





Preview text:
Đại cương văn hóa Việt Nam I. KHÁI QUÁI VỀ CAN CHI
1. Can chi là gì? Can Chi là một cách gọi ngắn gọn của Thiên Can và Địa Chi, hay Thập
Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi. Can Chi kết hợp với chu kỳ sáu mươi của âm lịch nói
chung nhằm mục đích tính toán và xác định tên gọi của ngày, giờ, năm, tháng dùng
trong tử vi đoán mệnh và làm Âm lịch.
a. Hệ can gồm 10 yếu tố (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý)
b. Hệ Chi gồm 12 yếu tố (Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi)
Chúng gồm 6 cặp âm dương cũng do Ngũ hành biến hóa mà ra (hành
thổ phân biệt thành âm thổ và dương thổ cộng với 4 hành Thủy-Hỏa-Mộc-Kim
thành 6) cho nên được gọi là thân nhi chi, hay địa chi (số 6 chẵn là số âm). Tên
mỗi chi ứng với một con vật, toàn là những con vật sống trên mặt đất, gần gũi
với cuộc sống của người nông dân.
Sự tương ứng hành-can sử dụng rộng rãi hiện nay là sự tương ứng do
người Trung Hoa quy định, có từ đời Hán (theo đó: Mộc = Giáp-Ất, Hỏa =
Bính-Đinh, Thổ = Mậu-Kỉ, Kim = Canh-Tân, Thủy = Nhâm-Quý). Nhà sử học
Nga P.V. Pozner. (1980) tìm ra rằng, ở Việt Nam, phong tục dân gian của một số
vùng còn lưu giữ được hệ thống tương ứng cổ, mà theo đó, thứ tự các can hoàn
toàn phù hợp với trật tự nguyên thuỷ của các hành theo Hà Đồ (thủy = Giáp-Ất,
Hỏa = Bính-Đinh, Mộc = Mậu-Kỉ, Kim = Canh-Tân, Thổ = Nhâm-Quý)
➔ Hệ can và hệ chi có thể được dùng độc lập như những hệ đếm 10 và 12. Hệ chi phổ biến
hơn, dùng để chỉ 12 giờ trong một ngày (ngày khởi đầu bằng giờ Tí, vào lúc nửa đêm, từ 23
đến 1 giờ, khi dương khí bắt đầu sinh ra), 1 2 tháng trong một năm: năm khởi đầu bằng tháng
Tí, vào lúc giữa đông, khi dương khí bắt đầu sinh ra. 2. Nguồn gốc
Người Trung Hoa cổ xưa và người VN ta ngày xưa thuộc nền văn hóa phương Đông với
nghề lúa nước. Vì thế trên thực tế can và chi đều được ra đời dựa trên các chu kì phát
triển các chu kì của cây cối – cây lúa.
(Theo nhà nghiên cứu Đặng Vũ Tuấn Sơn – Chủ tịch Hội Thiên văn và Vũ trụ học Việt
Nam (VACA), “người Trung Quốc vào thời nhà Thương tin rằng có tất cả mười Mặt
Trời trên bầu trời. Do đó có 10 thiên can được đặt bằng những cái tên để gọi 10 Mặt
Trời đó. Trong khi đó, 12 địa chi lại xuất phát từ việc quan sát Sao Mộc – một hành tinh
trong Hệ Mặt Trời. Người ta nhận thấy Sao Mộc cứ gần đúng 12 năm lại quay về vị trí
cũ trên bầu trời. Con số này lại trùng hợp với việc cứ khoảng 12 tuần Trăng thì một năm
qua đi, mùa xuân lại tới và chu kỳ thời tiết, mùa màng lại quay lại từ đầu. Vì lý do đó,
người thời xưa đã coi con số 12 này là một chu kỳ đặc biệt và gọi Sao Mộc là Tuế Tinh.”)
Đông Nam Á cổ đại là khu vực mà vào thời xa xưa đã có hệ đếm giờ
trong ngày và tháng trong năm nhất quán như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà
cư dân sống ờ những vùng biệt lập vẫn duy trì được hệ lịch cổ này 3. Quy tắc kết hợp
3.1 có 5 can (Giáp Bính Mậu Canh Nhâm) dương kết hợp được với 6 chi (Tý Dậu Thìn Ngọ Thanh Tuất) dương
3.2 có 5 can âm (Ất Đinh Kỷ Tân Quý) kết hợp dc với 6 chi âm ( Sửu Mão Tị Mùi Dậu Hợi)
Vậy, có tất cả 60 cách kết hợp Thiên Can và Địa Chi, gọi là Lục thập hoa giáp hay Lục
thập Giáp Tý (chữ khởi đầu của thiên can và địa chi khi kết hợp với nhau). Tức 60 năm
mới lặp lại can chi 1 lần. VD Giáp Thân 2004 thì 2064 mới co Giáp Thân.
Phối hợp các can chi với nhau, ta được hệ đếm gồm 60 đơn vị với các tên gọi như Giáp Tí, Ất
Sửu,..., Quý Hợi, gọi là hệ Can chi, hay Lục giáp. Khác hẳn với hệ đếm 60 (giờ-phút-giây) của
phương Tây, đây là một hệ đếm 60 đặc biệt, được tạo ra trên cơ sở triết lí âm dương theo
nguyên tắc chỉ ghép các can chi “đồng tính” (dương với dương, âm với âm), nghĩa là có một
nửa số kết hợp không dùng đến (không có Giáp Sửu, Ất Tí,...)
4. Mối quan hệ giữa các Thiên Can – Địa Chi
2.1 Mối quan hệ giữa 10 Thiên Can
• Giáp hợp với Kỷ nhưng khắc với Canh
• Ất hợp Canh nhưng khắc Tân
• Bính hợp Tân nhưng khắc Nhâm
• Đinh hợp Nhâm nhưng khắc Quý
• Mậu hợp Quý nhưng khắc Giáp
• Kỷ hợp Giáp nhưng khắc Ất
• Canh hợp Ất nhưng khắc Bính
• Tân hợp Bính nhưng khắc Đinh
• Nhâm hợp Đinh nhưng khắc Mậu
• Quý hợp Mậu nhưng khắc Kỷ
2.2 Mối quan hệ giữa 12 Địa Chi
Khi 12 Địa Chi kết hợp với nhau sẽ tạo ra các mối hệ tốt hoặc xấu dưới đây:
• Quan hệ Tam Hợp (Tốt): Thân – Tý – Thìn, Dần – Ngọ – Tuất, Tỵ – Sửu – Dậu, Hợi – Mão – Mùi.
• Quan hệ Lục Hợp (Nhị hợp – Tốt): Tý Sửu, Dần Hợi, Mão Tuất, Thìn Dậu, Tỵ Thân, Ngọ Mùi.
• Quan hệ Tứ hành xung (Xấu): Tý – Ngọ – Mão – Dậu, Dần – Thân – Tỵ – Hợi, Thìn
– Tuất – Sửu – Mùi. Đặc biệt, có các cặp Tương xung (còn gọi là Lục Xung, rất
xung, Xấu): Tý xung Ngọ, Sửu xung Mùi, Dần xung Thân, Mão xung Dậu, Thìn xung Tuất, Tỵ xung Hợi
• Quan hệ Tương Hại (Xấu): Tý – Mùi, Sửu – Ngọ, Dần – Tỵ, Mão – Thìn, Thân – Hợi, Dậu – Tuất.
• Quan hệ Tương Phá (Xấu): Tý – Dậu, Mão – Ngọ, Sửu – Thìn, Thân – Tỵ, Mùi – Tuất.
• Quan hệ Tương hình (Xấu): Dần, Tỵ, Thân – Hình hại vô ơn; Sửu, Mùi, Tuất – Hình
hại đặc quyền; Tý, Mão – Hình hại vô lễ.
• Quan hệ Tự hình (Xấu): Thìn – Thìn, Dậu – Dậu, Ngọ – Ngọ, Hợi – Hợi.
4. cách đổi năm dương lịch sang năm can chi (A1) C=d[(D-3):60]
Trong đó: C - mã số tên năm can chi; D - năm dương lịch; d số dư củaphép chia.
Chẳng hạn, tìm tên can chi của năm 1994, ta có: d [(1994 - 3): 60]: 11(11 là mã số của Giáp Tuất)
5. Thiên Can Địa chi đại diện cho các gì?
Thiên Can Địa Chi có thể đại diện cho rất nhiều lĩnh vực trong cuộc sống: Âm
dương, ngũ hành, màu sắc, phương vị, mùa vượng.
Mỗi người khi sinh ra sẽ được xác định bởi bốn tổ hợp can chi ngũ hành gồm: giờ sinh, ngày ,
tháng, năm sinh được gọi là Tứ Trụ hay bản mệnh của người đó. Bản mệnh của mỗi người
được ví như một cái nhà có bốn cột trụ vững chắc và đều nhau, tức là, khi các hành Kim,
Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ trong tứ trụ là tương đối hòa hợp với nhau thì người đó cả cuộc đời
thường sẽ gặp thuận lợi, ngược lại còn nếu bốn cột không đều nhau, tức ngũ hành quá thiên
lệch thì sẽ gây khó dễ cho cuộc đời người đó. II. ỨNG DỤNG CAN CHI 1. Dự đoán vận mệnh
1.1 Dự đoán tuổi hợp làm ăn
1.2 dự đoán vận hôn nhân
1.3 dự đoán vận mệnh tương lai
2. Xác định giờ âm lịch
Sắp xếp linh hoạt dựa vào 12 cung địa chi, sắp xếp vào cách tính sinh hoạt của 12
vật trong từng khoảng thời gian này ví dụ giờ Tý (23-1h) Sửu (1-3h),…
3. Xác định tháng âm lịch
Sắp xếp ứng với 12 địa chi bắt đầu từ Dần. vì tháng Tý là tháng 11, T1- Tháng Dần, T2- Tháng Mão
GT: do ngày xưa ông cha ta không đặt các tháng theo số mà lại đặt theo tên mà
dùng tên ghép gồm hai chữ dựa trên hệ thống can chi (10 thiên can 天干 và 12
địa chi 地支). Vì vậy lịch kiến Dần: tháng Giêng là Dần, tháng Hai là Mão… tiếp
theo thứ tự của 12 Địa chi đến tháng Chạp (tháng thứ 12) là Hợi. Ðiều này thích
hợp với quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của người Ðông phương là: “Thiên
khai ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhân sinh ư Dần”. Do vậy lấy tháng khởi đầu một
năm là Dần là hợp lý. Còn việc xác định chữ đầu của tên tháng (hàng Can) theo
Luật Ngũ Hành tính ra Can tháng Giêng, từ đó suy ra Can các tháng khác.
Tóm lại, hệ can chi đã thấm nhuần trong mỗi một con người ViệT Nam. Mỗi một hành
động không gian, thời gian chúng ta đều gắn liền với thiên can địa chi. Đây là tư tưởng
đẹp chúng ta nên gìn giữ và kế tục. địa lý tự nhiên
1. Giới thiệu về vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
(Khi nói vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ là nói tới vùng văn hóa thuộc
địa phận các tỉnh bao gồm: Hà Tây; Nam Định; Hà Nam; Hưng Yên; Hải
Dương; Thái Bình; thành phố Hà Nội; Hải Phòng; phần đồng bằng của các
tỉnh Phú Thọ; Vĩnh Phúc; Bắc Ninh; Bắc Giang; Ninh Bình; Thanh Hóa;
Nghệ An; Hà Tĩnh).Cũng cần lưu ý thêm về Nghệ An, Hà Tĩnh ngay từ thời
văn minh Văn Lang – Âu Lạc, thậm chí ngược lên xa hơn; Nghệ An – Hà
Tĩnh vẫn gắn bó với Bắc Bộ.
(Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực những dòng sông
Hồng, sông Mã). Đây là vùng văn hoá đúng như PGS. TS. Ngô Đức Thịnh
nhận xét “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam;
đồng bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc.”
Về vị trí địa lí: (Nằm ở phía Bắc đất nước: phía Bắc giáp vùng văn hóa Tây
Bắc, phía Đông giáp Biển Đông, phía Nam giáp vùng văn hóa Trung Bộ,
phíaTây giáp vùng văn hóa Tây Bắc. Vùng châu thổ Bộ là tâm điểm của con
đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây – Đông và Bắc – Nam).Vị
trí này khiến cho nơi đây trở thành vị trí để tiến tới các vùng khác trong nước
và trong khu vực Đông Nam Á; đây là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả
bọn xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng
cũng chính vị trí địa lí này đã tạo điều kiện cho dân cư có thuận lợi về giao
lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
– Về mặt địa hình: Châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xem kẽ đồng bằng
hoặc thung lũng, địa hình thấp và bằng phẳng; dốc thoải từ Tây Bắc xuống
Đông Nam; từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng
cũng như trong mỗi vùng; địa hình cao thấp không đều; tại vùng có địa hình
cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương (Bắc Ninh); có núi Thiên Thai
nhưng vẫn là vùng trũng như Hà Nam; Nam Định; là vùng thấp nhưng vẫn
có núi như Chương Sơn; núi Đọi…(-Núi xen kẽ đồng bằng và thung lũng,
thấp và bằng phẳng; có độ cao thấp không đều. Một số vùng có địa hình cao
nhưng vẫn rất thấp như Gia Bình-Lương Tài (Bắc Ninh); Hà Nam là vùng
thấp nhưng vẫn có núinhư Chương Sơn, Núi Đọi)
– Khí hậu: Khí hậu vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ vô cùng độc đáo.
Đây là vùng duy nhất ở Việt Nam có một mùa đông thực sự với ba tháng có
nhiệt độ trung bình dưới 18 độ C, do đó khu vực này có khí hậu bốn mùa với
mỗi mùa tương đối rõ nét, nhưng cũng vì lý do này mà khu vực châu thổ Bắc
Bộ cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Khí hậu khu vực này tương đối
thất thường, gió mùa Đông Bắc vừa lạnh vừa ẩm gây cảm giác khó chịu, gió
mùa hè nóng và ẩm. ( -Là nơi có khí hậu độc đáo, có mùa đông lạnh, khí hậu
bốn mùa tương đối rõ ràng. Khí hậu thất thường khiến cho việc trồng lúa
nước ít hơn so với nơi khác)
– Sông ngòi: Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ có hệ thống sông ngòi
khá dày đặc. Có các dòng sông lớn như sông Hồng; sông Thái Bình; sông
Mã cùng các mương máng tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu gió
mùa với hai mùa khô và mưa, thủy chế của các dòng sông và nhất là sông
Hồng cũng có hai mùa rõ rệt: Mùa cạn dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ
dòng chảy lớn, nước đục. (Có mạng lướt sông ngòi dày và có nhiều sông lớn
như sông Hồng, sông Mã cùng với mạng lưới kênh mương tương đối dày.
Có hai mùa chính là mùa khô và mùa mưa dẫn đến thủy chế trên sông rất rõ
rệt; mùa cạn thì ít nước, dòng chảy nhỏ, mùa lũ thì nước chảy xiết.)
Document Outline
- 4. Mối quan hệ giữa các Thiên Can – Địa Chi
- 2.2 Mối quan hệ giữa 12 Địa Chi