng,nhờ đó mà duy
trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thẳng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo tam quốc” để
đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp. Chính sự đắn đo
cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải
quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người
Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trongthói quen giao tiếp của người
Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên
trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Người Việt
thường không biểu lộ trực tiếp cảm úc của mình với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu
ca dao, thành ngữ, thơ ca thường dùng hinhtượng ẩn dụ, bóng gió “Trăm dâu đổ một đầu tằm”;
“Tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý
trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại “lời nói chẳng
mất tiền mua, lựa lơi mà nói chovừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự lành”;… Và hệ quả của
việc giữ ý, cả nề dẫn đếnthái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp
“Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo”; “uốn lưỡi ba lần trước
khi nói”... Chính thói quen ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính
quyết đoán trong giao tiếp đã khiến cho người Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái
chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để
bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc ViệtNam qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh làm nên nét đẹp và là chìa
khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi nét đặc trưng văn hóa ứng xử giao
tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền văn hóa ứng xử muôn màu, phong phú
thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng
văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật tất yếu đều phải có những mặt tích cực và mặt tiêu
cực, hai yếu tố này luôn song hành cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh sáng
thì không thể nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu
cực này mà có thể thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát
huy các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Câu 9: Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai trò
của gia đình trong việc hình thành nhân cách nhân.
- Đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình là tế bào của xã hội, là một đơn vị cộng đồng ra đời cùng với xã hội loài người, bắt
nguồn từ quan hệ nam nữ và việc sinh đẻ, nuôi dạy con cái. Tính chất của gia đình trong lịch sử
thay đổi theo phương thức sản xuất và thể chế chính trị- xã hội. Vì vậy, cách thức tổ chức gia
đình với tư cách là một tế bào của xã hội, và ứng xử của văn hóa gia đình cũng là một thành tố của văn hóa xã hội.
Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống:
Do sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp và tư tưởng nho giáo nên văn hóa gia
đình Việt Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
+ Gia đình tiểu nông (nhiều thế hệ sống chung, cố kết bền vững).
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với nền
văn hoá nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình.
Tính cộng đồng lối sống trọng tình: mỗi gia đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung
sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vì vậy các thành viên trong gia đình rất gắn
bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau. (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang;
Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng; Anh em như thể tay chân...).
Gia đình tiểu nông: Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt đối của tập thể gia
đình đối với mỗi thành viên), tinh thần vì lợi ích chung, vừa coi trọng đúng mức vai trò cá
nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn trọng giới hạn tự do cá nhân. Tuy nhiên, rất dễ
nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể thường lấn át, tới mức, người phương Tây cho rằng ở gia
đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
+ Gia đình Nho giáo (phụ quyền, đa thê)
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sự ảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn hoá gia
đình Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ có quyền uy tuyệt đổi và chịu
trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt đầu con ngồi
đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
Chế độ phong kiến chấp nhận gia đình đa thê (trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng).
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng phong kiến,
phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng tư đức, chấp nhận gia đình đa thê, "trai
chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"....
Quan niệm gia đình đông con là phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ thực tiễn của cuộc
sống nông nghiệp. Sinh con là để có người lo việc đồng áng, và lập gia đình để có người phụ giúp nông trang.
Quan hệ các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ của giáo Nho
giáo (Quyền huynh thế phụ)
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng nam
khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô).
Đây là nguyên nhân gây ra nhiều thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trong thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền phân công
lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia đình
thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền đánh đập. “bán vợ, đợ con”,
xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền lực chính trong gia đình. Vị thế
người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội.
- Vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách nhân.
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính bền vững, gia
đình luôn là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất tiếc khóc chào đời
đến khi mất đi. Ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn luôn là nhân tố tích cực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng quan trọng của gia đình.
1. Gia đình môi trường giáo dục đầu tiên để mỗi nhân hình thành, hoàn thiện nhân cách.
Mỗi con người khi sinh ra thông thường đều có một gia đình, được sinh ra từ người cha,
người mẹ…vì thế, ánh mắt đầu tiên là cái nhìn về cha mẹ, âm thanh đầu tiên tiếp nhận là âm
thanh từ cha mẹ, ông bà, anh chị là âm thanh của gia đình.
Mỗi cá nhân, từ khi lọt lòng mẹ đến khi trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời ăn, tiếng
nói, từ cách ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với cộng đồng thế nào cho đúng, cho lễ
phép. Gia đình là nhân tố đầu tiên chỉ bảo, dạy dỗ cho các em hành vi ứng xử theo chuẩn mực
và các giá trị tốt đẹp của xã hội: “Học ăn, học nói, học gói, học mở .. Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng; Trên kính duới nhường. ”
⇨ Chính vì vậy hành vi đầu đời của các em có dấu ấn sâu sắc của gia đình. Trẻ em có hành vi tốt
hay xấu trước hết và chủ yếu là do môi trường giáo dục của gia đình tạo nên.
2. Gia đình chuẩn bị hành trang cho các em bước vào cuộc sống
Trên những bước đường trưởng thành những ký ức của tuổi thơ luôn đọng lại theo chân
các em trên mỗi hành trình mà ở đó có thể là ký ức buồn khổ hoặc ký ức êm đềm ngọt ngào
trong vòng tay yêu thương của gia đình… tất cả đều trở thành hành trang, động lực giúp các em
vươn lên, quyết tâm hơn trên mỗi bước đi của cuộc đời mình.
3. Gia đình nhịp cầu nối với nhà trường
Gia đình là cái nôi giáo dục đầu tiên, giai đoạn sau các em tiếp tục được sự giáo dục của
nhà trường. Đó là môi trường rộng lớn hơn, bạn bè nhiều hơn, kiến thức được mở mang, thể
chất ngày càng phát triển, theo đó nhận thức và nhân cách được phát triển rất mạnh ở thời kỳ này.
Để định hướng, uốn nắn và điều chỉnh về nhân cách của các em gia đình phải luôn liên
hệ với nhà trường. Sự hợp tác này sẽ đạt hiệu quả rất cao vì nhà trường chính là môi trường
thuận lợi nhất, tốt nhất để các em học tập và rèn luyện.
Câu 10: Hãy trình bày đặc trưng của văn hóa của làng ảnh hưởng của đến thói quen,
lối sống, cách duy, ứng xử của người việt (ảnh hưởng đến pháp luật). Sưu tầm những
câu thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt.
Đặc trưng của văn hóa làng Việt
Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo làm nên
bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã củng gặp nhau khi khái
quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tinh cộng đồng và tính tự trị.
+ Tính cộng đồng
- Tính cộng đồng: là sự liên kết, gắn bó chặc chẽ, giữa các gia đình, gia tộc, giữa các thành viên
trong làng với nhau, là ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng với nhau
- Tính cộng đồng như một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam, được biểu hiện rõ nét ở
cách thức tổ chức và các mối quan hệ trong các đơn vị cộng đồng, từ gia đình - gia tộc đến làng
xã và quốc gia, trong đó tính cộng đồng thể hiện rõ nhất là ở văn hóa làng
a. Cơ sở hình thành tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải sống định cư, vì vậy, như một
đòi hỏi tự nhiên và tất yếu để sinh tổn, người Việt đã sống quần tụ thảnh cộng đồng, gắn kết để
nương tựa, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ứng phó với thiên tai.
b, Biểu hiện của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
- Về kinh tế: cư dân trong cùng một làng luôn tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất,
chống thiên tai (hạn hán, lũ lụt), khi đói kém, mất mùa (Một miếng khi đói bằng một gói khi no;
lành đùm rách; Lụt thì lút cả làng, đắp để chống lụt thuếp chàng cùng lo...).
- Về tình cảm: cư dân trong làng đều có mối quan hệ thân tộc nên luôn giúp đỡ nhau khi khó
khăn hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Bầu ơi thương lẩy bị cùng...).
- Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng có chung phong tục, Lập quán, tín ngưỡng, củng thờ chung
Thành Hoàng làng, cùng tham gia các hội hè, định đảm...; hôn nhân phải được lảng công nhận
(nộp theo cho lảng).
- Về luật pháp: mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với tư cách
cá nhân, mà bị hỏa tán trong cộng đồng họ mạc, làng xã. Vì vậy, trong xã hội phong kiến, một
người làm quan cả họ được nhờ”, nhưng một người phạm tội thì cả cộng đồng phải chịu vạ lây
(Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu).
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả về quan hệ xã
hội cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật... Tính cộng đồng được bảo tồn, nuôi dưỡng
từ cái nôi văn hóa làng là một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, và cũng là cơ sở để hình
thành tinh thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quý báu, làm nên cội
nguồn sức mạnh của dân tộc ta.
c. Biểu tượng của tỉnh cộng đồng trong văn hóa làng
Trong không gian sống của mỗi làng quê Bắc Bộ, đình làng cây đa, bến nước là những hình
ảnh vô cùng quen thuộc, gắn bó thân thuộc, bởi đây là những địa điểm thưởng tập trung đông
người, là nơi sinh hoạt cộng đồng. Bởi vậy, trong văn hóa làn những hình ảnh này được coi là
biểu tượng cho tỉnh cộng đồng
d.Tác động của tỉnh cộng đồng đến lối sống, cách duy, ứng xử của người Việt,
Tính cộng đồng như một đặc trưng bản sắc của văn hóa tàng đã in đậm dấu ấn trong tâm lý,
tính cách, đã tác động đến lối sống, cách tư duy, ứng xử (nói chung) và văn hóa ứng xử với
pháp luật (nói riêng) của người Việt với cả hai mặt tích cực và tiêu cực
+ Tác động tích cực:
- Tạo nền nếp sống dân chủ bình đẳng và tính tập thể hóa đồng (Một con ngựa đau cả tàu bỏ
cỏ...). Tạo nên nếp sống gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc nhau, là cơ sở tạo nên lối sống trong tỉnh
- Một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt (Tay đứt ruột xót, Chị ngã Em nâng,
lành đùm rách...).
- Tinh gắn kết cộng đồng và lối sống trong tỉnh tạo nên cuộc sống thoả thuận, lấy tình nghĩa
làm đầu, giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tụng..., khiến cho cuộc sống ở làng quê được ổn định, bình yên.
+ Tác động tiêu cực:
- Lối sống để cao tính cộng đồng là nguyên nhân tạo nên từ thương bè phái, bao che ( Rút dây
đồng rừng, Môi hở răng lạnh, đóng cửa bảo nhau, không vạch áo cho người xem lưng ). Đặc
điểm này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi ứng xử với pháp luật, nhất là khi pháp luật
được xây dựng dựa trên nguyên tắc có “phúc cùng hướng, họa cùng chịu”, quy định trách
nhiệm liên đới (một người gây nên tội khiến cả họ hàng, thậm chí láng giềng phải chịu vạ lây)
thì thói quen ứng xử bè phái, bao che càng nặng nề hơn, làm hạn chế các hành vi tố giác tội
phạm, gây cản trở cho việc thực thi pháp luật.
Đề cao lối ứng xử kiểu “chủ nghĩa thân quen" (Nhất thân nhì quen tam thần tứ thế) và thói
quen dựa dẫm, ỉ lại không cho trách nhiệm cá nhân (Một người làm quan cả họ được nhờ,
Nước nổi thì bèo nổi, Cha chung không ai khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa...).
- Lối sống đề cao tính cộng đồng cũng là nguyên nhân hinh thành thói quen ứng xử cào bằng,
đổ kỵ, kìm hãm, hạn chế thức về quyền cá nhân (Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng
ngốc đàn; Chết một đống còn hơn sống một người...).
- Tính cộng đồng và lối ứng xử trọng tình là nguyên nhà dẫn đến thói quen ứng xử cả nể, ngại
va chạm, sợ mất lòng ở thỏa hiệp, theo đó là sự hạn chế năng lực tư duy phản biện. Thói quen
tư duy và ứng xử này đã được dân gian đúc kết qua các cửa thành ngữ, tục ngữ như: Chín bỏ
làm mười; Một sự nhịn chín sự lành; Nhất nhì làm thính; Tháng ba cũng ừ, tháng cũng gật;
Sự nổi cũng phải, vãi nói cũng hay; Gió chiều nào theo chiều ấy; Một đời kiện chín đời thù...).
Đây là nguyên nhân dẫn đến thái độ hành xử thiếu tính quyết đoán trong giải quyết công việc
cũng như thái độ “ hòa vi quý” trong đấu tranh với những hành vi tiêu cực, với cái xấu, cái bất công.
- Văn hóa trọng tình coi tình cảm làm thước đo giá trị trị trong các quan hệ dẫn đến thói quen
ứng xử nặng tình nhẹ lý (một cái không bằng một tỉ cái tình). Trong một xã hội mà nếu cái
tình ở vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái lý thi pháp luật tất yếu sẽ không được coi là
một công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ xã hội
- Vì nguyên tắc ứng xử trọng tình nhẹ lý là nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan
hệ cho nên việc xử sự của con người thường nặng về chủ quan cảm tính, tùy tiện, không coi
trọng tính nguyên tắc. Đặc điểm này được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các cấu
thành ngữ quen thuộc như: Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu
nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng cho bằng, Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét
nhau quả bồ hòn cũng méo... Đây cũng là một nguyên tắc ứng xử tác động tiêu cực, gây khó
khăn, cản trở cho việc thực thi pháp luật dựa trên nguyên tắc khách quan và công bằng.
Tóm lại, hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực thì những tác động tiêu cực của tính cộng đồng
vẫn còn để lại dư vị nặng nề trong xã hội, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tiêu cực đến văn hóa
ứng xử với pháp luật của người Việt, gây khó khăn, cản trở không ít cho công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền mà tinh thần "thượng tôn pháp luật" là một đòi hỏi tất yếu của xã hội văn
minh. Chính từ nếp sống, thói quen ứng xử kiểu chủ nghĩa thân quen, dựa dẫm, ỉ lại, bè phái,
bao che, đặt tình cao hơn lý, cả nể, ngại va chạm khiến cho pháp luật nhiều khi bị vô hiệu hóa.
Vì vậy, văn hóa ứng xử "lấy cảm tình làm bản vị" của người Việt đang là một thách đố gay gắt
khi đất nước bước vào tiến trình hội nhập mã tỉnh thần thượng tôn pháp luật” là điểm tựa của
việc thực hiện những cam kết quốc tế.
+ Tính tự trị
Tính tự trị: là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng khác, do tính cố kết cộng
đồng cao khiến cho mỗi làng trở thành 1 đơn vị độc lập, khép kín, co cụm lại, trong không gian
khá biệt lập của mỗi làng tạo nên tính chất tự trị của làng.
Nếu như tính cộng đồng thể hiện ở sự đoàn kết, gắn bó, sẻ chia giữa các thành viên trong cùng
một làng thì tính tự trị lại thể hiện ở sự tồn tại độc lập, khép kín trong quan hệ giao này với làng
khác và tính tự quản của làng so với chính trung ương.
a, sở hình thành tỉnh tự trị:
- Do phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu nông tự túc tự
cấp nên người Việt sống quần tụ trong không gian làng quê, bao quanh làng là lũy tre và cổng
làng, khiến cho làng nào biết làng ấy, các quan hệ xã hội chủ yếu chỉ bó hẹp trong không gian
sống của làng, hạn chế sự quan hệ giao lưu với bên ngoài.
- Bộ máy hành chính tự quản của làng cũng khiến cho lang tồn tại như một “tiểu vương quốc”,
luôn có xu hướng ly tân với chính quyền trung ương, đó cũng là một cơ sở hình thành mở sống
khép kín, tự trị, hướng nội trong văn hóa làng.
Ngoài ra, do tính cố kết cộng đồng cao cũng khiến chi mỗi làng tồn tại như một đơn vị độc lập,
tự đầy đủ, khép kín cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng.
b. Biểu hiện của tỉnh tự trị.
- Về không gian địa : mỗi làng sống quần tụ trong một không gian với ranh giới bao quanh
làng là lũy tre và cổng làng khiến cho mỗi làng tồn tại như một “vương quốc" nhỏ khép kín,
làng nào biết làng ấy
- Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, tự túc tự cấp nền ít có nhu cầu
quan hệ giao thương với bên ngoài
- Về tình cảm: một vài dòng họ thường sống quần tụ trong một làng, việc dựng vợ gả chồng
khuyến khích lấy nhau cùng làng (lấy chồng khó làng hơn lấy chồng sang thiên hạ). Vì vậy
quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.
- Về phong tục tín ngưỡng, mỗi làng thờ Thánh Hoàng làng là ông tổ của làng được thờ ở
đình làng, ngoài ra còn có đền, chùa, miếu là những không gian thờ phụng gắn với những
phong tục, tín ngưỡng riêng của làng, có lễ hội, đình đám của làng...
Thường mỗi làng có một ngôi đình – nơi sinh hoạt văn hóa của cả làng, thờ một vị thành hoàng
– vị thần bảo trợ cho dân làng. “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”
cùng đó mỗi làng có một lễ hội, đình đám khác nhau, thời gian và cách thức thực hiện khác nhau.
- Về tổ chức hành chính: Mỗi làng có một đơn vị hành chính tự quản độc lập, có vai trò và chức
năng giải quyết mọi việc trong làng. Bộ máy hành chính của mỗi làng gồm hai cơ quan quản lý:
+ Cơ quan của nhà nước, đứng đầu là các xã quan – xã trưởng, sau này là các lý dịch: lý trưởng,
phó lý, hương thân, hương hào, khán thủ, hương trưởng (chức năng hành pháp).
+ Hội đồng kỳ mục của làng xã đứng đầu là các tiên thứ chỉ - thường là quan lại về hưu, người
cao tuổi trong làng, ... ( chức năng như bộ phận lập pháp).
+ Lệ làng – hương ước là luật lệ của làng.
- Về luật pháp:
Mỗi làng có lệ làng- hương ước là luật lệ của làng.
Hương ước là văn bản ghi chép các lệ làng, trong đó quy định những điều cấm không được
làm, những điều được làm; những hình phạt khi làm trái với lệ làng và những hình thức khen
thưởng đối với những việc làm tốt, có ích cho làng.
⇨ Vì thế, luật tục-hương ước-lệ làng đã ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nè nếp, quy
cũ, tạo thành nếp sống chung ổn định trong không gian khép kín của mỗi làng. Hương ước
chính là hệ thống giá trị chuẩn mực của làng xã, quy định cung cách ứng xử, lối sống của cá
nhân trong làng, tạo nên sự đồng nhất. Trong xã hội truyền thống VN, từ hàng nghìn năm, luật
tục đã tồn tại song song với pháp luật của nhả nước (lệ làng/ phép nước).
Có thể nói, trong tổ chức làng xã Việt Nam truyền thống, hương ước lệ làng về cơ bản là một
hiện tượng văn hóa độc đáo với rất nhiều các giá trị tích cực đã góp phần giữ gìn kỷ cương, trật
tự xã hội, thuần phong mỹ tụ với các quy định mang tính cách đặc thù của mỗi địa phương. Với
luật lệ riêng, làng xã Việt Nam đã tồn tại như một vương quốc thu nhỏ với sự cố kết rất bền vững.
Tính tự túc tự cấp của nền kinh tế tiểu năng cùng với bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho
làng luôn có xu hướng ly tâm với chính quyền trung ương