









Preview text:
Tìm hiểu chung về làng và văn hóa làng
1. Khái niệm làng theo chiều dài lịch sử Việt Nam
“Làng” là khái niệm các nhà sử học và dân tộc học vẫn cố gắng nghiên cứu nhưng
chưa hoàn toàn có ý kiến thống nhất. Tuy có nhiều cách gọi khác nhau nhưng chúng ta
tạm thống nhất cách hiểu làng là danh từ chỉ một đơn vị cư trú trên một địa vực nhất
định của người Việt, chủ yếu sống bằng nông nghiệp.
Khái niệm Làng gắn với hình ảnh làng xã cổ truyền ở Việt Nam với 3 đặc trưng cơ
bản. Thứ nhất, ý thức cộng đồng làng; ý thức dân chủ làng xã, cộng đồng trong sản
xuất bảo vệ xóm làng, xây dựng văn hoá, lối sống, đạo đức…Thứ hai, ý thức tự quản:
thể hiện rõ nhất trong việc xây dựng hương ước. Thứ ba, tính đặc thù độc đáo, rất
riêng của mỗi làng: có khi hai làng gần nhau nhưng không hề giống nhau.
2. Văn hoá của làng.
Làng được hình thành, tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý huyết thống và địa vực.
Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt, mặt khác, xét về cấu trúc, làng là một cấu trúc
động, không có làng bất biến. Làng Việt là một thiết chế phức hợp, vừa chứa những
yếu tố khởi nguyên của công xã, vừa chịu tác động của những thay đổi chế độ xã hội.
Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của đất nước qua tác động của những
mối liên hệ liên làng và siêu làng. Do những đặc thù của tự nhiên và xã hội mà ở miền
Trung, miền Nam tuy gốc gác cũng là người Việt từ miền Bắc di cư vào, nhưng với
môi trường sống mới, hình thức cơ cấu làng xã và quan hệ xã hội đã thay đổi nhiều,
không còn những đặc điểm như làng Bắc Bộ.
Tính đặc trưng của văn hoá làng: Thứ nhất, tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc
trưng cơ bản của văn hóa làng. Hai đặc trưng này có mối quan hệ hữu cơ, tác động
biện chứng, vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nhau. Thứ hai, văn hóa làng chính
là cội nguồn, sức mạnh, cũng là nơi nuôi dưỡng, bảo tồn và gìn giữ các đặc trưng bản
sắc của văn hóa dân tộc và cũng là cơ sở để hình thành ý thức về quốc gia–dân tộc.
Thứ ba, có sự khác biệt giữa ba miền: Làng Việt Bắc Bộ có tính tự trị cao, còn làng
Việt Trung Bộ với cơ cấu làng bắt đầu lỏng lẻo dần, tính tự trị khép kín mờ nhạt hơn,
cuối cùng, làng Việt Nam Bộ mang tính chất mở và đẩy lùi tính tự trị hoàn toàn mà
thay vào đó là lối sống năng động, dễ thích nghi, hòa nhập.
3. Nguồn gốc của Làng.
Theo nghiên cứu của nhiều học giả thì từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên cách ngày
nay khoảng 4.000 năm, trên đất nước ta đã diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc
và thay vào đó là quá trình hình thành công xã nông thôn - tức là quá trình hình thành làng Việt.
Tuy nhiên, đó là điểm khởi đầu hình thành làng Việt ở Bắc bộ. Còn ở Trung bộ và
Nam bộ thì muộn hơn theo lịch sử mở mang bờ cõi đất nước. Ở Trung bộ có thể tính
từ thế kỷ XVI, đặc biệt từ khi các chúa Nguyễn cai quản Đàng Trong. Ở Nam bộ,
muộn hơn, có thể là từ đầu thế kỷ XVIII khi chúa Nguyễn xác lập quyền cai trị ở vùng
đất này mặc dù người Việt đã có mặt ở đây từ thế kỷ XVII.
Làng không chỉ hình thành từ sự tan rã và chuyển hóa công xã thị tộc mà còn từ quá
trình khai phá đất hoang lập xóm dựng làng, từ các điền trang, đồn điền, trang trại…
Sự hình thành làng Việt là một quá trình lâu dài, về mặt hình thái nó tồn tại cho đến tận nay.
Do những điều kiện địa lý, sinh kế và ảnh hưởng của các cộng đồng dân cư/tộc người
bản địa nên dù muốn hay không làng người Việt ở Trung bộ hay Nam bộ có những
đặc điểm riêng trên nền tảng những đặc trưng chung của làng Việt đã được định hình
từ lâu, khi bắt đầu từ địa bàn truyền thống là Bắc bộ.
Thuở làng Việt mới hình thành, theo GS Nguyễn Quang Ngọc: “Mỗi làng bao gồm
một số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Ở đây, bên cạnh
quan hệ địa lý - láng giềng, quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn và củng cố tạo
thành kết cấu vừa làng vừa họ, hay kết cấu làng họ rất đặc trưng ở Việt Nam. Lúc này
toàn bộ ruộng đất cày cấy cùng với rừng núi, sông ngòi, ao đầm trong phạm vi làng
đều thuộc quyền sở hữu của làng. Công việc khai hoang, làm thủy lợi và các hình thức
lao động công ích khác đều được tiến hành bằng lao động hợp tác của các thành viên
trong làng. Làng Việt như thế, là một loại hình của công xã phương Đông, trong đó
nông nghiệp gắn liền với thủ công nghiệp, làng xóm gắn liền với ruộng đất, nên tự nó
mang tính ổn định cao. Tính ổn định cao này đã hóa thân thành tinh thần công xã,
thành truyền thống xóm làng nên nó trở thành nguồn sức mạnh tiềm tàng trong cuộc
đọ sức nghìn năm với các mưu đồ nô dịch và đồng hóa của phương Bắc”.
4. Phân loại Làng
a) Theo thời gian hình thành
Làng cổ (hay còn gọi là làng truyền thống) và làng mới (hay còn gọi là làng hiện đại).
Làng cổ là các làng hình thành từ trước và đầu Công nguyên đến thế kỷ X (các làng
này thường có tên gắn với từ “Kẻ”): Làng thời Lý - Trần; Làng thời Lê Sơ (1428 -
1527); làng thời Lê - Trịnh được hình thành chủ yếu ở miền Trung, gắn với công cuộc
mở đất của các chúa Nguyễn; làng thời Nguyễn gắn với chế độ khai hoang của nhà
nước do các quan lại đứng ra tổ chức.
Theo GS. Phan Ngọc Doãn: “Cho đến nay hầu như chưa có một công trình nghiên cứu
hình loại học (Typologie) về làng xã Việt Nam. Chưa có nhà nghiên cứu nào đề cập
đến quá trình phát triển ‘điểm dân cư’ làng qua các thời kỳ lịch sử thời dựng nước,
thời Bắc thuộc thời kỳ Đại Việt; từ thế kỷ XV-XIX với rất nhiều biến động thăng trầm
của lịch sử, thời kỳ cải cách ruộng đất (1955-1956) và hợp tác hóa nông nghiệp thời
kỳ đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Cuối thế kỷ XIX khi thực dân
Pháp đặt ách thống trị trên đất nước ta. Cách mạng tháng Tám 1945 và cải cách ruộng
đất đã làm thay đổi hẳn cơ chế làng xã tác động mạnh vào tổ chức cổ truyền này.
Có một số ý kiến lại nêu rõ cần phân biệt làng Bắc Bộ, làng Trung Bộ và làng Nam
Bộ. Sự phân biệt như vậy dựa vào hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh địa lý – điều này là
cần thiết và phù hợp với thực tế xã hội nước ta. Vùng đồng bằng Bắc Bộ là nơi đã
hình thành những điểm dân cư đầu tiên của người Việt. Từ Quảng Nam – Đà Nẵng trở
vào thì làng Việt hình thành muộn hơn và muộn hơn nữa là làng xã ở Nam Bộ (do tiến
trình khai khẩn và khai chiếm, mở rộng lãnh thổ). Thời gian hình thành sớm muộn
khác nhau đã để lại những dấu ấn không nhỏ trong làng xã người Việt của các vùng,
tạo ra những yếu tố ‘tách biệt’, ‘đặc trưng’ cho mỗi vùng, miền.
b) Theo vùng địa lý
Làng được chia theo địa hình, địa lý như làng miền núi (thường gọi là bản mường,
phây, buôn) làng trung du, làng đồng bằng (làng, ấp, phum, sóc), làng ven sông, làng
ven biển, làng đảo, làng đồi gò,... Những người sống trên một khu vực mặc dù thuộc
các dòng họ khác nhau cũng hợp lại thành một làng. Dân làng sống bình đẳng với
nhau, tôn trọng nhau. Đặc biệt có quan hệ láng giềng gắn bó. Dân làng còn có sự hỗ
trợ lẫn nhau trong sản xuất mùa vụ làm đổi công cho nhau.
c) Theo nghề nghiệp
Mọi người sống chung một làng họ chuyên là làm một công việc nổi bật, tạo thành
một làng theo nghề nghiệp mà họ kiếm sống, làng nông nghiệp, làng chài, làng thủ
công: làng đúc đồng (Đại Bảo), làng dệt lụa (Nghi Tàm), làng gốm (Bát Tràng).
Quảng Bình có các làng nghề thủ công như làng dệt chiếu An Xá, làng gốm Mỹ Cương,...
Những người cùng làm một nghề (không kể trồng lúa) về sau gọi là phường. Những
phường này sẽ là mầm mống của thành thị Hà Nội ngày xưa có 36 phố phường, mỗi
phố phường nguyên là một làng nghề. Ngày nay vẫn còn giữ tên gọi cũ như phố Hàng
Bún, Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Mã, Hàng Cá,...
d) Theo phương thức thành lập
Được phản ánh qua tên gọi là “Xá”. Làng thành lập dựa trên hình thức di dân, khai
canh đồn điền nông nghiệp chuyển thành trại, điền trang.
e) Theo tôn giáo
Những người có chung một tôn giáo, tín ngưỡng sẽ sống chung trong một khu dân cư
với nhau tạo thành làng. Có một số ngôi làng có chung một tôn giáo như: làng thuần
lương, làng Công Giáo, làng Cao Đài, làng Hòa Hảo...
f) Theo đặc điểm văn hóa
Làng văn: còn được gọi là làng văn vật, ngày nay chúng ta gọi là làng văn hóa.
Làng võ: là những làng có truyền thống thượng võ, dân làng hầu hết mọi người đều
biết võ nghệ, trong làng thường có lò võ.
6. Đặc trưng cơ bản của làng, xã.
Tính cộng đồng và tính tự trị - là hai đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam.
a) Tính cộng đồng
Khái niệm: là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng
tới những người khác. Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác
nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã.
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng:
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, giếng nước, cây đa. Làng nào
cũng có một cái đình là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi lĩnh vực. Đình là
trung tâm hành chính, là nơi tổ chức hội họp, thu thuế, xử tội... Làng thôn Việt Nam
được tổ chức theo hàng Giáp, nên đình trở thành nơi lui tới của nam giới. Có thể nói
Đình là biểu tượng của tỉnh cộng đồng cao. Giếng nước là nơi giặt giũ, nói chuyện và
giao tiếp của phụ nữ. Cây đa theo quan niệm phương Đông là nơi hội tụ thần thánh,
hội tụ khi "thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo bồ đề". Gốc đa là nơi nghỉ chân, tránh
nóng của khác qua đường, là nơi giao tiếp của làng với bên ngoài. Biểu hiện:
Về kinh tế: gắn kết với nhau về kinh tế giữa các thành viên trong làng xã, luôn tương
trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, chống thiên tai, hạn hán, lũ lụt, khi đói rét,
mất mùa…Ngày xưa khi lao động trồng trọt chưa có sự hỗ trợ từ máy móc, con người
Việt Nam liên kết giúp đỡ nhau vào những mùa vụ. Ngày nay con người Việt Nam hỗ
trợ nhau về kinh tế thông qua các hoạt động như hỗ trợ vốn cho người nông dân mua
máy móc, thiết bị, cây giống.
Về tình cảm: luôn giúp đỡ nhau khi có khó khăn, hoạn nạn, khi vui, khi buồn. Mỗi
gia đình trong xóm khi có đám cưới, cả xóm sẽ đến tham dự, chúc phúc ngược lại khi
có đám tang sẽ đến để chia buồn và cầu nguyện cho người mất siêu thoát.
Về phong tục, tín ngưỡng: có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cúng thờ
chung một vị thần của làng (thành hoàng), cùng tham gia các hội hè, đình đám… đặt
lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Mỗi làng đều sẽ có một ngôi đình thờ
thần của làng. Đó là trung tâm về tôn giáo, tâm linh đồng thời cũng diễn ra các hoạt
động như hội, họp, tổ chức trò chơi sinh hoạt của người dân trong làng.
Về pháp luật: có quy ước, luật tục riêng của làng, mỗi thành viên trong cộng đồng
không được pháp luật công nhận với tư cách cá nhân, mà bị hòa tan trong cái chung
của cộng đồng, làng xã.
b. Tính tự trị
Tính tự trị là một sản phẩm của tính cộng đồng. Các làng tồn tại biệt lập với nhau và
cũng phần nào độc lập với triều đình phong kiến. Thời đó, dân làng hình thành trong
tâm tưởng sự tôn kính đối với những giá trị thuộc về cộng đồng, sự tôn kính đó lớn
hơn sự sợ hãi đối với phép tắc, luật lệ. Biểu hiện
Các làng đều có cổng làng, có lũy tre bao quanh lãnh thổ
Đình làng thờ riêng một vị “Thành hoàng làng”. “Trống làng nào làng ấy đánh,
thánh làng nào làng ấy thờ”
Mỗi làng có luật lệ riêng (hương ước) gọi là “lệ làng”. “Phép vua thua lệ làng”
Mỗi làng có 2 sự quản lý: Nhà nước (đứng đầu là hệ thống lý dịch) và Hội
Đồng Kỳ mục (các quan lại đã về hưu, người cao tuổi trong làng).
Biểu tượng truyền thống của tính tự trị:
Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao kín làng, trở thành một
thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt ko cháy, trèo ko được,đào đường hàm thì
vướng rễ không qua (vì vậy tiếng Việt mới gọi bằng tre là lũy, thành lũy). Lũy tre là
một đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm phương Nam.
II/ Ảnh hưởng của văn hóa làng xã đến tính cách của con người Việt Nam xưa- nay:
Làng xã đã hình thành từ xa xưa cho đến ngày nay, trong suốt chiều dài lịch sử
văn hóa làng đã ảnh hưởng vô cùng lớn tới tính cách con người Việt Nam từ xưa
tới nay, từ đó tạo nên nét đẹp nổi bật về tính cách con người, thể hiện qua nhiều khía cạnh.
Tính đoàn kết và tinh thần cộng đồng: Văn hóa làng xã thúc đẩy tinh thần đoàn kết
và sự hỗ trợ xã hội. Người Việt xưa-nay thường có tư duy và hành động theo tinh thần
"lá lành đùm lá rách," tức sẵn sàng giúp đỡ những người cùng làng, cùng xóm, hoặc
cùng vùng. Tính đoàn kết này đã thúc đẩy mối quan hệ gia đình mạnh mẽ và mối liên
kết với cộng đồng rộng hơn đồng thời giúp xây dựng lòng tin và lòng hiếu thảo. Việc
các cộng đồng người thân quyến quay quần cùng nhau trong một không gian qua
nhiều thế hệ tạo ra kết nối sâu sắc giữa những người dân làng với nhau. Thông qua các
hoạt động sản xuất nông nghiệp, trị thủy, người dân làng xã Việt Nam học được cách
đoàn kết để cùng tạo ra giá trị lớn nhất và bảo vệ nhau khỏi các hiểm họa từ tự nhiên
khắc nghiệt. Người Việt Nam luôn luôn sẵn sàng giúp hỗ trợ, coi nhau như anh chị em
trong nhà như tục ngữ “lá lành đùm lá rách, “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người
trong một nước phải thương nhau cùng”,…. Đó chính là ngọn nguồn của nếp sống dân
chủ - bình đẳng và lối sống tập thể, đề cao tính cộng đồng.
Tính cách hòa đồng, tinh thần yêu chuộng hòa bình: Trong quá trình sinh sống và
lao động sản xuất cùng nhau, các cá nhân học được cách giải quyết mâu thuẫn một
cách mềm dẻo, uyển chuyển và đặt lợi ích của tập thể lên trên hết. Từ thói quen giải
quyết tình huống và ứng xử linh hoạt, người dân làng xã Việt Nam hình thành tính
cách hòa nhã, thân thiện và tinh thần yêu chuộng hòa bình.
Tôn trọng truyền thống và tự hào dân tộc: Văn hóa làng xã thường đặt sự tôn trọng
và giữ gìn truyền thống lên hàng đầu. Điều này đã tạo nên sự tự hào dân tộc và lòng
yêu quê hương. Tính tự hào về bản sắc văn hóa và lịch sử dân tộc đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến tâm hồn và tính cách người Việt xưa-nay. Lòng tự hào dân tộc đối với người
Việt Nam mà nói là điều vô cùng thiêng liêng và cao quý. Bất cứ người Việt Nam nào
cũng đều có tinh thần cao cả đó.
Sự hiếu thảo và tôn trọng người cao tuổi: Văn hóa làng xã thường tôn trọng người
cao tuổi và đề cao lòng hiếu thảo. Tình cảm gia đình và quan hệ với cha mẹ, ông bà đã
định hình tính cách người Việt xưa-nay, với việc tuân thủ truyền thống và tôn trọng
tuổi cao. Đối với con người Việt Nam nay, không khó để chúng ta bắt gặp hình ảnh
các bạn trẻ nhường ghế trên xe buýt cho người cao tuổi hay việc giúp người già qua
đường hoặc đơn giản hơn là khi trẻ con gặp người lớn sẽ vòng tay và cúi chào nhằm
thể hiện sự kính trọng. Văn hóa “Kính già nhường trẻ” đã ăn sâu trong tính cách con
người Việt Nam. Điều này cũng thể hiện phần nào tính làng xã trong việc tuân thủ nếp
sống kính trọng người lớn.
Tự quản lý và giữ gìn tài nguyên: Văn hóa làng xã thường đào tạo người Việt về
cách tự quản lý và sử dụng tài nguyên tự nhiên. Điều này bao gồm nông nghiệp, thủ
công, và nghề cá. Việc này đã thúc đẩy sự khéo léo và tính kiên nhẫn trong công việc,
và tạo ra sự thấu hiểu về giá trị của tài nguyên. Có nhiều ngành nghề thủ công truyền
thống còn được lưu giữ đến nay như: làm gốm, đan chiếu, làm hương,...Có những con
phố ở Thủ đô mang tên những ngành nghề đó.
Tự quản lý và giải quyết các vấn đề cộng đồng: Người Việt thường có khả năng tự
quản lý và giải quyết các vấn đề cộng đồng mà không cần sự can thiệp của chính
quyền trung ương. Họ thường sống với nhau thành làng, xã và trong mỗi làng xã đều
có lệ làng gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời, tập quán của từng làng.
Chính điều này đã tạo cho người Việt Nam có tinh thần độc lập, tự chủ, ý thức tự lực
tự cường cùng với đức tính cần cù, chịu khó, tiết kiệm. Mỗi làng xã từ xưa đã có
những quy tắc và luật riêng gọi là Luật làng. Có câu “Phép vua còn thua lệ làng” để
chứng minh tính tự trị tại các làng xã là vô cùng mạnh mẽ. Cho đến nay thì tại các
làng xã ở nông thôn vẫn còn giữ những quy tắc riêng đó nhằm duy trì tính trật tự, ổn định.
Tính tự trị: cũng được thể hiện trong việc duy trì và bảo tồn các truyền thống văn
hóa, lễ hội, và tập tục địa phương. Người Việt xưa đã có sự tự quyết định về việc bảo
tồn và phát triển văn hóa của họ, và điều này đã ảnh hưởng đến tính cách của họ thông
qua sự tự hào về bản sắc văn hóa địa phương. Ngày nay, người Việt vẫn giữ những
nếp sống văn hóa như gói bánh chưng, bánh tét; hát dân ca quan họ...Đó chính là tinh
thần tôn trọng truyền thống và tự hào dân tộc vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Duy
trì và bảo tồn các truyền thống văn hóa, lễ hội và tập tục địa phương: nghỉ lễ vào
những dịp dỗ tổ Hùng Vương, lễ Quốc khánh,…. Truyền thống lễ hội cồng chiêng, chọi trâu,..
Tôn giáo và tín ngưỡng: Văn hóa làng xã thường có một phần quan trọng liên quan
đến tôn giáo và tín ngưỡng. Cả làng thường có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
cùng thờ chung Thành Hoàng làng; cùng tham gia các hội hè, đình đám... Người Việt
xưa thường tuân theo các giáo lý và nguyên tắc đạo đức từ tôn giáo của họ, điều này
đã ảnh hưởng đến đạo đức và hành vi cá nhân của họ. Ngày nay vẫn còn nhiều tục thờ
cúng tồn tại như cúng Tổ tiên, thờ Mẫu,.. gốc từ thời Thượng cổ có những làng còn
vết tích tín ngưỡng phồn thực.
Văn hóa làng xã đã ăn sâu vào máu thịt của con người Việt Nam, góp phần hình
thành nên nếp sống và tác động tới tư duy, sự phát triển của xã hội. Nhờ có tính làng
xã đó mà người Việt mới có thể duy trì được nhiều nét văn hóa truyền thống, giàu giá
trị và ý nghĩa mang nét đặc trưng, để ngày nay chúng ta có thể tự hào với bạn bè quốc
tế những giá trị truyền thống lịch sử đáng tự hào đó.
Tuy nhiên bên cạnh những nét đẹp trong tính cách, văn hóa làng xã cũng đã có
những tác động tiêu cực đến sự hình thành của dân làng.
Lối sống tập thể, đề cao tính cộng đồng là nguyên nhân tạo nên tính ỷ lại tập thể, cá
nhân không nhận trách nhiệm. Điểm dễ thấy ở người Việt là tâm lý dựa dẫm ỷ lại vào
tập thể, cá nhân không dám nhận trách nhiệm tư tưởng bè phái, bao che, hình thành
thói quen ứng xử cào bằng, đố kị, hạn chế ý thức về quyền cá nhân. Tính cá nhân bị
hạn chế, góp phần lí giải vì sao hàng ngàn năm quá không có những nhà bác học lỗi
lạc về khoa học kỹ thuật – công nghiệp, 1 lĩnh vực đồi hỏi tư tưởng mang tính cá nhân
đột phá, loé sáng. Hình thành sự đố kị, không muốn cho ai hơn mình vì đồng nhất nên
tất cả phải giống nhau “Chết một đống còn hơn sống một người”. Những người chịu
nhiều thiệt thòi trong xã hội như người khuyết tật, tàn tật, người có hoàn cảnh khó
khăn… thường sẽ được nhận nhiều hỗ trợ để đảm bảo tính bình đẳng, dân chủ song
nhiều thành phần lại ganh ghét, tị nạnh, ích kỷ không người khác được hưởng quyền
lợi. Tính sáng tạo bị hạn chế.
Người Việt Nam từ trước tới nay hay có thói quen cả nể, ngại va chạm, lấy hoà hiếu
làm trọng, sợ làm mất đoàn kết sợ mất lòng xóm làng, dễ dàng thỏa hiệp trước xóm
làng của mình từ đó hình thành thái độ hành xử thiếu quyết đoán trong giải quyết công
việc cũng như thái độ “dĩ hòa vi quý” trong đấu tranh với những hành vi tiêu cực.
Con người ta sống trong tập thể, nhờ tập thể, gắn bó với tập thể nên sinh ra một tư
tưởng rất sợ mất đoàn kết nên luôn lấy cái hòa hiếu làm trọng. Một khi “Một bồ cái lý
không bằng một tý cái tình” thì có nghĩa là pháp luật bị xếp xuống hàng thứ yếu mà
ứng xử với nhau theo cái tình. Đó là thứ tâm lý vị tình. Người Việt không có truyền
thống tôn trọng luật pháp vì quen với lối sống “Chín bỏ làm mười”. Người ta quen
nín nhịn, nín nhịn cả với điều “Trái tai gai mắt” để “Một điều nhịn chín điều lành”.
Tâm lý của người Việt là gắn bó, sở hữu tuyệt đối cái mình làm ra, cả đời gắn bó với
khoảnh ruộng nho nhỏ, với mảnh vườn con con, với con trâu, con lợn, đàn gà… Có
một ít thóc trong bồ, một ít khoai, ngô trên gác bếp… nên tâm lý tư hữu đã “thâm căn
cố đế” người nông dân hàng ngàn đời nay. Đó là tâm lý sở hữu tuyệt đối cái của mình
làm ra: “Của ai nấy xót”, “Của ai tai nấy”, “Của ai phúc nấy”, “Của là cuống ruột”…
Điều này là chính đáng nhưng bị đẩy lên thành tâm lý ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình
không quan tâm đến người khác.
Văn hóa làng xã không chỉ là một phần quan trọng của cuộc sống xã hội mà còn đã tác
động mạnh mẽ đến các khía cạnh của cuộc sống và nhận thức của con người Việt
Nam. Mặc dù có sự thay đổi và tiến bộ trong xã hội hiện đại, nhưng văn hóa làng xã
vẫn đóng một vai trò quan trọng trong xác định bản sắc và giá trị của người Việt Nam. Những
III/ Những biến đổi và bảo tồn văn hóa làng.
1. Biến đổi văn hoá làng
Văn hóa làng là hình thái văn hóa đặc biệt, gắn liền với các làng tụ cư cổ truyền ở
nông thôn của người Việt, có thể hiểu “Văn hóa làng là bản sắc riêng của làng, là
toàn bộ cuộc sống của làng với những đặc điểm mang tính chất truyền thống từ ăn, ở,
đi lại, mọi hoạt động, cách tổ chức, những quy ước, lối sống, ứng xử, những phong
tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng cho đến cả tâm lý của mọi thành viên trong làng
với những đặc trưng riêng của nó”[1].
Biến đổi văn hóa làng là sự vận động, thay đổi bức tranh văn hoá làng nói chung
hay sự biến đổi của các thành tố, các phương diện trong chỉnh thể đời sống văn hoá
của cộng đồng làng. Đó là sự thay đổi không gian sống, lối sống, các phong tục tập
quán, thay đổi chức năng của các thiết chế văn hoá truyền thống…
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội không chỉ làm
biến đổi đời sống văn hoá đô thị mà còn làm biến đổi văn hoá ở các làng quê truyền
thống. Biến đổi văn hoá vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực, mặt tích cực
đem lại sự tiến bộ trong đời sống xã hội nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị, về mặt tiêu cực nảy sinh lối sống thực dụng, đề cao giá trị vật chất;
các yếu tố văn hoá ngoại lai, độc hại xâm nhập dẫn đến nguy cơ mai một những giá trị
truyền thống tốt đẹp; những vấn đề phức tạp trong an ninh trật tự ở khu vực nông
thôn; sự ô nhiễm môi trường v.v…
* Những nét biến đổi cơ bản trên một số phương diện:
Biến đổi không gian làng
Làng quê xưa, nhất là các làng ở vùng châu thổ Bắc Bộ, với đặc trưng không gian
tương đối khép kín, lũy tre như ranh giới giữa không gian cư trú và không gian sản
xuất của làng. Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với sự thu hẹp
diện tích đất nông nghiệp đã làm biến đổi rõ rệt. Bên cạnh không gian cư trú truyền
thống được định vị theo các xóm, ngõ là những những hình thức tập trung dân cư mới
theo nghề nghiệp: những xóm mới, phố - làng mới… khiến cho không gian cư trú và
không gian sản xuất ở các làng hiện nay gắn bó chặt chẽ với nhau, không phân biệt
như trước kia. Những ao, hồ, mương máng có vai trò quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp và sinh hoạt của người nông dân xưa hiện cũng bị san lấp, thu hẹp đáng kể do
sức ép của sự gia tăng dân số cũng như nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các trường học,
nhà văn hóa, sân chơi, thư viện, chợ,…, hệ thống đường giao thông quy hoạch rộng
rãi khiến cho làng quê mang dáng dấp của các đô thị. Nhìn chung, không gian cảnh
quan ở các làng quê hiện đại đã không còn khép kín mà ngày càng trở nên mở, linh hoạt hơn…
Biến đổi quan hệ gia đình, họ hàng, làng xã
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động nghề
nghiệp, việc làm khiến cho nhiều người trở nên bận rộn với công việc riêng, ít thời
gian rảnh rỗi để qua lại, thăm hỏi nhau như trước kia… Bên cạnh đó, khi đời sống vật
chất không ngừng được nâng lên, sự xuất hiện của những ngôi nhà kiên cố, “kín cổng
cao tường” ngày càng phổ biến, khiến cho hoạt động gặp gỡ, trò chuyện giữa những
người hàng xóm láng giềng bị hạn chế. Điều đó góp phần làm cho nhiều người dân, hộ
gia đình vốn gần gũi, thân tình trước kia, nay dần trở nên xa cách hơn. Ngoài ra, lối
sống và thói quen tiêu dùng đô thị với mạng lưới dịch vụ ngày càng được mở rộng,
phát triển ở các làng quê hiện nay khiến cho nhiều người có thói quen sử dụng các
dịch vụ, tiện ích có sẵn mỗi khi có công việc thay vì tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ từ
họ hàng, láng giềng như trước kia. Điều đó khiến cho mức độ phụ thuộc, ràng buộc
của các thành viên, gia đình trong họ tộc cũng như giữa những người hàng xóm láng
giềng có xu hướng suy giảm.
Biến đổi di tích, tín ngưỡng, lễ hội và các phong tục tập quán
Các phong tục tập quán, lối sống của người dân ở làng quê có sự biến đổi rõ nét khi
tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm và cùng với đó là xu hướng
đa dạng hóa trong cơ cấu nghề nghiệp, việc làm. Một bộ phận dân cư đã chuyển hẳn
sang các hoạt động kinh doanh, buôn bán, làm dịch vụ, làm công nhân trong các khu
công nghiệp… khiến cho nhịp sống, lối sống của dân làng cũng trở nên sôi động, khẩn
trương hơn; việc tuân thủ giờ giấc được chú trọng với tác phong nhanh nhẹn, năng
động. Cùng với sự mở rộng, phát triển của mạng lưới dịch vụ, người dân ở các làng
quê ngày càng trở nên quen thuộc với kiểu tư duy cần gì là có thể mua chứ không phải
chạy sang hàng xóm vay, mượn như trước kia; và đi cùng với đó là lối sống gắn với
sự nhanh nhạy và bình đẳng của thị trường. Chính vì lẽ đó, bên cạnh lối sống nghĩa
tình vẫn được duy trì, xuất hiện lối ứng xử, lối sống theo kiểu dịch vụ, thị trường, coi
trọng sự minh bạch, sòng phẳng. Nhìn chung bức tranh lối sống ở nhiều làng quê hiện
nay có sự pha trộn, đan xen giữa nông nghiệp và công nghiệp, truyền thống và hiện
đại, nông thôn và đô thị.
Biến đổi trong hoạt động tiếp cận thông tin và giải trí
Đi cùng những đổi thay mạnh mẽ và sâu sắc của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu
và các hoạt động, phương thức trao đổi thông tin, giải trí của người dân ở làng quê
cũng không ngừng được mở rộng, đa dạng hóa. Bên cạnh các hoạt động văn hóa quần
chúng, hệ thống đài truyền thanh cũng được phủ sóng đến từng thôn xóm, hệ thống
thư viện, phòng đọc đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức đa dạng của người dân, hệ
thống tiếp cận thông tin trong các gia đình cũng ngày càng được mở rộng, hiện đại
hóa với những phương tiện nghe nhìn hiện đại: tivi, radio, điện thoại, máy vi tính có kết nối internet...
2. Xây dựng và bảo tồn làng văn hóa trong bối cảnh hiện nay
Làng là cái nôi gắn kết mỗi con người, tạo nên khối đoàn kết cộng đồng, là động lực
phát triển, cũng là sức mạnh Việt Nam. Xây dựng làng văn hóa là sự kế thừa và phát
triển làng – xã Việt Nam trong điều kiện mới phù hợp với sự tiến bộ của văn hóa xã
hội. Vì vậy cần kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp đó bằng cách hưởng
ứng, thực hiện tốt phong trào xây dựng làng văn hóa ở cấp cơ sở thông qua trách
nhiệm, quyết tâm của cấp ủy, chính quyền cùng sự nỗ lực của từng cá nhân, từng hộ
gia đình ở mỗi địa phương. Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân...
Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội... Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa
với phát triển du lịch; gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể,
không gian, kiến trúc văn hóa làng, xã nông thôn truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới.
Tài liệu tham khảo:
1. Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh. 19/4/2023. Những nét biến đổi văn
hoá làng xã truyền thống người Việt ở Quảng Trị trong xu thế phát triển hiện nay.
https://trungtamquanlyditichvabaotangquangtri.vn/tintuc/baiviet/nhung-net-bien-doi-
van-hoa-lang-xa-truyen-thong-nguoi-viet-o-quang-tri-trong-xu-the-phat-trien-hien- nay/277?
fbclid=IwAR1dIzeU4Nfb2Z4v9sg2qlQdVZ_OLt7dNWzFLEax1GhMTpjM8BTslayw J-Y
2. Tạp chí điện tử văn hóa nghệ thuật. 22/12/2021. Những biến đổi cơ bản trong văn
hóa làng hiện nay. http://vanhoanghethuat.vn/nhung-bien-doi-co-ban-trong-van-hoa- lang-hien-nay.htm
3. Ban Biên Tập - Cổng TTGTĐT huyện. 17/01/2023. Xây dựng “Làng văn hoá kiểu
mẫu” là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa làng trong thời đại mới.
https://tamduong.vinhphuc.gov.vn/SMPT_Publishing_UC/TinTuc/pPrintTinTuc.aspx
?UrlList=/noidung/tintuc/Lists/VanHoaXaHoi&ItemID=837
4. Giáo trình Đại Cương Văn Hóa Việt Nam
[1] Hoàng Anh Nhân. Văn hóa làng và làng văn hoá. Nxb Thanh Hoá, 1996, tr. 35.
https://vanhoavaphattrien.vn/gin-giu-va-phat-huy-gia-tri-van-hoa-lang-xa-viet-
nam-trong-cong-cuoc-xay-dung-phat-trien-dat-nuoc-a18852.html Tham khảo
Document Outline
- 1. Khái niệm làng theo chiều dài lịch sử Việt Nam
- 2. Văn hoá của làng.
- 3. Nguồn gốc của Làng.
- 4. Phân loại Làng
- b) Theo vùng địa lý
- c) Theo nghề nghiệp
- d) Theo phương thức thành lập
- e) Theo tôn giáo
- f) Theo đặc điểm văn hóa
- 6. Đặc trưng cơ bản của làng, xã.
- a) Tính cộng đồng
- Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng:
- Biểu hiện:
- Biểu hiện
- Biểu tượng truyền thống của tính tự trị:
- 1. Biến đổi văn hoá làng
- Tài liệu tham khảo: